Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 779 - 797
§ 779. Kiến thức ngày nay, số 408, ngày 10-12-2001
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, tôi thấy thường giải thích về từ nguyên của các từ Việt gốc Hán. Nhưng liệu có một sự vay mượn ngược lại, tức là có một số từ mà tiếng Hán đã vay mượn từ tiếng Việt và tiếng của các dân tộc sinh sống tại vùng Nam Trung Quốc và Đông Nam Á, nhưng vì các dân tộc này có chữ viết muộn hơn người Hán, cho nên có sự hiểu lầm về nguồn gốc mà cho rằng một số từ bắt nguồn từ tiếng Hán chứ không phải là ngược lại?
AN CHI: Vấn đề mà ông hỏi đã được một vài tác giả người Việt Nam chính thức nêu ra trong vài thập kỷ gần đây. Một trong những tác giả quan tâm nhiều nhất đến vấn đề này có lẽ là Trần Quốc Vượng. Tại Hội nghị IV giữa các nước xã hội chủ nghĩa về các ngôn ngữ phương Đông, trong báo cáo nhan đề “Tiếp cận lịch sử – văn hóa Việt Nam từ ngả đường ngôn ngữ”, tác giả này có nói về phát hiện quan trọng của mình như sau:
“Xuất phát từ định đề văn hóa học “mọi giao lưu văn hóa và tiếp xúc ngôn ngữ đều có tác động hai chiều xuôi – ngược”, tôi đã phát hiện ra và sử dụng thêm khái niệm “từ Việt – Hán” để chỉ định những từ gốc Việt đã được “chữ nghĩa hóa”, được ghi âm bằng chữ Hán và được hội nhập vào hệ thống từ vựng Hán ngữ”*.
Chúng tôi nhất trí với Trần Quốc Vượng về định đề mà ông đã nêu. Nhưng đây mới chỉ là nói một cách tổng quát chứ đi vào cụ thể thì lại phải xem chiều xuôi như thế nào còn chiều ngược thì ra sao. Trong sự tiếp xúc Việt – Pháp, chẳng hạn, tiếng Việt đã mượn của tiếng Pháp nhiều và đủ để làm một quyển từ vựng nho nhỏ chứ tiếng Pháp thì chỉ “mượn” của tiếng Việt có vài ba từ: congaï (hoặc congaye), nuoc-mâm (mà có mấy khi dùng đến). Trong mối quan hệ Việt – Hán, chiều xuôi đã diễn ra ồ ạt trên hai ngàn năm nay và những yếu tố vay mượn đã đủ nhiều để cho các nhà ngữ âm học lịch sử có thể làm việc một cách thuận lợi và yên tâm. Sự vay mượn đó chặt chẽ đến nỗi trên lý thuyết mọi chữ Hán đều có thể được đọc theo âm Hán Việt mặc dù Hán tự không phải là một nền văn tự ghi âm. Còn chiều ngược thì gần đây mới có người nói đến và rất tiếc là những dẫn chứng được đưa ra thì phần lớn lại không có cơ sở, chẳng hạn những dẫn chứng sau đây trong báo cáo của Trần Quốc Vượng:
– “Tân lang (cây cau – AC) → pnang → mnang (Êđê) → nang (Mường), (mo) nang (Việt)”. (tr. 482)
Rất tiếc là mặc dù muốn tiếp cận vấn đề “từ ngả đường ngôn ngữ” nhưng ngay ở cái dẫn chứng đầu tiên này thì cách trình bày của tác giả cũng đã không có được cái dáng dấp ngữ học cần thiết, nhất là cái dáng dấp của một phương pháp so sánh rành mạch và chặt chẽ. Cứ như cách trình bày trên thì, xét theo phổ hệ, chính tân lang của tiếng Hán (đọc theo âm Hán Việt) lại là cái gốc đã sản sinh ra pnang, không biết của thứ tiếng nào; rồi cái từ pnang vô thừa nhận này lại sản sinh ra mnang của tiếng Êđê và cuối cùng thì tiếng Êđê mnang mới sản sinh ra nang của tiếng Mường và nang (trong mo nang) của tiếng Việt. Cách trình bày trên đây đã hoàn toàn phản lại cái ý của tác giả vì đối với ông thì tân lang chỉ là cái đích đến còn (mo) nang của tiếng Việt mới là điểm xuất phát. Căn nguyên của sự trục trặc trên đây là ở chỗ Trần Quốc Vượng đã dùng ký hiệu mũi tên không đúng hướng: “→” là “sản sinh ra” còn “←” mới là “phái sinh từ”. Vậy, muốn diễn đúng cái ý của ông thì phải ghi theo hướng ngược lại:
– Tân lang (Hán) ← pnang ← mnang (Êđê) ← nang (Mường), (mo) nang (Việt).
Nhưng nếu cách ghi đã hiệu đính trên đây có đúng với ý của Trần Quốc Vượng đi nữa thì nó lại hoàn toàn không đúng với thực tế vì mấy lý do sau đây.
Thứ nhất, nang trong mo nang của tiếng Việt không phải là “cau”. Đó là một từ cổ, vốn là một yếu tố Hán Việt chính tông, có nghĩa là cái túi. Tục ngữ có câu: “Một kho vàng không bằng một nang chữ”. Lục Vân Tiên có câu: “Đeo nang Tử Lộ, quẩy đàn Nhan Uyên”. Từ nghĩa gốc này, nang có thêm nghĩa phái sinh là “bộ phận giống như cái bao dùng để bọc, để che chở”, như trong nang mực* và mực nang (= mực lá). Đây cũng chính là cái nghĩa của nang trong danh ngữ mo nang mà Từ điển tiếng Việt1992 giảng là “lá biến đổi đặc biệt, có bẹ rất phát triển ôm gần kín các mắt búp măng hoặc thân cây các loại tre nứa”. Vậy rõ ràng ở đây nang không phải là cau.
Thứ hai, tân lang, mà âm Bắc Kinh là bínlang (nay thường đọc là bīnglang) là một từ Hán gốc Mã Lai, bắt nguồn từ tiếng Mã Lai pinang, có nghĩa là cau. Xin lưu ý rằng trong lối pīnyīn của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì “b” chính là [p]. Vậy, nếu nói theo kiểu Trần Quốc Vượng, thì bīnlang (tân lang) là một từ “Mã Hán” chứ không phải “Việt Hán”.
– “Bàn Hồ (Pan Hu) → Bàn Cổ”. (tr. 482)
Trần Quốc Vượng cho rằng Bàn Cổ là do Bàn Hồ mà ra nhưng truyền thuyết và thần thoại của người Việt (Kinh) không có nhân vật Bàn Hồ. Đây là một nhân vật huyền thoại của người Dao (trước vẫn gọi là Mán) mà sự tích được chép như sau:
“Bàn Hồ là con long khuyển mình dài ba thước, lông đen, vằn vàng, mướt như nhung, từ trên trời giáng xuống trần, được Bình hoàng yêu quý nuôi trong cung. Một hôm Bình hoàng nhận được chiếu thư của Cao vương, Bình hoàng bèn họp bá quan văn võ để bàn mưu tính kế diệt họ Cao nhưng không ai tìm được kế gì. Trong khi đó, con long khuyển Bàn Hồ từ trong kim điện nhảy ra sân rồng quì lạy xin đi giết Cao vương.
Trước khi Bàn Hồ ra đi, nhà vua có hứa nếu thành công sẽ gả cung nữ cho (có tài liệu ghi là công chúa). Bàn Hồ bơi qua biển bảy ngày bảy đêm mới tới nơi Cao vương ở. Cao vương thấy con chó đẹp tới phủ phục trước sân rồng thì cho đó là điềm lành nên đem vào cung nuôi. Nhân một hôm Cao vương say rượu, Bàn Hồ cắn chết Cao vương và ngoạm lấy đầu đem về báo công với Bình hoàng (…).*
Sự tích Bàn Hồ đại khái là như thế. Còn Bàn Cổ thì lại là một nhân vật huyền thoại của Trung Hoa, mà theo truyền tụng thì đã xuất hiện từ thời khai thiên lập địa, chẳng có gì giống với nhân vật Bàn Hồ của người Dao. Mặc dù rất có thể là, nếu truy nguyên cho đến cùng, thì Bàn Cổ và Bàn Hồ có liên quan với nhau nhưng nếu muốn đi đến một kết luận như thế thì phải tiến hành nhiều thao tác thần thoại so sánh tỉ mỉ và thận trọng chứ không thể chỉ “trông mặt mà bắt hình dong” rồi đưa ra biểu thức.
“Bàn Hồ → Bàn Cổ”.
Huống chi, nếu Bàn Cổ có đích thực là do Bàn Hồ mà ra thì đó cũng chỉ là một danh xưng “Dao Hán”, nghĩa là một cái tên bằng tiếng Hán gốc Dao chứ không phải là gốc Việt.
– “Thần Nông (ngữ pháp ngược ngữ pháp Hán ngữ về trật tự từ)”. (tr. 482)
Chẳng riêng gì Trần Quốc Vượng, một vài tác giả khác cũng đã từng khẳng định rằng Thần Nông là một cái tên Hán gốc Việt vì nếu chánh cống là tiếng Hán thì phải nói thành Nông Thần. Rất tiếc là các vị đã quên mất rằng ngoài cái nghĩa “nghề làm ruộng” thì chữ nông còn có nghĩa là người làm ruộng nữa và thần nông là một danh ngữ mà cấu trúc cú pháp cũng giống hệt như của cố nông (người làm ruộng thuê (cho chủ ruộng)), bần nông (người làm ruộng nghèo), trung nông (người làm ruộng có vừa đủ ruộng và nông cụ), phú nông (người làm ruộng có đời sống dư dả gọi là), lão nông (người làm ruộng lão thành) trong lão nông tri điền, v.v. trong đó nông là danh từ trung tâm còn thần, cổ, bần, trung, phú và lão là định ngữ. Trong thần nông thì thần làm định ngữ cho nông y hệt như trong thần nhân, thần nữ, thần mã, thần sư, thần thú, v.v. thì nó làm định ngữ cho nhân, cho nữ, cho mã, cho sư, cho thú, v.v.. Thần Nông là một cấu trúc tuyệt đối không có gì trái ngược với quy tắc cú pháp của tiếng Hán cả.
– “Gấu mèo, Hán ngữ gọi và dịch theo ngữ pháp Việt là hùng miêu”. (tr. 482)
Xin nói ngay rằng gấu mèo là một loài thú giỏi chịu rét, hiện nay chỉ có tại vùng núi cao tỉnh Vân Nam và là đặc sản của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mà tên gọi chính xác và chính thức là miêu hùng (chứ không phải “hùng miêu”). Chính các nhà khoa học người Việt Nam đã dịch cái tên chính xác và chính thức này thành gấu mèo để chỉ thứ đặc sản đó của Trung Quốc chứ không phải là ngược lại (gấu mèo → hùng miêu) như Trần Quốc Vượng đã nêu.
-“Nỗ → gốc từ nỏ, ná (Việt) – hna, hnư (Indonésien)”. (tr. 482)
Xin nhắc rằng trên Kiến thức ngày nay, số 395 và số 396, chúng tôi có nói rõ là nhà Trung Hoa học cự phách J. Needham đã chứng minh rằng nỏ là một sáng chế của người Trung Hoa. Và chúng tôi cũng đã chứng minh rằng ná và nỏ là những từ Việt gốc Hán; cả hai đều là những từ cổ Hán Việt, ná là cổ Hán Việt sớm còn nỏ là cổ Hán Việt muộn. Ná, nỏ, cung, tên, đạn, bắn, pháo, súng, ống (trong súng ống), v.v. đều là những từ Việt gốc Hán.
§ 780. Kiến thức ngày nay, số 408, ngày 10-12-2001
ĐỘC GIẢ: Câu thơ “Et rose elle a vécu ce que vivent les roses” là của nhà thơ nào, làm để nói về ai?
AN CHI: Đây là một câu trong bài “Consolation à M. Du Périer sur la mortde sa fille” của François de Malherbe (Caen 1555 – Paris 1628), làm để an ủi Du Périer lúc cô ái nữ mới lên năm của ông này lìa đời. Đó là câu thứ ba trong đoạn thứ tư của bài thơ:
Mais elle étoit du monde où les p lus belles choses
Ont le p ire destin;
Et rose, elle a vécu ce que vivent les roses,
L’espace d’un matin.
Một giai thoại thuật lại rằng câu thơ vốn được Malherbe viết là:
Et Rosette a vécu ce que vivent les roses
nhưng thợ nhà in đã xếp nhầm “Rosette” thành “rose elle” nên đã thổi thêm hồn cho câu thơ. Rosette chỉ là một cái tên riêng còn rose elle là một cấu trúc sinh động trong đó đồng vị ngữ (apposition) rose còn là một ẩn dụ nữa, v.v. và v.v.. Với sự nhầm lẫn kiểu “thôi xao” này thì người ấn công kia rất xứng đáng là Hàn Dũ của Malherbe. Nhưng đây dù sao cũng chỉ là giai thoại.
§ 781. Kiến thức ngày nay, số 408, ngày 10-12-2001
ĐỘC GIẢ: Câu “mỏng mày hay hạt” có nghĩa là gì và có thể được ứng dụng trong sinh hoạt xã hội như thế nào?
AN CHI: Mày là “lá bắc ở hoa các cây như ngô, lúa, về sau tồn tại dưới dạng hai vẩy nhỏ ở gốc quả – loại quả này quen gọi là hạt”*.
Câu “mỏng mày hay hạt” thực chất là một kinh nghiệm chọn giống của nhà nông mà Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam của Việt Chương (Nxb. Đồng Nai, 1995) đã nêu rõ như sau: “Lúa giống hay bắp giống bao giờ cũng được lựa từ những hột thật chắc để sau này trở nên những mầm mạnh. Mà hột giống chắc thường là những hột được bọc lớp mày mỏng như lụa ở phần mầm của hột. Những hột mà có lớp mày dày là những hột lép, bị loại ra”.
Chúng tôi cho rằng câu này rất khó ứng dụng vào sinh hoạt xã hội vì đây, như đã nói, thực chất chỉ là một sự đúc kết về kinh nghiệm sản xuất. Những câu nói về kinh nghiệm sản xuất, chăn nuôi, v.v. như:
- Trâu hoa tai, bò gai sừng.
- Chó liền da, gà liền xương.
- Sứt mang, xỏ quàng con mắt.
- Mùa nứt nanh, chiêm xanh đầu, v.v. thì làm sao có thể ứng dụng về mặt xã hội được? Câu “mỏng mày hay hạt” cũng thế. Và vì khó có thể vận dụng vào sinh hoạt xã hội hoặc vào đặc điểm của con người cho nên hễ cứ cố tình ứng dụng thì khó tránh khỏi trục trặc,… chẳng hạn như sự liên hệ sau đây trong quyển TiếngViệt lí thú của Trịnh Mạnh (Nxb. Giáo dục, 2001):
“Hễ mỏng mày là hạt chắc, nếu dùng làm hạt giống thì rất tốt. Từ đó, người phụ nữ mỏng mày hay hạt cũng hứa hẹn tương lai sẽ phát triển nòi giống tốt, ngoài các đức tính khác như đảm đang, tháo vát”. (tr. 41)
Sự liên hệ ngộ nghĩnh trên đây sẽ đưa đến một câu hỏi rất tự nhiên là cái “mày” (= vẩy) của giới phụ nữ là gì mà nếu “mỏng” thì họ “sẽ phát triển nòi giống tốt”, như tác giả Trịnh Mạnh đã suy luận. Rất tiếc là nhiều người cứ cưỡng chế cái câu “mỏng mày hay hạt” phải được dùng để nói về con người; trong đó có cả một vài nhà văn quen thuộc, được trích dẫn tại trang 423 – 424 của Từ điển thành ngữ Việt Nam của Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (Nxb. Văn hóa, 1993).
§ 782. Kiến thức ngày nay, số 409, ngày 20-12-2001
ĐỘC GIẢ: Tối nào trong màn quảng cáo trên ti-vi, đến mục của một thương hiệu xe máy, tôi cũng cứ phải nghe nhà quảng cáo trịnh trọng phát âm tên của “sa mạc Tasmaklamakan”. Xin cho biết “Tasmaklamakan” là sa mạc nào và ở đâu.
AN CHI: Chúng tôi chỉ biết có Takla-Makan (hoặc Taklimakan) tức Tháp Khắc Lạp Mã Can (hoặc Tháp Lý Mộc), một vùng sa mạc của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở miền Nam Tân Cương. Có lẽ nhà quảng cáo còn tơ tưởng đến đảo Tasmania của châu Đại Dương khi cần phát âm tên của sa mạc Takla-Makan nên mới ráp “đuôi” của sa mạc này với “đầu” của hải đảo nọ thành một mot-valise* không địa chỉ là “Tasmaklamakan” chăng?
§ 783. Kiến thức ngày nay, số 409, ngày 20-12-2001
ĐỘC GIẢ: Nhị thập tứ sử và Nhị thập ngũ sử khác nhau ra sao và gồm có những bộ sử nào?
AN CHI: Nhị thập tứ sử gồm có: 1. Sử ký; 2. Hán thư; 3. Hậu Hán thư; 4. Tam quốc chí; 5. Tấn thư; 6. Tống thư; 7. Nam Tề thư; 8. Lương thư; 9. Trần thư; 10. Nguỵ thư; 11. Bắc Tề thư; 12. Chu thư; 13. Tuỳ thư; 14. Nam sử; 15. Bắc sử; 16. (Cựu) Đường thư; 17. Tân Đường thư; 18. (Cựu) Ngũ đại sử; 19. Tân Ngũ đại sử; 20. Tống sử; 21. Liêu sử; 22. Kim sử; 23. Nguyên sử; 24. Minh sử. Còn Nhị thập ngũ sử thì có thêm: 25. Tân Nguyên sử.
§ 784. Kiến thức ngày nay, số 410, ngày 1-1-2002
ĐỘC GIẢ: Có phải tên của mùa xuân trong các ngôn ngữ châu Âu đều có nghĩa “cấu tạo” là mùa đầu tiên trong năm hay không?
AN CHI: Mùa xuân trong tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha là primavera; trong tiếng Pháp cổ là primevoire; trong tiếng Rumani là primăveră. Đây là các ngôn ngữ Roman (bắt nguồn từ tiếng La Tinh). Prima, prime, primă là do tiếng La Tinh prima (giống cái của primus), có nghĩa là đầu tiên. Còn vera, voire, veră thì do tiếng La Tinh ver, tự danh từ này đã có nghĩa là mùa xuân. Trong tiếng Pháp hiện đại thì mùa xuân là printemps: prin (=prim(e) = đầu tiên) + temps = thời kỳ, mùa). Còn primevoire thì diễn tiến thành primevère, nay chỉ còn dùng để chỉ cây báo xuân (vì hoa của loài cây này nở vào đầu xuân).
Nhánh Germanic thì có phần “lùm xùm” hơn nhánh Roman. Bà con với ver của tiếng La Tinh là văr của Thụy Điển và vaar của Đan Mạch. Nhưng vaar chỉ dùng trong thi ca, còn thông dụng trong tiếng Đan Mạch thì lại là voraar, cùng gốc với tiếng Hà Lan (Dutch) voorjaar, có nghĩa là đầu (vor, voor) năm (aar, jaar) . Thế là ngay trong tiếng Đan Mạch thì vaar cùng một gốc xa với La Tinh ver còn voraar lại có một cấu tạo khác hẳn (chứ không phải voraar “nói ríu” mà thành vaar). Mùa xuân trong tiếng Anh, như ông đã biết, lại là spring, mà nghĩa gốc là “cú nhảy”, rồi nghĩa phái sinh là sự bật dậy và cái nghĩa ẩn dụ rắc rối là “sự ló dạng” trong lối nói xưa “spring of the yere (nay: year)”, nghĩa là “sự ló dạng của năm” (Xin so sánh với day – spring = sự ló dạng của ngày = bình minh). Còn tiếng Đức hiện đại là frühling, trong đó früh có nghĩa là sớm.
Cuối cùng, trong nhánh Slav thì tiếng Nga là vesna, tiếng Ba Lan là wiosna, được xem là cùng gốc xa với tiếng Sanskrit vasanta, là mùa xuân.
§ 785. Kiến thức ngày nay, số 410, ngày 1-1-2002
ĐỘC GIẢ: Hình như sách xưa có một câu ngắn gọn 12 chữ nêu bật đặc tính của bốn mùa trong năm theo quan niệm của người Trung Hoa về từng mùa. Xin cho biết đó là câu nào của sách nào.
AN CHI: Chúng tôi tình cờ đọc được một câu trích từ sách Xuân thu phồn lộ của Đổng Trọng Thư:
“Xuân khí ái; thu khí nghiêm; hạ khí lạc; đông khí ai”.
Nghĩa là:
“Không khí mùa xuân êm ả; không khí mùa thu gắt gao; không khí mùa hè vui vẻ; không khí mùa đông buồn bã”.
Không biết đây có phải là câu mà ông muốn tìm hay không; xin cứ tạm nêu lên để ông tham khảo.
§ 786. Kiến thức ngày nay, số 410, ngày 1-1-2002
ĐỘC GIẢ: Tết con ngựa sắp đến, xin tìm giúp một đôi câu đối Nho bốn tiếng (cho gọn) có nói đến ngựa.
AN CHI: Xin tạm nêu vài đôi sau đây để ông chọn:
Kỳ khai đắc thắng;
Mã đáo thành công.
(Cờ tung đắc thắng;
Ngựa đến thành công).
Bách hoa hiến tuế;
Vạn mã tranh xuân.
(Trăm hoa dâng tuổi;
Muôn ngựa giành xuân).
Nhân hoan mã khiếu;
Điểu ngự* hoa hương.
(Người vui, ngựa hí;
Chim hót, hoa thơm).
Thái vân truy nguyệt;
Tuấn mã nghênh xuân.
(Mây đẹp đuổi trăng;
Ngựa hay đón tết).
§ 787. Kiến thức ngày nay, số 410, ngày 1-1-2002
ĐỘC GIẢ: Trên Tia sáng (bộ mới) số 12, mục “Ý kiến nhà khoa học”, dưới cái nhan đề rất giật gân (Không thể nói đồ đồng Đông Sơn là đồng thau), tác giả Nguyễn Văn Chiển đã viết như sau: “Từ rất lâu, tôi thắc mắc tại sao cha ông ta lại biết dùng đồ đồng thau liền sau (thời kỳ – Người hỏi) đồ đá mới trong khi trên thế giới thời kỳ đồng thanh bao giờ cũng xuất hiện liền sau thời đá mới”. Rồi tác giả này kết luận: “Không thể nói đồ đồng Đông Sơn của cha ông ta là đồng thau được, vì nó trái với cả khoa học và trái với cả hiểu biết dân gian thường ngày”.
Tôi nghĩ nếu cha ông ta biết dùng đồ đồng thau trước cả thế giới thì ta nên tự hào mới phải chứ cớ chi ông Chiển lại thắc mắc.
AN CHI: Bài của Nguyễn Văn Chiển rất nghiêm túc và xác đáng vì lý lẽ rất rành mạch và chắc chắn. Đồng thau (hợp kim giữa đồng và kẽm) khác với đồng thanh, cũng gọi là đồng đen (hợp kim giữa đồng và thiếc). Số liệu phân tích hóa học về đồ đồng Đông Sơn cho thấy thành phần hợp kim của đồng thanh chứ không phải đồng thau. Nếu ông vui lòng đọc lại bài báo thì chắc ông cũng sẽ tán thành tác giả Nguyễn Văn Chiển.
Ở đây chúng tôi chỉ xin nói thêm đôi điều như sau. Nguyễn Văn Chiển cho rằng sự nhầm lẫn đồng thanh thành đồng thau có lẽ bắt nguồn từ sự tra cứu Từ điển Nga – Việt của K.M. Alikanov, V.V. Ivanov, I.A. Malkhanova (Moskva, 1977). Các từ điển gia này đã dịch bronza (đồng thanh (hoặc đồng đen)) một cách lộn xộn thành “đồng thanh, thanh đồng, đồng thau, đồng thiếc, đồng” nên đã gây nhầm lẫn cho người tra cứu. Nhưng bộ từ điển này ấn hành lần đầu tiên năm 1977 mà cái lối nói và cái khái niệm “thời đại đồng thau” thì đã lưu hành tại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muộn nhất cũng là từ năm 1961. Và nếu chúng tôi không nhầm thì lối nói đó đã ra đời trong quyển Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy Việt Nam của hai tác giả Hà Văn Tấn – Trần Quốc Vượng, viết dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ sử học Giáo sư P.I. Bô-ri-xcôp-xki (Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1961). Ngay từ lời “Tựa”, các tác giả cũng đã bắt đầu đưa ra cái ngữ danh từ “thời đại đồ đồng thau” rồi (Xem tr. 3, d.10 và tr. 4, d.25). Đến chương thứ bảy (“Văn hóa sơ kỳ thời đại kim khí”, tr. 134 – 155,) nó đã được rút ngắn thành “thời đại đồng thau” (chẳng hạn ở các tr. 134, 140, 144, 145, 151, v.v.), rồi ở cuối chương lại xuất hiện thêm cách nói “văn hóa đồng thau” (tr. 155). Trong cả chương này, hai tiếng “đồng thau” đã được các tác giả sử dụng ở tần số khá cao và được hai ông định nghĩa rõ ràng là “hợp kim giữa đồng và thiếc” (tr. 136). Ở một đoạn khác, hai ông viết: “Đồng thau dùng để đúc liềm (một hiện vật tìm thấy ở Kontum – AC) có 89,2% đồng nguyên chất, 0,06% thiếc. Chì chỉ có vết, không có kẽm”. (tr. 149). Và hai ông lại còn viết: “Người ta chưa biết nâng cao tỷ lệ thiếc để tạo được đồng thau tốt”. (tr. 153)
Không có kẽm mà chỉ có thiếc thì phải là đồng thanh (hoặc đồng đen – bronze) chứ không phải “đồng thau” (laiton). Từ điển tiếng Việt 1992 định nghĩa đồng thanh là “hợp kim của đồng với thiếc hoặc với nguyên tố khác, trừ kẽm” còn đồng thau là “hợp kim đồng với kẽm, màu vàng, dễ dát mỏng, thường dùng để làm mâm, làm chậu rửa mặt”. Hai định nghĩa này rất thống nhất với ý kiến của tác giả Nguyễn Văn Chiển. Khi nghiên cứu về cổ sử, Đào Duy Anh đã gọi bronze là “đồng xanh” (nghe hay hơn “đồng thanh”). Trong Nguồn gốc dân tộc Việt Nam (Nxb. Thế giới, Hà Nội, in lần thứ hai, 1950), Đào Duy Anh viết: “Người Việt biết pha đồng và thiếc để chế đồng xanh mà đúc những đồ binh khí” (tr. 27). Cũng có lúc ông gọi là “đồng đen”, chẳng hạn trong Lịch sử Việt Nam, quyển thượng (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1958). Ông viết: “Trên địa bàn sinh tụ của người Lạc-việt (…) người ta đã phát hiện được nhiều đồ đồng đen thuộc về thời đại đồ đồng toàn thịnh”. (tr. 59)
Vậy, bronze là đồng xanh (thanh) hoặc đồng đen. Còn Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng thì lại dùng từ không giống với cách hiểu của mọi người, và với cách dùng từ gây hiểu nhầm này, hai ông đã kết thúc chương thứ bảy trong quyển sách của mình như sau:
“Văn hóa sơ kỳ thời đại đồ đồng đã phát triển trên cơ sở văn hóa hậu kỳ thời đại đồ đá mới và chính nó là nền móng cho một nền văn hóa đồng thau rực rỡ sau này: nền văn hóa Đông-sơn nổi tiếng của tổ tiên chúng ta”. (tr. 155)
Chúng tôi ngờ rằng chính cách gọi trong quyển sách trên đây của Hà Văn Tấn – Trần Quốc Vượng đã mở màn cho lối nói “thời đại đồng thau”, khiến cho tác giả Nguyễn Văn Chiển phải thắc mắc và thấy cần phải lên tiếng cải chính.
§ 788. Kiến thức ngày nay, số 411, ngày 10-1-2002
ĐỘC GIẢ: Trước đây trong Nam hay dùng mấy tiếng “ngựa cu” để chỉ một giống ngựa nhỏ thó. Xin cho biết “cu” là gì và đâu là nguồn gốc của chữ này.
AN CHI: Một số từ hoặc hình vị nay đã đọc thành “câu” thì hồi giữa thế kỷ XVII, thậm chí đến cuối thế kỷ XVIII, vẫn còn đọc là “cu”. Từ điển Annam – Bồ Đào Nha – Latinh (Roma, 1651) của A. de Rhodes còn ghi “chếm cu” thay vì chấm câu, cu lan thay vì câu lan (lơn), bồ cu thay vì bồ câu. Nhưng đến Tự vị Annam – Latinh (1772 – 1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine thì đã thấy ghi “chấm câu”, “bồ câu”, “câu lơn”, chứ không còn ghi “cu” cho những trường hợp này nữa. Riêng chữ “câu” trong “bạch câu quá khích” thì vẫn còn được Pigneaux de Béhaine ghi là “bạch cu”.
Cu trong ngựa cu cũng chính là cu trong bạch cu nay đã đọc thành câu, Hán tự là, 駒, có nghĩa là: 1. ngựa non mà khỏe; 2. động vật còn non tuổi; 3. còn non tuổi nói chung. Trên đây là những nghĩa đã cho trong Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) và chúng tôi đã ghi đúng theo thứ tự đã cho trong quyển từ điển này. Nhưng đây thực ra chỉ là một thứ tự ngược chiều vì đúng ra thì phải là: 1. còn non tuổi; 2. động vật còn non tuổi; 3. ngựa non mà khỏe. Sở dĩ nói đây là một thứ tự ngược chiều là vì chữ câu, 駒 bộ mã 馬 chỉ là trường hợp ứng dụng nghĩa 2 (động vật còn non tuổi) cho loài ngựa (còn nghĩa 2 thì chỉ là ứng dụng từ nghĩa 1) mà thôi. Chữ này còn có một số đồng nguyên tự chỉ những con vật non tuổi thuộc giống khác như dê, bò (hoặc trâu), gấu, hổ, mà Vương Lực đã nêu trong Đồng nguyên tự điển (Bắc Kinh, 1997, tr. 182) và chim, lợn rồi cả người nữa, như Lưu Quân Kiệt đã bổ sung trong Đồng nguyên tự điển bổ (Bắc Kinh, 1999, tr. 65). Nhưng hai quyển từ điển trên đây chỉ nêu những chữ đã được “chứng nhận” trong kinh điển nên dĩ nhiên không thể thu thập hết các đồng nguyên tự của chữ đang xét trong thực tế được. Ở đây chúng tôi xin nêu thêm chữ cù, cũng đọc câu (mà âm xưa cũng là “cu”) 軥 trong câu ngưu 軥牛 là con bê hoặc con nghé. Chẳng qua vì không còn thấy được cái nghĩa “non tơ” trong chữ câu (cu) này nên người ta mới phải ghép chữ đó vào bộ xa 車 rồi giảng rằng “đại ngưu đương ách, tiểu vi câu ngưu” (trâu (bò) lớn thì mang ách, (trâu (hoặc bò) nhỏ thì là câu ngưu”), chẳng hạn như đã ghi nhận trong Từ hải (bản cũ).
Vậy, cu trong ngựa cu chính là âm xưa của chữ câu trong bạch câu quá khích, còn được bảo lưu trong phương ngữ Nam Bộ. Ngựa cu vốn có nghĩa là ngựa non mà khoẻ, về sau đã chuyển nghĩa một cách “phóng khoáng” để chỉ một giống ngựa vóc nhỏ, bất kể cá thể được nói đến còn non hay đã già. Và vì câu < cu còn có nghĩa là “non tơ” hoặc “động vật non tơ” nên dĩ nhiên nó cũng còn ứng dụng được cho con người nữa. Đây chính là cơ sở của những lối nói quen thuộc ở nông thôn Việt Nam ngày xưa như: thằng cu cái đĩ, cu Tèo, bố thằng cu, anh cu, chị cu, cu cậu, v.v..
Nếu không phải vì một sự nhạy cảm mà Cao Xuân Hạo từng nói đến* thì có lẽ là dân Việt Nam đầu thế kỷ XXI vẫn còn nói “bạch cu” chứ không phải bạch câu vì thực ra chữ câu 駒 là một chữ thuộc vận bộ ngu, như đã cho rõ ràng trong tự thư và vận thư.
§ 789. Kiến thức ngày nay, số 411, ngày 10-1-2002
ĐỘC GIẢ: Chữ “chín” trong “chín chắn” có cùng gốc với chữ “chín” trong “chín rục” hay không. Cả hai chữ do gốc chung nào hoặc mỗi chữ do gốc riêng nào mà ra?
AN CHI: Chín trong chín chắn (xin gọi là chín¹ là một từ Việt gốc Hán và là âm xưa của chữ chân 真, có nghĩa là đạt đến mức cao nhất của sự thật. Chín¹, xưa hơn, còn có một điệp thức hậu kỳ là chắn và chín chắn là một từ tổ vị từ gồm hai điệp thức đẳng lập. Còn chín trong chín rục (xin gọi là chín²) thì lại là âm xưa của chữ trân 珍, có nghĩa là thơm ngon, như trong trân cam, trân tu, v.v.. Vậy chín² cũng là một từ Việt gốc Hán. Nếu không quan tâm đến từ nguyên thì người ta có thể cho rằng chín¹ thực chất chỉ là kết quả của một số ứng dụng chín² theo nghĩa bóng mà thôi. Thực ra, sở dĩ chín¹ đi với chắn thành chín chắn chỉ là vì chúng cùng một gốc mà ra (đều ~ chân) nên mới cùng một trường nghĩa để có thể đứng cạnh nhau trong thế đẳng lập. Một điều đáng chú ý nữa là chắn trong chín chắn cũng chính là chắn trong chắc chắn. Cuối cùng, xin lưu ý: chắn là một âm (Việt gốc Hán) của chữ chân mà âm Quảng Đông hiện đại cũng là chắn.
§ 790. Kiến thức ngày nay, số 411, ngày 10-1-2002
ĐỘC GIẢ: Chuyện Đông chuyện Tây đã có lần giải thích rằng “sụm bà chè” là “sụm xương bánh chè”, nghĩa là khuỵu xuống”. Nhưng tại sao lại nói “xương bánh chè”? “Bánh chè” là gì?
AN CHI: Trong bánh chè thì bánh là một danh từ khối dùng làm danh từ đơn vị y như trong bánh pháo, bánh xà phòng. Vậy bánh chè là một lượng chè (trà) nhất định nén hoặc gói thành một khối giống như một cái bánh hình tròn. Xương bánh chè là chỗ xương có hình tròn, dẹt ở đầu gối, giống như một bánh chè. Ngày nay, chè (trà) được đóng gói, vào hộp, v.v. thành hộp trà, gói trà, v.v.; không còn thấy ai nói đến “bánh trà (chè)” nữa.
§ 791. Kiến thức ngày nay, số 411, ngày 10-1-2002
ĐỘC GIẢ: Tôi xin có ý kiến về từ quagmire trên Kiến thức ngày nay, số 406 như sau. Có lẽ các nhà biên soạn Oxford Advanced Learner’s Dictionary 1992 đã nhận ra “sai lầm” của mình nên mới “sửa sai” nhưng lại mắc phải một thiếu sót ngược lại. Thật vậy, ở mục từ “quagmire” trong Oxford Advanced Learner’s Dictionary, lần xuất bản thứ năm, in năm 1995, ta thấy:
“Quagmire n.1. an area of softwet ground: The heavy rain had turned the field into a quagmire (vùng đất mềm ẩm thấp: Trận mưa to biến cánh đồng thành mộtvũng lầy) 2. a difficult and dangerous situation from which it is hard to escape: He got bogged down in the political quagmire (một tình thế khó khăn và nguy hiểm khó thoát khỏi: Ông ta bị sa vào vũng lầy chính trị)”.
Nghĩa 2. rõ ràng là nghĩa bóng, lẽ ra phải được chú thích bằng ký hiệu “fig”. (bóng) nhưng lại không có.
AN CHI: Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với nhận xét mà ông đã nêu về nghĩa bóng (không được chú thích) của từ quagmire trong Oxford Advanced Learner’s Dictionary, ấn bản 1995. Thiếu sót này, cộng với nhiều thiếu sót đã nêu trước đây tại Chuyện Đông chuyện Tây, chứng tỏ rằng từ điển Oxford tuy có giá trị nhưng không phải là toàn bích như một số người từng đề cao. Cá nhân chúng tôi đã nêu ra cho mình một phương châm là luôn luôn sử dụng từ điển một cách có cân nhắc, nghĩa là không xuẩn tín. Samuel Johnson nói đúng:
“Dictionaries are like watches; the worst is better than none, and the best cannot be expected to go quite true”.
(Từ điển giống như đồng hồ; có cái tồi nhất còn hơn không có cái nào, và không thể mong đợi cái tốt nhất chạy hoàn toàn đúng).
§ 792. Kiến thức ngày nay, số 411, ngày 10-1-2002
ĐỘC GIẢ: Tại sao ngày xưa, để tang cha mẹ phải đúng ba năm?
AN CHI: Có lẽ tục lệ này xuất phát từ lời dạy của Khổng Tử trong Luận ngữ (thiên XVII, đoạn 21):
“Tử sinh tam niên nhiên hậu miễn ư phụ mẫu chi hoài. Phù tam niên chi tang, thiên hạ chi thông tang dã”.
Nghĩa là:
“Con cái sinh ra ba năm sau cha mẹ mới khỏi ẵm bồng. Để tang (cha mẹ) ba năm là (tục để) tang chung khắp thiên hạ vậy”.
§ 793. Kiến thức ngày nay, số 411, ngày 10-1-2002
ĐỘC GIẢ: Tuổi trẻ ngày 18-12-01 có bài “Ai đánh bom ở ba thành phố Trung Quốc?” Bài này có một đoạn như sau: “Tây An là cố đô của Trung Quốc, nay là thủ phủ của tỉnh Sơn Tây, nằm về phía tây bắc. Đây là quê hương của những tượng chiến binh đất sét và là một địa điểm hấp dẫn du khách”. (tr. 15) Xin cho biết có phải Tây An ở tỉnh Sơn Tây hay không.
AN CHI: Tây An, mà tên xưa là Tràng An, không nằm trên tỉnh Sơn Tây, mà ở Thiểm Tây. Thiểm Tây phía Đông giáp Sơn Tây và Hà Nam, phía Đông Nam giáp Hồ Bắc, phía Nam giáp Tứ Xuyên, phía Tây giáp Cam Túc và Ninh Hạ và phía Bắc giáp Khu tự trị Nội Mông Cổ. Đất tỉnh Thiểm Tây thời Chiến quốc thuộc về nước Tần. Vì vậy tỉnh này cũng gọi là Tần. Những pho tượng chiến binh bằng đất mà tác giả Thủy Tùng có nhắc đến chính là những di vật của nhà Tần ở Thiểm Tây.
§ 794. Kiến thức ngày nay, số 412, ngày 20-1-2002
ĐỘC GIẢ: Xin hỏi tại sao cảnh sắc mùa xuân tươi tắn đẹp đẽ mà lại làm buồn lòng người. Nếu chẳng phải như thế thì tại sao lại có câu “Xuân sắc não nhân” mà từ điển, chẳng hạn Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh thì giảng “não nhân” là “làm cho người buồn rầu, đau đớn”?
AN CHI: Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh giảngnhư thế thì chỉ thích hợp riêng với câu Kiều thứ 34 (Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân”) mà thôi chứ cái nghĩa của hai tiếng não nhân thì còn rộng hơn nhiều. Não nhân là làm cho lòng người rộn lên hoặc rối lên vì những cảm xúc khác nhau (vui, buồn, chán chê, mê mẩn, v.v.) tùy từng ngôn cảnh. Chính vì thế nên nó mới có mặt trong câu “Xuân sắc não nhân” được. Chẳng có lẽ “xuân khí ái”, nghĩa là không khí mùa xuân dịu dàng* mà lại “làm cho người buồn rầu đau đớn”?
Chính vì hiểu nghĩa của chữ não một cách quá hẹp như thế cho nên một số người đã đưa ra những lời giảng phi lý. Cung oán ngâm khúc có câu:
Áng đào kiểm đâm bông não chúng
Hai chữ não chúng ở đây đồng nghĩa với não nhân và cũng được Nguyễn Lộc giảng là “làm cho mọi người ảo não, buồn rầu”*. Nàng cung nữ đẹp đến “chìm đáy nước cá lờ đờ lặn, lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa”, đến “Tây Thi khiếp vía, Hằng Nga giật mình”, đến “cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa”, đến “tai nghe nhưng mắt chưa nhìn” mà “bệnh Tề Tuyên cũng nổi lên đùng đùng” thì chỉ có thể làm cho nhiều đấng mày râu hân hoan, phấn khích chứ sao lại “ảo não, buồn rầu”? Tiếc rằng nhiều nhà chú giải khác cũng đã giảng như trên. Nếu bị hù dọa kiểu đó thì không khéo các bà, các cô sẽ không ai còn dám đi cắt mắt, sửa mũi nữa!
Trở lại với câu “Xuân sắc não nhân”, xin nói rằng câu này đã được Hán Đại thành ngữ đại từ điển (Thượng Hải, 1997, tr. 134) giảng là “Xuân thiên đích cảnh sắc dẫn khởi nhân đích hứng trí”, nghĩa là “cảnh sắc ngày xuân làm cho lòng người vui thích” (chứ đâu có phải là “ảo não”, “buồn rầu” hay “đau đớn”!).
Xin nêu thêm bài thơ “Hý vịnh lạp mai” của Hoàng Đình Kiên (đời Tống) để chứng minh rằng não nhân có nghĩa là làm cho lòng người vui thích (chứ không phải lúc nào cũng ảo não, sầu bi):
Hoa bội tỏa xuân hàn,
Não nhân hương vị triển.
Tuy vô đào lý nhan,
Phong vị cực bất thiển.
Tạm dịch:
Nụ vàng ấp xuân lạnh,
Hương quyến rũ chưa bay.
Chẳng được như đào mận,
Cũng thừa phong vị hay.
§ 795. Kiến thức ngày nay, số 412, ngày 20-1-2002
ĐỘC GIẢ: Hình như Thái Tổ nhà Minh Chu Nguyên Chương có ra một vế đối có chữ mã (ngựa) để thử tài và thử chí của con cháu. Xin cho biết nội dung sự việc.
AN CHI: Trong một chuyến đi săn, để thử tài và xem hoài bão của con cháu ra sao, Chu Nguyên Chương đã ra vế đối:
Phong xuy mã vĩ thiên điều tuyến,
Tạm dịch là:
“Gió thổi đuôi ngựa nghìn sợi chỉ”
và bảo cháu đích tôn là Chu Doãn Mẫn đối lại trước. Doãn Mẫn đối:
Vũ đả dương mao nhất phiến chiên,
Tạm dịch là:
“Mưa kết lông dê một tấm chăn”.
Chữ đối với chữ thì chẳng có vấn đề gì nhưng ý tứ quá xoàng khiến Chu Nguyên Chương phiền lòng vì cha của Doãn Mẫn, con trai trưởng của Thái Tổ đã mất nên Mẫn sẽ là người nối ngôi. Con trai thứ tư của Thái Tổ là Chu Đệ đứng bên cạnh liền ứng khẩu:
Nhật chiếu long lân vạn điểm kim,
vẫn là tạm dịch:
“Nắng chiếu vảy rồng muôn chấm vàng”
Thật đúng là khẩu khí của bậc đế vương và anh con trai còn “chơi gác” luôn cả cha mình nữa: cha nói “đuôi ngựa” mà Đệ đối lại bằng “vảy rồng”; cha nói “sợi chỉ” mà Đệ đối lại bằng “chấm vàng”.
Doãn Mẫn lên nối ngôi tổ phụ, lấy niên hiệu là Kiến Văn, làm vua được bốn năm (1399 – 1403) thì bị chú ruột là Chu Đệ khởi binh “dẹp loạn” mà đoạt ngôi. Đệ lên ngôi, lấy niên hiệu là Vĩnh Lạc, xóa niên hiệu Kiến Văn của Doãn Mẫn; năm Kiến Văn thứ 4 đổi thành năm Hồng Vũ thứ 35 (Hồng Vũ là niên hiệu của Minh Thái Tổ). Dê thì địch thế nào nổi với rồng!
§ 796. Kiến thức ngày nay, số 412, ngày 20-1-2002
ĐỘC GIẢ: Chuyện Đông chuyện Tây thỉnh thoảng có nhắc tới khái niệm “étymon” và dịch là “nguyên từ”. Còn trong quyển Gốc từ Hy Lạp và La-Tinh trong hệ thống thuật ngữ Pháp – Anh của H. Hỹ Nguyên do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 2001 thì tác giả lại cho rằng tiếng Pháp étymon tương ứng với tiếng Anh root và đó là “gốc từ” hay “căn tố”. Tác giả cho thí dụ:
“Gen-, có gốc Hy Lạp là gignesthai, hay La-tinh gignere có nghĩa là gây ra, sinh ra, đem đến kết quả.
Gen- là gốc từ của các từ sau đây:
(…)
hydrogène/ hydrogen, généalogie/ genealogy (…) (tr. 105)
Xin hỏi: Cách hiểu của tác giả H. Hỹ Nguyên cùng với những thí dụ trên đây có hoàn toàn chính xác hay không?
AN CHI: Thực ra thì tương ứng với tiếng Pháp étymon là tiếng Anh etymon chứ không phải “root”; còn tương ứng với tiếng Anh root thì lại là tiếng Pháp racine. Khái niệm étymon/ etymon mà chúngtôi dịch là “nguyên từ”, là hình thái gốc trong một ngôn ngữ nhất định đã đưa đến (những) hình thái phái sinh trong một (hoặc) những ngôn ngữ khác theo thừa kế hoặc vay mượn. Thí dụ: Aquila (đại bàng) của tiếng La Tinh là nguyên từ, theo thừa kế, của tiếng Pháp aigle, tiếng Ý aquila, tiếng Tây Ban Nha aguila, tiếng Bồ Đào Nha aguia còn tiếng Pháp aigle là nguyên từ theo vay mượn của tiếng Anh eagle.
Nguyên từ cũng có thể được dùng theo nghĩa rộng để chỉ hình thái gốc của một/những từ phái sinh ngay trong một ngôn ngữ. Thí dụ: Trong tiếng Anh, year (năm) là nguyên từ của yearly (hằng năm); moon (trăng) là nguyên từ moony (mơ mộng) còn moony lại là nguyên từ của mooniness (tính hay mơ mộng). Đồng thời ngay trong một ngôn ngữ, cũng có thể vừa có hiện tượng thừa kế vừa vay mượn từ một nguyên từ chung. Thí dụ: tiếng La Tinh fragilis (giòn, dễ vỡ, v.v.) là nguyên từ theo thừa kế của frêle (mỏng manh, mảnh khảnh) và theo vay mượn hậu kỳ bằng cách cấu tạo gọi là “bác học” (formation savante) của fragile (cũng đồng nghĩa) trong tiếng Pháp.
Nguyên từ (étymon/etymon) là như thế còn căn tố (racine/ root) là thành tố cấu tạo mang cái nghĩa cơ bản chung cho các từ cùng tộc (famille de mots/word family) sau khi đã lược đi các phụ tố và biến tố. Thí dụ: gen trong tiếng La Tinh là căn tố của genere, hình thái cổ của gignere (sản sinh), genus (nguồn gốc), generatio (thế hệ), genesis (sự sáng tạo, sự sáng thế), v.v..
H. Hỹ Nguyên cho rằng “gen- có gốc Hy Lạp là gignesthai hay La-tinh gignere” nhưng sự thật thì ngược lại vì trong tiếng Hy Lạp thì chính gen mới là căn tố của gignesthai (sinh ra); chẳng những thế, còn là căn tố của hàng loạt từ khác như: genna (nguồn gốc, nòi giống), genos (sinh quán), genea ((được) sinh ra), genetôr (cha, tổ tiên), v.v.. Còn trong tiếng La Tinh thì gen chẳng những là căn tố của gignere mà cũng còn là căn tố của hàng loạt từ khác như (ngoài những thí dụ trên kia): gener ((chú) rể), genialia (giường tân hôn), genitus ((được) sinh ra), gens (nòi giống), v.v..
Cuối cùng, H. Hỹ Nguyên đã không rành mạch khi cho rằng gen là căn tố của những từ như hydrogène/hydrogen, généalogie/genealogy, v.v.. Thực ra, chẳng những gen là căn tố mà hydr(o) và log cũng đều là căn tố, chẳng hạn trong anhydre/anhydrous (khan), logique/logic (luận lý) v.v.. Căn tố là cái hình vị gốc (trung tâm) duy nhất trong từ phái sinh nên trước nó và sau nó chỉ có các phụ tố và biến tố mà thôi. Vì vậy, nếu nói gen là căn tố của hydrogen và genealogy thì sẽ có thể làm cho người ta hiểu lầm rằng hydr(o) và log chỉ là những phụ tố mà thôi.
Hai trường hợp đang xét thực chất là kết quả của phép ghép từ theo quan hệ chính phụ chứ không phải là phép phái sinh.
§ 797. Kiến thức ngày nay, số 414, ngày 10-2-2002
ĐỘC GIẢ: Sở Khanh nói với Thuý Kiều: “Rằng ta có ngựa truy phong” (Truyện Kiều, câu 1107). Xin cho biết ngựa truy phong là ngựa gì. Hai tiếng truy phong ở đây có liên quan gì đến thành ngữ truy phong nhiếp ảnh hoặc bộ phong tróc ảnh hay không?
AN CHI: Một số bản chú giải Truyện Kiều quen thuộc (Đào Duy Anh, Nguyễn Thạch Giang, Nxb. Văn học, 1965, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, v.v.) đều giảng đại ý rằng ngựa truy phong là ngựa chạy thật nhanh, có thể đuổi theo gió (truy phong = đuổi gió). Còn Thuý Kiều truyện tường chú của Chiêm Vân Thị do Trúc Viên Lê Mạnh Liêu phiên dịch và phụ chú (tái bản lần thứ nhất, 1973) thì chú như sau:
“Lời chú dưới mục chữ “mã” (ngựa) trong sách Quảng-sự-loại: Vua Thuỷ-Hoàng nước Tần có 7 con ngựa tốt, con tốt nhất gọi là Truy-phong (chạy nhanh đuổi kịp gió)” (quyển thượng, tr. 283).
Chúng tôi cho rằng Chiêm Vân Thị chú giải rõ hơn và sát hơn vì sự thật là thành ngữ truy phong nhiếp ảnh bắt nguồn từ tên của hai con ngựa giỏi của Tần Thủy Hoàng. Thành ngữ này được Hán Đại thành ngữ đại từ điển (Thượng Hải, 1997) giảng như sau: “Theo sách Cổ kim chú (thiên “Điểu thú”), của Thôi Báo đời nhà Tấn thì Tần Thủy Hoàng có hai con tuấn mã tên là Truy Phong và Nhiếp Cảnh. Về sau, người ta dùng mấy tiếng “truy phong nhiếp cảnh” để miêu tả (động tác) ngựa chạy mau lẹ”.
Vậy thành ngữ truy phong nhiếp cảnh bắt nguồn từ tên hai con ngựa giỏi của Tần Thủy Hoàng. Do đó, truy phong trong ngữ đoạn danh từ ngựa truy phong của tiếng Việt không phải là một ẩn dụ từ ngữ động từ truy phong (= đuổi gió) của tiếng Hán mà lại là từ tên con ngựa Truy Phong của hoàng đế khai sáng nhà Tần. Vậy nếu muốn viết đúng với xuất xứ thì phải là “ngựa Truy Phong”.
Chính cái danh từ riêng, nói cho đúng là cái tên “Truy Phong” này cũng đã được dùng theo ẩn dụ trong câu cuối bài ngũ ngôn bát cú nhan đề “Tử lưu mã” (Ngựa màu đỏ lông đuôi đen) của Trương Chính Kiến đời Trần (Nam triều):
Thí vi nhất Truy Phong, nghĩa là “thử làm một con ngựa Truy Phong”.
Thành ngữ truy phong nhiếp cảnh về sau thường được nói thành truy phong nhiếp ảnh vì, xét về nguồn gốc, thì như Vương Lực đã chứng minh, cảnh 景 và ảnh 影, chẳng qua chỉ là những đồng nguyên tự mà thôi*.
Thành ngữ này, dùng để nói về tốc độ chạy của ngựa, không có liên quan gì đến thành ngữ bộ phong tróc ảnh, dùng để nói về những hành động hoặc ý tưởng không thiết thực.