Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 809 - 822

§ 809. Kiến thức ngày nay, số 418, ngày 20-3-2002

ĐỘC GIẢ: Từ cổ là gì?

AN CHI: Từ điển từ Việt cổ của Nguyễn Ngọc San – Đinh Văn Thiên (Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001) định nghĩa từ ngữ cổ như sau:

“Đó là những từ ngữ thuần Việt bình thường đã từng có thời gian được sử dụng phổ biến trong lời nói hàng ngày, nhưng đến nay qua thời gian sàng lọc chúng không còn được sử dụng mà chỉ còn tồn tại trong các tác phẩm cổ hoặc trong tục ngữ ca dao cổ (…) Cổ với ý nghĩa là chúng đã mất đi trong ngôn ngữ hiện đại hoặc có xuất hiện thì cũng không còn giữ nghĩa cổ nữa, khiến người Việt hiện đại không còn hiểu được ý nghĩa của chúng, chứ không phải là những từ ngữ xuất hiện sớm nhất trong tiếng Việt. Chính những từ xuất hiện sớm nhất lại là những từ chúng ta đang dùng hiện nay: đó là lớp từ cơ bản như số đếm, từ trỏ các bộ phận của cơ thể, từ trỏ các hiện tượng tự nhiên gần gũi với đời sống con người, từ trỏ các động tác trong sinh hoạt và lao động thô sơ”. (Sđd, tr. 6 – 7)

Ngoài ra, quý vị còn có thể tham khảo chi tiết thêm ở “Lời nói đầu” quyển Từ điển từ cổ của Vương Lộc (Hà Nội – Đà Nẵng, 2001).

§ 810. Kiến thức ngày nay, số 419, ngày 1-4-2002

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 416, bạn đọc Trần Đăng Minh Khoa có hỏi về tên một bộ phim nhiều tập của Ý là “Lui & lei” (= Chàng và nàng, như ông đã dịch) mà VTV1 đã “chuyển ngữ” thành “Julia và Claudio”. Cách đây đã lâu, ông cũng có bàn qua về cách dịch tên một bộ phim của Mexico mà ban đầu Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh dịch là “Nước mắt người giàu” nhưng sau đó lại đổi thành “Người giàu cũng khóc”. Tôi nhắc lại chuyện này để hỏi quan niệm của ông về cách dịch tên phim và tên tác phẩm nói chung: theo ông thì có nên đổi lời đổi ý của nguyên ngữ hay không?

AN CHI: Về cách “chuyển ngữ” của VTV1 từ “Lui & lei” (Chàng và nàng) thành “Julia và Claudio”, chúng tôi xin nhấn mạnh rằng trong bộ phim này, “chàng” chỉ là Claudio chứ “hậu Julia” thì lại có đến mấy “nàng” và trong mấy nàng đó thì cuối cùng Claudio cũng đã tìm được cho đứa con gái cưng một người mẹ mới: cô giáo, người đã xuất hiện ở cửa nhà chàng trước khi tập chót của bộ phim khép lại. Vậy, “nàng” (lei) ở đây không chỉ là Julia. Mà nếu có đúng như thế đi chăng nữa thì chúng tôi vẫn chủ trương trung thành với nguyên ngữ (“Lui & lei”) mà dịch thành “Chàng và nàng” chứ không “chuyển ngữ” thành “Julia và Claudio”. Nếu sợ “Chàng và nàng” mang cái hơi hướng của Tự Lực văn đoàn thì vẫn còn có thể diễn đạt thành “Cậu ta và cô ta” hoặc như dạo nào, “Anh ấy và chị ấy”.

Ông nhớ đúng: cách đây hơn chín năm, trên Kiến thức ngày nay, số 97, ngày 1-12-1992), chúng tôi có bàn về cách dịch tên bộ phim nhiều tập “Los ricos tambien lloran” của Mexico. Trong tiếng Tây Ban Nha (người Mexico nói tiếng Tây Ban Nha) thì Los ricos tambien lloran có nghĩa là “Người giàu cũng khóc”. Nhưng khi trình chiếu năm tập đầu thì Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh đã dịch thành “Nước mắt người giàu”, có lẽ do đã theo cách dịch của Đài truyền hình Phú Yên (là đài đã chiếu bộ phim này trước). Người chủ trương cách dịch này của đài Phú Yên là Đào Minh Hiệp đã giải thích như sau:

“Quả thật tôi đã phải suy nghĩ rất lâu trước khi quyết định dịch là Nước mắt người giàu mà vẫn bảo đảm chuyển tải được ý nghĩa chính xác của tên phim (…) đồng thời nghe hay hơn (…) Tôi nghĩ không có gì khác nhau giữa hai tên phim (nên nói là hai cách dịch – AC)”*.

Thực ra thì sự khác nhau giữa hai cách dịch ở đây rất lớn, cả về ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng. “Nước mắt người giàu”, chỉ là một ngữ danh từ không rõ vai (chức năng cú pháp) chứ “Người giàu cũng khóc” thì đã là một cấu trúc Đề-Thuyết hoàn chỉnh. “Người giàu cũng khóc” trực tiếp bao hàm một sự so sánh (“cũng”) còn “Nước mắt người giàu” thì không. “Nước mắt người giàu” có thể chỉ là nước mắt cá sấu chứ “Người giàu cũng khóc” thì là khóc thật 100%. v.v.. Vậy không thể nói rằng “không có gì khác nhau giữa hai cách dịch”, rằng cách dịch của Đào Minh Hiệp “vẫn bảo đảm chuyển tải được ý nghĩa chính xác của tên phim”.

Nhưng cứ cho rằng cách dịch của Đào Minh Hiệp thực sự hay hơn nguyên ngữ thì chúng tôi vẫn quan niệm rằng cái chức năng chân chính của một người dịch không phải là ở chỗ chuyển ngữ hay hơn nguyên ngữ mà chỉ là chuyển tải được một cách chính xác tất cả những gì nguyên ngữ muốn chuyển tải mà thôi. Một câu châm ngôn của Ý nói rằng “người dịch là người phản” (Traduttore, traditore); rồi người Pháp có lẽ cũng theo đó mà nói rằng “dịch tức là phản” (Traduire, c’est trahir). Dịch “hay” hơn nguyên tác chẳng qua cũng là phản vì làm như thế chính là nâng nó lên một thứ hạng mà nó không xứng đáng được đặt vào. Dĩ nhiên, cũng như mọi người, chúng tôi chỉ thích những lời dịch (hoặc bản dịch) hay chứ có ai lại tán dương những lời dịch (hoặc bản dịch) kém cỏi. Nhưng dịch “hay” hơn nguyên tác, suy cho cùng kỳ lý, chỉ là một lối nói vô nghĩa.

§ 811. Kiến thức ngày nay, số 419, ngày 1-4-2002

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 416, nhân giải thích về mấy từ “La prossima avventura” của tiếng Ý, ông có cho biết rằng avventura là “cuộc mạo hiểm”. Vậy có phải, avventura của tiếng Ý cùng gốc với aventure của tiếng Pháp và adventure của tiếng Anh hay không? Tại sao cùng gốc mà tiếng Ý là avv-, tiếng Pháp là av- còn tiếng Anh lại là adv-?

AN CHI: Avventura (Ý), aventure (Pháp), và adventure (Anh) là những từ cùng gốc, đúng như ông đã hỏi, và đều trực tiếp hoặc gián tiếp do tiếng La Tinh adventura mà ra. Nhưng vì mỗi ngôn ngữ có một hệ thống âm vị riêng biệt nên sự chuyển biến ngữ âm từ hình thái gốc trong thứ tiếng này sang hình thái phái sinh trong thứ tiếng kia cũng phải tuân theo những quy luật khác nhau.

Phụ âm d đứng trước v trong tiếng La Tinh khi chuyển sang tiếng Ý thì bị đồng hóa thành v:

– advenire (đến; xảy ra) > avvenire;

– adverbium (phó từ) > avverbio;

– adversarius (đối thủ) > avversario;

– advocatus (luật sư) > avvocato; v.v.

Do đó, adventura > avventura.

Phụ âm d đứng trước các phụ âm khác trong tiếng La Tinh, trừ r, khi chuyển sang tiếng Pháp thì bị triệt tiêu:

– adspectus (dáng vẻ) > aspect;

– adspergere (rải; tưới) > asperger;

– advertere (cảnh cáo) > avertir,

– advocatus (luật sư) > avocat; v.v..

Do đó, adventura > aventure. Nhưng xin nói rõ rằng trên đây chỉ là quy luật chuyển biến ngữ âm tự nhiên từ tiếng La Tinh sang tiếng Pháp còn từ thế kỷ XV trở đi thì giới trí thức Pháp muốn “về nguồn” (cho “giống” với tiếng La Tinh!) nên đã phản ứng bằng kiểu cấu hình bác học (formation savante) mà tái lập lại phụ âm d. Vì vậy nên ajoindre, amonester, avenir, averse, v.v. mới trở thành adjoindre (phụ vào), admonester (cảnh cáo), advenir (xảy đến), adverse (đối địch), v.v..

Còn sở dĩ tiếng Anh có -dv- trong chữ adventure thì cũng chỉ là do thêm thắt về sau chứ tiền thân của nó trong tiếng Anh trung đại (Middle English) cũng là aventure vì đây là một từ mà tiếng Anh đã trực tiếp mượn từ tiếng Pháp aventure. Sự hiện diện của d trước -v trong adventure chẳng qua chỉ là hậu quả của một sự áp đặt trái tự nhiên theo xu hướng “bác học hóa” mà thôi.

Nhân tiện, xin nói thêm về lai lịch của danh từ tương ứng trong tiếng Đức là Abenteuer mà F. de Saussure đã nhận xét như sau:

“Vào thời trung cổ, tiếng Đức đã mượn từ aventure của tiếng Pháp; từ này vào tiếng Đức đã biến hóa một cách đúng quy tắc thành abentüre, rồi thành Abenteuer, tuy không phát âm sai từ này, người ta đã liên hệ nó với Abend “buổi tối” (Vậy Abendteuer, “chuyện phiêu lưu” là thứ “chuyện mà người ta kể vào buổi tối”), đến nỗi ở thế kỷ XVIII người ta đã viết thành Abendteuer”*.

Thế là trong danh từ Abendteuer của tiếng Đức hồi thế kỷ XVIII, người ta cũng đã thêm một chữ d vào (giữa n và t) nhưng điều này dĩ nhiên không xuất phát từ việc phục hồi chữ d gốc của tiếng La Tinh mà có một nguyên nhân hoàn toàn khác: từ nguyên dân gian. Aben – vốn chỉ là hai âm tiết vô nghĩa dùng để phiên âm nhưng đã được từ nguyên dân gian liên hệ với danh từ Abend có nghĩa là buổi tối nên mới sinh ra lối viết “Abendteuer” hồi thế kỷ XVIII như F. de Saussure đã chỉ ra trong đoạn trích dẫn trên đây.

§ 812. Kiến thức ngày nay, số 419, ngày 1-4-2002

ĐỘC GIẢ: “Chụp mũ” là gì và đâu là xuất xứ của lối nói này?

AN CHI: Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giảng “Chụp mũ ” là “quy cho người khác khuyết điểm nặng về tư tưởng một cách không có căn cứ”.

Chụp mũ là kết quả của một sự vay mượn bằng hình thức sao phỏng (calque) từ tiếng Hán hiện đại Khấu mạo tử 扣帽子 (kòu mào.zi). Ngoài các nghĩa quen thuộc, trong phương ngữ Bắc Kinh, khấu còn có nghĩa là đậy, úp, chụp. Mạo tử là mũ, nón. Vậy khấu mạo tử là “chụp mũ”. Lối nói này ra đời trong các cuộc họp kiểm điểm, các cuộc chỉnh huấn, chỉnh quân ở vùng căn cứ cách mạng, rồi về sau là trên khắp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

§ 813. Kiến thức ngày nay, số 420, ngày 10-4-2002

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 370, ông có viết: “Răng trong răng hàm mặt là âm Hán Việt xưa của chữ 棱 mà âm Hán Việt hiện đại là lăng, có nghĩa là khía cạnh”. (tr. 50, cột 1, mục số 12). Nhận xét về mục 12 này trong lời giải đáp của ông, hai tác giả Đào Thản – Vương Lộc đã viết như sau:

“Kỳ thực, răng trong chữ Nôm viết 齒夌 (xỉ + lăng); xỉ (răng) là bộ phận chỉ nghĩa, còn lăng (lấn lướt, xâm phạm) là bộ phận biểu âm của răng. Lăng không có nghĩa là “răng” trong tiếng Hán cho nên trường hợp này là thuần Việt chứ không phải là cổ Hán Việt. Răng là một từ gốc Việt Mường, trong đó có thể kể: Mường: say, t’ay, Mã Liềng, Pakatan: kơsay, Sách, Rục: kasay, Tha Vưng: kasay…”*.

Xin hỏi ông có nhận xét gì về ý kiến của hai tác giả Đào Thản và Vương Lộc.

AN CHI: Nếu chúng tôi không nhầm thì hầu hết, nếu không phải là tất cả, các nhà Việt ngữ học có quan tâm đến từ nguyên đều cho răng là một từ gốc Việt Mường (Xin cứ tạm dùng thuật ngữ “Việt Mường” của hai đồng tác giả Đào Thản – Vương Lộc). Còn chúng tôi thì cho rằng đó là một từ Việt gốc Hán và là một từ cổ Hán Việt. Nhưng trước khi trình bày kỹ ý kiến của mình, chúng tôi xin lưu ý rằng cách ghi âm của ông Đào Thản và ông Vương Lộc cho thấy có một sự nhầm lẫn về phần vần từ ăng thành “ay”. Những từ mà hai ông ghi thành “say”, “t’ay”, “kơsay”, “kasay” đúng ra phải là săng, t’ăng, kơsăng, kasăng (nhưng có nhiều khả năng đây chỉ là lỗi ấn loát do ngộ nhận ký hiệu “N” (thay cho “ng”) thành “y”). Bây giờ, xin đi vào vấn đề chính.

Ông Đào Thản và ông Vương Lộc đã hiểu nhầm cách trình bày của chúng tôi về nguồn gốc của từ răng. Chúng tôi đã viết rằng răng là âm cổ Hán Việt của chữ 棱 mà âm Hán Việt hiện đại là lăng, có nghĩa là “khía: “cạnh”. Nghĩa là chúng tôi đã căn cứ vào chính tiếng Hán và chữ Hán. Còn hai ông thì lại cho rằng chúng tôi đã liên hệ nguồn gốc của từ răng với cách viết Nôm của từ này thành 齒夌 (xỉ + lăng) trong đó xỉ (= răng) là bộ phận chỉ nghĩa còn lăng (= lấn lướt, xâm phạm) là bộ phận biểu âm, rằng chúng tôi đã sai vì lăng ở đây không có nghĩa là “răng”. Nhưng chúng tôi không hề liên hệ từ nguyên của từ răng với chữ Nôm.

Vậy nếu chúng tôi có sai thì chỉ là sai ở chỗ đã liên hệ từ nguyên của răng với chữ lăng 棱 trong tiếng Hán mà thôi. Về vấn đề này chúng tôi xin trao đổi thêm với hai ông như sau:

Chữ lăng 稜 bộ hòa 禾 còn thông với các chữ 棱 và 楞 bộ mộc 木; cả ba chữ đều có nghĩa là “góc: “cạnh: “khía” (không kể đến những nghĩa không liên quan). Sự chuyển nghĩa từ “khía: “cạnh: “góc: sang “răng” là một quá trình hoàn toàn bình thường. Danh từ zub có nghĩa là răng trong tiếng Nga và tiếng Serb-Croat cũng bắt nguồn ở một từ Slavic chung có nghĩa là “cạnh”, như vẫn còn thấy trong tiếng Litva Yêambas, có nghĩa là cạnh của thanh gỗ*. Chúng tôi tin rằng “răng” là một cái nghĩa mà từ lăng (với ba tự hình đã nêu) đã từng có; nghĩa này còn được giữ lại trong tiếng Việt cho đến tận ngày nay. Vậy mối quan hệ lăng ~răng theo chúng tôi, là một hiện tượng rất hấp dẫn mà cũng chẳng mâu thuẫn gì với nguồn gốc chung của các từ răng (Việt), săng, t’ăng (Mường), kơsăng (Mã Liềng), v.v. mà ông Đào Thản và ông Vương Lộc đã nêu ra. Lý do là từ lăng (xin tạm đọc theo âm Hán Việt) của tiếng Hán đã được ngôn ngữ Việt Mường chung (chưa phân hóa thành Việt, Mường, Sách, Rục, Mã Liềng, v.v.) vay mượn rồi mới đi vào từng ngôn ngữ thành viên sau khi Việt Mường chung bị chia tách. Sự vay mượn tiếng Hán ngay từ thời Việt Mường chung là một hiện tượng từng được đề cập và phân tích cách đây trên một thập kỷ, chẳng hạn với Nguyễn Tài Cẩn trong bài “Một vài nhận xét thêm rút ra từ cách đọc Cổ Hán Việt”*.

Dĩ nhiên là người ta có thể phản bác rằng nếu từ lăng mà lại được vay mượn từ thời Việt Mường chung thì sẽ không thể giải thích nổi sự có mặt của tiền âm tiết kơ-/ka- trong các từ kơsăng hoặc kasăng của các ngôn ngữ Mã Liềng, Sách, Rục, v.v.. Thực ra, việc song tiết hóa bằng tiền âm tiết là một hiện tượng hoàn toàn có thể xảy ra ngay khi hoặc sau khi vay mượn. Từ đơn tiết của tiếng Việt, khi đi vào tiếng Bahnar, cũng đã được song tiết hóa bằng tiền âm tiết trong hàng loạt trường hợp: ách – kơach, búa – kơbua, chai – kơchai, đinh – kơđinh, mũ – kơmuh, nơm – kơnơm, v.v.. Khả năng song tiết hóa ở Việt Mường đã được Nguyễn Tài Cẩn (tác giả này gọi là Việt Chứt) nêu ra trong Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Nxb. Giáo dục, 1995, tr. 118). Ngoài ra cũng còn có khả năng là đã có tổ hợp phụ âm đầu *kr ngay từ trong tiếng Hán rồi sau mới diễn tiến thành l- ở trong lăng (còn *k- thì thành kơ-, ka- ở Mã Liềng, Sách, Rục, v.v.). Nếu có dịp, chúng tôi sẽ trình bày và phân tích kỹ về khả năng này.

Vừa viết xong câu trả lời này thì chúng tôi được đọc tại mục “Bàn tròn Thế giới mới” ý kiến của ông Trần Trí Dõi, Chủ nhiệm Bộ môn Ngôn ngữ – Văn hóa dân tộc Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, về nguồn gốc của từ răng. Ông viết: “Việc cho từ răng trong răng hàm là âm Hán Việt xưa rõ ràng là chưa đủ cơ sở. Từ răng ấy là một từ chỉ cơ thể, nó thuộc lớp từ cơ bản nhất nên rất khó là từ ngoại lai và điều đó đã được những nhà nghiên cứu về ngữ âm lịch sử chứng minh*. Về luận điểm cho rằng “những từ chỉ các bộ phận cơ thể rất khó là từ ngoại lai (vì chúng thuộc lớp từ cơ bản)”, chúng tôi xin được nêu một số ý như sau: Trong tiếng Pháp, chef là một từ cổ có nghĩa là “đầu”, bắt nguồn từ tiếng La Tinh caput, về sau được thay thế bằng tête, bắt nguồn từ tiếng La Tinh testa. Trường hợp trước là do diễn tiến tự nhiên, từ tiếng La Tinh sang tiếng Pháp còn trường hợp sau là vay mượn hẳn hoi. Trong tiếng Khmer, cả hai từ chỉ “dương vật” đều bắt nguồn từ tiếng Sanskrit và/hoặc Pali: kuj (cui) < P. guyha/ S. guhya và kdɔ (kđo) P. kāta/S. kạta. Trong tiếng Việt thì tim, gan, phổi, v.v. đều là gốc Hán; đặc biệt phổi là cổ Hán Việt lên đến giai đoạn Việt Mường chung như Nguyễn Tài Cẩn đã phân tích trong hai nguồn đã dẫn: bài 1991 (Ngôn ngữ, số 4, tr. 2) và sách 1995 (Nxb. Giáo dục, tr. 212). Xin nhắc lại rằng Nguyễn Tài Cẩn gọi Việt Mường là Việt Chứt.

Vậy, theo chúng tôi, thì răng của tiếng Việt và những từ cùng gốc với nó trong các ngôn ngữ Việt Mường, mà Nguyễn Tài Cẩn gọi là tiểu chi Việt Chứt, là những từ gốc Hán bắt nguồn ở một từ mà âm Hán Việt hiện đại là lăng còn âm thượng cổ có thể đã là *krăq.

Cuối cùng, chúng tôi xin cảm ơn ông Trần Trí Dõi đã trấn an:

“Tôi nghĩ tác giả An Chi không định xúc phạm đến tiếng Việt của chúng ta đâu”

§ 814. Kiến thức ngày nay, số 420, ngày 10-4-2002

ĐỘC GIẢ: Chữ gu trong “gu bánh mì” (ngoài Bắc gọi là “đầu mẩu”) có phải do tiếng Pháp “croûton” mà ra hay không?

AN CHI: Trước khi tiếp xúc với tiếng Pháp thì tiếng Việt đã có từ gu. Vậy từ này không có liên quan gì đến tiếng Pháp croûton cả.

Gu là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 觙 mà âm Hán Việt hiện đại là cô, có nghĩa là góc, cạnh, vật có nhiều góc cạnh. Nghĩa này hoàn toàn phù hợp với nghĩa của từ gu mà Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng là “chỗ nổi lên, xương gio ra một cục, cái u”. Về phần vần thì sự tương ứng -ô ~ -u là một hiện tượng không khó chứng minh. Còn về mối tương ứng phụ âm đầu k- (c-) ~ g- thì người ta cũng có hàng loạt dẫn chứng:

– các ~ gác;

– can ~ gan;

– cận ~ gần;

– câu 呴 (kêu, hót) ~ gù;

– ký ~ ghi;

– ký ~ gởi, gửi, v.v..

§ 815. Kiến thức ngày nay, số 421, ngày 20-4-2002

ĐỘC GIẢ: Trong vài tuần nay, cũng có lẽ là trong nhiều tuần nay, tôi thường nghe khi được, khi không (vì tôi bị nặng tai) tiếng nói của một nữ xướng ngôn viên đài BBC, vào chót một bài bình luận nào đó, cô thường cho biết bài ấy thuộc về mục “Vietnamita”. Đúng đêm 27-3-2002 vào lúc 22 giờ 2 phút cô cũng xướng ngôn bài gì đó mà tôi nắm bắt không thông (vì nặng tai) và cô cũng kết thúc bằng từ “Vietnamita”.

Rắc rối chỉ là cái từ “Vietnamita” mà cô sử dụng còn phần tôi thì “bù trớt” về chữ nghĩa. Mà dốt thì hay nói chữ cho nên tôi xin đệm một câu: “Je ne suis pas cultivé dans les lettres” để tránh bị bắt bẻ.

Cái từ “Vietnamita” đó tôi nhớ là các nhà báo người Pháp và người Việt đã cãi nhau về nó hằng ngày hằng tuần trên báo một dạo ở Sài Gòn. Báo Pháp rất thích chữ “Vietnamita” để gọi dân Việt Nam phỏng theo chữ “annamite” trước đó còn các nhà báo người Việt thì lại khoái chữ “vietnamien” cho nó văn vẻ một chút. Người Pháp cãi không lại người Việt nên chữ “vietnamien” cũng “lai rai” xuất hiện trên báo Pháp, rồi dùng… luôn cho đến nay.

Rồi tôi được học bổng đi tu nghiệp tại nước Ý. Cái phiếu đầu tiên tôi lãnh lương tại Nha giáo dục ở Roma đề thế này:

“Signor Nguyen Van Yen vietnamita”

Tôi yêu cầu sửa lại thành “vietnamien”, có lẽ do nét mặt của tôi lúc ấy trông “ngầu” quá nên họ sửa ngay.

Vậy, xin ông hãy cầm các con chữ lên và cho biết con này tám lạng còn con kia có được nửa cân hay không thì thắc mắc của tôi sẽ tiêu tan.

AN CHI: Xin thưa thật với ông rằng đã khá lâu chúng tôi không nghe BBC nên không dám khẳng định có phải là “Vietnamese” đã bị ông nghe nhầm thành “Vietnamita” (ông đã tự nhận là mình nghe không rõ) hay đúng là đài BBC có một mục mang cái tên như thế thật. Còn chuyện các nhà báo người Pháp và người Việt cãi nhau về hai tiếng “vietnamita” và “vietnamien” ở Sài Gòn dạo nào như ông nói thì chúng tôi lại không được biết.

Cứ tạm xem là đã có chuyện như thế thật (chúng tôi tin ở lời ông) nhưng cái từ mà các nhà báo người Pháp ưa thích phải là “vietnamite” chứ không thể là “vietnamita”. Vậy giữa “vietnamite” và “vietnamien” thì từ nào đúng hơn và hay hơn?

Xét về mặt ngữ học thuần túy thì từ nào cũng đúng và dĩ nhiên là chẳng có từ nào hay hơn từ nào cả. Cả -ite lẫn -ien đều là những hậu tố dùng để cấu tạo tính từ quan hệ (adjectif relatif) đến một vùng đất hoặc một xứ sở nhất định do từ căn biểu hiện; những tính từ này cũng thay đổi từ loại (thành danh từ) để chỉ người của vùng đất hoặc xứ sở đó. Riêng về hậu tố -ite thì chúng tôi đã nói rất kỹ trên Kiến thức ngày nay, số 336 và số 354 nên xin mời ông và bạn đọc tìm xem lại hai số này. Còn -ien là một hậu tố rất thông dụng như có thể thấy trong một loạt thí dụ: Autrichien là người Autriche (Áo), Brésilien là người Brésil (Brazil), Canadien là người Canada, Egyptien là người Egypte (Ai Cập), v.v.. Vậy không thể nói rằng vietnamien hay hơn vietnamite hoặc ngược lại nếu chỉ xét và mặt ngữ học thuần túy mà thôi, đặc biệt là đối với cảm nhận của người Pháp nói chung. Riêng đối với những tay người Pháp nặng đầu óc thực dân thì có thể thích “vietnamite” (như ông đã nói) hơn “vietnamien” vì từ trước gợi nhớ đến cái từ “annamite” của thời thuộc địa mà hẳn là bọn họ rất luyến tiếc (cũng đúng như ông đã nói). Và cũng chính vì lý do này mà người Việt Nam lại không ưa “vietnamite” bằng “vietnamien”. Đây dĩ nhiên là một phản ứng tâm lý hoàn toàn chính đáng và dễ hiểu.

Ở đây, chúng tôi xin nhấn mạnh rằng sở dĩ chúng ta cảm thấy khó chịu trước từ “annamite”, rồi cả “vietnamite” (nếu quả có ai đó đã thử gọi như thế) thì chỉ vì cái cách gọi đó gợi lại một thời mà dân ta bị ngoại bang cai trị, chứ tuyệt đối không phải vì cái hậu tố -ite, như có người đã từng nghĩ ra một cách độc đáo và ngộ nghĩnh. Tác giả này đã phân tích rằng trong annamite thì hậu tố -ite có nghĩa là “bệnh hoạn”, “ốm yếu”; vậy Annamite là “người An Nam ốm yếu, bệnh hoạn”. Đây chẳng qua chỉ là một cách hiểu sai lầm, như chúng tôi đã chỉ ra trên Kiến thức ngày nay, số 336 và số 354 mà thôi; còn lần này thì xin nói thêm như sau.

Hậu tố -ite của từ annamite còn có mặt trong các từ jésuite và moscovite nữa mà trong jésuite thì thân từ jésu- chính là tên Chúa Jesus còn trong moscovite thì thân từ moscov- chính là tên thủ đô Moscou (Moskva) của Liên Xô và nay là của Nga. Nếu thực dân Pháp có trịch thượng với dân ta thì không phải là ở chỗ chúng đã dùng hậu tố -ite, từng được gắn với tên Đấng cứu thế và tên thủ đô của một siêu cường mà cả phe đế quốc đều phải gờm trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Thực dân Pháp trịch thượng với dân ta là ở chỗ họ đã dùng làm thân từ cho “annamite” đúng cái tên mà bọn đô hộ phương Bắc vẫn dùng để gọi nước ta là hai tiếng “An Nam”, mà chúng đã hiểu và dịch rất đúng là “(le) Sud pacifié” (phương (nước) Nam (bị) dẹp yên). Vâng, trong “annamite” thì thân từ chính là “annam” (= An Nam) và đây mới là thành tố hàm chứa cái ẩn ý và cái ác ý của thực dân chứ hậu tố -ite thì chẳng có tội tình gì!

Bây giờ xin mạn phép nhận xét một chút về chuyện ông tiếp xúc với người Ý lúc ông nhận lương lần đầu tiên tại Roma. Chúng tôi thấy ông thật là có uy đối với họ. Cho đến nay (2002) người Ý vẫn dùng từ Vietnamita để chỉ người Việt Nam. Thế mà lúc đó ông đã buộc được họ phải thay tiếng Ý Vietnamita bằng tiếng Pháp Vietnamien thì quả cũng là chuyện hy hữu. Có lẽ họ sẵn sàng dễ dãi như thế vì đây chỉ là chuyện phát lương. Nếu là chuyện quan trọng hơn, chẳng hạn như giấy tờ ngoại giao, thì chắc là họ đã phải gắt gao hơn chăng?

§ 816. Kiến thức ngày nay, số 421, ngày 20-4-2002

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết có phải lúc nào hậu tố -isant của tiếng Pháp cũng có nghĩa là “-hoá” hay không.

AN CHI: Chỉ có hậu tố -iser mới có nghĩa là “-hoá”, chẳng hạn: franciser (Pháp hóa), germaniser (Đức hóa), socialiser (xã hội hóa), v.v.. Và chỉ khi nào -ant trong -isant là hình thái phân từ hiện tại (participe présent) liên quan đến những động từ có hậu tố -iser thì lúc đó mới có thể dịch thành “hoá” được.

Còn -isant, với tính cách là một hậu tố độc lập, thì không có nghĩa là “hóa”, mà lại có nghĩa “chuyên về” hoặc “có khuynh hướng” và dùng để tạo ra danh từ chỉ người thực hành phần chuyên môn hoặc theo khuynh hướng mà cái nội dung khái quát được thể hiện thông qua thân từ, thí dụ: germanisant (người sùng Đức; nhà Đức học), hellénisant (nhà Hy Lạp học), socialisant (người có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa), v.v..

Chính vì không thấy được sự khác nhau trên đây nên tác giả Vương Toàn đã dịch câu: “Annamitisant sans prétention, je ne pouvait (sic) qu’ effleurer la question” thành:

“Là người không có kỳ vọng Việt hóa, tôi chỉ có thể lướt qua vấn đề ”*.

Thực ra, “annamitisant sans prétention” có nghĩa là “là nhà An Nam học không có tham vọng”. Dịch thành “là người không có kỳ vọng Việt hóa (An Nam hóa)” thì rõ ràng là đã biến mình từ traduttore thành traditore*.

§ 817. Kiến thức ngày nay, số 421, ngày 20-4-2002

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguyên văn bài “Xuân tứ” của Lý Bạch và bài dịch của Tản Đà.

AN CHI: Nguyên văn bài “Xuân tứ” như sau:

Yên thảo như bích ti,

Tần tang đê lục chi.

Đương quân hoài quy nhật,

Thị thiếp đoạn trường thì.

Xuân phong bất tương thức,

Hà sự nhập la vi?

Tản Đà dịch như sau:

Ý xuân

Cỏ non xanh biếc vùng Yên,

Cành dâu xanh ngả ở bên đất Tần.

Lòng em đau đớn muôn phần,

Phải chăng là lúc phu quân nhớ nhà.

Gió xuân quen biết chi mà,

Cớ chi lọt bức màn là tới ai?*

§ 818. Kiến thức ngày nay, số 422, ngày 1-5-2002

ĐỘC GIẢ: Từ điển bách khoa Việt Nam tập 2 đã phát hành. Xin ông cho nhận xét về việc chú thích bằng tiếng nước ngoài trong tập này và cả về các mặt khác nếu có thể.

AN CHI: Xin thưa thật với ông là chúng tôi cũng vừa mới “thỉnh” cuốn Từ điển bách khoa Việt Nam tập 2 và cũng chỉ mới “cưỡi ngựa xem hoa” mà thôi. Vì vậy nên chúng tôi chưa có thể nêu nhận xét về nhiều mặt như ông đã gợi ý. Vả lại, vì đây là từ điển bách khoa, có những mục từ, lại là đại đa số, thuộc nhiều lĩnh vực mà chúng tôi là người hoàn toàn ngoại đạo, nên xin mạn phép nhường lời cho các nhà chuyên môn. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nhận xét về việc chú thích bằng tiếng nước ngoài trong tập 2 của Từ điển bách khoa Việt Nam mà thôi. Đáng tiếc là việc chú thích ở đây có nhiều chỗ sai. Sau đây là một số dẫn chứng:

1. Tác giả mục “Giáo đường Xixtin” ghi chú rằng tên của giáo đường này bằng tiếng Pháp là “Sixtine Chapelle”. (tr. 126, c.2)

Nhưng người Pháp không bao giờ nói ngược như thế. Họ chỉ gọi đó là “(la) chap elle Sixtine”.

2. Tác giả mục “Giáo hội Công giáo” viết rằng “Tòa thánh Vaticăng (…) được gọi theo tên ngọn đồi xưa thờ nữ thần Vaticanut (Vaticanus) tại thủ đô Rôma của “Italia”. (tr. 127, c.1)

Rất tiếc rằng thần Vaticanus lại là nam chứ không phải nữ. Vì vậy nên ông ta mới mang một cái tên thuộc giống đực, nghĩa là tận cùng bằng -us. Nếu đó làmột vị nữ thần thì dân La Mã xưa đã gọi bằng một cái tên thuộc giống cái là “Vaticana”, nghĩa là tận cùng bằng -a.

3. Tác giả của mục “Giát” ghi chú rằng tên của thứ ngọc này bằng tiếng Tây Ban Nha là “piedra de laijada”. (tr. 129, c.1)

Nhưng tiếng Tây Ban Nha không hề có “laijada”. Có thể là tác giả đã viết “piedra de la jada” mà bị in sai chăng? Nhưng “giát” trong tiếng Tây Ban Nha cũng chẳng phải là “jada” mà cũng không thuộc giống cái (nên không thể dùng quán từ la) vì đó là jade, một danh từ giống đực, y hệt như trong tiếng Pháp và tiếng Bồ Đào Nha (cũng viết là jade). Vậy nếu muốn “dịch” đúng theo cái “cấu trúc cú pháp” của tác giả đó thì phải viết “piedra del jade” (del = de + el (quán từ giống đực)). Nhưng dân Tây Ban Nha cũng sẽ chẳng nói như thế vì del chỉ quan hệ sở thuộc còn ở đây lại là chuyện chất liệu nên lẽ ra phải và chỉ là “piedra de jade” (không có quán từ el) mà thôi. Cuối cùng họ cũng chẳng cần nhiễu sự mà dùng một cách nói không bình thường như thế; họ chỉ cần dùng “jade” để gọi thứ ngọc đó là xong. Còn chúng tôi thì thắc mắc tại sao tác giả đó không liên hệ thẳng “giát” với jade của tiếng Pháp mà lại phải lòng vòng đi tìm đến cái cấu trúc ngộ nghĩnh “piedra de la (i)j ada” của tiếng Y Pha Nho.

4. Tác giả của mục “Giđơ A” đã viết: “Giđơ xuất bản cuốn “Từ Liên Xô trở về” (1936) và sửa lại cuốn “Từ Liên Xô trở về của tôi” nói lên nỗi niềm thất vọng trước những điều tai nghe mắt thấy trên đất nước Xô Viết”. (tr. 134, c.2)

“Từ Liên Xô trở về của tôi” là một lối nói rất tối nghĩa và cũng không đúng ngữ pháp. Sự thật là sau khi cho xuất bản quyển “Từ Liên Xô trở về” (Retour de l’U.R.S.S) thì Gide lại cho ra mắt tiếp quyển “Sửa lại cuốn “Từ Liên Xô trở về” của tôi” mà nhan đề bằng tiếng Pháp là Retouches à mon Retour de l’U.R.S.S.

5. Tại mục “Hành động hội hoạ” (tr. 215, c.2), tác giả đã chuyển chú về mục “Acsơn-p entinh”. Lần giở lại tập 1 để tìm mục này thì thấy ghi chú như sau: “Acsơn-pentinh (…) action painting: hội họa hành động”. (tr. 28, c.2). Từ trên đây suy ra:

Hành động hội họa = acsơn-pentinh = action painting = hội họa hành động.

Vậy giữa hai cấu trúc “hành động hội họa” và “hội họa hành động” phải có một cấu trúc sai hoặc cả hai đều sai chứ không thể nào cả hai đều đúng. Và vì action painting đúng là hội họa hành động nên cái tên mục “hành động hội hoạ” ở tập 2 là một lối nói sai. Nó hoàn toàn không có lý do để tồn tại trong từ điển.

6. Tại tr. 359, c.1, ta đọc được mục sau đây: “Hổ phù (tiếng Sanskrit: Rāhu), linh vật trong huyền thoại Ấn Độ. Hổ phù vốn là quỷ, do sự phát hiện của thần Mặt Trời, Mặt Trăng mà bị Visnu (Vishnu) chặt đứt làm đôi, nửa trên là Hổ Phù, nửa dưới là Kế Đô (Kétu)”.

Thực ra thì tiếng Sanskrit Rāhu vẫn được phiên âm sang tiếng Hán thành “La Hầu” chứ không phải “Hổ phù”. Từ điển Phật học Hán Việt do Kim Cương Tử chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998) đã giảng như sau:

“La hầu (…) Rāhu (…) Còn gọi là La-hộ, tên một ngôi sao. Bởi hay che lấp mặt trời, mặt trăng, gây thành nhật thực, nguyệt thực cho nên truyền thuyết Ấn Độ gọi là A-tu-la Vương”. (tr. 641, c.1)

Do những chi tiết huyền thoại trên đây, nên trong tiếng Sanskrit, rāhu cũng có nghĩa là nhật thực, nguyệt thực. Tiếng Khmer đã mượn danh từ Sanskrit này và phát âm thành riahu, cũng nói tắt thành ria, dĩ nhiên là cũng để chỉ nhật thực, nguyệt thực.

7. Tác giả của mục “Kinh Phúc âm” đã ghi chú như sau: “Thánh Mathiơ (Saint Matthieu), Thánh Mac (Saint Marc), Thánh Luych (Saint Luke), Thánh Jăng (Saint Jean). (tr. 584, c.1)

Ghi chú như thế thì không nhất quán. Nếu muốn chú tiếng Pháp thì phải dùng: Matthieu, Marc, Luc, Jean. Còn nếu muốn dùng tiếng Anh thì phải viết: Matthew, Mark, Luke, John.

8. Tác giả mục “Lana” đã ghi chú như sau: “(Thái: La Na -một triệu thửa ruộng)”. (tr. 636, c.1)

Cái tên mục này đã sai ngay từ cách ghi: phần vần của âm tiết thứ nhất là -an chứ không phải “-a”. Vậy, đó là “Lanna” (hoặc “Lan Na”. Lan mới có nghĩa là “triệu”. Vậy “Lan Na” là triệu thửa ruộng, cũng như Lan Xang (tr. 635, c.2) là “triệu (con) voi”.

9. Tác giả mục “Long” ghi chú như sau: “(Sanskrit: Naga), loài rồng”. (tr. 729, c.1)

Thực ra, thì trong tiếng Sanskrit nāga (nguyên âm a ở nā là một nguyên âm dài: ā) không hề có nghĩa là “rồng” mà chỉ có nghĩa là rắn. Và dĩ nhiên là ngay cả trong Kinh Phật bằng tiếng Sanskrit thì nāga cũng chỉ có nghĩa là “rắn” chứ không bao giờ có nghĩa là “rồng”. Do ảnh hưởng của tiếng Sanskrit (nói cho rõ ra là do hiểu đúng nghĩa của danh từ nāga trong tiếng Sanskrit) nên ở các ngôi chùa của người Khmer người ta chỉ đắp tượng hình rắn chứ không có tượng hình rồng. Chỉ có những nhà biên dịch Kinh Phật từ tiếng Sanskrit sang tiếng Hán mới làm cho con rắn (nāga) của tiếng Sanskrit “hóa rồng” mà thôi. Vì vậy nên một quyển từ điển bách khoa của thế kỷ XXI phải làm rõ chuyện này chứ không thể theo vết xe cũ của Kinh Phật bằng tiếng Hán mà chú giải rằng khái niệm “long” (rồng) trong tiếng Hán là do khái niệm “nāga” (rắn) của tiếng Sanskrit mà ra.

10. Tác giả của mục “Mônacô” đã chú thích như sau: “Người Mônêgat (Monegas) (người Mônacô)”. (tr. 944, c.2)

Thực ra thì “người Monaco”, tiếng Pháp là Monégasque, còn tiếng Anh là Monegasque, còn tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha đều là Monegasco (-a nếu là giống cái). Chú thích bằng chữ “Monegas” thì không giống ai vì chẳng ai biết đó là thứ tiếng gì.

Vì cũng chỉ mới “cưỡi ngựa xem hoa” nên chúng tôi xin tạm nêu lên mười trường hợp trên đây để ông và bạn đọc tham khảo.

§ 819. Kiến thức ngày nay, số 422, ngày 1-5-2002

ĐỘC GIẢ: UNESCO có đúng là tên gọi tắt của “Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc” hay không?

AN CHI: Có lẽ không ai lại cho là không đúng vì UNESCO chính là acronym (tên tắt ghép bằng chữ cái đầu tiên của mỗi từ theo thứ tự của những từ này) của “United Nations Educational, Scientific and Cultural Organisation”. Nhưng khi ông đã hỏi như thế thì có lẽ là ông đã thấy một cách giải thích khác chăng? Vâng, chúng tôi cũng có thấy một cách giải thích khác, không biết có cùng một nguồn với ông hay không. Nguồn của chúng tôi là quyển Index to Modern English của Thomas Lee Crowell, Jr. (McGraw-Hill Book Company, 1964). Tại trang 7 của quyển sách này, mục “Abbreviation” (từ tr. 4 đến tr. 7), tác giả đã ghi như sau:

“UNESCO: United Nations Economic and Social Council”.

Nghĩa là:

“Hội đồng Kinh tế và xã hội của Liên Hiệp Quốc”.

Đây là một tổ chức có thật của Liên Hiệp Quốc; gồm 54 thành viên đo Đại hội đồng bầu ra cho từng nhiệm kỳ 3 năm. Rất có thể UNESCO ban đầu là tên của tổ chức này rồi về sau mới dùng để gọi Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc chăng?

Hay là chính Thomas Lee Crowell, Jr. đã sai ngay từ đầu vì có ai dám bảo rằng đã là nhà thông thái thì không bao giờ nhầm lẫn?

§ 820 Kiến thức ngày nay, số 423, ngày 10-5-2002

ĐỘC GIẢ: Trên tạp chí Xưa & Nay, số 81B (11-2000), câu “We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal (…)”, trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ đã được dịch như sau. “Chúng tôi coi đây là chân lý hiển nhiên, rằng mọi đàn ông sinh ra đều bình đẳng”. Nhưng trên Kiến thức ngày nay, số 376, ngày 20-1-2001 ông cho rằng “all men” ở đây mà dịch thành “mọi đàn ông” thì không đúng vì đó phải là “mọi người”. Tôi xin được nhắc ông rằng lời dịch trên đây xuất phát từ cách hiểu trong toàn bộ bài viết của tác giả, là một người Mỹ, bà Lady Borton, chứ không phải là của người dịch tự ý hiểu. Trong bài viết của mình, bà Lady Borton đã hiểu “men” là “đàn ông” chứ không phải là “người” nói chung. Vậy xin đề nghị ông xét lại ý kiến của ông trên Kiến thức ngày nay, số 376.

AN CHI: Vì nguyên văn tiếng Anh của bài báo đó không được công bố nên chúng tôi không thể tin lời của ông được (rằng tác giả cũng hiểu “men” ở đây lại là “đàn ông”). Nhưng cứ cho rằng chính Lady Borton cũng hiểu “all men” trong tiểu cú “all men are created equal” là “tất cả đàn ông” “mọi (người) đàn ông” thì ý kiến của chúng tôi cũng không thay đổi. Ở đây, men chỉ có thể có nghĩa là “người” mà thôi.

Cái tên chính xác ban đầu của bản Tuyên ngôn độc lập (The Declaration of Independence) của Hoa Kỳ là “The unanimous Declaration of the thirteen United States of America”; nghĩa là “Bản Tuyên ngôn nhất trí của mười ba hiệp quốc châu Mỹ”. Mười ba hiệp quốc này vốn là mười ba thuộc địa của nước Anh mà người trị vì lúc bấy giờ là vua Georges III. Thần dân của Georges III tại mười ba thuộc địa này dĩ nhiên gồm đủ cả nam phụ lão ấu, nghĩa là toàn thể dân chúng chứ có phải chỉ các đấng mày râu mà thôi đâu. Khi bản Tuyên ngôn lên án vua Georges III và vạch trần 18 cái tội cụ thể của ông ta là nó nhân danh toàn thể dân chúng của mười ba thuộc địa đó chứ đâu phải chỉ nói thay cho đàn ông.

Thực ra, nếu đọc kỹ bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, ta sẽ thấy rằng danh từ men trong tiểu cú đang xét còn có một mối quan hệ luận lý nội tại rất chặt chẽ với nhiều từ ngữ khác cùng một “chủ đề”; những từ ngữ này sẽ góp phần chứng minh rằng men ở đây hiển nhiên phải là “người” nói chung chứ không thể chỉ là “đàn ông” mà thôi. Đặc biệt là từ people trong câu sau đây:

“We (…) the Representatives of the United States of America (…), do, in the Name, and by Authority of the good People of these Colonies, solemnly publish and declare (…)”.

Nghĩa là:

“Chúng tôi (…), những Đại biểu của Hiệp chúng quốc châu Mỹ; nhân danh và thừa quyền của nhân dân cao quý của những Thuộc địa này, xin long trọng công bố và tuyên cáo (…)”.

Có lẽ nào nhân dân cao quý mà các đại biểu này nhắc đến lại chỉ gồm có đàn ông mà thôi? Còn họ công bố và tuyên cáo những gì thì xin mời ông vui lòng đọc lại phần cuối của bản tuyên ngôn bằng tiếng Anh. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh rằng họ công bố và tuyên cáo những điều đó xuất phát từ những chân lý sau đây mà họ cho là tự nó đã hiển nhiên (We hold these truths to be self-evident):

– That all men are created equal (rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng);

– That they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights (rằng họ được Tạo hóa ban cho một số Quyền không thể nhân nhượng được);

– at among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness (rằng trong những quyền này, có (quyền) Sống, (quyền) Tự do và (quyền) mưu cầu Hạnh phúc);

– at to secure these Rights, Governments are instituted among Men (rằng để bảo vệ những quyền đó, các Chính quyền được thiết lập giữa Người (với Người);

– at whenever any Form of Government become destructive to these ends, it is the Right of the People to alter or to abolish it (rằng hễ khi mà một Hình thức Chính quyền nào đó trở nên nguy hại cho những mục tiêu này thì Nhân dân có Quyền thay đổi hoặc thủ tiêu nó).

Trong cách diễn đạt về những chân lý tự nó hiển nhiên trên đây, men trong all men và Men trong among Men chỉ là một và từ men dùng hai lần này có quan hệ chặt chẽ về nội dung với từ People trong the Right of the People, và trong in the Name and by Authority of the good, People of these Colonies.

Trong những điều kiện như thế, ai ai cũng có thể dễ dàng thấy rằng ở đây men nhất định chỉ có thể có nghĩa là “người”, chứ không thể có nghĩa là “đàn ông”. Cách hiểu méo mó này chỉ biến nền bình đẳng mà bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ muốn nói đến thành một thứ thiết chế half-done kiểu bít-tết mà thôi. (half-done: nửa vời; dở dang; (nửa sống nửa chín)).

§ 821. Kiến thức ngày nay, số 423, ngày 10-5-2002

ĐỘC GIẢ: World Cup 2002 đang đến gần. Nhưng tôi không hỏi về Cúp thế giới mà chỉ hỏi về bóng đá Ý. Các bình luận viên thường nói đến “Giải Can-xi-ô xê-ri A”, “Xê-ri A” có lẽ là “hạng A”. Nhưng “Can-xi-ô” là gì? Đó là danh từ chung hay danh từ riêng?

AN CHI: Calcio là danh từ chung và có nghĩa là bóng đá. Người Ý không mượn từ football (bóng đá) của tiếng Anh để nói (và viết) thành football như người Pháp, futebol như người Bồ Đào Nha hoặc futbol như người Tây Ban Nha. Họ dùng chất liệu cây nhà lá vườn. Trong tiếng Ý, động từ calciare có nghĩa là “đá” (bằng chân) còn danh từ tương ứng calcio thì có nghĩa là “cú đá” (họ đọc là [kalto] chứ không phải “can-xi-ô” [kansjo]). Vì vậy nên họ gọi môn bóng đá là gioco del calcio (gioco = trò chơi; del = của, liên quan đến), thường nói ngắn gọn thành calcio.

Vậy calcio là (môn) bóng đá còn giải “Can-xi-ô xê-ri A” (Calcio serie A) thì chỉ là giải “Bóng đá hạng A” nói theo tiếng Ý mà thôi.

§ 822. Kiến thức ngày nay, số 423, ngày 10-5-2002

ĐỘC GIẢ: Từ điển bách khoa Việt Nam tập 2 (Hà Nội, 2002) nói rằng bản dịch tiếng Việt Gia Định thành thông chí từ nguyên tác tiếng Hán của Trịnh Hoài Đức đã được Nxb. Khoa học Xã hội ấn hành từ năm 1960 (Xem tr. 85, mục “Gia Định thành thông chí”). Xin cho biết có đúng như thế hay không và xin cho biết bản dịch này là của ai.

AN CHI: Không có một bản dịch nào của Gia Định thành thông chí được ấn hành ở miền Bắc trước năm 1975 cả. Cái mà Từ điển bách khoa Việt Nam xem là ấn phẩm Gia Định thành thông chí năm 1960 của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội thực chất chỉ là một bản dịch lưu hành dưới dạng đánh máy từ năm 1964 (theo năm ghi của người hiệu đính là Đào Duy Anh), lưu trữ tại Thư viện của Viện Sử học (Hà Nội). Phải đến năm 1998 thì bản dịch này mới được Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành nhân dịp kỷ niệm “300 năm Sài Gòn – Gia Định – Thành phố Hồ Chí Minh” và 20 năm thành lập Chi nhánh của Nhà xuất bản Giáo dục tại Thành phố Hồ Chí Minh.

“Lời giới thiệu” của Viện Sử học đã ghi rõ như sau: “Đây là bản dịch thực hiện từ những năm 60 (của thế kỷ XX – AC), trong hơn 30 năm qua nhiều độc giả là nhà nghiên cứu khoa học xã hội, lịch sử, địa lý, v.v.. đã sử dụng dưới dạng bản đánh máy tại Thư viện Viện Sử học. Nay (1998 – AC) Viện Sử học cho công bố chính thức bản dịch này đặng phục vụ đông đảo bạn đọc (…)”.

Còn “Lời nói đầu” của Nhà xuất bản Giáo dục thì ghi: “Để thiết thực kỷ niệm 300 năm thành lập Gia Định – Sài Gòn -Thành phố Hồ Chí Minh và 20 năm Chi nhánh Nhà xuất bản Giáo dục tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Giáo dục hợp tác với Viện Sử học xuất bản cuốn Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức do cụ Đỗ Mộng Khương, cụ Nguyễn Ngọc Tỉnh và cụ Đào Duy Anh biên dịch”.

Tuy “Lời nói đầu” thì nói như vậy nhưng ở trang in nhan đề chính của sách thì thấy ghi rõ ràng như sau: “Dịch giả: Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tỉnh – Hiệu đính và chú thích: Đào Duy Anh”.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3