Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 823 - 835

§ 823. Kiến thức ngày nay, số 424, ngày 20-5-2002

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Con đen” sao lại là “con mắt”? đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 4-2002, tác giả Nguyễn Khắc Bảo đã căn cứ vào những lời chú giải của một số vị tiền bối để khẳng định rằng hai tiếng “con đen” (trong hai câu Kiều thứ 839 và 1414) là do tiếng Hán “hắc đầu” mà ra. Tác giả này viết:

“Cụ Phó bảng Kiều Oánh Mậu cùng tác giả bản Kiều Nôm chép tay kí hiệu R 2003 Thư viện Quốc gia, là các nhà Nho học đầu tiên chú giải truyện Kiều cũng đã hai lần dùng thống nhất là:

Câu 839: Con đen: Tục ngữ, tức hắc đầu thiếu niên chi tử.

Câu 1414: Con đen: Nãi kiềm lê, hắc đầu thiếu niên chi tử dã.

Đều chung nghĩa là: Kẻ thiếu niên đầu đen, dân đầu đen”.

Toàn bộ bài viết của ông Nguyễn Khắc Bảo đều xoay quanh hai chữ “hắc đầu” mà ông giảng rộng ra thành “bọn khách làng chơi có bản chất hắc ám, tối tăm, ngu ngốc”. Vậy “hắc đầu” thực chất có phải là như thế hay không?

AN CHI: Ông Nguyễn Khắc Bảo đã gửi trọn niềm tin vào lời giảng của Kiều Oánh Mậu mà không ngờ rằng chính ông phó bảng đã sai ngay từ vạch xuất phát.

Sai lầm căn bản của Kiều Oánh Mậu là ở chỗ ông đã đánh đồng kiềm lê với hắc đầu vì cứ ngỡ rằng đây là hai cấu trúc đồng nghĩa. Thực ra chúng thuộc về hai trường nghĩa hoàn hoàn khác nhau: kiềm lê thuộc phạm trù giai cấp còn hắc đầu thì chỉ thuộc phạm trù tuổi tác mà thôi. Kiềm lê là hình thức hợp xưng của kiềm thủ (đầu đen) với lê dân (dân đen). Kiềm thủ là lối nói thời Chiến quốc và đời nhà Tần, dùng để chỉ dân chúng một cách miệt thị. Lê dân là lối nói đời nhà Chu, đồng nghĩa với kiềm thủ*. Còn hắc đầu thì lại có nghĩa là tuổi tráng niên, người trẻ tuổi*. Kiều Oánh Mậu đã nhầm kiềm thủ với hắc đầu (vì đều có nghĩa gốc là “đầu đen”) và vì không ngờ rằng hắc đầu là một hoán dụ dùng để chỉ người trẻ tuổi nên ông đã phạm một cái lỗi rất non nớt về trùng ngữ (pleonasm) khi viết, “hắc đầu thiếu niên” (= chàng, người) “trẻ tuổi trẻ tuổi”). Cái mà ông muốn diễn đạt lẽ ra là “Kiềm thủ thiếu niên” (bọn trẻ tuổi trong đám “đầu đen”, tức đám dân đen).

Dù sao thì cái sai của Kiều Oánh Mậu cũng chỉ dừng lại ở đấy. Còn lời dịch rồi lời bình của ông Nguyễn Khắc Bảo, thì lại đi xa hơn nhiều. Về hai tiếng “con đen”, Kiều Oánh Mậu chú giải lần thứ nhất là “tức hắc đầu thiếu niên tử”, lần thứ hai là “nãi kiềm lê, hắc đầu thiếu niên tử dã” thì ông Nguyễn Khắc Bảo diễn Nôm thành “đều chung nghĩa là: kẻ thiếu niên đầu đen, dân đầu đen”. Hai tiếng thiếu niên của Kiều Oánh Mậu có lý do tồn tại của nó vì đó là tiếng Hán mà trong tiếng Hán thì thiếu niên cũng có nghĩa là “thanh niên”. Còn hai tiếng “thiếu niên” của ông Nguyễn Khắc Bảo thì lại hoàn toàn không ổn vì đây là tiếng Việt hiện đại. Trong tiếng Việt đầu thế kỷ XXI thì hai tiếng thiếu niên dùng để chỉ những cô bé, cậu bé ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Sau đây là lời bình của ông Nguyễn Khắc Bảo:

“Có lẽ khi viết và đọc các câu thơ trên (hai câu 839 và 1414 – AC), Nguyễn Du và các nhà Nho đều liên tưởng con đen với từ hắc đầu trong câu thơ của Lục Du:

Diệc tri tuyết mấn nghi sòa lạp,

Phân phó điêu thiền dữ hắc đầu.

Cụ Chiêm Vân Thị dịch:

Mái sương nón lá đành mang,

Dành mũ điêu đẹp phần chàng đầu đen.

Thi hào Nguyễn Du đã có một sáng tạo tài tình khi gọi bọn khách làng chơi “Hắc đầu thiếu niên chi tử” bằng một từ Nôm là “Con đen”, chỉ ra được bản chất hắc ám, tăm tối, ngu ngốc của chúng”. (Bđd, tr. 32)

Ông Nguyễn Khắc Bảo đã tán tụng Nguyễn Du một cách đắc ý như trên còn chúng tôi thì lại cảm thấy đau lòng vì chưa “tam bách dư niên hậu” mà đã có người gán cho Tố Như một cái cách cảm nhận thô thiển về tiếng Hán. Hai tiếng hắc đầu trong bất cứ văn cảnh nào, cũng chỉ có nghĩa là người trai trẻ và chỉ có sắc thái trung hòa nên chẳng có liên quan gì đến các khái niệm “người phàm phu”, “đứa khờ dại”, “bản chất hắc ám, tối tăm, ngu ngốc” cả. Đặc biệt là trong hai câu thơ của Lục Du mà ông Nguyễn Khắc Bảo đã dẫn thì điều trên đây lại càng trở nên hiển nhiên.

Cũng có thể thấy rằng hai tiếng hắc đầu (= đầu đen) được Lục Du đặt trong một cái thế tương phản với hai tiếng tuyết mấn (= tóc mai (màu) tuyết = tóc (mai) bạc). Trong cái thế tương phản đó, tuyết mấn chỉ người già cả còn hắc đầu thì hiển nhiên là dùng để chỉ người trai trẻ. Chàng trai trẻ này chẳng những không thuộc hạng dân đen mà cũng không phải là đứa khờ dại. Ngược lại nhân vật này còn được “dành mũ điêu đẹp phần chàng” nữa.

“Mũ điêu đẹp” là chữ của Chiêm Vân Thị dịch hai tiếng điêu thiền trong câu thơ của Lục Du. Điêu thiền là quy định về cách trang sức cho mũ của các chức quan thị trung và trung thường thị trong nội cung. Vậy “chàng đầu đen” ở đây hẳn hoi là “dân ngon lành” cả về tài năng lẫn địa vị xã hội chứ đâu phải là “dân đầu đen” có “bản chất hắc ám, tăm tối, ngu ngốc”. Nguyễn Du có phải là dân tập sự về văn chương chữ nghĩa đâu mà không đủ sức để hiểu hai câu thơ chữ Hán đang xét. Vậy thì làm sao ông dám liều lĩnh mà làm trò ảo thuật để biến “chàng đầu đen (hắc đầu)” của Lục Du thành “bọn khách làng chơi hắc đầu thiếu niên chi tử” của ông Nguyễn Khắc Bảo?

§ 824. Kiến thức ngày nay, số 424, ngày 20-5-2002

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 419, ông có trả lời độc giả Hồ Ngọc Quang (Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh) về cách dịch tên phim Lui & lei (thành “Chàng và nàng”), Los ricos tambien lloran (thành “Người giàu cũng khóc”). Mới đây, trên HTV7, tên bộ phim “A woman of substance” cũng được “sửa” thành “Mối tình nghiệt ngã” (đã chiếu vào các tối thứ Ba 23-4, 30-4 và 7-5 và hình như sẽ còn chiếu tiếp). Ông có nhận xét gì về sự “chuyển ngữ” trong trường hợp này?

AN CHI: Chúng tôi vẫn chủ trương trung thành với nguyên ngữ. Vì vậy nên, với chúng tôi thì A woman of substance là “Một (người) phụ nữ lắm của” chứ không phải “Mối tình nghiệt ngã”. Huống chi, trong phim người phụ nữ đó đã có đến mấy mối tình mà “mối” nào xem ra cũng “nghiệt” cả. Vậy nếu dịch thành “Mối tình nghiệt ngã” thì có thể sẽ làm cho người ta tưởng rằng chỉ có một “mối” mà thôi.

§ 825. Kiến thức ngày nay, số 424, ngày 20-5-2002

ĐỘC GIẢ: Một vài bình luận viên môn bóng đá trên một số phương tiện truyền thông thỉnh thoảng có nói đến danh hiệu “scu-đết-tô”. Xin cho biết “scu-đết-tô” có nghĩa là gì.

AN CHI: Thay vì nói “danh hiệu scudetto”, có lẽ chỉ cần nói “danh hiệu (nhà) vô địch” là đủ vì, trong tiếng Ý, chỉ riêng từ scudetto cũng đã có nghĩa là “danh hiệu (nhà) vô địch” rồi. Còn nhà vô địch thì tiếng Ý là campione (nam), campionessa (nữ).

§ 826. Kiến thức ngày nay, số 425, ngày 1-6-2002

ĐỘC GIẢ: Cái “mắt kính” trong Nam thường gọi là “cái kiến” nhưng do không phân biệt -n và -ng cuối nên một số người đã viết thành “kiếng”, kể cả Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý. Dường như quyển từ điển này muốn hợp thức hóa một âm đọc sai thành một chữ từ trước đến nay không có. Mong ông giải thích giúp.

AN CHI: Những quyển từ điển biên soạn sớm nhất ở trong Nam như Dictionarium Anamitico – Latinum của Pierre Pigneaux de Béhaine (viết tay, 1772 – 1773) và Dictionarium Anamitico – Latinum của J. L. Taberd (Serampore, 1838) đều chỉ ghi nhận có kính mà không có kiến hoặc kiếng theo nghĩa đang bàn. Nhưng đến Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của (tập I, Sài Gòn, 1895) thì đã thấy ghi:

“Kiến. (Kính)”.

và một số mục phụ như:

“Kiến soi – Kiến con mắt – Chiếu kiến – Ngồi đồng chiếu kiến – Soi kiến – Coi kiến – v.v.”.

Dictionnaire annamite-français của J. F. M. Génibrel (Saigon, 1898) cũng ghi kiến. Nhưng đến Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức do Lê Ngọc Trụ hiệu đính thì đã thấy ghi “kiếng”. Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994) và Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên cũng đều ghi “kiếng”. Đây mới là cách viết thực sự chính xác vì kiếng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 鏡 mà âm Hán Việt hiện đại là kính và có nghĩa là “gương”. Tại Chuyện Đông chuyện Tây chúng tôi đã có lần chứng minh mối quan hệ ngữ âm “iêng ~ inh”. Lần này xin nhắc lại vài thí dụ:

– kiêng (dè) ~ kinh (hãi);

– (cúng) kiếng ~ (cung) kính;

– kiềng (bếp) ~ kình (chân đèn, đế đèn);

– thiêng liêng ~ tinh linh;

– (vốn) liếng ~ (bản) lĩnh; v.v..

Vậy khi mà từ kiếng có liên quan về nguồn gốc với kính thì nó phải thuộc vần -iêng chứ không phải vần -iên.

§ 827. Kiến thức ngày nay, số 425, ngày 1-6-2002

ĐỘC GIẢ: Nhớ thuở nhỏ học tiếng Pháp, thán từ bắt đầu bằng chữ cái “o” chỉ thấy có “oh”, “ohé”, “ouf”, “ô”. Nay xem bóng đá trên màn ảnh nhỏ thỉnh thoảng nghe hô hoặc nghe hát “ồ lế, ồ lê” (đây là phiên âm bằng chữ Việt) mà một người bạn đã cả quyết với tôi rằng đó cũng là tiếng Pháp. Xin cho biết có đúng hay không và “ồ lế, ồ lê” nghĩa là gì.

AN CHI: Đó là “olé”, cũng viết “ollé”; nhưng đây lại là một thán từ tiếng Pháp gốc Tây Ban Nha. Trong tiếng Tây Ban Nha thì olé vốn là tiếng hô cổ động của công chúng trong những cuộc đấu bò truyền thống nổi tiếng. Về sau nó mới lan sang môn thể thao vua là môn bóng đá và với môn bóng đá nó mới có điều kiện để đi vào tiếng Pháp như hiện nay.

§ 828. Kiến thức ngày nay, số 425, ngày 1-6-2002

ĐỘC GIẢ: Chiềng trong mường chiềng có nghĩa là gì và xuất xứ từ đâu?

AN CHI: Trong bài “Vấn đề “thành” của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng” đăng trên Thông tin khoa học & Công nghệ Thừa Thiên – Huế, số 2-1996, tác giả Huệ Thiên đã viết như sau:

“Chiềng là một từ bắt nguồn ở một nguyên từ (etymon) tiếng Hán ghi bằng chữ 城 mà âm Hán Việt hiện đại đọc là thành. Ý kiến này của chúng tôi ít nhất cũng đã được một người nói đến cách đây ba thập kỷ. Đó là Luc Mogenet trong bài Notes sur la conception de l’espace à Louang Phrabang*. Đây là một chữ thuộc vận mẫu thanh mà phần đông các nhà ngữ âm học lịch sử đã tái lập trạng thái cổ đại là iêng. Ngay trong lĩnh vực Hán Việt thì âm xưa của thành cũng là thiềng, nằm trong một dãy tương ứng âm vị “iêng ~ anh” cùng với nhiều chữ/ từ khác cũng thuộc vận mẫu thanh như nó:

– chữ trành 呈, thường đọc trình, âm xưa là chiềng;

– chữ chanh, chánh 正, thường đọc chính, âm xưa là giêng (trong tháng Giêng) và chiếng (trong tứ chiếng);

– chữ thanh, âm xưa là tiếng.

Đặc biệt đáng chú ý là cũng thuộc vận mẫu thanh, chữ doanh (trong doanh lũy, doanh trại) vẫn còn giữ được vận mẫu xưa của nó là iêng trong nhiều ngôn ngữ Tày – Thái quen thuộc (Xiêm, Lào, Thái Tây Bắc) với từ viềng, có nghĩa là thành lũy, thành thị. Vậy chiềng là một từ của ngôn ngữ Tày- Thái còn giữ lại được vận mẫu -iêng cổ xưa của chữ thành. Trở lên, là nói về vận mẫu. Còn về thanh mẫu, thì ch- ở trong chiềng cũng phản ánh khá trung thực thanh mẫu xưa của chữ thành. Thanh mẫu của chữ này trong âm Hán Việt xưa cũng là ch-. Âm đầu của chữ 城, đã được Từ Nguyên và Từ hải ghi bằng chữ thi 匙 (= thìa, muỗng) mà âm xưa là chìa (trong chìa khoá). Cả thành lẫn thì đều thuộc thanh mẫu thiền 禪 mà âm xưa là chiền (trong chùa chiền). Vậy ch- của chiềng trong các ngôn ngữ Tày – Thái cũng như ch- của Hán Việt xưa đã phản ánh trung thực phụ âm đầu của thành trong tiếng Hán cổ xưa.

Tóm lại, chiềng là một từ của các ngôn ngữ Tày – Thái, bắt nguồn ở một từ Hán ghi bằng chữ 城 mà âm Hán Việt hiện nay đọc là thành. Đó là một từ còn giữ lại được trạng thái ngữ âm cổ xưa của từ gốc. Trong khi đó, ở những ngôn ngữ Tày – Thái chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Hán và ngôn ngữ Hán thì nguyên âm đôi iê đã diễn tiến thành i: trong tiếng Tày – Nùng hiện nay thành luỹ gọi là chình (do ảnh hưởng của tiếng Quảng Đông). (…) Có một vấn đề đặt ra là tại sao cùng gốc mà nghĩa của chiềng và thành lại không hoàn toàn giống nhau. Đó là do xã hội của các cộng đồng người nói các ngôn ngữ Tày – Thái và cộng đồng người Hán đã phát triển trong những điều kiện lịch sử – xã hội khác nhau từ thời tiền Công nguyên (…).

Nhưng chiềng là gì? Sau đây là câu trả lời của Cầm Trọng:

“Khi nói đến chiềng thì người ta thường nghĩ đến cái đơn vị lỵ sở của một mường (…) và như vậy chiềng theo nghĩa lỵ sở sẽ là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của mường (…). Đây là nơi tập trung quyền lực cao nhất của một dòng họ quý tộc thống trị ở mường (…), nơi mà quý tộc sử dụng bộ máy của nó để đề ra các chế độ về kinh tế, trong đó chủ yếu là các quy định về chế độ ruộng đất của toàn châu mường (…). Đây cũng là nơi dân mường tới họp chợ phiên để trao đổi hàng hóa và mua bán sản phẩm (…) Chiềng còn là nơi chứa đựng linh hồn và vận mệnh của mường (…) Nó còn là nơi hội hè và tổ chức các cuộc vui chơi cho nhân dân toàn mường”*.

Trở lên là lời của Huệ Thiên trong bài đã dẫn (tr. 11 – 12); xin chép ra như trên để ông và bạn đọc tham khảo.

§ 829. Kiến thức ngày nay, số 425, ngày 1-6-2002

ĐỘC GIẢ: Cùng một câu tục ngữ mà mỗi nơi mỗi vị nói một khác. Người thì nói “Đói cho sạch, rách cho thơm” (Đây là câu thường nghe nhất và hình như cũng là lâu đời nhất). Người thì nói “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”. Và mới đây, trên một tờ báo về văn chương, một vị họa sĩ lại viết “Lành cho sạch, rách cho thơm”. Vậy phải nghe ai, theo ai?

AN CHI: Đúng như nhận xét của ông Đinh Văn Bá, câu “Đói cho sạch, rách cho thơm” là câu thường nghe nhất và lâu đời nhất, nghĩa là hình thức nguyên thủy của câu tục ngữ đang xét. Đây là hình thức duy nhất được ghi nhận trong: Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971, tr. 80), Tục ngữ Việt Nam của Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975, tr. 312), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1989, tr. 106), Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên (Nxb. Văn hóa – Thông tin, 1999, tr. 647), v.v.. Đặc biệt, quyển từ điển của tác giả Nguyễn Lân, tuy là một quyển sách thường linh động ghi nhận nhiều dị bản độc đáo, cũng chỉ ghi nhận có hình thức gốc đó mà thôi. Nhưng cũng có quyển, như Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam của Việt Chương (Nxb. Đồng Nai, 1995) thì lại ghi nhận hai câu:

“Đói cho sạch, rách cho thơm”

“Lành cho sạch, rách cho thơm”.

Chữ “lành” trong câu sau là một chữ lạc lõng vì ai cũng biết rằng cả hai vế trong câu tục ngữ này vế nào cũng gồm có hai vị từ (chỉ tính chất) đối nghĩa (đen) với nhau. “Lành” đã cùng một “phe” với “sạch” thì còn đối nghĩa với nó thế nào được? Hiểu theo nghĩa bóng thì “sạch” là trọng liêm khiết còn “thơm” là chuộng tiếng tốt. Câu tục ngữ khuyên người ta dù có thiếu ăn (đói) đến đâu cũng phải sống cho liêm khiết, dù có thiếu mặc (rách) đến mấy cũng phải để lại tiếng tốt ở đời. Và vì cái sự đói và cái sự rách là hai biểu hiện chủ yếu và sinh động của cái sự nghèo cho nên nếu xóa chữ “đói”, thêm chữ “nghèo” thành:

“Nghèo cho sạch, rách cho thơm”

thì e rằng chữ “nghèo” sẽ trở thành một chữ chẳng “duyên dùng” gì chăng?

§ 830. Kiến thức ngày nay, số 426, ngày 10-6-2002

ĐỘC GIẢ: Tuổi trẻ ngày 9-5-2002 có một trang chuyên đề về “Mở cửa Cam Ranh”. Tại trang chuyên đề này, có bài phỏng vấn ông Phạm Văn Chi, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa do phóng viên Ngọc Vinh thực hiện. Nguyên văn một câu nói của vị chủ tịch tỉnh được dùng làm nhan đề cho bài phóng vấn là:

“Có thêm Cam Ranh và Văn Phong, Khánh Hoà sẽ cất cánh”.

Trong suốt bài phỏng vấn ngắn, cả người hỏi lẫn người trả lời đều dùng địa danh “(vịnh) Văn Phong”.

Rồi trên Tuổi trẻ ngày 21-5-2002, trong bài phỏng vấn nhan đề “Ứng cứu khả năng tràn dầu ở vịnh Vân Phong” thì cả người hỏi là phóng viên Phan Sông Ngân lẫn người được phỏng vấn là ông Nguyễn Xuân Thu, Giám đốc Cảng vụ Nha Trang, Thanh tra viên Thanh tra an toàn hàng hải Việt Nam, đều nhất trí gọi là “(vịnh) Vân Phong”.

Vậy xin hỏi:

Văn Phong tên của vịnh nào?

Vân Phong tên của vịnh nào nữa đây?

AN CHI: Đây là chuyện nói sai tên:

“Ớ” lộn thành “á” mới nên nỗi này.

Chính Vân Phong (nghĩa: đỉnh Mây)

Mới là tên đã đặt bày từ xưa.

Vậy xin có một lời thưa

Đổi “á” thành “ớ” cũng chưa muộn nào.

§ 831. Kiến thức ngày nay, số 426, ngày 10-6-2002

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 424, ông đã chỉ ra những chỗ sai trong bài “Con đen” sao lại là “con mắt”? của ông Nguyễn Khắc Bảo, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 4-2002. Trong bài viết của mình: ông Bảo vừa dẫn lời cụ Kiều Oánh Mậu lại vừa dẫn lời cụ Chiêm Vân Thị. Cả hai cụ đều có nói đến hai tiếng “hắc đầu” nhưng tôi chỉ thấy ông nhận xét về cái sai của cụ Kiều mà không thấy ông nhận xét gì về ý kiến của cụ Chiêm. Như vậy có phải là nhất bên trọng, nhất bên khinh hay không?

AN CHI: Ông Nguyễn Khắc Bảo không hề dẫn lời của Chiêm Vân Thị liên quan đến hai tiếng hắc đầu; ông chỉ dẫn có liên lục bát Nôm của Chiêm Vân Thị dịch hai câu thơ của Lục Du mà thôi. Huống chi Chiêm Vân Thị không hề hiểu sai hai tiếng hắc đầu; vậy thì làm sao chúng tôi có thể chỉ ra cái sai trong cách hiểu của cụ Chiêm? Toàn bộ lời chú của Chiêm Vân Thị như sau:

“Con đen: Chàng thanh niên trẻ tuổi, Thơ của Lục Du trong sách Kiếm-nam thi-tập:

Diệc tri tuyết mấn nghi sòa lạp,

Phân phó điêu thuyền dữ hắc đầu.

(Mái sương nón lá đành mang,

Dành mũ điêu đẹp phần chàng đầu đen.)*”

Trong toàn bộ lời chú trên đây, ông Nguyễn Khắc Bảo chỉ trích dẫn có hai câu lục bát Nôm:

“Mái sương, nón lá đành mang,

Dành mũ điêu đẹp phần chàng đầu đen”.

mà thôi. Còn theo lập luận và cách hành văn của ông Nguyễn Khắc Bảo thì người đọc tất phải hiểu rằng hai câu thơ

“Diệc tri tuyết mấn nghi sòa lạp,

Phân phó điêu thiền dữ hắc đầu”

của Lục Du là do chính ông Nguyễn tự mình phát hiện ra từ một nguồn khác. Và dĩ nhiên là sự đánh đồng Hắc đầu (trong thơ Lục Du) = bọn khách làng chơi hắc đầu thiếu niên chi tử (có) bản chất hắc ám, tăm tối, ngu ngốc” cũng là một sự sáng tạo riêng của ông Nguyễn Khắc Bảo chứ không dính dáng gì đến lời chú trên kia của Chiêm Vân Thị. Chính Chiêm Vân Thị đã hiểu rất đúng rằng hắc đầu là “chàng thanh niên trẻ tuổi” chứ đâu có hiểu sai như Kiều Oánh Mậu, rồi theo sau Kiều Oánh Mậu, là ông Nguyễn Khắc Bảo.

§ 832. Kiến thức ngày nay, số 426, ngày 10-6-2002

ĐỘC GIẢ: Ông Nguyễn Bạt Tụy chủ trương gọi dân tộc ta là Keo (Giao). Người Việt là người ở vùng Quảng Đông bên Tàu (“Việt nhân”, như họ thường gọi nhau khi đi ra nước ngoài). Vả lại, Việt Nam có nghĩa là vùng đất phía Nam… đất Việt. Ông nghĩ sao?

AN CHI: Keo là âm xưa của Giao; điều này đã được ngữ âm học lịch sử khẳng định. Một vài dân tộc khác cũng gọi dân tộc ta (Việt = Kinh) là Keo, chẳng hạn như người Lào trước kia. Họ gọi nước ta là Mương Keo (mương/mường = nước, xứ, vùng, v.v.). Nhưng xét cho cùng, đây không phải là tên mà dân tộc Việt (Kinh) dùng để tự gọi một cách tự nguyện. Huống chi, vấn đề “Giao Chỉ” vẫn còn là một vấn đề phức tạp như Đào Duy Anh từng nêu ra trong Hội nghị nghiên cứu thời kỳ Hùng Vương lần thứ 2, tháng 4-1969:

“Sách xưa nhất (sách Trung Quốc) nói đến đất Giao Chỉ là đất ở phía Nam địa bàn của người Hán tộc xưa, là Mặc tử, Thi tử, Hàn phi tử, Hoài nam tử, Thượng thư đại truyện, rồi đến Sử ký của Tư-mã Thiên là sách tập đại thành của cổ sử Trung Quốc. Xưa hơn nữa thì có sách Thư kinh, Đế diễn nói đến Nam Giao, mà nhà chú giải Khổng An-quốc đời Đường cho là Giao Chỉ ở phương Nam. Đến sách Tiền Hán thư về sau thì nói đến quận Giao Chỉ và bộ Giao Chỉ. Theo thư tịch xưa mà nghiên cứu cương vực của các địa danh ấy, chúng tôi thấy có vấn đề. Ở đây chúng tôi chỉ xin gợi ý rằng nên phân biệt tên Giao Chỉ của các sách xưa từ Sử ký về trước với tên quận Giao Chỉ và bộ Giao Chỉ của các sách từ Tiền Hán thư về sau”*.

Ngoài vấn đề mà Đào Duy Anh nêu ra trên đây, lại còn cả vấn đề Giao Chỉ là “hai ngón/bàn chân giao nhau” hay là “vùng có nhiều cá sấu” (giao (long) = cá sấu), hay là gì gì khác, v.v.. Chuyện này cũng đâu đã được giải quyết dứt khoát? Cũng chưa hết. Nếu Giao Chỉ là “đất ở phía Nam địa bàn của người Hán tộc xưa” thì đó lại không phải là đất của riêng tổ tiên người Việt (Kinh) mà là của “Bách Việt”. Nếu đó là quận (bộ) Giao Chỉ (tức danh xưng từ Tiền Hán thư về sau) thì có vẻ như đây lại là một cái tên do bọn đô hộ phương Bắc đặt ra. Vậy có lẽ nào ta lại nên lấy nó làm tên gọi cho dân tộc mình?

Keo (Giao), theo chúng tôi, là một cái tên xem ra không lấy gì làm hấp dẫn (Nếu trong giới văn nghệ sĩ, có ai đó thích dùng hai tiếng “Giao Chỉ” thì đây lại là chuyện khác). Còn “Việt” là một cái tên hợp lý và từ lâu đã trở nên thân thiết đối với chúng ta (Xin liên hệ với Lạc Việt, Đại Cồ Việt, Đại Việt). Vẫn biết rằng Việt còn là tên chỉ đất Quảng Đông (Trung Quốc) nên người Quảng Đông cũng còn được gọi là “Việt nhân” (tiếng Quảng Đông là “Yüt yằn”) nhưng đây lại là chữ Việt 粤 bộ mễ 米 chứ không phải chữ Việt 越 bộ tẩu 走 (là chữ dùng để ghi tên “Việt” của ta). Ngay như tại Trung Quốc chữ Việt bộ tẩu cũng còn dùng để chỉ vùng phía Đông của tỉnh Chiết Giang nhưng người ta cũng không sợ có sự nhầm lẫn do hiện tượng đồng âm gây ra. Và vì ở Trung Quốc có hai vùng “Việt” nên nó cũng có hai loại hình Việt kịch: Việt kịch với chữ Việt bộ tẩu là loại hình sân khấu địa phương lưu hành ở Chiết Giang và Thượng Hải còn Việt kịch với chữ Việt bộ mễ là loại hình sân khấu diễn xướng bằng tiếng Quảng Đông, lưu hành chủ yếu tại địa bàn mà tiếng Quảng Đông là phương tiện giao tiếp chủ yếu, kể cả… Hong Kong.

Còn về chuyện quốc hiệu mà ông đã nêu (vùng đất phía Nam… đất Việt) thì chúng tôi muốn nhắc lại đoạn sử sau đây trong Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim (Tân Việt, Sài Gòn, in lần thứ ba, 1949):

“Vua Thế-tổ (Gia Long – AC) sai quan thượng-thư Binh-bộ là Lê Quang-Định làm chánh sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam-Việt, lấy lẽ rằng Nam là An-nam và Việt là Việt-thường. Nhưng vì đất Nam-Việt đời nhà Triệu ngày trước gồm cả đất Lưỡng-Quảng, cho nên Thanh-triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt Nam cho khỏi lầm với tên cũ”. (tr. 418)

Vua Gia Long ở trong một cái thế muốn hòa hoãn nên đã chấp nhận quốc hiệu “Việt Nam” nhưng cả nhà vua lẫn dân chúng đều có thể mặc nhiên hiểu rằng Việt Nam là “nước Nam của người Việt” chứ không phải “vùng đất phía Nam đất Việt”.

Nhưng quan trọng hơn hết là tộc danh “Việt” gắn liền với khái niệm “Bách Việt”, trong đó những người “bà con” Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt, Điền Việt, v.v. của chúng ta đều đã lần lượt bị Hán hoá. Chỉ có nhóm Lạc Việt, mà chúng ta là hậu duệ, mới tự bảo tồn được để xây dựng nên một quốc gia độc lập tự chủ, quốc gia Việt Nam (= nước Nam của người Việt), trường tồn giữa vạn quốc. Bao nhiêu giống Việt khác đều tuyệt tích vì đã biến thành người Hán; chỉ có con cháu của nòi giống Lạc Việt còn tồn tại và phát triển trước áp lực của phương Bắc mà thôi. Đó chẳng phải là điều rất đáng tự hào hay sao? Và với niềm tự hào này, tại sao chúng ta không tự nguyện nhận mình là người Việt mà phải đổi thành “Keo”?

§ 833. Kiến thức ngày nay, số 427, ngày 20-6-2002

ĐỘC GIẢ: Vì một công việc riêng, tôi phải đọc lại rất kỹ cuốn Connaissance du Vietnam của Pierre Huard và Maurice Durand (E.F.E.O, Hanoi, 1954) và thấy có một điểm nhầm lẫn ở trang 283. Hai tác giả đã dịch sai vì hiểu nhầm câu cuối của bài thơ yết hậu nhan đề “Sư gạn vãi” mà nguyên văn và bản dịch của hai tác giả như sau:

Sư gạn vãi

Chơi xuân kẻo nữa già,

Lâu nay vẫn muốn mà,

Mời vãi vào nhà hậu,

Ta:

Bonze taquinant une bonzesse

Se livrer aux plaisirs printaniers, de peur que vienne la vieillesse,

Depuis longtemps, je le désirais,

Je te prie bonzesse d’ entrer dans l’arrière-salle,

A moi:

Toàn bài dịch không có vấn đề gì, trừ câu yết hậu “Ta” (câu thứ tư, chỉ có một âm tiết); đã được dịch ra tiếng Pháp là “A moi”. Vậy nếu đọc liền với lời dịch câu thứ ba thì sẽ là “Je te prie bonzesse d’ entrer dans l’ arrière-salle à moi” và entrer dans l’arrière-salle à moi chỉ có nghĩa là “vào nhà hậu của tôi”. Còn theo thiển ý của tôi thì chữ ta (câu yết hậu) ở đây không có nghĩa là “của tôi”. Câu yết hậu này không thể viết thành “Ta:” (như trong sách) hoặc “Ta.” mà phải được viết thành “Ta…”, hàm ý là (vào nhà hậu rồi) ta (hai ta, chúng ta) sẽ có một hành động gì đó tiếp theo, một hành động không tiện nói ra mà chỉ bỏ lửng. Câu này theo ý tôi phải được dịch là “On va…” mới đúng.

Chính vì yêu thích và kính trọng hai tác giả Huard và Durand mà tôi xin đưa ra nhận xét trên đây; hy vọng rằng nhận xét này sẽ có phần hữu dụng khi sách được tái bản.

AN CHI: Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ông rằng ở đây Pierre Huard và Maurice Durand đã hiểu nhầm đại từ ta từ số nhiều (pluriel) thành số đơn (singulier). Nói cho rõ ràng ra, ta không phải chỉ là sư như hai tác giả đó đã hiểu, mà cả sư lẫn vãi. Những “chỗ trống” trong câu yết hậu có thể được “điền” thành:

“(Ta)… “vui vẻ” cùng nhau”.

để cho nội dung của cả bài thơ “hiển lộ” một cách cụ thể và đầy đủ như ông đã gợi ý. Cách hiểu của Huard và Durand đã làm cho tính chất spirituel (dí dỏm) của bài thơ giảm đi đến một nửa: cái sự mà sư đã “gạn” để “gài” vãi chỉ có thể trọn vẹn khi nó được sự đồng thuận của cả đôi bên. Chữ ta số nhiều trong nguyên văn tiếng Việt còn hàm cái ý sư cứ làm như là vãi đã sẵn sàng hưởng ứng một cách tất nhiên chứ không nghĩ rằng

Vãi cự lại

Đã mang tiếng xuất gia,

Còn đeo thói nguyệt hoa.

Sư mô đâu có thế!

Ma.

Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít moi trong lời dịch của Huard và Durand đã tước mất cái khía cạnh ý nhị sâu xa này của nguyên văn.

Vậy ta ở đây, nói rõ ra, phải là nous deux (hai ta, đôi ta) và chúng tôi rất tán thành ông đã dùng đại từ on để thể hiện cái ý “nous deux” vì tính chất bình dân và thân mật của đại từ này rất thích hợp với nội dung lời gạ gẫm của sư “cụ”. Chúng tôi chỉ xin nói thêm một chút về cách hiểu cấu trúc “à moi” trong lời dịch của Huard và Durand như sau.

Chúng tôi không cho rằng à moi ở đây có nghĩa là “của tôi”, “của ta” (số ít). Huard và Durand đã dịch và ghi rõ như sau:

“Je te prie bonzesse d’entrer dans l’arrière-salle,

A moi:”

Nếu à moi diễn đạt nghĩa sở hữu (sens de possession) thì sau arrière-salle không thể có dấu phẩy (virgule). “Nhà hậu của tôi” phải là “l’arrière-salle à moi” chứ không thể là “l’arrière-salle, à moi”. Chính cái dấu phẩy này (chứ không phải sự viết hoa chữ “à” (thành “A”) chứng tỏ rằng “A moi” là một cấu trúc độc lập chứ không phải là bổ ngữ hạn định (complément déterminatif) của arrière-salle. Nhưng à moi ở đây không có nghĩa là “cứu tôi với!” (sư đang gạ gẫm vãi thì còn kêu cứu với ai!), tuy rằng đây là một cái nghĩa có thực, như đã được ghi nhận trong từ điển. A moi ở đây có nghĩa rộng hơn. Cái nghĩa này là “exclamation pour faire venir quelqu’un près de soi” (tiếng thốt để gọi người khác đến với mình), như đã cho trong Dictionnaire général de la langue française của Adolphe Hatzfeld & Arsène Darmesteter (Delagrave, 1964).

Vậy “A moi” ở đây là “hãy đến với ta”, “đến với ta đi” (ta, số ít).

§ 834. Kiến thức ngày nay, số 427, ngày 20-6-2002

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 424, ông đã phê bình bài “Con đen sao lại là con mắt” của ông Nguyễn Khắc Bảo, đăng trên tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 4-2002 nhưng tiếc rằng chính ông lại không hề cho biết theo ý ông thì con đen (trong hai câu Kiều thứ 839 và 1414) có nghĩa là gì.

AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 424, chúng tôi đã không “phê bình” toàn bộ bài “con đen sao lại là con mắt?” của ông Nguyễn Khắc Bảo, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 4-2002. Chúng tôi chỉ trả lời câu hỏi “Hắc đầu có phải là “bọn khách làng chơi hắc đầu thiếu niên chi tử (…) có bản chất hắc ám, tăm tối, ngu ngốc” hay không?” do bạn đọc Phùng Nguyên Hạnh (Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh) nêu ra mà thôi. Và vì trọng tâm của câu hỏi chỉ liên quan đến nghĩa của hai chữ hắc đầu trong tiếng Hán chứ không phải của hai chữ con đen trong tiếng Việt nên chúng tôi mới không giải nghĩa con đen là gì cho khỏi… lạc đề. Còn lần này ông đã đặt vấn đề thì chúng tôi xin trả lời như sau.

Từ cuối thế kỷ XIX, trong Đại Nam quấc âm tự vị, tome I (Saigon, 1895), Huình-Tịnh Paulus Của đã ghi và giảng như sau:

“Con đen: Con ngươi, tròng đen. Mượn màu son phấn đánh lừa con đen”. (Xem chữ “con”).

Đây là một lời giảng súc tích, rạch ròi và hoàn toàn chính xác nhưng rất tiếc là các nhà chú giải Truyện Kiều chẳng ai để ý đến. Mãi đến đầu thế kỷ XXI mới có người khai thác và giới thiệu nó với công chúng. Người đó là ông Lê Trung Hoa trong bài “Con đen có phải là dân đen?”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 5-2001. Xin thú thật rằng trước đây, cá nhân chúng tôi cũng theo “quán tính” mà cho rằng con đen trong hai câu Kiều 839 và 1414 là “dân đen”. Nay, sau khi đọc bài của Lê Trung Hoa, chúng tôi mới ngộ ra rằng cách hiểu trước đây của mình quá ư dại dột và hoàn toàn vô duyên.

Vâng, quá ư dại dột và hoàn toàn vô duyên! Dân đen thì làm gì có tiền để đi… tìm gái ở lầu xanh? Dân đen, tuy là những người bị chế độ phong kiến miệt thị nhưng lại là những người lương thiện thì làm gì có đủ tâm địa mà đi… hú hí với dân buôn phấn bán hương? Cách hiểu vô duyên, dại dột này xúc phạm đến những thành phần cơ bản đã góp phần tạo ra phần lớn của cải vật chất để nuôi sống xã hội thời xưa, thời mà cái sự “vai u thịt bắp” của “dân đen” rất đắc dụng và rất khác với thời đại kinh tế tri thức hiện nay.

Thực ra, trong Truyện Kiều, để chỉ cái đối tượng đang bàn, Nguyễn Du chỉ dùng thẳng hai tiếng làng chơi mà thôi. Còn để chỉ riêng chàng khách làng chơi Thúc Kỳ Tâm thì Nguyễn Du lại trân trọng gọi là “khách du” và để chỉ riêng vị khách làng chơi Từ Hải thì Nguyễn Du lại cũng trân trọng gọi là “khách biên đình”. Còn cái mà Nguyễn Du nói là bị “mập mờ đánh lận” (câu 839) và bị “mượn màu son phấn đánh lừa” (câu 1414) thì chỉ là thị giác của tất tật khách làng chơi bấtkể đó là ai.

Vâng, con đen ở đây chính và chỉ là con mắt mà thôi. Ông Nguyễn Khắc Bảo phản bác:

“Con đen đã bị hiểu thành con mắt có tròng đen. Thế nhưng (…) người có con mắt tròng đen là người khôn, sao lại bị “đánh lận”, “đánh lừa” bởi cái trò “mượn màu son phấn” của “nước vỏ lựu, máu màu gà” ấy được”. (Bđd, tr. 31)

“Con mắt có tròng đen” là cách hành văn và cách suy luận chủ quan và ngộ nghĩnh của ông Nguyễn Khắc Bảo. Chứ Nguyễn Du thì chỉ dùng danh ngữ con đen (mà nghĩa gốc là con ngươi hoặc tròng đen) theo hoán dụ để chỉ con mắt mà thôi.

Cuối cùng, nếu cứ nhất nhất buộc rằng hai tiếng con đen là do Nguyễn Du dịch từ tiếng Hán, thì chúng tôi xin nói rằng ông đã dịch từ mấy chữ hắc mâu hoặc hắc nhãn chu (hắc = đen), đều có nghĩa là con ngươi (của mắt) chứ dứt khoát không phải từ hai tiếng “hắc đầu”.

§ 835. Kiến thức ngày nay, số 428, ngày 1-7-2002

ĐỘC GIẢ: Nhân mùaWorld Cup 2002, tôi cũng “gặt” được một mẻ sinh ngữ nho nhỏ để hỏi ông An Chi:

1. Trong bài “Nước Anh đi trên mây”, tác giả đã viết: “Cái tên Svengeance” ngày hôm qua đã trở nên phổ biến – Lối chơi chữ của một số tờ báo, rút gọn từ một cụm từ mang ý nghĩa Sven Goran Eriksson vùng lên đấu tranh vì danh dự” Thể thao ngày nay, 9-6-2002, tr. 6. Xin ông vui lòng nói về lối chơi chữ trên đây.

2. Trong bài “Đá như đùa”, tác giả viết: “Đội quân celecao không hề nương chân trước đối thủ” Sài Gòn giải phóng Thể thao, 14-6-2002, tr. 4. Xin cho biết “celecao” là tiếng của nước nào và có nghĩa là gì.

3. Trong bài “Đòn trừng phạt”; tác giả viết: “Cái bẫy của “Trap” (tên viết tắt của huấn luyện viên Trapattoni) đã không đánh lừa được những quân cờ Croatia” Thể thao ngày nay, 9-62002, tr. 1. Một người bạn nói với tôi rằng ở đây cũng có chơi chữ. Vậy xin cho biết tác giả đã chơi chữ ở chỗ nào.

4. Trong bài “Cơn địa chấn vòng 1”, phần đóng khung có câu: “Cơn địa chấn vòng 1 lấy mất hai ứng cử viên vô địch hàng đầu Pháp, Argentina, và suýt chút nữa biến Squadra Azzurri thành kẻ ngoài cuộc” Sài Gòn giải phóng Thể thao, 15-6-2002. Xin hỏi: Squadra Azzurri có nghĩa là gì.

5. Trong bài “Lại thêm một “năm 66” hùng vĩ”, tác giả viết: “Lối chơi phòng ngự – phản công của người Ý vẫn tỏ ra hiệu quả với “cái khiên” catenaccio ở hàng phòng ngự (…)” Thể thao, 19-6-2002, tr. 2. Xin cho biết “catenaccio” nghĩa là gì.

Trên đây là năm điểm “thu hoạch” của tôi trong mùa World Cup 2002. Kính mong ông vui lòng giải đáp trước khi kỳ hội thể thao vĩ đại toàn cầu này chấm dứt.

AN CHI: Nếu không có gì bất thường thì Kiến thức ngày nay, số 428 sẽ được bày bán ở các sạp báo vào sáng 30-6, lúc trận chung kết trên sân Yokohama hãy còn đến trên dưới mười tiếng đồng hồ nữa mới bắt đầu “lăn bóng”. Vậy xin ông cứ yên tâm. Vả lại, World Cup tuy có qua đi nhưng chữ nghĩa thì vẫn còn đó. Còn bây giờ thì xin trả lời cho ông như sau.

1. Svengeance là một kiểu tạo từ mà danh từ ngữ học tiếng Anh gọi là portemanteau word hoặc telescoped word, tương ứng với tiếng Pháp mot-valise mà chúng tôi đã nêu ra trên một vài kỳ Kiến thức ngày nay, chẳng hạn khi nói về danh từ franglais. Vậy portemanteau word hoặc telescoped word là một kiểu từ tạo ra từ hai từ khác nhau bằng cách cách ghép phần đầu của từ trước với phần cuối của từ sau. Thí dụ: smog (khói lẫn sương) là kết quả của sự ghép nối phần đầu của từ smoke (khói) là sm- với phần cuối của từ fog (sương mù) là -og; motel (khách sạn cạnh đường cho khách có ôtô) là kết quả của sự ghép nối phần đầu của từ motor (ôtô) là mo- và phần cuối của từ hotel (khách sạn) là -tel; v.v..

Svengeance là một portemanteau word gồm phần đầu của Sven/Goran Eriksson (Sven-), là tên họ của huấn luyện viên trưởng đội tuyển Anh và phần cuối của vengeance (-geance), có nghĩa là sự phục thù. Vậy Svengeance có thể được hiểu là sự phục thù của đội tuyển Anh dưới sự chỉ đạo của ông Sven Goran Eriksson, đối với đội tuyển Argentina. Xin nhắc lại rằng tại France 1998, tuyển Anh đã bị tuyển Argentina “đá” bại còn riêng Beckham (Anh) đã phải lãnh thẻ đỏ vì Simeone (Argentina).

2. “Celecao” là một kiểu phiên âm không hợp lý. Đây vốn là danh từ selecção của tiếng Bồ Đào Nha (mà nghĩa gốc là sự tuyển chọn), có nghĩa là đội tuyển. Selecção ở đây là đội tuyển Brazil (người Brazil nói tiếng Bồ Đào Nha). Xin nói thêm rằng selecção tương ứng với tiếng Pháp sélection, cũng như direcção với direction (sự điều khiển), elecção với élection (sự bầu cử), v.v.. Xin nhắc rằng câu mà ông nêu ra là nhận xét của tác giả về trận Brazil – Costa Rica trên sân Suwon trưa 13-6-2002.

3. Trong ngữ danh từ “cái bẫy của Trap” thì trap, hiểu theo tiếng Anh, cũng có nghĩa là (cái) bẫy. Vậy ở đây tác giả đã chơi chữ bằng hiện tượng đồng âm. Xin lưu ý rằng tuy Trapattoni là người Ý nhưng sự chơi chữ ở đây chỉ có hiệu lực với tiếng Anh chứ trong tiếng Ý thì (cái) bẫy lại là trappola chứ không phải trap .

4. Squadra và Azzurro đều là tiếng Ý. Squadra là đội (bóng). Azzurro vốn là một tính từ có nghĩa là xanh da trời, được dùng để chỉ vận động viên đội tuyển quốc gia của Ý. Vậy azzurro ở đây là cầu thủ áo xanh (= của Ý) còn azzurri là số nhiều của azzurro.

5. Catenaccio là một danh từ tiếng Ý, có nghĩa là (cái) chốt, (cái) khoá. Vậy “cái khiên catenaccio” ở đây hàm ý là cái lá chắn khóa chặt khung thành của thủ môn Gianluigi Buffon (Ý), không để cho các tuyển thủ Hàn Quốc chọc thủng lưới. Tiếc rằng kết quả của trận này lại là 2 – 1 nghiêng về phía Hàn Quốc. “Cái khiên catenaccio” của các chàng trai Azzurri đã không lấy gì làm mầu nhiệm nên họ đã bị những con quỷ đỏ châu Á calciare in porta (đá lọt cầu môn) đến hai lần.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3