Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 798 - 808

§ 798. Kiến thức ngày nay, số 414, ngày 10-2-2002

ĐỘC GIẢ: Câu “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” trong “bản tuyên ngôn độc lập của nhà Lý” vẫn được hiểu là “Non sông nước Nam vua Nam ở”. Liệu có cách hiểu nào khác hay không?

AN CHI: Cách hiểu mà ông nêu đã trở thành “kinh điển”, nghĩa là đã trở thành một… lối mòn. Nguyễn Đổng Chi (Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập 2, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958), Lê Thước – Nam Trân (Thơ văn Lý – Trần, tập I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 322), Trương Chính – Đặng Đức Siêu (Sổ tay văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1978, tr. 294), Đinh Gia Khánh – Nguyễn Ngọc San (Lĩnh Nam chích quái, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1990, tr. 85), Nguyễn Tá Nhí (Việt sử diễn âm, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1997, tr. 79), v.v. đều dịch theo cách hiểu ấy cả. Hiểu câu thơ đang xét thành câu trần thuật xem ra không ổn.

Gần đây, chúng tôi có nghe được một cách hiểu mới lạ hơn. Ông Hoàng Xuân Tâm (Trường Cao đẳng Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh) cho biết họa sĩ Phan Cẩm Thượng, cũng là người thạo văn bia xưa, không hiểu vế sau của câu đang xét (Nam đế cư) thành một cấu trúc “Chủ-Vị” (vua Nam ở) mà lại cho rằng đó là một ngữ danh từ (“đế cư” ở phương Nam) dùng làm phần Thuyết cho phần Đề “Nam quốc sơn hà”. Và đây là một câu phán đoán chứ không phải câu trần thuật. Theo ông Phan Cẩm Thượng thì đế cư là chữ trong Kinh Dịch và

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Có nghĩa là:

Núi sông nước Nam là ngôi đế cư ở phương Nam (đối với ngôi đế cư ở phương Bắc của Trung Hoa).

Sách trời (thiên thư) đã định sẵn hai ngôi “đế cư” riêng biệt như thế: một ở phương Bắc, một ở phương Nam và một cách hiểu như vậy cũng rất đẹp về mặt phong thủy.

Chúng tôi có nhờ một thân hữu là Lê Anh Minh tra hộ trong Chu Dịch đại từ điển do một tập thể học giả danh tiếng và có uy tín biên soạn và do Ngũ Hoa chủ biên (Trung Sơn Đại học, Quảng Châu, 1993) thì được biết chữ đế xuất hiện 10 lần trong Kinh Dịch trong đó có 5 lần trong các từ tổ cố định: Đế Ất (2 lần), đế vị (1 lần) và hoàng đế (2 lần) nhưng không có từ tổ “đế cư” (Nhân tiện, xin trân trọng cảm ơn ông Lê Anh Minh). Tuy nhiên, đế cư vẫn là một đơn vị có được ghi nhận trong từ điển, chẳng hạn Từ Nguyên, Từ hải, v.v. với nghĩa là kinh đô, đế đô. Đây chẳng những không phải là cái nghĩa họa sĩ Phan Cẩm Thượng muốn nói đến mà cũng chẳng phải là cái nghĩa thích hợp với câu thơ đang xét (“Núi sông nước Nam là kinh đô ở phương Nam” là một câu nói ngớ ngẩn).

Trước đây, cũng như mọi người, chúng tôi vẫn theo “lối mòn” mà hiểu Nam quốc sơn hà Nam đế cư là “Núi sông nước Nam vua Nam ở”. Nhờ được gợi ý từ cách hiểu của họa sĩ Phan Cẩm Thượng, chúng tôi mới sực tỉnh mà ngộ ra rằng có lẽ phải hiểu chữ cư là một danh từ thì mới thực sự sát về cả ngữ pháp lẫn ngữ nghĩa. Nhưng chúng tôi không ngắt vế sau của câu thơ thành “Nam – đế cư” (Kinh đô ở phương Nam) mà lại ngắt thành Nam đế – cư, nghĩa là “chỗ ở của vua nước Nam”. Dĩ nhiên là chữ cư ở đây hoàn toàn có thể được dùng theo hoán dụ để chỉ đất đai, lãnh thổ. Vậy, Nam quốc sơn hà Nam đế cư có nghĩa là:

“Núi sông nước Nam là lãnh thổ (= miền đất đai thuộc chủ quyền) của vua (nước) Nam”.

Một vài nguồn thư tịch (Thiên Nam ngữ lục, Việt sử diễn âm) cho rằng bài thơ “Nam quốc sơn hà” thuộc về nhà Tiền Lê (981 – 1009) chứ không phải nhà Lý (1010 – 1225) như mọi người được biết. Nhưng dù nó thuộc về nhà nào thì cái nguyên nhân đưa đến sự ra đời của nó cũng là sự tự khẳng định của Nam quốc trước Thiên triều (nhà Tống) và trong một bối cảnh lịch sử “căng thẳng” như thế thì vấn đề chủ quyền lãnh thổ mới là chuyện thực sự nghiêm túc chứ có lẽ không phải chuyện phong thủy. Ít ra, đây cũng là thiển kiến của chúng tôi.

Người ta có thể trách rằng cách ngắt của chúng tôi thành “2-1” (Nam đế – cư) làm cho nhịp của vế này không “đồng bộ” với nhịp của những vế tương ứng trong các câu còn lại (tại -thiên thư, lai – xâm phạm, thủ – bại hư) vì nhịp “1-2” này mới đúng với luật thơ. Thực ra, nhiều bài Đường luật đặc sắc vẫn “vượt luật” như thế. Sau đây là mấy dẫn chứng:

– “Dương liễu – sắc” trong câu thứ ba bài “Khuê oán” của Vương Xương Linh (Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc);

– “Cổ lai – hy” trong câu thứ tư bài “Khúc giang” của Đỗ Phủ (Nhân sinh thất thập cổ lai hy). Các câu 2, 3, 5, 6 của bài này cũng thế;

– “Hàn San – tự” trong câu thứ ba bài “Phong Kiều dạ bạc” của Trương Kế (Cô Tô thành ngoại Hàn San tự); v.v..

Tóm lại, nhờ sự gợi ý của họa sĩ Phan Cẩm Thượng, chúng tôi thấy rằng chữ cư trong câu thơ đang xét phải được hiểu như một danh từ thì mới sâu, mới sát cả về ngữ nghĩa lẫn ngữ pháp.

§ 799. Kiến thức ngày nay, số 414, ngày 10-2-2002

ĐỘC GIẢ: Ông có giải đáp rằng “huyên thuyên” là do huyên thiên (= rùm trời) mà ra và “huyên thuyên” dù sao cũng chuẩn hơn “luyên thuyên”. Nhưng “luyên thuyên” xuất phát từ đâu: có lẽ nào h- lại có thể biến thành l-?

AN CHI: Chúng tôi cho rằng luyên thuyên chính là liên thiên trong thành ngữ luỹ độc liên thiên được “chêm” giới âm [w] vào do loại suy theo cái mẫu của huyên thuyên. Luỹ độc liên thiên là dài dòng văn tự, tràng giang đại hải. Liên thiên vốn có nghĩa là thiên (bài) này tiếp theo thiên (bài) kia không dứt.

Xin nói thêm rằng chữ độc, được dùng để chỉ một thể văn ghi chép khi đọc sách, cũng còn đọc thành đậu để chỉ chỗ ngắt câu. Vậy nếu đọc thành luỹ đậu liên thiên thì vẫn thông nghĩa.

§ 800. Kiến thức ngày nay, số 415, ngày 20-2-2002

ĐỘC GIẢ: Câu 1976 của Truyện Kiều là “Con tằm đến thác cũng còn vương tơ”. Bản hiệu đính và chú giải của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim chú là do “Cổ thi của Lý Thương Ẩn đời Đường Xuân tàm đáo tử ti phương tận: Con tằm đến chết mới hết tơ”. Bản khảo đính và chú thích của Nguyễn Thạch Giang thì giảng: “Tấm lòng thương nhớ Thuý Kiều của Thúc Sinh không bao giờ dứt. Thơ cổ: Đáo tử xuân tàm dư ti vị tận = con tằm xuân dẫu đến lúc chết mối tơ thừa vẫn chưa hết”. Còn Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu thì cho rằng câu cổ thi mà Nguyễn Thạch Giang đã dẫn lại xuất phát từ câu Đường thi của Lý Thương Ẩn*. Vậy xin tạm xem như Nguyễn Du đã lấy ý từ thơ Lý Thương Ẩn. Tôi chỉ thắc mắc như sau: Liệu có đúng là cụ Nguyễn Du đã “xài” ý thơ của Lý Thương Ẩn hay không? Và nếu có một nhà thơ nào lại dùng ý thơ của Lý Thương Ẩn để chỉ sự sống chết với nghiệp văn, nghiệp thơ thì liệu một sự vận dụng như thế có được coi là hợp lý hay không? Hay là câu thơ của Lý Thương Ẩn chỉ có thể dứt khoát nói về “tơ tình” mà thôi?

AN CHI: Ông đã đặt ra một vấn đề rất tế nhị và chúng tôi rất thích thú khi nhận được câu hỏi của ông.

Nếu có người vận dụng câu thơ của Lý Thương Ẩn để chỉ sự sống chết với nghiệp văn thì chúng tôi vẫn mạo muội cho rằng đó là một việc làm thực sự hợp lý, vì sự “rút ruột” nhả tơ của con tằm rất xứng đáng làm ẩn dụ để nói về sự lao tâm khổ tứ để sáng tác của nhà văn, nhà thơ. Có điều là Lý Thương Ẩn đã không làm bài thơ Vô đề (mà câu đang xét là câu thứ ba, tức câu thực thứ nhất) để nói về chuyện sống chết với nghề văn mà lại để nói về chuyện khác: chuyện yêu đương và tương tư. Bài thơ này không xa lạ đối với nhiều người Việt Nam yêu thích thơ Đường. Câu đầu tiên của nó đã được nhiều người thuộc:

Tương kiến thời nan biệt diệc nan.

(Gặp nhau khó xa nhau cũng khó.)

Hai câu thực là:

Xuân tàm đáo tử ti phương tận,

Lạp cự thành hôi lệ thủy can.

(Tằm xuân đến chết tơ còn vướng,

Nến sáp nguội tàn lệ mới khô.)

Chúng tôi cho rằng Nguyễn Du đã mượn ý của câu thực thứ nhất trong bài Vô đề của Lý Thương Ẩn để viết câu 1976 của Truyện Kiều. Chỉ vì nhà chú giải đã không nêu rõ đặc điểm tu từ trong câu thơ của họ Lý nên mới làm cho người đọc Kiều khó hiểu thấu được lý do và cơ sở của sự vận dụng đó mà thôi. Hai câu thực này bao hàm một hình thức tu từ gọi là song quan ngữ. Đây là một kiểu chơi chữ bằng hiện tượng đồng âm, tương ứng với khái niệm mà tiếng Pháp gọi là calembour. Thí dụ: personnalité (nhân vật quan trọng) đồng âm với personne alitée (người bệnh nằm liệt giường); vers blanc (câu thơ không vần) đồng âm với verblanc (một loại sùng, ấu trùng của bọ dừa, vì rất có hại nên nhà nông Pháp rất ghét); v.v.. Chẳng những là một biện pháp tu từ của văn học thành văn, song quan ngữ cũng còn được văn học dân gian ở Trung Hoa vận dụng nữa. Nó khá phổ biến trong ca dao ở Quảng Đông mà sau đây là một thí dụ:

Vũ lý tri thù hoàn kết võng,

Tưởng tình duy hữu ám trung ti.

Xin tạm dịch thoát ý:

Trong mưa con nhện còn giăng mạng,

Mong tạnh để cho người thấy tơ.

Ở đây chữ tình là tạnh (hết mưa) đồng âm với chữ tình trong ái tình, chữ ti là tơ đồng âm với chữ tư là nhớ (trong tiếng Quảng Đông, ti và tư đều phát âm thành [si]) nên “Tưởng tình duy hữu ám trung ti” còn có nghĩa là chỉ có một mình âm thầm thương nhớ người tình mà thôi.

Trở lại với câu thơ của Lý Thương Ẩn, xin nói rằng ở thời của Lý, chữ ti 絲 là tơ tằm đồng âm với chữ tư 思 là nhớ. Âm cổ Hán Việt của cả hai chữ ti và tư đều là “tơ” như trong tơ tằm, tơ lụa (đối với chữ ti) và tơ màng, tơ tưởng (đối với chữ tư) và trong Quảng vận thì cả hai chữ chẳng những cùng thuộc vận bộ chi 之 mà còn cùng thuộc tiểu vận ti do chữ tư đứng đầu nữa. Cho đến nay, trong tiếng Bắc Kinh và tiếng Quảng Đông, hai chữ ti và tư vẫn hãy còn đồng âm với nhau và đều đọc là [si] với thanh điệu gần giống thanh 1 của tiếng Việt. Do tác dụng của song quan ngữ nên câu “Xuân tàm đáo tử ti phương tận” có nghĩa là “con tằm mùa xuân đến chết mới hết tơ” mà cũng có nghĩa là “thân tằm mùa xuân đến chết mới hết… nhớ nhung”. Chính là nhờ tác dụng của song quan ngữ nên mới ra cái ý tương tư, nhớ nhung.

Liên quan đến song quan ngữ và đến chuyện tương tư trong Truyện Kiều, còn có thể nhắc đến câu 2242: Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng, mà Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim chú giải là “Ngẫu đoạn nhi ti liên. Cái ngó sen tuy bẻ gãy, nhưng cái tơ nó vẫn còn liền với nhau”. Rất tiếc là các nhà chú giải đã không khai thác cái khía cạnh song quan ngữ ở đây nên chưa chỉ rõ ra được tại làm sao và nhờ đâu mà ngẫu lại thành “ngó ý” còn ti lại thành “tơ lòng” trong câu thơ của Nguyễn Du. Vấn đề là chữ ngẫu là ngó (sen) lại đồng âm với chữ ngẫu là đôi lứa (như trong giai ngẫu, phối ngẫu, v.v.) còn chữ ti là tơ thì lại đồng âm với chữ tư (mà âm Hán Việt chính thống hiện đại vẫn là ti) là nhớ, như đã thấy ở trên. Vậy ngẫu đoạn nhi ti liên không chỉ có nghĩa là “ngó đứt nhưng tơ liền” mà còn có nghĩa là “lìa đôi nhưng nhớ nhung vẫn nguyên vẹn”.

Ở đây chúng tôi đành phải mạo muội “nhiễu sự văn chương” một chút mà nói rằng lẽ ra cụ Nguyễn Du đã có thể viết “dẫu lìa ngó tình” nhưng chỉ vì chữ tình vần bằng nên cụ mới phải dùng chữ ý vần trắc mà thôi.

Tóm lại, sở dĩ chữ tơ trong hai câu 1976 và 2242 của Truyện Kiều nói lên được cái ý tương tư, nhớ nhung là nhờ hiện tượng song quan ngữ trong những câu tiếng Hán mà Nguyễn Du đã vận dụng. Tiếc rằng hiện tượng này chưa được nhiều nhà chú giải đi trước chỉ ra để giúp cho người đọc có thể cảm thụ những câu thơ đang xét một cách thấu đáo hơn.

§ 801. Kiến thức ngày nay, số 415, ngày 20-2-2002

ĐỘC GIẢ: Có một tác giả viết về Chu Lai như sau:

“Chữ Chu Lai, nhiều người không biết xuất xứ từ đâu. Theo sử liệu, địa danh này được vẽ và viết trong bản đồ thời Gia Long phục quốc, 1802 (lược bớt một đoạn dài). Chu Lai thời Việt Nam Cộng Hòa, quân đội Mỹ đặt căn cứ thủy quân lục chiến quy mô, có tầm vóc chiến lược. Mỹ lập căn cứ này vào năm 1965. Danh từ Chu Lai phổ biến từ đó”.

Tôi cho là tác giả nói không đúng. Địa danh Chu Lai chỉ xuất hiện trên báo chí từ 1965. Còn trước đó chỉ có các địa danh An Hoà, Bầu Tròn, Định Phước. Vậy tên “Chu Lai” do đâu mà ra?

AN CHI: Trong bài “Châu Lai (Chu Lai), một địa danh cổ Hán – Việt”, tác giả Nguyễn Q. Thắng có thuật lại lời của sử gia Phan Khoang như sau:

“Châu Lai (Chu Lai) là “bến thuyền đến” (…) Từ thế kỷ 15, tiền nhân ta trên đường Nam tiến, nhất là trong các cuộc chinh phạt lớn có hải quân tham dự thì các hải thuyền phát xuất từ miền Bắc xuôi Nam đều phải ghé Châu Lai để nghỉ sức một thời gian. Các hải thuyền này không thể ghé Đà Nẵng, Hội An vì hai cửa biển này thụt sâu vào đất liền, do đó tàu phải chạy dọc theo biển để vào Nam. Đến Châu Lai, đường cũng đã xa kinh kì – Đàng Ngoài. Vả lại, Châu Lai lại gần Châu Ổ (nơi tàu núp, chỗ tàu tránh giặc cướp) dễ liên lạc thông tin hơn. Kể từ đời Lê Thánh Tông đến chúa Nguyễn (thế kỷ 15-18), Châu Lai là một bến chiến thuyền của hải quân Đại Việt”*.

§ 802. Kiến thức ngày nay, số 416, ngày 1-3-2002

ĐỘC GIẢ: Gần đây VTV1 có trình chiếu bộ phim truyền hình nhiều tập của Ý nhan đề “Julia và Claudio”. Nhưng đây có lẽ là cách dịch riêng của VTV1, chứ tên chính thức của bộ phim bằng tiếng Ý thì lại thấy ghi là “Lui & lei”. Vậy “Lui & lei” nghĩa là gì? Trong bộ phim này, cuối mỗi tập có giới thiệu một số hình ảnh với dòng chữ “La prossima avventura”. Vậy “La prossima avventura” nghĩa là gì?

AN CHI: Lui và lei là hai đại từ nhân xưng ngôi thứ ba, số ít; lui thuộc giống đực còn lei thì giống cái. Vậy Lui & lei có nghĩa là “Chàng và nàng”.

La là quán từ; prossima, giống cái của tính từ prossimo, có nghĩa là sắp tới, (thuộc) lần sau; avventura có nghĩa là cuộc phiêu lưu. Vậy La prossima avventura là “cuộc phiêu lưu sắp tới”. Dòng chữ này giải thích cho khán giả biết rằng những hình ảnh kia giới thiệu một cách tóm tắt câu chuyện sẽ diễn ra trong tập sau.

§ 803. Kiến thức ngày nay, số 416, ngày 1-3-2002

ĐỘC GIẢ: Một người bạn nói với tôi rằng trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi tự nhận là mình có dạy “bổ túc văn hoá” ở địa phương. Xin cho biết Ức Trai đã nói lên điều đó bằng những câu thơ nào.

AN CHI: Đó là lúc Nguyễn Trãi đã 51 – 52 tuổi (có ý kiến cho là 68 – 69), đã

“Lưng gầy da sỉ (hoặc “nẻ”) tướng lù khù”,

nhưng vì chân thành nghĩ rằng mình

“Tơ hào chẳng có đền ơn chúa”

nên đã lấy việc

“Dạy láng giềng mấy sĩ nho”

để báo đáp ít nhiều cho thánh trạch dồi dào của thiên tử. (Ngôn chí, bài thứ 14)

§ 804. Kiến thức ngày nay, số 416, ngày 1-3-2002

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 410, ông đã trả lời cho câu hỏi của tôi về bài viết của tác giả Nguyễn Văn Chiển nhan đề “Không thể nói đồ đồng Đông Sơn là đồng thau”, đăng trên Tia sáng (bộ mới) số 12. Ông đã tán thành tác giả Nguyễn Văn Chiển và cho rằng lối nói “thời đại đồng thau”, “văn hóa đồng thau” có lẽ bắt nguồn từ công trình Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy Việt Nam của hai tác giả Hà Văn Tấn – Trần Quốc Vượng.

Mới đây, tạp chí Khảo cổ học, số 4-2001 cũng có đăng bài “Về khái niệm thời đại đồng thau” của tác giả Nguyễn Văn Chiển (mà phần chủ yếu cũng giống như bài ở Tia sáng) và đăng cả “Lời bình của GS. Khảo cổ học Trần Quốc Vượng”. Xin hỏi ông đã đọc “Lời bình” của GS. Trần Quốc Vượng hay là chưa.

AN CHI: Lời bình dài 316 chữ của GS. Trần Quốc Vượng trên Khảo cổ học, số 4-2001 không có sức thuyết phục. Lời bình này có đoạn:

“Các nhà khảo cổ học và sử học Việt Nam bắt đầu từ GS. Đào Duy Anh – nhà sử học lớn, đồng thời là nhà từ điển học lớn – đều nhất trí gọi cái thời đại sau thời đại đá là THỜI ĐẠI ĐỒNG THAU. Giáo sư Sử học Văn Tân – đồng thời là một nhà từ điển gia – cũng dùng khái niệm ấy”.

Rất tiếc là Trần Quốc Vượng lại không dẫn chứng xem Đào Duy Anh đã dùng khái niệm “thời đại đồng thau” ở những chỗ nào. Còn sự thực thì trong hai công trình sử học quan trọng nhất của mình là Cổ sử Việt Nam (Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 1955) và Lịch sử Việt Nam, quyển thượng (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1958), sử gia lão thành Đào Duy Anh chỉ dùng “thời đại đồ đồng”, “văn hóa đồ đồng”, “kỹ thuật đồ đồng” và “nghệ thuật đồ đồng” mà thôi*. Ngay cả trong hồi ký cuối đời Nhớ nghĩ chiều hôm (Nxb. Trẻ, 1989), Đào Duy Anh cũng chỉ dùng “văn hóa đồ đồng”, “kỹ thuật đồ đồng” (Xem tr. 107, 112, 113) chứ không thấy dùng “văn hóa đồng thau” hoặc “thời đại đồng thau”. Khi cần nói cho cụ thể hơn thì Đào Duy Anh viết “đồng xanh” hoặc “đồng đen” như chúng tôi đã dẫn chứng trên Kiến thức ngày nay, số 410, chứ cũng không hề dùng hai tiếng “đồng thau” cho những trường hợp đang bàn.

Còn Văn Tân thì, với tư cách là người chủ biên Từ điển tiếng Việt (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967), đã chấp nhận hai cách gọi riêng biệt và rạch ròi sau đây:

“Đồng đen. Hợp kim đồng và thiếc, thường dùng để đúc tượng, chuông…” và

“Đồng thau. Hợp kim đồng và kẽm, màu vàng”.

Quyển từ điển này, in lần thứ hai, do Văn Tân và Nguyễn Văn Đạm chỉnh lý và bổ sung (1977, cũng Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội) vẫn giữ y nguyên hai mục từ trên đây. Rõ ràng là về mặt ngôn ngữ thì Văn Tân đã phân biệt dứt khoát và chính xác đồng đen với đồng thau.

Còn về cổ sử thì sao? Trong quyển Thời đại Hùng Vương do Văn Tân đứng tên chính (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973), tại “Phần thứ hai”, “Phần thứ năm” và “Kết luận” do chính mình viết, Văn Tân đã hai lần dùng khái niệm “nền văn hóa đồ đồng” (tr. 92, 257) và khẳng định rành mạch rằng chất liệu đang xét là “hợp kim đồng-thiếc” và “hợp kim đồng-chì” (tr. 92) chứ không có “hợp kim đồng-kẽm”.

Nhưng cũng có một lần ông viết “thời đại đồ đồng thau” (tr. 96) và một lần ông viết “nền văn hóa đồng thau” (tr. 293). Chúng tôi ngờ rằng chữ “thau” trong hai trường hợp này là do người biên tập thêm vào chứ không phải chữ của Văn Tân. Nếu là chữ của Văn Tân, thì cách dùng từ không nhất quán trên đây cũng cho phép suy luận rằng hình như chính Văn Tân cũng thấy “đồng thau” ở đây là một cách diễn đạt không ổn.

Vậy rõ ràng là lời khẳng định trên kia của Trần Quốc Vượng không đúng. Nhưng để củng cố thêm quan điểm của mình, ông còn viết tiếp như sau:

“Giới khảo cổ và nhân học văn hóa – xã hội chúng tôi đã đi điều tra điền dã nhiều làng nghề đúc đồng cổ truyền từ Bắc qua Trung tới miền Nam Việt Nam. Không ở đâu người Việt Nam dùng từ “đồng xanh” mà chỉ dùng từ đồng đỏ để chỉ đồng tương đối nguyên chất (Cu, Cuivre, Copper,…) và đồng thau để chỉ hợp kim đồng, chì, thiếc, kẽm với những tỷ lệ khác nhau, kiểu thành phần hợp kim của các hiện vật Đông Sơn”.

Sự thật có đúng như ông Trần Quốc Vượng đã viết hay không?

Thực ra, đồng xanh là một ngữ danh từ cố định rất xưa. Bằng chứng là nó đã có mặt trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, một thứ từ điển Hán – Việt ra đời trong khoảng thế kỷ XVI – XVII. Tại “Kim ngọc bộ đệ thập cửu”, ta đọc được hai câu sau đây:

“Xích kim đồng đỏ lạ dường,

Thanh kim là thiếc thức càng xanh le”.

Rồi tại phần “Bổ di”, ta lại đọc được thêm:

“Trang kim, vàng trắng;

Thanh kim, đồng xanh”*.

Ráp nối câu “Thanh kim (=) đồng xanh” với câu “Thanh kim là thiếc thức càng xanh le”, ta thấy được rằng ông cha ta đã dùng hai tiếng Hán Việt thanh kim hoặc để chỉ thiếc, hoặc để chỉ đồng xanh, là một hợp kim giữa đồng và thiếc. Việc tác giả dùng hai tiếng đồng xanh để đối dịch hai tiếng thanh kim chứng tỏ rằng đó phải là hai tiếng thông dụng ít nhất cũng là tự thời bấy giờ.

Trần Quốc Vượng cũng thiếu chính xác khi ông viết rằng người Việt Nam dùng hai tiếng đồng thau “để chỉ hợp kim đồng, chì, thiếc, kẽm, v.v. với những tỷ lệ khác nhau, kiểu thành phần hợp kim của các hiện vật Đông Sơn”. Thực ra thì, trong hợp kim của giai đoạn tiền Đông Sơn,

“Hàm lượng của đồng đại bộ phận nằm giữa khoảng 80 – 90%. Hàm lượng của thiếc từ 10 – 20% (…) Hàm lượng của chì, sắt, bạc, kẽm (chúng tôi nhấn mạnh – AC), a-xen và các kim loại khác rất bé (…) chúng chỉ là những tạp chất lẫn lộn vào (…) Đến giai đoạn Đông Sơn, trong thành phần hợp kim, tỷ lệ đồng và thiếc giảm xuống (…) tỷ lệ chì tăng cao (…) thường là trên 10%”*.

Nghĩa là đến giai đoạn Đông Sơn, kẽm cũng chưa có vai trò gì trong hợp kim dùng để chế tác dụng cụ bằng đồng. Vì vậy nên hợp kim này dứt khoát không thể là “đồng thau”. Lý do rất đơn giản: Từ xưa, người Việt Nam chỉ dùng từ thau để chỉ hợp kim đồng-kẽm, như ai nấy đều biết (chẳng hạn trong mâm thau, chậu thau, v.v.), nghĩa là để chỉ cái chất liệu mà tiếng Anh gọi là brass, tiếng Pháp gọi là laiton hoặc cuivre jaune (đồng vàng) còn tiếng Hán thì gọi là hoàng đồng (cũng = đồng vàng). Không ai dùng từ thau để chỉ hợp kim đồng-thiếc cả. Còn đồng thau là một danh ngữ đồng nghĩa với thau nên chẳng làm gì có chuyện người Việt Nam ở các “làng nghề đúc đồng cổ truyền” dùng hai tiếng đồng thau để “chỉ hợp kim đồng, chì, thiếc, kẽm với những tỷ lệ khác nhau” như Trần Quốc Vượng đã khẳng định.

Tóm lại, cái khái niệm mà giới khảo cổ học Việt Nam gọi là “thời đại (hoặc văn hoá) đồng thau “thực chất chính và chỉ là “thời đại (hoặc văn hoá) đồng đen (hoặc đồng xanh)” không hơn không kém.

§ 805. Kiến thức ngày nay, số 417, ngày 10-3-2002

ĐỘC GIẢ: Chằn trong chằn tinh và bà chằn có phải là một hay không và có nghĩa là gì?

AN CHI: Cứ theo nguồn thư tịch xưa nhất có ghi nhận nó là Tự vị Annam Latinh (Dictionarium Anamitico Latinum) của Pigneaux de Béhaine, soạn trong hai năm 1772 – 1773, thì chằn trong bà chằn và chằn tinh chỉ là một. Trong quyển tự vị này, cả ba mục “Chằn”, “Chằn tinh” và “Bà chằn” đều được giảng là “quái vật lấy hình đàn bà”*. Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Hà Nội, 1967) và Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (Hà Nội, 1988) chỉ ghi nhận có “chằn tinh” mà không có “chằn” và “bà chằn” có lẽ vì quan niệm rằng hai đơn vị này thuộc về hiện tượng phương ngữ. Đúng là chằn riêng biệt và bà chằn không thấy lưu hành trong lời ăn tiếng nói ở ngoài Bắc mà chỉ có ở trong Nam.

Về nghĩa gốc của từ chằn, trong bài “Thử gợi một cái hướng để đi tìm nghĩa gốc của thập nhi chi” (với bút hiệu Huệ Thiên) đăng trên Kiến thức ngày nay, số Xuân Tân Tỵ (2001), chúng tôi đã viết như sau:

“Nghĩa gốc của chằn hẳn phải là hổ và có lẽ chính vì vậy mà nó mới có mặt trong hai thành ngữ hiện còn lưu hành trong phương ngữ Nam Bộ chằn tinh gấu ngựa và chằn ăn trăn quấn. Đặc biệt là trong thành ngữ thứ hai này, chằn đối trăn chính là một điều gợi ý bổ ích: đó phải là hai giống dã thú mà trăn thuộc loài bò sát còn chằn thì hẳn phải là chúa sơn lâm”. (Bđd, tr. 26)

Sở dĩ chúng tôi suy đoán như trên là vì, theo chúng tôi, hình thức gốc không phải là chằn, mà là bà chằn và bà chằn, theo chúng tôi, là hai tiếng mà khi đến vùng cực Nam của Đàng Trong, những lưu dân người Việt đã dùng để phiên âm tiếng Mã Lai machan (Indonesia: matjan), có nghĩa là cọp, hổ. Hiện tượng m > b, tuy lác đác, nhưng hoàn toàn có sức thuyết phục:

– Mã Lai → Bà Lai (cổ áo Bà Lai);

– Miền Dưới → Bình Dưới (dân Bình Dưới).

Vậy bà chằn, cũng như bù lạch (= toét mắt < Mã Lai bular), càroòng (< Mã Lai karong), chà gạc (< Mã Lai chagak), v.v. là những từ mà những người lưu dân Nam Bộ đầu tiên đã phiên âm từ tiếng Mã Lai để dùng “tại chỗ” (nên không lưu hành trong phương ngữ Bắc Bộ). Về sau, một phần do từ bà chằn đã mất nghĩa, một phần do từ nguyên dân gian (folk etymology, étymologie populaire) nên người ta đã đồng hóa âm tiết thứ nhất (vô nghĩa) của nó với từ bà trong các danh ngữ như: bà bóng, bà chúa, bà già, v.v. mà hiểu thành “quái vật lấy hình đàn bà” như trong tự vị của Pigneaux de Béhaine và một vài quyển từ điển khác. Một mặt khác, khi danh từ bà chằn chưa mất nghĩa, do nhu cầu nói tắt, người ta cũng có thể bỏ âm tiết thứ nhất mà nói “chằn” một cách ngắn gọn và với hình thức ngắn gọn này ta mới có các cấu trúc như: chằn tinh, chằn tinh gấu ngựa, chằn ăn trăn quấn.

Vậy, chằn có nghĩa gốc là hổ, cọp. Cuối cùng, xin lưu ý rằng bà chằn không trực tiếp có liên quan gì về nguồn gốc với bà giằn trong trăm thứ bà giằn mà chúng tôi đã có bàn đến trong bài “Hằm pà lằng và trăm thứ bà giằn” (với bút hiệu Huệ Thiên) trên Kiến thức ngày nay, số 87, ngày 1-7-1992.

§ 806. Kiến thức ngày nay, số 417, ngày 10-3-2002

ĐỘC GIẢ: Nên gọi tên các thứ hợp kim với đồng thế nào cho hợp lý và có hệ thống?

AN CHI: Chúng tôi xin tạm đề xuất như sau:

– Đồng đen. Xem đồng xanh.

– Đồng điếu. Xem đồng đỏ.

– Đồng đỏ. Đồng “tương đối nguyên chất”. Cũng gọi đồng điếu.

– Đồng thanh. Xem đồng xanh.

– Đồng thau. Xem đồng vàng.

– Đồng thòa. Hợp kim của nhiều đồng với ít vàng.

– Đồng vàng. Hợp kim của đồng với kẽm. Cũng gọi thau hoặc đồng thau.

– Đồng xanh. Hợp kim của đồng với thiếc hoặc nguyên tố khác, trừ kẽm. Cũng gọi là đồng đen, đồng thanh.

§ 807. Kiến thức ngày nay, số 417, ngày 10-3-2002

ĐỘC GIẢ: Tại mục “Bàn tròn Thế giới mới”, độc giả Phan Kỳ, giáo viên hưu trí ở Hà Tĩnh có nhận xét như sau:

“Là một người rất quan tâm đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tôi thực sự lo lắng khi đọc những bài giải thích chữ nghĩa của tác giả An Chi trong mục Chuyện Đông chuyện Tây trên tạp chí Kiến thức ngày nay. (…) Chúng tôi rất bức xúc (…) khi có người biến tiếng Việt của chúng ta, từ những từ thuần Việt, thậm chí những từ Việt cổ thành chữ Hán, rồi giải thích theo kiểu chữ Hán:

– Thiệt thòi là một từ thuần Việt, mà nghĩa của nó, ai cũng biết, không cần phải giải thích. Ấy thế mà trên Kiến thức ngày nay, số 297, ông An Chi cắt nghĩa thế này: thiệt là chữ Hán, có nghĩa là gãy hao tổn, còn chữ thòi là biến âm của một chữ Hán, mà âm Hán Việt là tồi, cũng có nghĩa là gãy như chữ thiệt. Nhưng chữ thiệt thòi của ta đâu có nghĩa “gãy tồi”.

– Trên Kiến thức ngày nay, số 268, khi giải thích chữ ông chủ, An Chi viết: Ông chủ là ái nữ của các bậc đế vương”. Rồi ông trích dẫn “Từ Nguyên”, trích dẫn “Hán thư” để chứng minh. Nếu người Hán có dùng chữ “ông chủ” với nghĩa như thế thật thì giải thích cho người Việt chúng ta để làm gì, vì người Việt chúng ta không thể dùng từ “ông chủ” với nghĩa là “ái nữ” bao giờ”*.

Vậy xin hỏi ông An Chi có ý kiến gì hay không?

AN CHI: Ông Phan Kỳ đã quá lời khi nói rằng mình “thực sự lo lắng khi đọc những bài giải thích chữ nghĩa của An Chi trong mục Chuyện Đông chuyện Tây”. Ông cũng đã quá lời khi viết rằng An Chi đã “biến tiếng Việt của chúng ta, những từ thuần Việt, thậm chí những từ Việt cổ thành chữ Hán”. Thực ra, toàn bộ các từ Việt gốc Hán – cứ cho là vài trăm – mà An Chi đã đưa ra tại Chuyện Đông chuyện Tây từ đầu cho đến nay làm sao đủ tư cách để đại diện cho tiếng Việt mà ông Phan lại bảo rằng An Chi đã “biến tiếng Việt thành chữ Hán”?

Còn cái sự lo lắng kia của ông Phan Kỳ có thực sự có cơ sở hay không cũng là chuyện phải bàn nhưng vì ông Phan chỉ tỏ ra quan tâm và lo lắng chung chung chứ không thấy đưa ra lý thuyết gì nên chúng tôi chỉ xin mạn phép bàn về hai trường hợp cụ thể mà ông đã bình phẩm: thiệt thòi và ông chủ.

Về hai tiếng thiệt thòi, ông Phan Kỳ chỉ khẳng định một cách hoàn toàn đơn giản và dễ dãi rằng đây “là một từ thuần Việt, mà nghĩa của nó ai cũng biết, không cần phải giải thích”. Nhưng nhờ đâu mà ông lại biết được rằng đó là một “từ thuần Việt” thì tuyệt nhiên không thấy ông nói đến. Nếu bảo rằng nó là từ thuần Việt vì nghĩa của nó ai cũng biết thì các từ như: tổ 祖, ông 翁, bà 婆, cô 姑, v.v. đều là những từ thuần Việt cả vì có ai lại không biết nghĩa của chúng. Cách lập luận theo kiểu của ông Phan tất sẽ dẫn đến cái “định đề” ngộ nghĩnh sau đây:

Phàm những từ mà ta không biết được nguồn gốc thì đều là “từ thuần Việt”.

Ông Phan Kỳ còn bắt bẻ rằng “chữ thiệt thòi của ta đâu có nghĩa là gãy tồi”. Vâng, thiệt thòi không có nghĩa là “gãy tồi” vì đây chỉ là cái “nghĩa” do ông Phan nghĩ ra mà thôi; còn cái nghĩa đích thực của nó thì lại là kết quả của một sự phái sinh hoàn toàn phù hợp với luận lý thông thường: “gãy đổ → hư hỏng → thiệt thòi”. Xin liên hệ với một thí dụ tương tự trong tiếng Pháp và tiếng Ý.

Danh từ chỉ sự phá sản trong tiếng Pháp là banqueroute, bắt nguồn từ tiếng Ý bancarótta, mà nghĩa gốc là sự sụp đổ (rótta) của ngân hàng (banca). Nếu người Pháp bắt chước ông Phan Kỳ thì họ sẽ nói: “Nhưng banqueroute đâu có nghĩa là “sự sụp đổ của ngân hàng” (nó vẫn còn đứng nguyên ở đấy kia mà!)”.

Về hai tiếng “ôngchủ”, ông Phan Kỳ cho rằng “giải thích cho người Việt chúng ta để làm gì vì người Việt chúng ta không hề dùng từ “ông chủ” với nghĩa là “ái nữ” bao giờ”.

Nhưng đây lại là hai chữ mà một bạn đọc cần tìm hiểu và công việc của chúng tôi lại là giải đáp thắc mắc cho bạn đọc. Nói chung, có khi bạn đọc còn hỏi về nhiều từ ngữ lạ lẫm hơn gấp bội, chẳng hạn “Allahu akbar” trên Kiến thức ngày nay, số 402, “La prossima avventura” trên Kiến thức ngày nay, số 416, v.v.. Chuyện Đông chuyện Tây mà lại!

Lời góp ý “bàn tròn” của ông Phan Kỳ trên Thế giới mới số 475 đã được đặt cho một cái nhan đề rất hay: “Xin trân trọng tiếng Việt”. Vâng, nếu không trân trọng tiếng Việt thì chúng tôi cũng chẳng cần cất công tìm hiểu nguồn gốc của từng từ Việt mà làm gì.

Xưa nay yêu tiếng nước nhà

Chữ trân trọng cũng có ba bảy đường.

§ 808. Kiến thức ngày nay, số 418, ngày 20-3-2002

ĐỘC GIẢ: Tôi rất tán đồng đoạn ông phân tích về xuất xứ của từ tân lang trên Kiến thức ngày nay, số 408. Nhưng đọc chỗ ông nói về “chiều ngược” (tác động của tiếng Việt đến các thứ tiếng khác) trong đó ông dẫn chứng tiếng Pháp để tỏ ý hoài nghi về tác động của tiếng Việt đến tiếng Hán thì tôi thấy phân vân.

Một là người Pháp đô hộ nước ta hơn 80 năm, mà cai trị thực sự cả nước chỉ khoảng 50 năm. Còn người Tàu đô hộ nước ta hơn 1000 năm, thời gian để giao lưu và tác động về ngôn ngữ dài hơn rất nhiều. Chưa nói càng lâu dài thì sự tác động không chỉ tính theo cấp số cộng.

Hai là thời đô hộ, người Pháp ở nước ta chủ yếu là các quan cai trị, các ông chủ, các thầy, v.v. ít tiếp xúc với quần chúng rộng rãi. Còn người Tàu thì ngoài những hạng người như trên ra, còn dân làm ăn, dân di cư, dân bị lưu đày, v.v. có thể sống đan xen hoặc tiếp cận với người bản địa.

Ba là, và nhất là, ngôn ngữ Việt và ngôn ngữ Hán có những nét tương đồng; còn tiếng Việt và tiếng Pháp, chỉ riêng chuyện đơn âm tiết với đa âm tiết đã là một thứ rào cản.

Ấy là chưa kể những “môi trường” vật chất và tinh thần khác của sự tác động qua lại khác về ngôn ngữ.

Tuy nhiên, tôi cũng nghĩ rằng người Hán có sức bành trướng và sức đồng hóa, có ưu thế về văn tự, về văn minh, ưu thế của kẻ đô hộ, của nước lớn, do đó tiếng Hán xâm nhập vào tiếng Việt nhiều hơn là trường hợp ngược lại. Sự chênh lệch có thể là rất lớn, song trường hợp tiếng Việt ảnh hưởng đến tiếng Hán chắc chẳng ít. Việc tìm ra những tiếng Hán gốc Việt hẳn là không đơn giản, vì nhiều lý do.

AN CHI: Về lý do thứ nhất của ông, chúng tôi lại thấy rằng hơn 1000 năm Bắc thuộc thực chất không phải là thời gian để “giao lưu” mà chính là thời gian để tiếng Hán “tác động” đến tiếng Việt theo hướng đồng hóa (thành công hay không lại là chuyện khác). Trong thời kỳ Bắc thuộc, tiếng Việt chưa bao giờ bình đẳng với tiếng Hán; thậm chí khi tổ tiên chúng ta đã tạo dựng được nhà nước phong kiến độc lập và tự chủ rồi thì quốc gia văn tự cũng vẫn là chữ Hán trong suốt 1000 năm. Còn ngôn ngữ dùng để giao dịch với Thiên triều đương nhiên là tiếng Hán (và thường là thông qua văn tự). Trong một cái thế lép vế như thế thì từ ngữ của tiếng Việt muốn len lỏi được vào tiếng Hán là một việc cực kỳ khó khăn cho dù đó là những từ ngữ dùng để chỉ những thứ không có sẵn tên trong tiếng Hán.

Về lý do thứ hai thì chúng tôi lại thấy rằng dân di cư cùng với dân lưu đày – mà đây mới là tuyệt đại đa số – là những người tự nguyện hoặc bị bắt buộc xem đất Giao Chỉ là quê hương thứ hai nên đã ở lại đây và mãi mãi không về, rồi con cháu của họ cũng dần dần Việt hóa. Còn đám quan lại và quý tộc thì, giống như thực dân Pháp sau này, khi trở về mẫu quốc cũng chẳng đem về theo họ được mấy tiếng “Nam Man”.

Về lý do thứ ba, chúng tôi không cho rằng sự khác nhau về loại hình ngôn ngữ là một thứ rào cản quan trọng vì đây không phải là vấn đề học ngoại ngữ có hệ thống mà chỉ là chuyện du nhập từ ngữ ngoại lai theo nhu cầu bức bách của thực tế. Những từ gốc Pháp như bơ (< beurre), xà-lách (< salade), xi-măng (< ciment), cốp -pha (< coffrage), lắc-lê (< la clé), mỏ lết (< molette), v.v. mà được định hình như thế là nhờ “công” của những người đầu bếp, những người thợ xây, những người thợ sửa chữa cơ khí, v.v. chứ không phải là “thành tựu” của các nhà trí thức. Rõ ràng là không phải vì sự khác nhau về loại hình giữa tiếng Pháp và tiếng Việt mà người bình dân Việt Nam không tìm được cách phát âm cần thiết cho những từ gốc Pháp trên đây. Ngược lại, sự tương đồng về loại hình cũng không nhất thiết là nhân tố góp phần làm cho từ ngữ tiếng Việt dễ dàng đi vào tiếng Hán vì vấn đề quan trọng lại là cái nhìn của đám quan lại và quý tộc người Hán đối với tiếng của dân Giao Chỉ. Nếu quả họ có “đem được” về Tàu một số lượng đáng kể từ Hán gốc Việt thì không có lý do gì cho đến tận bây giờ chúng ta vẫn chưa tìm ra được một cách chắc chắn và thuyết phục, dù chỉ là một vài chục từ mà thôi. Ngược lại, một số trường hợp được đưa ra (như đã có dẫn chứng một ít trên Kiến thức ngày nay, số 408 và số 409) thì lại không thuyết phục.

Vì những lẽ trên đây nên chúng tôi rất tán thành ý kiến của ông nói rằng “việc tìm ra những từ Hán gốc Việt hẳn là không đơn giản vì nhiều lý do”. Chỉ xin mạn phép nói thêm rằng, theo thiển ý thì cái lý do chủ yếu là những từ đó quá ít ỏi, mặc dù không phải là tuyệt đối không có.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3