Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 762 - 778

§ 762. Kiến thức ngày nay, số 402, ngày 10-10-2001

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Bước lưu lạc của nữ thần Avalôkitesvara” đăng trên một tờ báo ra ngày 24-9-2001, tác giả của bài này đã viết như sau:

“Pho tượng nữ Phúc thần Avalôkitesvara tuyệt tác, vô cùng quý hiếm này được xem là tác phẩm kỳ lạ nhất của nghệ thuật điêu khắc Chăm (…) Theo ông Nguyễn Xuân Lý, Giám đốc Bảo tàng Bình Thuận, sau khi tham khảo ý kiến các chuyên gia và khảo cứu từ các bảo tàng các địa phương khác, có thể nhận định bước đầu rằng pho tượng thần Avalôkitesvara này là một dạng biến thể của Quan Thế Âm, đấng cứu khổ cứu nạn trong Phật giáo Đại thừa”.

Xin cho biết Avalôkitesvara có phải là một nữ thần và vị nữ thần (?) này với đức Quan Thế Âm có phải là một hay không?

AN CHI: Avalôkitesvara không phải là nữ thần mà là một vị Bồ tát… nam. Tên phiên âm của ngài sang tiếng Hán (đọc theo âm Hán Việt) là “A bà lô kiết đê xá bà la”. Còn mỹ danh đầy đủ của ngài bằng tiếng Hán là “Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn quán thế âm Bồ tát” (vị Bồ tát đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn nghe thấu tiếng kêu khổ não của chúng sinh). Mỹ danh này thường được gọi tắt là Quán Thế Âm; đến đời Đường vì kiêng húy của Đường Thái Tông là (Lý) Thế Dân nên bỏ chữ “thế” mà gọi thành Quán Âm, thường đọc trại thành Quan Âm.

Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn cho biết như sau:

“Quán-Âm là một vị đại Bồ-tát trong Phật-giáo Đại-thừa (quyển II, tr. 679). Hễ ai thờ ngài, ắt được các sự phước đức; ai cầu nguyện và niệm tưởng ngài thì được sức lành của ngài chở che và cứu trợ trong các nạn nguy (…). Vì lòng từ-bi cứu khổ cứu nạn cho các chúng-sanh và vì sự tuyên truyền Phật-pháp, ngài tùy tiện mà hiện thân, khi làm Phật, khi làm Bồ-tát, khi làm Duyên-giác, khi làm Thinh-văn, khi làm tiên, khi làm quỉ, thần, khi làm quốc-vương hoặc đại-thần, trưởng-giả, tỳ-kheo, cư sĩ. Và ngài cũng mang thân phụ-nữ mà độ chúng-sanh nữa”. (quyển II, tr. 685 – 686)

Chính vì đức Quán Thế Âm có thể hiện thành phụ nữ nên mới có một hình tướng là Phật Bà Quan Âm, thường được tạc, đúc thành tượng thờ, có thể thấy một cách phổ biến trong Phật giáo Đại thừa ở Viễn Đông, trong đó có Việt Nam. Hình tướng và tượng thờ này xuất hiện trước tiên tại Trung Quốc vào thời Nam Bắc triều (420 – 589) rồi đến đời Đường (618 – 907) mới thịnh hành. Nhưng ngay ở đời Đường thì tượng đức Quán Thế Âm vẫn còn được tạc thành hình nam nhân ở một vài nơi. Sư Thích Lệ Trang, trụ trì chùa Viên Giác (Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh) cho biết tại Quảng Tây (Trung Quốc), sư đã được chiêm ngưỡng một bức tượng Quán Thế Âm râu dài, hiền từ nhưng vẫn đường đường một đấng… nam nhi. Nhân đây chúng tôi xin chân thành cảm ơn sư Lệ Trang về thông tin quý báu này.

Vậy Avalôkitesvara chính là đức Quán Thế Âm và ngài là nam chứ không phải là nữ.

§ 763. Kiến thức ngày nay, số 403, ngày 20-10-2001

ĐỘC GIẢ: Sau khi đọc Kiến thức ngày nay, số 399, tôi có nhận xét về câu trả lời của tác giả An Chi cho độc giả Tịnh Nghiêm như sau:

Giải thích mấy chữ “Vu lan bồn”, An Chi trả lời cũng không ngoài nghĩa “cứu đảo huyền”, “giải đảo huyền” hay sự giải thoát có nghĩa là cứu cái khổ treo ngược. Trong Phật học phổ thông (quyển II, tr. 23), Hòa thượng Thích Thiện Hoa đã giải thích rõ: Vu lan bồn nghĩa là giải đảo huyền, cởi trói người bị treo ngược hay cứu vớt những kẻ đau khổ nặng nề. Giáo lý Phật Đà thật là thậm thâm, vi diệu lắm, tác giả An Chi ạ! Khi nghiên cứu hay lên sách báo phải thận trọng, nếu không thì sai một ly, đi một dặm và đưa mọi người vào chỗ bế tắc, đau khổ như câu chuyện Ngài Ananda buồn tủi vì có một vị tỳ kheo đọc sai lời Phật dạy. Tôi đề nghị tác giả An Chi nên chỉnh lý lại, nên nghiên cứu kỹ giáo lý Phật giáo rồi hãy đăng lên báo.

AN CHI: Trước nhất, chúng tôi rất lấy làm tiếc vì câu trả lời của chúng tôi đã làm cho ông phật ý đến nỗi phải liên tưởng đến sự buồn tủi của ngài A Nan Đà. Thứ đến, thật lòng chúng tôi vẫn chưa khám phá ra được ông muốn chúng tôi phải “chỉnh lý” những điểm sai cụ thể nào. Cuối cùng, hình như chính ông mới là người chưa hiểu đúng những điểm căn bản trong câu trả lời của chúng tôi.

Ông nói rằng An Chi trả lời cũng không ngoài cái nghĩa “cứu đảo huyền”, có nghĩa là cứu khỏi cái khổ bị treo ngược. Nhưng “cứu khỏi cái khổ bị treo ngược” lại chính là cái nghĩa mà chúng tôi đã bác bỏ trong bài “Sự tích Rằm tháng Bảy và xuất xứ của hai tiếng vu lan”, đăng trên Kiến thức ngày nay, số 89, với bút hiệu Huệ Thiên. Chúng tôi chưa bao giờ thừa nhận cách giải thích đó, kể cả trên Kiến thức ngày nay, số 399, vì một lý do rất đơn giản là kinh Vu lan bồn không hề nói đến chuyện bị treo ngược. Sau đây là đoạn hữu quan trong bản dịch sang tiếng Hán của Trúc Pháp Hộ:

“Đại Mục Kiền Liên thủy đắc lục thông, dục độ phụ mẫu báo nhũ bộ chi ân. Tức dĩ đạo nhãn quán thị thế gian. Kiến kỳ vong mẫu sanh ngạ quỉ trung, bất kiến ẩm thực, bì cốt liên lập. Mục Liên bi ai, tức dĩ bát thịnh phạn vãng hướng kỳ mẫu. Mẫu đắc bát phạn, tiện dĩ tả thủ chướng bát, hữu thủ suỷ thực. Thực vị nhập khẩu, hóa thành hỏa thán, toại bất đắc thực”.

Dịch giả Trí Quang đã chuyển ngữ sang tiếng Việt như sau:

“Khi ấy tôn giả Đại mục Kiền liên mới thành tựu được sáu thứ thần thông, muốn cứu cha mẹ, đền đáp ân đức sinh thành dưỡng dục, nên dùng thiên nhãn quan sát khắp cả thế giới luân hồi, nhìn thấy mẹ mình sinh trong ngạ quỉ, không có đồ ăn, không được thức uống, da liền với xương. Tôn giả thống thiết, lấy bát đựng cơm đem hiến cho mẹ. Bà mẹ nhận được, tức thì tay trái che lấy cái bát, tay phải vốc cơm. Nhưng mà cơm ấy chưa vào đến miệng đã thành than lửa nên không ăn được”*.

Tất cả cái khổ mà mẹ của Mục Kiền Liên phải nếm trải chỉ có thế mà thôi, nghĩa là bà chỉ phải đọa vào kiếp ngạ quỉ như đã thấy ở hai đoạn văn dịch (sang tiếng Hán và tiếng Việt) trên đây chứ tuyệt nhiên không có chuyện bị treo ngược. Vì vậy nên giảng vu lan (bồn) thành cứu khỏi cái khổ bị treo ngược là hoàn toàn sai và chính vì vậy nên trên Kiến thức ngày nay, cả số 89 lẫn số 399, chúng tôi đều bác bỏ danh từ ullambana mà đưa ra danh từ ullambhana.

Như đã nói, “ullambana là sự treo lên và tất cả chỉ có thế”*, vì “từ Sanskrit này không hề diễn đạt cái ý treo ngược hoặc treo xuôi gì cả”*. Nhưng cứ cho rằng danh từ ullambana có nghĩa là sự treo ngược thì ở đây nó cũng hoàn toàn lạc lõng vì, như đã thấy, nó hoàn toàn không liên quan gì đến sự hành hạ mà mẹ của Mục Kiền Liên phải chịu đựng. Có người còn đi rất xa mà nói rằng “ullambana là một chuyển ngữ (sic) của avalambana, ví cái khổ của người chết hết sức khó chịu, giống như người bị treo ngược lên vậy”. Thật ra, ullambana và avalambana là hai từ hoàn toàn riêng biệt chứ không phải là biến thể ngữ âm (“chuyển ngữ”) của nhau. Mà avalambana cũng không hề có nghĩa là sự treo ngược. A Sanskrit- English Dictionary của M. Monier – Williams (Delhi, 1999) đã ghi cho nó các nghĩa sau đây: “Hanging on, clinging to; leaning against; hanging down” (p. 103, col. 2). Còn Dictionnaire sanskrit- français của N. Stchoupak, L.Nitti et L. Renou (Paris, 1932) thì ghi như sau: “fait de s’appuyer sur; support, point d’appui” (p. 89). Chẳng làm gì có chuyện “treo ngược” ở đây cả.

Vì những lẽ trên nên chúng tôi đã bác bỏ danh từ ullambana và cách giải thích cho rằng vu lan (bồn) là cứu khỏi cảnh bị treo ngược. Và chính vì thế nên nói rằng: “An Chi trả lời cũng không ngoài nghĩa cứu khỏi cái khổ bị treo ngược” là đã nói oan cho An Chi. Còn về phần mình thì chúng tôi đã đưa ra danh từ ullambhana, có nghĩa là sự giải thoát. Vâng, ullambhana chỉ là sự giải thoát, còn giải thoát khỏi cảnh bị treo ngược, khỏi tội bị chặt đầu hay tội thả trôi sông, hay khỏi bất cứ cảnh khốn khổ nào khác, thì về mặt ngữ nghĩa, danh từ này hoàn toàn không đề cập đến.

§ 764. Kiến thức ngày nay, số 403, ngày 20-10-2001

ĐỘC GIẢ: Một biểu ngữ của những người Mỹ phản đối cuộc chiến tranh mà giới cầm quyền Mỹ tiến hành chống lại bọn khủng bố mang dòng chữ sau đây:

“An eye for an eye leaves the whole world blind”.

Báo Sài Gòn giải phóng đã dịch câu này là “Mắt trả mắt làm cho cả thế giới đui mù”. Xin cho biết “mắt trả mắt” có phải là “đá lông nheo” với nhau hay không. Nếu không thì là gì?

AN CHI: Giới cầm quyền Mỹ đâu có “đá lông nheo” với bọn khủng bố vì đá lông nheo là chuyện liếc mắt đưa tình. Còn ngữ đoạn “An eye for an eye” thì bắt nguồn từ Kinh thánh (Cựu ước), sách Lê-vi ký (24: 19-20):

“Khi một người nào làm thương tích cho kẻ lân cận mình, thì người ta phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đã làm: gãy đền gãy, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta sẽ làm cho người ấy đồng một thương vít (sic) như chính người đã làm cho người khác”*.

Vậy “An eye for an eye” (“mắt đền mắt”) là “ăn miếng trả miếng”, “mạng đền mạng” (hoặc “mạng đòi mạng”). Điều luật ứng dụng nguyên tắc “đồng một thương vít” này gọi là luật “talion”, do tiếng La Tinh lex talionis. Talionis là sinh cách của talio (= sự ngang nhau, sự giống nhau) và xuất phát từ tiếng La Tinh talio, tiếng Anh mới có danh từ retaliation, có nghĩa là sự trả đũa.

Vậy, an eye for an eye là một kiểu retaliation và, với câu khẩu hiệu đã nêu, những người Mỹ đi biểu tình muốn nói rằng một sự trả đũa kiểu “mạng đòi mạng” sẽ chỉ đẩy toàn thế giới đi vào ngõ cụt mà thôi.

§ 765. Kiến thức ngày nay, số 404, ngày 1-11-2001

ĐỘC GIẢ: “Dầu cha quẩy” có nghĩa là gì? Có phải đó là một thứ bánh mà sự tích có liên quan đến nhân vật Tần Cối trong lịch sử Trung Quốc hay không?

AN CHI: Ít nhất thì truyền thuyết cũng đã ghi nhận như thế. Sách Tiếng Việt lí thú của Trịnh Mạnh (Nxb. Giáo dục, 2001) đã chép như sau:

“Cháo quẩy (tức dầu cha quẩy – AC) làm bằng bột mì rán với dầu, ăn rất giòn. Tại sao cháo quẩy lại có hai chiếc dính liền nhau? Đây là một loại bánh mang tính lịch sử, do Hoa kiều nhập vào nước ta. Cháo quẩy là tiếng Quảng Đông, nếu theo âm Hán thì đọc là Tần Cối.

Sự tích như sau: đời Tống, quân Kim ào ạt kéo vào xâm lược Trung Hoa. Tướng nhà Tống là Tống Nhạc Phi đã cầm quân chống lại, đạt nhiều thắng lợi thì bị Tần Cối, một quan to trong triều Tống thông đồng với giặc, dùng chiếu chỉ triệu Nhạc Phi về triều. Nhạc Phi không về. Triệu nhiều lần, Nhạc Phi liền trao quyền cho một phó tướng rồi về triều nhận lệnh. Tần Cối ghép Nhạc Phi vào tội “bất tuân thượng lệnh”, giam vào ngục, hành hạ cho đến chết. Cuộc kháng chiến chống quân Kim thất bại, nhà Tống phải lui về phía Nam để lập ra triều Nam Tống.

Vì vậy, nhân dân Trung Quốc căm ghét Tần Cối, làm loại bánh có hai chiếc dính liền, tượng trưng cho vợ chồng Tần Cối đáng tội bỏ vào vạc dầu”. (Sđd, tr. 66 – 67)

Trên đây, chúng tôi đã mượn lời kể của tác giả Trịnh Mạnh để giới thiệu về sự tích của thứ bánh có tên là “dầu cha quẩy”. Chỉ xin lưu ý rằng về mặt ngôn ngữ thì tác giả đã sai ở hai điểm.

Thứ nhất, “Tần Cối” không phải “âm Hán” mà là âm Hán Việt của hai chữ 秦檜 còn âm Quảng Đông, âm Phúc Kiến, âm Bắc Kinh, v.v. thì mới là âm Hán vì tiếng Bắc Kinh, tiếng Phúc Kiến, tiếng Quảng Đông, v.v. mới đích thực là những phương ngữ của tiếng Hán. Còn âm Hán Việt thì lại là âm Việt của những chữ Hán đọc theo âm – dĩ nhiên không thể giống hệt được – của tiếng Hán đời nhà Đường.

Thứ hai, “cháo quẩy” không phải là âm Quảng Đông của hai chữ “Tần Cối”: âm Quảng Đông của hai chữ này là “tsuần khúi” còn tên của thứ bánh đang xét trong tiếng Quảng Đông thì lại là “yầu cha quẩy” mà Hán tự là 油炸鬼, đọc theo âm Hán Việt là “du trá quỉ” (chữ trá thường đọc thành “tạc”). Du là dầu, trá là chiên, rán còn quỉ là ma. Vậy du trá quỉ, xét theo nghĩa của từng chữ, có nghĩa là (con) ma chiên (trong) dầu; nghe ra rất hợp với sự tích của thứ bánh gọi là dầu cha quẩy.

“Dầu cha quẩy” còn có những cách gọi trại và những cách ghi khác (bằng chữ Hán) mà chúng tôi không bàn đến ở đây.

§ 766. Kiến thức ngày nay, số 404, ngày 1-11-2001

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Bom và bánh mì” đăng trên Tuổi trẻ ngày 11-10-2001, tác giả Mai Kim Đỉnh đã viết:

“Bush ra lệnh không lực và hải quân Mỹ thực hiện sách lược “bom – bánh”. Bom cho chính quyền Taliban, Osama Bin Laden và Al-Qaeda. Bánh cho thường dân Apganixtan. Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh, thế giới chứng kiến “bánh từ trời” khác gì “mưa bánh mana” (bánh mì không men) trong Cựu ước”.

Xin cho biết rõ về hiện tượng gọi là “mưa bánh mana”.

AN CHI: “Mưa bánh ma-na” là một chuyện được ghi lại trong kinh Cựu ước, sách Xuất Ê-díp-tô ký (Chuyện chuyến đi khỏi xứ Ai Cập), đoạn 16, mà chúng tôi xin trích như sau:

“Cả hội-chúng Y-sơ-ra-ên oán trách Môi-se và A-rôn tại nơi đồng vắng, nói cùng hai người rằng: Ôi! Thà rằng chúng tôi chịu chết về tay Đức Giê-hô-va tại xứ Ê-díp-tô, khi còn ngồi kề nồi thịt và ăn bánh chán-hê! Vì hai người dẫn-dắc (sic) chúng tôi vào nơi đồng vắng nầy đặng làm cho cả đoàn dân đông nầy đều bị chết đói.

Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Nầy, ta sẽ từ trên trời cao làm mưa bánh xuống cho các ngươi.

(…)

Môi-se nói: Chiều nầy Đức Giê-hô-va sẽ phát thịt cho các ngươi ăn, rồi sáng mai bánh nhiều dư-dật, vì Ngài đã nghe lời các ngươi oán-trách Ngài rồi.

(…)

Vậy, chiều lại có chim cút bay lên phủ trên trại-quân; đến sáng mai lại có một lớp sương ở chung quanh trại-quân. Lớp sương đó tan đi, trên mặt đồng vắng thấy có vật chi nhỏ, tròn, như hột sương đóng trên mặt đất. Khi dân Y-sơ-ra-ên thấy, bèn hỏi nhau rằng: Cái chi vậy? Vì chẳng biết vật đó là gì, Môi-se bèn nói cùng dân-sự rằng: Ấylà bánh mà Đức Giê-hô-va ban cho các ngươi làm lương thực đó.

(…)

Nhà Y-sơ-ra-ên đặt tên lương-thực này là ma-na; nó giống như hột ngò, sắc trắng, mùi như bánh ngọt pha mật ong”*.

Chuyện “mưa bánh ma-na” trong kinh Cựu ước là như thế. Ở đây, nhân tiện, xin nói rằng tác giả Mai Kim Đỉnh đã nhầm ở một điểm: “bánh ma-na” không phải là “bánh mì không men” như tác giả đã chú thích. Đây là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Chuyện “bánh (mì) không men” thì lại thuộc đoạn 12 của sách Xuất Ê-díp -tô ký mà chúng tôi xin trích như sau:

“Trong bảy ngày phải ăn bánh không men: vừa đến ngày thứ nhứt, hãy dẹp men khỏi nhà đi; vì hễ ai ăn bánh có men từ ngày thứ nhứt cho đến ngày thứ bảy, thì sẽ bị truất ra khỏi Y-sơ-ra-ên (…) Ngày mười bốn tháng giêng, chiều lại, các ngươi sẽ ăn bánh không men cho đến chiều ngày hai mươi mốt tháng đó. Trong bảy ngày không nên còn thấy men tại nhà các ngươi; vì bất luận người ngoại bổn-xứ, hễ ai ăn bánh có men sẽ bị truất khỏi hội-chúng Y-sơ-ra-ên. Chớ nên ăn bánh có men; khắp nơi các ngươi đều phải ăn bánh không men”. (Sđd, tr. 77, 12:15-20)

Cũng có thể xem thêm chuyện “bánh có men, bánh không men” ở đoạn 13:1-10, nói về “Luật kỷ-niệm về sự xuất Ê-díp-tô”. Vậy thứ lương thực do đức Jehovah ban cho, mà dân Israel đặt tên là ma-na (Anh: manna, Pháp: manne) không phải là “bánh mì không men”.

Trở lại với tình hình thế giới sau ngày thứ ba đen tối và kinh hoàng của nước Mỹ (11-9), xin nhắc rằng nhiều tờ báo ra ngày 12-10-01 tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết dân chúng Afghanistan đã đốt lương thực “cứu trợ” của Mỹ vì cho rằng đó là thức ăn của kẻ thù và của quỷ.

§ 767. Kiến thức ngày nay, số 405, ngày 10-11-2001

ĐỘC GIẢ: Mục “Tin nhận lúc 0 giờ” trên báo Tuổi trẻ ngày 20-10-2001 có mẩu tin ngắn sau đây: “Ba tiểu đội biệt kích “Snake eaters” (tạm dịch “Nuốt rắn”) mỗi tiểu đội 12 người đã được triển khai trên lãnh thổ Apganixtan (…)”. Xin cho biết tại sao các nhà quân sự của Mỹ lại đặt tên cho những tay biệt kích này là “Nuốt rắn”.

AN CHI: Trước nhất, (to) eat là ăn chứ không phải “nuốt” (to swallow). Thứ đến, không thể dịch snake eater thành “ăn rắn” mà phải dịch thành “kẻ (người, v.v.) ăn rắn” vì đây là một ngữ danh từ chứ không phải một ngữ động từ.

Nhưng ở đây snake eater cũng không phải là “kẻ ăn rắn”, giống như snake feeder không phải là “người cho rắn ăn” mà lại là con chuồn chuồn (vì thường làm mồi cho rắn) trong tiếng Anh nói ở Mỹ. Snake eater là một giống diều hâu “hảo rắn” (do đó mà có tên). Diều hâu là một loài mãnh cầm tham mồi, có cặp mắt rất tinh, thường liệng trên cao để tìm mồi và khi đã thấy con mồi ở dưới đất thì lao xuống rất nhanh để quắp lấy nó mà bay lên. Snake eaters là những tên lính biệt kích tinh nhuệ do máy bay trực thăng thả xuống đất để làm nhiệm vụ một cách nhanh chóng rồi “bay” trở lên một cách lẹ làng. Có lẽ do đặc điểm này “na ná” với đặc điểm của giống diều hâu kia nên người ta mới đặt tên cho thứ lính biệt kích đó là Snake eaters chăng?

§ 768. Kiến thức ngày nay, số 405, ngày 10-11-2001

ĐỘC GIẢ: Trả lời câu hỏi “Vì sao sau khi gồm thâu sáu nước, thống nhất thiên hạ, Tần Doanh Chính lại xưng là Thủy Hoàng Đế?”, tại mục “Hộp thư văn học nghệ thuật” trên báo Sài Gòn giải phóng, ngày 21-10-2001, tác giả Bích Châu đã giải thích như sau: “Chữ Thủy là nhà vua căn cứ vào thuyết ngũ hành: kim, mộc, thủy, hoả, thổ. Nhà Chu ứng với hoả, nhà Tần thắng nhà Chu tất phải ứng với thủy, vì thủy trị hoả”. Xin cho biết giải đáp như thế có đúng hay không?

AN CHI: Chữ thủy 水 trong thuyết ngũ hành có nghĩa là nước còn chữ thủy 始 trong Tần Thủy Hoàng thì lại có nghĩa là bắt đầu (như trong: thủy tổ, nguyên thủy, thủy chung, v.v.). Chính là xuất phát từ cái chữ này và cái nghĩa này mà một tờ chế của Tần Thủy Hoàng đã viết như sau: “Trẫm là Thủy Hoàng Đế, các đời sau cứ theo số mà tính: Nhị Thế, Tam Thế đến Vạn Thế truyền mãi mãi”*. Vậy Tần Thủy Hoàng có nghĩa là hoàng đế mở đầu (khai sáng) nhà Tần và theo tinh thần của tờ chế kia, sau khi Tần Thủy Hoàng chết thì thái tử Hồ Hợi lên ngôi, xưng là Nhị Thế Hoàng Đế. Tiếc rằng đến “tam thế” là Tử Anh, cháu gọi Hồ Hợi bằng chú, thì đã bị “giáng danh” làm Tần Vương nhưng cũng chỉ làm vua được có bốn mươi sáu ngày thì bị tướng Sở là Bái Công bức hàng rồi sau đó bị Hạng Tịch giết chết. Thế là nhà Tần bị diệt.

Tóm lại, chữ thủy trong Thủy Hoàng Đế không liên quan gì đến chữ thủy của thuyết ngũ hành cả.

§ 769. Kiến thức ngày nay, số 405, ngày 10-11-2001

ĐỘC GIẢ: Yếu tố stan trong Afghanistan và Pakistan có cùng một nguồn gốc hay không và xuất xứ từ đâu? Còn abad trong Islamabad thì có nghĩa là gì và xuất xứ từ đâu mà cũng có mặt trong Jalalabad?

AN CHI: Yếu tố stan không chỉ thấy được trong tên của hai quốc gia Afghanistan và Pakistan mà còn có mặt trong tên của nhiều quốc gia hoặc vùng đất khác nữa ở Trung Á và Nam Á như: Baluchistan, Hindustan, Kazak(h)stan, Ta(d)jikistan, Turkestan, Turkmenistan, Uzbekistan, v.v..

Stan (với biến thể sthan) là một hình vị gốc ở tiếng Ba Tư (Anh: Persian), một ngôn ngữ Ấn Âu ở Iran, có nghĩa là vùng đất, xứ sở, v.v.. Có ý kiến lại cho rằng đó là một hình vị của tiếng Urdu, một ngôn ngữ Ấn Âu khác ở Ấn Độ và Pakistan. Nhưng dù là tiếng Ba Tư hay tiếng Urdu (hai thứ tiếng này có họ hàng xa với nhau) thì st(h)an cũng là một yếu tố cùng gốc, gần hay xa, với tiếng Sanskrit sthāna và tiếng Pali thāna, cùng nghĩa. Cá nhân chúng tôi thiên về ý kiến cho rằng đó là tiếng Ba Tư vì ba lý do:

Một là yếu tố st(h)an có mặt trong những địa danh chỉ các vùng đất hoặc quốc gia tạo thành một “khối” ở phía Đông và phía Bắc Iran mà không thấy có ở phía Đông của Ấn Độ.

Hai là những địa danh đó ít nhiều có liên quan đến sự hiện diện của Hồi giáo mà đối với các vùng hoặc các nước Hồi giáo ở Nam Á và Trung Á thì Hồi giáo xuất phát từ phía Tây hoặc Tây Nam, mà thánh địa là Mecca.

Ba là, do hệ quả của điểm thứ hai mà hiện nay người Hồi giáo nói chung vẫn còn dùng từ Feringhistan, có nghĩa là “xứ sở của bọn Franc (Feringhi)”, để chỉ phương Tây nói chung, mà dân Hồi giáo cho là “xứ sở của bọn ngoại đạo”. Cách gọi này xuất hiện sau các cuộc Thập tự chinh, do sự thù hận đối với Công giáo mà ra.

Còn abad cũng là một yếu tố của tiếng Ba Tư có nghĩa là thành phố và có mặt trong rất nhiều địa danh, chỉ các thành phố lớn, nhỏ khác nhau như: Faizabad, Jalalabad, Khanabad, v.v. (ở Afghanistan); Abbottabad, Hyderabad, Islamabad, Jacobabad, Muzaffarabad, v.v. (ở Pakistan); Allahabad, Faizabad, Farrukhabad, Hyderabad, Moradabad, v.v. (ở Ấn Độ). Xin chú ý rằng cả Afghanistan và Ấn Độ đều có Faizabad; cả Ấn Độ và Pakistan đều có Hyderabad. Còn ở Ta(d)jikistan thì có Leninabad (Thành phố Lenin). Dĩ nhiên là còn có rất nhiều địa danh có phần cuối là -abad nữa nhưng chỉ xin tạm kể ra như trên. Cuối cùng, xin nói rằng mặc dù -abad được khẳng định là một yếu tố trực tiếp bắt nguồn từ tiếng Ba Tư* nhưng chúng tôi ngờ rằng chính yếu tố này của tiếng Ba Tư thì lại bắt nguồn từ tiếng Á Rập, mà hiện cá nhân chúng tôi chưa có đủ tư liệu để bàn kỹ.

§ 770. Kiến thức ngày nay, số 405, ngày 10-11-2001

ĐỘC GIẢ: Một số phương tiện truyền thông, trong một số lần đưa tin, có nói rằng lãnh tụ Taliban, Muhammad Omar đã gọi nước Afghanistan là tiểu vương quốc. Xin cho biết có đúng như thế hay không. Hay là do dịch không sát ý?

AN CHI: Sau khi nắm quyền ở Kabul năm 1996, Muhammad Omar và phe Taliban ấn định thể chế mới cho đất nước và gọi nước mình là Dowlat-e Eslami-ye Afghanestan, dịch sang tiếng Anh là Islamic Emirate of Afghanistan. Danh từ emirate (Pháp: émirat) vẫn được các phương tiện truyền thông của Việt Nam dịch thành “tiểu vương quốc”, thí dụ United Arab Emirates (Pháp: Emirats arabes unis) là Các tiểu vương quốc Á Rập thống nhất. Vậy cách dịch của các phương tiện truyền thông mà quý ông đã nêu là xác đáng.

§ 771. Kiến thức ngày nay, số 405, ngày 10-11-2001

ĐỘC GIẢ: Người Afghanistan nói tiếng gì và có phải thứ tiếng đó cũng còn được nói ở cả Pakistan nữa hay không?

AN CHI: Vì sự phức tạp về thành phần dân tộc nên bức tranh ngôn ngữ của đất nước Afghanistan cũng khá phức tạp: khoảng 30 ngôn ngữ (kể cả phương ngữ) khác nhau nhưng quan trọng nhất là tiếng Pashto và tiếng Ba Tư (Persian), đặc biệt là tiếng Pashto. Từ năm 1936, tiếng Pashto đã chính thức trở thành ngôn ngữ quốc gia của Afghanistan. Đúng là tiếng Pashto cũng được nói ở Pakistan nhưng lại không đồng nhất với tiếng Pashto ở Afghanistan vì trong thực tế thì có thể xem đây là hai phương ngữ. Tại Afghanistan, nó được gọi là tiếng Pashto, phương ngữ ở Tây Nam mà trung tâm là Kandahar còn tại Pakistan thì đó là tiếng Pakhto, phương ngữ ở Đông Bắc mà trung tâm là Peshawar. Trong khi tại Afghanistan, tiếng Pashto trở thành phương tiện hữu hiệu để xây dựng một nền văn học cho đất nước thì vai trò của tiếng Pakhto ở Pakistan lại rất hạn chế vì tại quốc gia này, ngôn ngữ chính thức lại là tiếng Urdu.

§ 772. Kiến thức ngày nay, số 405, ngày 10-11-2001

ĐỘC GIẢ: Một người bạn đã cuộc với tôi rằng tác giả của những câu thơ sau đây là Chế Lan Viên:

“Ông Xta-lin ơi! Ông Xta-lin ơi!

Hỡi ơi! Ông mất đất trời biết không?

Thương cha, thương mẹ, thương chồng,

Thương mình, thương một, thương ông thương mười”.

Xin cho biết có đúng như thế hay không.

AN CHI: Tác giả của những câu trên đây là nhà thơ Tố Hữu. Đây là một đoạn trong bài thơ mà Tố Hữu làm để khóc Stalin khi hay tin ông này từ trần (1953).

§ 773. Kiến thức ngày nay, số 406, ngày 20-11-2001

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Mỹ sẽ sa lầy ở Afghanistan?” đăng trên Sài Gòn giải phóng ngày 2-11-01, tác giả viết như sau:

“Khi tin tức về sự có mặt của binh sĩ Mỹ tại miền Bắc Afghanistan được loan báo có thể sẽ lâu dài, thì cũng là lúc từ “sa lầy” (quagmire) lại được dấy lên tại cuộc tranh luận gay gắt trong giới phân tích quân sự tại Mỹ”.

Tra Từ điển Anh – Việt của Viện ngôn ngữ học do nhóm Hồ Hải Thuỵ, Chu Khắc Thuật, Cao Xuân Phổ biên soạn (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993) thì chỉ thấy dịch quagmire thành “bãi lầy” chứ không phải “sa lầy”. Tôi quan niệm rằng sa lầy là lâm vào một tình thế “khó rút chân ra” còn bãi lầy là một vùng bùn đất nhầy nhụa nên hai cấu trúc đó rất khác nhau về nội dung. Vậy xin hỏi:

1. Quagmire là “sa lầy” hay “bãi lầy”?

2. Nếu đúng là “sa lầy” thì sa lầy có phải là một cấu trúc tiếng Việt mượn từ tiếng Anh quagmire theo kiểu sao phỏng (calque) vào thời kỳ Mỹ sa lầy trong chiến tranh Việt Nam hay không?

3. Tại mục từ đang xét của quyển từ điển đang xét, từ quagmire được cho là dùng theo nghĩa bóng (figurative) trong câu sau đây: “The heavy rain had turned the pitch into a quagmire”. (Trận mưa to làm cho bãi bóng trở thành một vũng lầy). Xin cho biết có đúng là ở đây quagmire được dùng theo nghĩa bóng hay không.

AN CHI: Như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 402, Từ điển Anh – Việt của Viện ngôn ngữ do Hồ Hải Thuỵ, Chu Khắc Thuật, Cao Xuân Phổ “biên soạn chính” và Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1993 đã không nêu đủ các nghĩa của từng từ (mục). Và các vị đứng tên chính trong quyển từ điển không phải là những nhà biên soạn mà chỉ là những người biên dịch vì, như đã nói, công việc của họ chỉ là dịch sang tiếng Việt những lời tường giải trong các mục từ của quyển Oxford Advanced Learner’s Dictionary 1992, rồi ghi thêm (và nhiều khi không ghi) những từ hoặc cụm từ tiếng Việt tương ứng (đây thực chất cũng chỉ là dịch) mà thôi.

Quagmire có nghĩa đen là bãi lầy và nghĩa bóng là sự sa lầy nhưng Từ điển Anh – Việt chỉ ghi có nghĩa đen mà không ghi nghĩa bóng vì nghĩa này đã không được các nhà biên soạn Oxford Advanced Learner’s Dictionary ghi nhận. Các nhà biên soạn Từ điển Anh – Việt rất trung thành với Oxford Advanced Learner’s Dictionary, có thể nói là trung thành tuyệt đối, nghĩa là kể cả đối với những chỗ sai của quyển từ điển này. Oxford Advanced Learner’s Dictionary đã hoàn toàn sai khi cho rằng trong câu “The heavy rain had turned the pitch into a quagmire” thì quagmire được dùng theo nghĩa bóng. Vì tuyệt đối trung thành với Oxford Advanced Learner’s Dictionary nên các nhà biên soạn Từ điển Anh – Việt đã giữ nguyên ký hiệu “fig” (= figurative = (nghĩa) bóng) khi chuyển ngữ câu trên thành “Trận mưa to làm cho bãi bóng trở thành một vũng lầy”. Nhưng nếu trong câu tiếng Anh trên đây mà quagmire lại được dùng theo nghĩa bóng, thì cùng một cái lý như thế, ruồi, bánh, chẳng hạn, trong hai câu sau đây, cũng được dùng theo nghĩa bóng:

– Mụ phù thủy kia đã biến con sư tử đó thành một con ruồi.

– Bà nội trợ nọ đã biến mớ bột thừa thành mấy chiếc bánh ngon lành.

Nhưng ai cũng thấy được rằng trong những câu trên thì quagmire, ruồi, bánh, kể cả vũng lầy trong câu chuyển ngữ sang tiếng Việt, chỉ được dùng theo nghĩa đen mà thôi. Chỉ có trong câu sau đây, chẳng hạn, thì vũng lầy mới được dùng theo nghĩa bóng:

Chiến trường Afghanistan là một vũng lầy; hễ đã lún vào thì Mỹ rất khó lòng rút chân ra mà không bị què thọt.

Tóm lại, vì tuyệt đối trung thành với Oxford Advanced Learner’s Dictionary nên các nhà biên soạn Từ điển Anh – Việt chỉ ghi nhận có nghĩa đen của từ quagmire và mới sao y cái sai (“fig”) khi ghi chú về nghĩa bóng của từ này trong thí dụ đã thấy.

Còn sa lầy thì lại là một ngữ vị từ đích thực của tiếng Việt do người Việt tạo ra từ trước chứ không phải kết quả của một hình thức sao phỏng (như: chợ đen do marché noir, trọn gói do package, v.v.) từ tiếng Anh quagmire vào thời kỳ Mỹ bị sa lầy trong chiến tranh ở Việt Nam. Nó đã có mặt trong tiếng Việt muộn nhất cũng là vào gần cuối thế kỷ XVIII. Bằng chứng là trong Dictionarium Anamitico Latinum (1772 – 1773), Pigneaux de Béhaine đã ghi nhận như sau:

“Xa [sa] lầy: Rơi vào bùn lầy”*.

Nhưng rất có thể là đến khi siêu cường quốc number one thế giới bị “kẹt cứng” trong chiến tranh ở Việt Nam thì người ta mới bắt đầu dùng mấy tiếng sa lầy theo nghĩa bóng của quagmire trong lĩnh vực quân sự chăng?

§ 774. Kiến thức ngày nay, số 406, ngày 20-11-2001

ĐỘC GIẢ: Từ điển Anh – Việt của Viện ngôn ngữ học do Lê Khả Kế, Đặng Chấn Liêu và Bùi Ý hiệu đính (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975) đã dịch từ crusade là “cuộc viễn chinh chữ thập”. Từ điển Pháp – Việt của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam do Lê Khả Kế làm Tổng Biên tập (ACCT, 1981) cũng dịch croisade là “cuộc viễn chinh chữ thập”. Nhưng gần đây, nhân vụ chấn động ngày 11-9, nhiều tờ báo lại thích đảo ngược mà viết “cuộc Thập tự chinh”. Xin cho biết giữa “cuộc viễn chinh chữ thập” và “cuộc Thập tự chinh” thì cách diễn đạt nào hợp hơn.

AN CHI: “Cuộc viễn chinh chữ thập” là một cấu trúc “lỏng”, có thể gợi liên tưởng đến những “cuộc viễn chinh chữ chi 之 ”(!), “cuộc viễn chinh chữ Z”(!), v.v.. Nói một cách khác, cách diễn đạt đó dễ làm cho người ta lầm tưởng rằng “chữ thập” là định ngữ miêu tả của “cuộc viễn chinh” (cuộc viễn chinh hình chữ “thập”) chứ không phải định ngữ phân loại (đây là một kiểu viễn chinh mang tính chất tôn giáo). Còn “cuộc Thập tự chinh” thì lại là một cấu trúc chặt, do đó thích hợp hơn với yêu cầu của thuật ngữ; ở đây là thuật ngữ lịch sử, dùng để chỉ (những) cuộc viễn chinh của các nước phương Tây Công giáo chống người Hồi giáo hồi thế kỷ XI – XIII.

§ 775. Kiến thức ngày nay, số 406, ngày 20-11-2001

ĐỘC GIẢ: “Phả hệ” và “phổ hệ” có khác nhau hay không?

AN CHI: Phả hệ và phổ hệ chẳng qua chỉ là một vì đó chỉ là biến thể ngữ âm của nhau mà thôi. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Việt Hán thông thoại tự vị của Đỗ Văn Đáp, Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng đều ghi chữ phổ 譜 cũng đọc là phả. Nhưng có một quyển sách đã cho rằng đó là hai đơn vị từ vựng khác nhau: quyển Thuật ngữ khái niệm lịch sử phổ thông do một tập thể 17 nhà nghiên cứu, giáo sư, phó giáo sư, phó tiến sĩ, biên soạn, do GS. PTS. Phan Ngọc Liên chủ biên, dày 194 trang, do Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 1996. Quyển sách này đã cho như sau:

“Phả hệ. Tài liệu ghi chép nguồn gốc, dòng họ, các chi, các đời kế tiếp nhau trong dòng họ”. (tr. 118), và

“Phổ hệ. Bảng ghi thứ tự nối tiếp nhau của các triều vua trong một vương triều (bao gồm niên hiệu, thời gian cầm quyền, quan hệ gia đình với triều vua trước đó)”. (tr. 124)

Cứ như quyển sách này đã ghi nhận và định nghĩa thì rõ ràng phổ hệ và phả hệ là hai mục từ riêng biệt và phổ hệ có nghĩa hẹp hơn phả hệ vì đó chỉ là phả hệ của các vương triều mà thôi. Thực ra thì, như đã nói ngay từ đầu, phổ hệ và phả hệ là một còn định nghĩa đã cho tại mục “phổ hệ” của quyển Thuật ngữ do GS. PTS. Phan Ngọc Liên chủ biên thì rõ ràng là không đầy đủ vì nó chỉ dành độc quyền cho các dòng vua mà thôi.

§ 776. Kiến thức ngày nay, số 407, ngày 1-12-2001

ĐỘC GIẢ: “Tôi là người. Không có cái gì thuộc về con người mà lại xa lạ đối với tôi”. Câu danh ngôn này có phải do Karl Marx nói không?

AN CHI: Đây là một câu thơ của Terentius (Térence) ở thế kỷ II tr. CN, nguyên văn tiếng La Tinh như sau:

“Homo sum: humani nil a me alienum puto”.

(Tôi là (sum) người (homo): tôi nghĩ (puto) không có cái gì (nil = nihil) liên quan đến con người (humani) là xa lạ (alienum) đối với (a) tôi (me)).

§ 777. Kiến thức ngày nay, số 407, ngày 1-12-2001

ĐỘC GIẢ: Chữ “ten(g)” trong “ten(g) đồng”, “hôi ten(g)” phải viết có “g” hay không “g”? Đâu là xuất xứ của chữ này?

AN CHI: Phụ âm cuối của tiếng mà ông đã hỏi là [ŋ] chứ không phải [n]; vậy phải viết “teng” mới đúng. Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994) đã sai khi viết chữ này thành “ten”. Quyển từ điển này có hai mục sau đây:

-“Ten. dt.(bâ). Tanh. Ten đồng. Hôi ten”. (bâ = biến âm -AC) và

-“Ten. dt. Đồng chinh, xu. Không có một ten bỏ túi”.

Chính các nhà biên soạn cũng đã ghi nhận rằng chữ đang xét là biến âm của tanh; vậy sao lại có thể viết thành “ten”? Đã là biến âm của -anh thì phải là -eng. Xin dẫn chứng bằng một số cặp tương ứng giữa tiếng phổ thông với tiếng Bình Trị Thiên, dẫn theo “Bảng từ vựng” trong Phương ngữ Bình Trị Thiên của Võ Xuân Trang (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 221 – 276): – bánh ~ béng; canh ~ keng; lành ~ lèng; nanh ~ neng (răng); nạnh ~ nẹng (ganh tị); rảnh ~ rẻng; (màu) xanh ~ xeng.

Vậy, đã là biến âm của tanh thì phải là teng. Đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ mà âm Hán Việt hiện đại là tinh, có nghĩa là “vert-de-gris”, như đã đối dịch trong Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S Couvreur. Vert-de-gris là teng đồng, tức là cái thứ “nước xanh xanh ở trong đồng thau rịn ra”, như đã giảng trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của (rất tiếc là tác giả này cũng viết thành “ten”). Vì cách viết chính xác phải là teng nên cái chữ “ten” mà nhóm Nguyễn Văn Ái giảng là “đồng chinh”, “đồng xu”, tất nhiên cũng phải viết là teng vì đây chẳng qua chỉ là hình thức nói tắt đã từ vựng hóa của danh ngữ đồng xu teng trong khẩu ngữ của phương ngữ Nam Bộ mà thôi. Đồng xu teng là đồng xu đã bị sét, đã bị gỉ, nghĩa là đồng xu không xài được. Vì vậy nên teng trong trường hợp này bao giờ cũng có sắc thái xấu nghĩa (péjoratif).

Nhiều từ điển gia người Nam Bộ, do có định kiến về cách phát âm “sai” của địa phương mình nên thường có dụng ý điều chỉnh cách viết cho phù hợp với cách phát âm chuẩn theo tiếng phổ thông mà cái nền và cái lõi là cách phát âm của miền Bắc. Rất may mắn là trong trường hợp của chữ “teng” thì dân Nam Bộ chưa bao giờ phát âm sai. Chỉ có một số từ điển gia không lưu tâm đến nguồn gốc đích thực của từ đang xét mới “-en” hóa nó thành “ten” để phạm một sai lầm gọi là sự siêu chỉnh (hypercorrection) mà thôi.

§ 778. Kiến thức ngày nay, số 407, ngày 1-12-2001

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết “tiền giả định” là gì.

AN CHI: Dictionnaire de logique pour linguistes của A. Bannour (Conseil international de la langue française, Paris, 1995) định nghĩa “présupposition” (tiền giả định) là “mối quan hệ tiềm ẩn giữa hai mệnh đề khiến người ta không thể chấp nhận mệnh đề này mà không chấp nhận mệnh đề kia”. Cao Xuân Hạo, dẫn công trình Introduction to Logical Theory của P.F. Strawson, đã cho biết như sau: “Một phát ngôn P được coi là tiền giả định một phát ngôn Q khi tính chân xác của Q là điều kiện tiên quyết của tính chân xác của P”*. Còn The Encyclopedia of Languages and Linguistics do R.E. Asher làm tổng biên tập (Pergamon Press, First edition, 1994), vol.6, thì thuyết minh như sau: “Nếu câu B có tiền giả định A (B >> A) thì B chỉ có thể đúng nếu A đúng, nói cho rõ hơn, mệnh đề mà A diễn đạt phải đúng thì mệnh đề mà B diễn đạt mới có thể đúng được”. (Xem mục “Presupposition”). Sau đây là mấy thí dụ:

(a) FBI đang điều tra nguyên nhân của vụ tai nạn máy bay ngày 12-11-01 tại New York.

(b) Hàng ngàn người dân vô tội ở Afghanistan đã thiệt mạng vì những cuộc ném bom của Mỹ.

(c) Cho đến nay, Osama bin Laden vẫn an toàn trước những sự truy lùng của Mỹ.

Tiền giả định của câu (a) là

(m) Ngày 12-11-01, một tai nạn máy bay đã xảy ra tại New York;

của câu (b) là

(n) Mỹ có ném bom (ác liệt là đằng khác!) xuống Afghanistan;

và của câu (c) là

(o) Mỹ đang tiếp tục truy lùng Osama bin Laden.

Trong mối quan hệ giữa (a) với (m), người ta chỉ có thể công nhận cả hai chứ không thể thừa nhận (a) mà lại phủ nhận (m) vì nếu (m) sai thì (a) cũng không thể đúng được.

Giữa (b) với (n) cũng thế. Nếu Mỹ không ném bom một cách tàn bạo xuống Afghanistan thì làm sao có chuyện “hàng ngàn người dân vô tội ở Afghanistan đã thiệt mạng vì bom Mỹ”? Họ có thể chết đấy, thậm chí chết như rạ nữa, nhưng phải là vì nguyên nhân khác, chẳng hạn do nạn đói hoặc do dịch bệnh, v.v. chứ không phải vì bom Mỹ. Còn ở đây thì rõ ràng là bom Mỹ đã gây ra rất nhiều cảnh thương tâm, thậm chí kho lương thực cứu trợ của Liên Hiệp Quốc cũng bị “đánh nhầm”, trụ sở Đài truyền hình Al-Jazeera tại Kabul bị “đánh nhầm”, đến đền thờ Hồi giáo cũng bị “đánh nhầm” (mà lại đúng vào ngày bắt đầu tháng ăn chay Ramadan!).

Và cũng như trên với (c) và (o). Nếu tiền giả định (o) không đúng, nghĩa là Mỹ không hề truy lùng Osama bin Laden thì (c) chỉ có thể là một câu nói ngớ ngẩn mà thôi.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3