Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 745 - 761

§ 745. Kiến thức ngày nay, số 397, ngày 20-8-2001

ĐỘC GIẢ: Tôi nghe nói nhà thơ Tô Đông Pha có một người bạn rất thân là thiền sư Phật Ấn và tình bạn giữa hai vị ấy còn lưu lại một số giai thoại thú vị. Điều này có đúng không và có sách nào ghi lại không?

AN CHI: Chúng tôi xin kể hầu ông hai mẩu chuyện sau đây, thấy chép trong Trung Quốc thật dụng đối liên đại toàn của Lương Thạch và Lương Đống (Thượng Hải Văn hóa xuất bản xã, 1998, tr. 61 – 62, 82 – 83).

Một hôm, em gái của Tô Đông Pha trêu hòa thượng Phật Ấn bằng câu xuất chiết tự sau đây:

Nhân tằng thị tăng, nhân phất năng thành phật,

nghĩa là:

Chữ nhân 亻 và chữ tằng 曾 hợp lại là chữ tăng 僧, chữ nhân 亻 và chữ phất 弗 có thể hợp lại thành chữ Phật 佛.

Nhưng cái nghĩa của câu này, đọc lên “thấy liền”, thì lại là:

Người từng là nhà sư (nhưng) người không thể thành Phật.

Rõ ràng là Tô tiểu muội muốn châm chọc bạn của anh mình. Phật Ấn bèn đối lại, tất nhiên cũng chiết tự:

Nữ ti vi tì, nữ hựu khả xưng nô,

nghĩa là:

Chữ nữ 女 và chữ ti 卑 là tì 婢, chữ nữ 女 và chữ hựu 又 có thể gọi là nô 奴.

Nhưng, cũng đọc lên “thấy liền”, thì lại là:

Con gái hèn là đày tớ, con gái cũng có thể gọi là con nụ.

Hòa thượng Phật Ấn đáp lại như thế là vì “phục dịch” việc trà nước cho anh mình tiếp bạn không phải ai khác mà chính là… Tô tiểu muội.

Sau đây là chuyện thứ hai. Một hôm Tô Đông Pha cùng Phật Ấn và em trai mình là Tô Triệt đi chơi núi Vu Sơn. Hòa thượng Phật Ấn ra đối:

Vu sơn đắc tự Vu sơn hảo,

nghĩa là:

Không có núi nào đẹp được như núi Vu (sơn).

Điểm đặc sắc của câu xuất là nó bao hàm lối chơi chữ bằng hiện tượng đồng âm: cũng là vu sơn nhưng chữ vu ở đầu câu có nghĩa là không (vu là âm chính thống của vô = không) còn chữ vu ở cuối câu thì lại là tên của một ngọn núi.

Tô Đông Pha đối lại:

Hà diệp năng như hà diệp viên?

nghĩa là:

Lá nào có thể tròn như lá sen?

Cũng là hiện tượng đồng âm ở đúng những vị trí tương ứng với câu trước: cũng là hà diệp nhưng chữ hà ở đầu câu có nghĩa là nào còn chữ hà ở cuối câu thì lại là tên một giống thảo mộc.

Nghe anh đối xong, Tô Triệt mới đọc câu của mình:

Hà thủy năng như Hà thủy thanh?

nghĩa là:

Nước nào có thể trong bằng nước sông Hoàng Hà. (Hà là tên tắt của Hoàng Hà)? Cũng là hà thủy nhưng chữ hà ở đầu câu có nghĩa là nào còn chữ hà ở cuối câu thì lại là tên của một con sông.

Hòa thượng Phật Ấn và Tô Đông Pha đều khen câu đối lại của Tô Triệt: đem thủy đối với sơn, đem tên sông Hoàng (hà) đối với tên núi Vu (sơn), thật đúng là “tuyệt diệu hảo liên”!

§ 746. Kiến thức ngày nay, số 398, ngày 1-9-2001

ĐỘC GIẢ: “Thiên tài là mười phần trăm cảm hứng và chín mươi phần trăm mồ hôi”. Xin cho biết đây là tục ngữ hay danh ngôn. Nếu là danh ngôn thì do ai nói?

AN CHI: Oxford Advanced Learner’s Dictionary 1992 ghi rằng đó là tục ngữ, nguyên văn như sau: “Genius is 10% inspiration and 90% perspiration”. (Thiên tài là 10% cảm hứng và 90% lao động (mồ hôi)). Nhưng And I quote của Ashton Applewhite, William R. Evans III và Andrew Frothingham (St. Martin’s Press, New York, 1992) thì, với một sự khác biệt về tỷ lệ, lại xác nhận rằng câu này là của nhà phát minh Thomas Alva Edison (1847 – 1931), nguyên văn như sau: “Genius is one percent inspiration and ninety-nine percent perspiration”. (Thiên tài làmột phần trăm cảm hứng và chín mươi chín phần trăm lao động (mồ hôi)).

Vậy không biết Edison đã cải biên tục ngữ hay là các nhà biên soạn Oxford Advanced Learner’s Dictionary đã tục ngữ hóa danh ngôn?

§ 747. Kiến thức ngày nay, số 398, ngày 1-9-2001

ĐỘC GIẢ: Bàn về chữ thu trong đôi câu đối ở đền Kiếp Bạc, trong bài “Thử bàn thêm về bốn chữ kiếm khí, thu thanh nhân đọc bài của tác giả Tạ Ngọc”, đăng trên Tạp chí Hán Nôm, số 2-2001, tác giả Nguyễn Tiến Đoàn cho rằng đó không phải chữ thu 秋 là mùa thu, mà là chữ thu 啾 bộ khẩu 口, có nghĩa là tiếng kêu của quỷ. Tác giả cho rằng, khi viết “thu thanh”, Vũ Phạm Hàm đã dùng cái ý của hai câu thơ sau đây trong bài “Binh xa hành” của Đỗ Phủ:

Tân quỷ phiền oan, cựu quỷ khốc,

Thiên âm vũ thấp thanh thu thu

(Ma mới kêu oan, ma cũ khóc,

Trời âm mưa thấm khóc hu hu).

(Hoàng Tạo dịch)

Vậy “Lục Đầu vô thủy bất thu thanh” phải được dịch là: Sông Lục Đầu không dòng nước nào có tiếng kêu la của quỷ”.

Xin cho biết có thể đưa chữ thu này ra để bác chữ thu kia được hay không và ngoài hai chữ này thì chữ nào mới là hợp lý nhất.

AN CHI: Cuộc thảo luận về đôi câu đối này trên Kiến thức ngày nay, các số 293, 303, 306, 308, 310, 312, 313 đã kết thúc với lời tổng kết chính thức của Ban biên tập trên số 317. Vì vậy chúng tôi xin mạn phép không trả lời ý sau trong câu hỏi của ông mà chỉ nhận xét về chữ thu 啾 của ông Nguyễn Tiến Đoàn như sau.

Ông Nguyễn Tiến Đoàn cho rằng “các bộ Từ hải, Từ Nguyên đều giải nghĩa thu thu là tiếng quỷ kêu”. Thực ra, ông đã hiểu nhầm lời giảng trong các bộ từ điển này. Tại mục thu thu 啾啾 Từ Nguyên đã giảng hai tiếng thu thu nguyên văn như sau:

“Tiểu thanh. Sở từ: Huệ cô minh hề thu thu”. Vị trùng thanh dã. Đỗ Phủ thi: “Thiên âm vũ thấp thanh thu thu”. Vị quỷ thanh dã”.

Nghĩa là:

“Tiếng kêu nhỏ. Thí dụ: “Ve sầu kêu hề thu thu”. (Sở từ). Nói về tiếng côn trùng vậy. “Trời u ám, mưa ẩm ướt, tiếng thu thu”. (Thơ Đỗ Phủ). Nói về tiếng của ma vậy”.

Trong lời giảng trên đây, cái nghĩa chính thức của hai tiếng thu thu là “tiếng kêu nhỏ” (tiểu thanh). Nghĩa này được minh họa bằng hai thí dụ, một lấy ở Sở từ, nói về tiếng kêu của ve sầu; một lấy từ thơ của Đỗ Phủ, nói về tiếng kêu của ma. Trong câu thơ của Đỗ Phủ mà Từ Nguyên nêu làm thí dụ, sở dĩ người ta biết được đó là tiếng của ma không phải là nhờ hai tiếng thu thu mà vì ở câu trước, Đỗ Phủ có nói đến ma cũ, ma mới:

Tân quỷ phiền oan, cựu quỷ khốc (Ma mới kêu oan, ma cũ khóc).

Từ hải, bản cũ, cũng giảng cùng một tinh thần như Từ Nguyên nhưng do lối trình bày không rõ ràng, dễ gây hiểu lầm nên Từ hải, bản hiệu đính 1989, đã giảng lại thành hai nghĩa rành mạch như sau: “1. Diễn tả tiếng nhỏ nhẻ, líu ríu (…) 2. Diễn tả tiếng kêu thê thảm, ai oán (…)”. Cổ đại Hán ngữ từ điển của Cổ đại Hán ngữ từ điển biên tả tổ (Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 1998) cũng giảng hai tiếng thu thu rành mạch như sau: “1. Từ tượng thanh, chỉ tiếng kêu của động vật (…) 2. Từ tượng thanh, chỉ tiếng kêu tỉ tê, thê thảm (…) 3. Từ tượng thanh, chỉ tiếng đồ vật va chạm nhau (…)”. Tuy cũng nêu câu thơ của Đỗ Phủ (Thiên âm vũ thấp thanh thu thu) để minh họa cho nghĩa 2 nhưng quyển từ điển này không hề giảng rằng thu thu là tiếng kêu của quỷ.

Tóm lại, hai tiếng thu thu không hề có nghĩa là tiếng quỷ kêu. Và càng không có lý do để nói rằng “Vũ Phạm Hàm đã dùng ý này trong câu thơ của Đỗ Phủ” như ông Nguyễn Tiến Đoàn đã viết vì một số nhà thơ khác cũng dùng từ tượng thanh song tiết này để diễn tả tiếng kêu la của ma quỷ, chẳng hạn như Hàn Dũ:

Quỷ khốc thu thu thanh phí thiên

(Ma khóc “thu thu” tiếng dậy (sôi) trời);

hoặc Trần Dụ:

Nhất khoa tinh mị náo thu thu

(Một ổ (hang) yêu ma làm ồn “thu thu”); v.v..

Vậy tại sao lại không nói rằng Vũ Phạm Hàm đã lấy ý của Hàn Dũ hoặc Trần Dụ?

Ngoài ra, ông Nguyễn Tiến Đoàn còn nhầm lẫn ở một điểm quan trọng khác nữa: chữ thu 啾 mà ông đã nêu và hai chữ thu thu 啾啾 của Đỗ Phủ khác hẳn nhau về các mặt ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa. Về ngữ âm, thu là một từ đơn tiết còn thu thu là một từ song tiết tượng thanh. Về ngữ pháp thì thu là động từ hoặc danh từ còn thu thu là một hình dung từ. Về ngữ nghĩa, nếu là danh từ thu có nghĩa là tiếng trẻ con, tiếng ngâm nga, tiếng thì thầm; nếu là động từ thì nó có nghĩa là thì thầm, nói nhỏ, thổi nhạc khí còn thu thu thì lại có các nghĩa đã nêu ở trên. Tất cả các quyển từ điển tiếng Hán đều phân biệt rất rõ các từ thu và thu thu. Vì vậy nên chữ thu mà ông Nguyễn Tiến Đoàn nêu ra dứt khoát không phải là hai chữ thu thu của Đỗ Phủ. Đây là một lý do quan trọng nữa để khẳng định rằng Vũ Phạm Hàm không hề dùng ý thơ của bậc thi thánh đó.

Vì những điểm quan trọng trên đây nên chúng tôi cho rằng chữ thu bộ khẩu mà ông Nguyễn Tiến Đoàn đưa ra không phải là chữ trong thơ của Đỗ Phủ (của Đỗ Phủ là thu thu). Nhưng nó chứng tỏ rằng chuyện dị bản của đôi câu đối ở đền Kiếp Bạc là một hiện tượng có thật vì chẳng những ông đã thấy nó (thay vì chữ thu là mùa thu) trong tập Danh công trướng đối chép tay của một gia đình cử nhân cùng khoa với Vũ Phạm Hàm mà ông còn được ông Đỗ Phúc Hứa ở Thái Bình chép cho đôi câu đối đó vào sổ tay cũng với chữ thu bộ khẩu.

§ 748. Kiến thức ngày nay, số 398, ngày 1-9-2001

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Ngồi như la hán” đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 5-2001, tác giả Hoàng Văn Hành có viết như sau:

“La Hán, hay a la hán là tên dịch âm qua tiếng Hán, từ chữ arhat (Sanskrit) hoặc arahant (Pháp). Arhat là dạng tắt của arahant, và la hán là dạng tắt của a la hán”. (tr. 40)

Xin cho biết lời khẳng định trên đây có đúng hay không.

AN CHI: Tiếng Pháp không có “arahant” mà chỉ có arhat đồng thời (a) la hán không thể là hình thức phiên âm từ tiếng Pháp được vì mãi sau này người Trung Quốc mới tiếp xúc với tiếng Pháp còn mấy tiếng (a) la hán thì đã có mặt trong Hán ngữ tự thời xửa thời xưa. Huống chi, như đã nói, tiếng Pháp chỉ có arhat mà thôi. Mấy tiếng (a) la hán là hình thức phiên âm từ tiếng Sanskrit arhant, mà nghĩa gốc là “đáng kính”. Arhat càng không phải là dạng tắt của arahant. Cái mà ông Hoàng Văn Hành tưởng là “dạng tắt” thực chất là hiện tượng biến cách trong tiếng Sanskrit còn arhat thực chất lại là hình thức Sanskrit tương ứng với tiếng Pali arahanta, đều có nghĩa là “la hán”.

§ 749. Kiến thức ngày nay, số 399, ngày 10-9-2001

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết hai tiếng “Vu lan” (lễ Vu lan) có nghĩa là gì. “Vu” là gì, “lan” là gì?

AN CHI: “Vu lan” chỉ là hai tiếng vô nghĩa dùng để phiên âm mà thôi. Trong bài “Sự tích Rằm tháng Bảy và xuất xứ của hai tiếng vu lan”, Kiến thức ngày nay, số 89, ngày 1-8-1992, tr. 41 – 44), Huệ Thiên đã viết như sau:

“Vu lan là dạng tắt của Vu lan bồn. Đây là ba tiếng dùng để phiên âm danh từ Sanskrit ullambhana. Từ này thoạt đầu đã được phiên âm bằng bốn tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt là Ô lam bà na (…). Về sau, Ô lam bà na được thay thế bằng dạng phiên âm mới là Vu lan bồn trong đó vu thay thế cho ô, lan cho lam và bồn cho bà n(a). Vì Vu lan bồn chỉ là ba tiếng dùng để phiên âm cho nên từng tiếng một (vu, lan, bồn) hoàn toàn không có nghĩa gì trong Hán ngữ cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng thành “cái chậu đựng thức ăn” như hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi đã làm (trong Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 795) là hoàn toàn không đúng.

Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ Sanskrit này có ba hình vị: tiền tố ud (trở thành ul do qui tắc biến âm sandhi khi d đứng trước l), căn tố LAMBH và hậu tố ana (…) Tiền tố ud chỉ ý phủ định hoặc đối lập (…). Căn tố LAMBH là hình thái luân phiên với LABH, có nghĩa là lấy, chiếm lấy, nắm bắt. Vậy ul-LAMBH có nghĩa là giải thoát. Hậu tố ana chỉ hành động có liên quan đến nghĩa mà tiền tố và căn tố diễn đạt. Vậy ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm sang Hán ngữ bằng ba tiếng đọc theo âm Hán Việt là Vu lan bồn. Vu lan bồn được nói tắt thành Vu lan. Vậy Vu lan là sự giải thoát”*.

Tiếc rằng cho đến nay vẫn còn nhiều tác giả giảng sai về xuất xứ và nghĩa gốc của hai tiếng vu lan. Vì khuôn khổ nên sau đây chúng tôi chỉ nêu một trường hợp làm dẫn chứng mà thôi.

Trong Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du (bản in lần thứ hai, An Tiêm, Paris, 1995), Hoàng Xuân Hãn đã viết như sau:

“Phạn-ngữ ullambana nghĩa là cực khổ tột bực. Nghĩa lại chuyển thành cứu khỏi cực khổ. Phiên âm Hán ngữ đã có nhiều cách; một cách là Vu-lan-bồn, nói tắt: Vu-lan”. (Sđd, tr. 14)

Không biết Hoàng Xuân Hãn đã căn cứ vào nguồn thư tịch nào về Phật học và về tiếng Sanskrit (Phạn ngữ) mà lại khẳng định rằng “ullambana là cực khổ tột bực”, rồi “nghĩa lại chuyển thành cứu khỏi cực khổ”. Để cho rõ vấn đề, trước nhất, xin nhấn mạnh rằng trong tiếng Sanskrit thì ullambhana và ullambana là hai từ khác hẳn nhau về nghĩa gốc của căn tố.

Căn tố của từ trước là LABH/ LAMBH, như đã phân tích, còn căn tố của từ sau thì lại là LAMB. Cũng như từ trước, ullambana có ba hình vị: tiền tố ud (trở thành ul vì lý do đã nêu), căn tố LAMB và hậu tố ana. Ngoài nghĩa nêu trong đoạn đã dẫn của Huệ Thiên, ud (→ul) còn chỉ hướng chuyển động từ dưới lên. LAMB là treo (vậy ul – LAMB là treo lên) còn ana là hậu tố chỉ hành động có liên quan đến nghĩa mà tiền tố và căn tố diễn đạt, như đã thấy. Vậy ullambana là sự treo lên và tất cả chỉ có thế. Từ này hoàn toàn chẳng có liên quan gì đến ý “cực khổ tột cùng”, càng không phải là “cứu khỏi cực khổ”. Chúng tôi mạo muội đoán mò rằng chẳng qua Hoàng Xuân Hãn chỉ căn cứ vào những lời giảng sai về mấy tiếng “vu lan (bồn)” trong thư tịch của Trung Hoa rồi lấy cái nghĩa đó mà gán cho danh từ Sanskrit ullambana, tự nó vốn cũng chẳng có liên quan gì đến mấy tiếng “vu lan (bồn)”.

Mathews’ Chinese – English Dictionary đã chú một cách ngắn gọn và chính xác về xuất xứ của ba tiếng “vu lan bồn” như sau:

“From the Sanskrit ullambhana, deliverance”. (Do tiếng Sanskrit ullambhana, (có nghĩa là) sự giải thoát).

Gần đây nhất, nhà nghiên cứu Phật học Nguyên Huệ, trong bài “Lễ Vu lan – Rằm tháng bảy qua sự ghi nhận nơi một số tác phẩm biên khảo về văn hóa, phong tục, tín ngưỡng”*, cũng đã chú rõ rằng “Kinh Vu lan bồn”, tiếng Sanskrit là Ullambhana sútra (sútra = kinh).

Vậy cái nghĩa “cứu khỏi cực khổ” mà Hoàng Xuân Hãn cho là nghĩa phái sinh (“chuyển”) của ullambana chính là cái nghĩa đích thực của ullambhana (sự giải thoát, sự cứu nạn,…) còn “cực khổ tột bực” chẳng những không phải là nghĩa gốc của từ này mà cũng chẳng phải của từ ullambana do Hoàng Xuân Hãn nêu ra.

§ 750. Kiến thức ngày nay, số 399, ngày 10-9-2001

ĐỘC GIẢ: Trong câu “Vô độc bất anh hùng” (hoặc trượng phu) thì chữ “độc” là “độc ác” hay “độc nhất” và cả câu nghĩa là gì?

AN CHI: Mặc dù “anh hùng” và “trượng phu” cùng một trường nghĩa nhưng nguyên văn tìm thấy trong từ điển thì lại là “Vô độc bất trượng phu” và chữ độc ở đây là 毒, có nghĩa là xấu, ác, v.v.. Hán Đại thành ngữ đại từ điển (Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, 1997) đã ghi như sau: 无毒 不丈夫 (wú dú bù zhàng fu): Cựu vị bất tâm ngoan thủ lại tựu bất thành vi đại trượng phu”. (Xưa (người ta) cho rằng nếu không có lòng dạ hung hiểm và thủ đoạn độc ác thì không thành đại trượng phu).

Chúng tôi nghĩ rằng nhiều bạn đọc chờ câu trả lời khẳng định chữ độc 獨 là duy nhất nhưng người xưa quả đã dùng chữ “độc” kia nên sách vở mới ghi nhận như thế. Quan niệm đó có đúng hoặc có thích hợp hay không thì lại tùy thuộc ở từng người.

§ 751. Kiến thức ngày nay, số 399, ngày 10-9-2001

ĐỘC GIẢ: Tiếng franglais là tiếng gì?

AN CHI: Franglais là một mot-valise (từ tạo ra bằng cách ghép phần đầu của một từ với phần cuối của một từ khác) gồm có phần đầu (fran) của từ français (= tiếng Pháp) và phần cuối (-glais) của từ anglais (= tiếng Anh), dùng để chỉ bộ phận các từ ngữ và các lối nói của tiếng Pháp bắt nguồn từ tiếng Anh.

§ 752. Kiến thức ngày nay, số 399, ngày 10-9-2001

ĐỘC GIẢ: Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 397 có câu “Chasser (sic) le naturel, il revient au galop”. Tôi không hiểu tại sao có chữ “sic” trong ngoặc đơn sau chữ “chasser”.

AN CHI: Chữ “sic” sau chữ “chasser” có nghĩa là người trích dẫn đã chép chữ đó “y như thế” mặc dù đó là một chữ viết sai. Còn chữ đúng thì lại là “chassez” ở thức mệnh lệnh (chứ không phải “chasser”, là thức bất định).

§ 753. Kiến thức ngày nay, số 399, ngày 10-9-2001

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Sau chủ nhật là ngày thứ hai hay thứ nhất? Duyên nợ Việt – Bồ?”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 8-2001, tác giả Hồ Hải Thụy có viết: “Đạo Ca-tô (hay Gia-tô) thừa hưởng tuần lễ kiểu Do Thái (…) Nhưng tuần lễ theo kiểu Ca-tô này phải đến năm 321 mới được (…) công nhận” (tr. 2). Xin cho biết tại sao Gia tô cũng nói thành “Ca Tô”.

AN CHI: Trong hai chữ “Gia Tô” thì “Gia” là một cách viết sai. Da Tô mới là cách viết đúng và mới là âm Hán Việt chính xác của hai chữ Hán 耶穌 mà người Trung Quốc dùng để phiên âm tên của Chúa Jesus. Âm Bắc Kinh của hai chữ đó là Yēsū.

Có lẽ vì thấy rằng một số chữ Hán, nay đọc theo âm Hán Việt với phụ âm đầu gi- (như: gia, giam, gian, giáp, v.v.), vốn có phụ âm đầu [k] nên tác giả mới làm một thao tác “siêu chỉnh” mà “phục hồi” âm “Ca” cho chữ “Gia” chăng? Và có lẽ, theo tác giả, phải là Ca Tô thì mới phản ánh “đúng” hai âm tiết đầu tiên của các từ catholicisme (Công giáo), catholique (thuộc về Công giáo) chăng?

Nhưng chính người Trung Quốc thì lại dùng mấy tiếng Da Tô giáo để chỉ đạo Tin lành chứ không phải (đạo) Công giáo. Còn người Việt Nam thì đã có một thời dùng mấy tiếng “đạo Da Tô” (thường viết thành “Gia Tô”) để chỉ Công giáo nhưng chữ “da (gia)” ở đây Hán tự là 耶 nên không bao giờ có thể đọc thành “ca”. Cuối cùng, nếu nói rằng “Ca Tô” ở đây là dạng phiên âm đối với hai âm tiết đầu (catho-) của từ Catholique (hoặc Catholicisme) – có người đã làm như thế – thì cũng phải thừa nhận rằng đó là một cách phiên âm mang tính cá nhân chứ “Công giáo” từ lâu đã là một sự lựa chọn thống nhất của tiếng Việt toàn dân, nhất là của ngôn ngữ tôn giáo.

Cuối cùng, xin nói thêm rằng trong bảng so sánh ở tr. 3, Hồ Hải Thụy đã sai khi dịch danh từ feira của tiếng Bồ Đào Nha thành “ngày lễ” trong một loạt trường hợp. Thực ra, feira là phiên chợ còn féria thì mới là ngày hoặc ngày lễ như chúng tôi đã nói rõ tại Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 135, ngày 1-4-1994 và số 161, ngày 1-1-1995, khi giới thiệu về tên gọi của các ngày trong tuần.

§ 754. Kiến thức ngày nay, số 400, ngày 20-9-2001 và số 401, ngày 1-l0-2001

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Châu dệt trong một câu Kiều” đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 8-2001, tác giả Nguyễn Khắc Bảo “tin chắc” rằng câu 1316 của Truyện Kiều đọc đúng phải là:

“Lời lời châu dệt, hàng hàng gấm thêu” chứ không phải “Lời lời châu ngọc (…)” như các bản Kiều quốc ngữ vẫn chép từ 1875 (với bản phiên âm của Trương Vĩnh Ký) cho đến nay. Xin cho biết có đúng như thế hay không và nếu đúng thì “châu dệt” nghĩa là gì?

AN CHI: Vì đây là lần đầu tiên danh ngữ “châu dệt” xuất hiện trong văn chương Việt Nam nên xin thú thật rằng chúng tôi cũng không hiểu nó có nghĩa là gì. Chúng tôi chỉ mới biết có sợi dệt, chứ hạt châu, hạt ngọc mà đem dệt thì xưa nay chưa nghe và chưa thấy bao giờ. Vậy ở đây chỉ xin nhận xét về một vài điểm trong lập luận của ông Nguyễn Khắc Bảo mà thôi.

Ông Nguyễn Khắc Bảo cho biết rằng từ năm 1871 đến năm 1939, các nhà khắc ván in đều thống nhất chép câu đang xét là:

“Lời lời châu nguyệt (月 – AC), hàng hàng gấm thêu”

rồi viết tiếp như sau: “Theo Vương Vân Ngũ đại từ điển (số 77220) và Quảng Châu âm từ điển (tr. 341) thì ta có: chữ 月 ngoài cách đọc hiện đại là “ngư quyết thiết = nguyệt” còn có âm cổ là Nguyệt âm Duyệt 月音閱”.

Ông Nguyễn Khắc Bảo xem luận cứ trên đây là điểm mấu chốt trong lập luận của ông vì nếu quả chữ nguyệt 月 cũng có âm duyệt thì, theo ông, “chuyển sang chữ nôm, ta có quyền đọc chữ này theo âm dệt là rất hợp lí”. Tiếc rằng ông đã nhầm, và nhầm từ căn bản.

Ông Nguyễn Khắc Bảo tra cứu Vương Vân Ngũ đại từ điển mà lại quên tra cứu phần “Biên tập phàm lệ” nên cứ ngỡ rằng đối với mỗi chữ, “ngoài cách đọc hiện đại, nó còn chú cả âm cổ” của chữ đó nữa. Sự thật hoàn toàn không phải như thế. Điều 5 của “Biên tập phàm lệ” nói rõ như sau:

“Bổn thư đơn tự quân án Quốc dân Chính phủ Đại học viện ban bố chi tân quốc âm, phân biệt dĩ chú âm phù hiệu, quốc ngữ La Mã tự, cập Hán tự trực âm biểu xuất chi”.

Nghĩa là:

“Sách này lấy phù hiệu chú âm (kiểu như: ㄉ, ㄓ, ㄨ, v.v. – AC), chữ La Tinh ghi quốc âm (như: ferng, haan, laang, tzy, v.v. – AC) và chữ Hán trực âm (dùng chính một chữ Hán đồng âm để chú âm – AC) để chỉ ra một cách rõ ràng âm của từng chữ theo quốc âm mới (tân quốc âm thực chất là âm Bắc Kinh – AC) do Viện Đại học của Chính phủ Quốc dân ban bố”.

Cứ như trên thì cái mà ông Nguyễn Khắc Bảo cứ ngỡ là “âm cổ” của chữ nguyệt 月 trong Vương Vân Ngũ đại từ điển lại chính là tân quốc âm, nghĩa là âm Bắc Kinh hiện đại của nó. Trong quyển từ điển đó, chữ này đã được chú bằng:

– Hán ngữ trực âm là “悦 ” (chứ không phải 閱 như ông Nguyễn đã ghi);

– Chú âm phù hiệu là “ㄩㄝ”; và

– Quốc ngữ La Mã tự là “Yueh”.

Ba cách ghi trên đây đều tương ứng với chữ yuẽ trong lối pīnyīn của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày nay và cả bốn cách ghi này đều chỉ là âm phổ thông, tức âm Bắc Kinh hiện đại của chữ 月, nên tuyệt đối không thể đồng âm với “duyệt” trong hệ thống âm Hán Việt được.

Đối với Quảng Châu âm tự điển (chứ không phải “từ điển”), ông Nguyễn Khắc Bảo cũng phạm một sai lầm tương tự. Điều 4 trong “Phàm lệ” của quyển từ điển này đã ghi như sau:

“Bổn tự điển mỗi tự đầu, tiên dụng Hán ngữ phanh âm phương án hòa chú âm tự mẫu tiêu minh phổ thông thoại độc âm, tái dụng Quảng Châu thoại phanh âm phương án cập phương ngôn đồng âm tự chú minh Quảng Châu thoại độc âm”.

Nghĩa là:

“Ở mỗi chữ của quyển tự điển này, trước hết dùng phương án phiên âm Hán ngữ và chú âm tự mẫu (= chú âm phù hiệu – AC) để nêu rõ cách đọc của tiếng phổ thông, rồi dùng phương án ghi âm tiếng Quảng Châu và chữ đồng âm trong phương ngữ mà chú rõ cách đọc của tiếng Quảng Châu”.

Trong Quảng Châu âm tự điển, chữ 月 đã được chú bằng:

– Phương án ghi âm Hán ngữ là “yuè ”;

– Chú âm tự mẫu là “ㄩㄝ”;

– Phương án ghi âm tiếng Quảng Châu là “yud⁶”;

– Chữ đồng âm trong tiếng Quảng Châu là 阅.

Hai cách trước đều là để ghi âm phổ thông “yuè” còn hai cách sau đều là để ghi âm Quảng Châu “yud⁶”; những âm này tuyệt đối không đồng âm với “duyệt” trong hệ thống âm Hán Việt vì đó không phải là âm Hán đời Đường.

Cứ như trên thì rõ ràng là lập luận của ông Nguyễn Khắc Bảo không đứng vững được chỉ vì ông đã không hiểu cách ghi âm của hai quyển từ điển mà ông sử dụng. Và vì cũng không hiểu được lập luận của Nguyễn Tài Cẩn trong chương thứ ba của Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979) nên ông đã viết như sau:

“Ở Việt Nam, khi nghiên cứu bản Cao thượng Ngọc Hoàng bổn hạnh tập kinh âm thích (…) khắc ván vào khoảng 1434 -1443, học giả Nguyễn Tài Cẩn đã phát hiện ra các mối tương ứng ngữ âm (…) như sau: Nghệ – Dị, Nghi – Di, Dâm – Ngân, Ngưng – Doanh. Như vậy đến thế kỷ XV thì các cặp chữ Hán nêu trên vẫn đọc cùng âm, dùng chữ sau chú âm đọc cho chữ trước, và đã tồn tại sự tương đồng (sic) giữa các phụ âm ng và d”. (Sđd, tr. 42)

Trên đây là những lời luận giải của nhà hùng biện Nguyễn Khắc Bảo còn dưới đây là những chỗ sai trong những lời luận giải đó.

Thứ nhất, không phải là “đến thế kỷ XV thì các cặp chữ Hán nêu trên vẫn đọc cùng âm” mà, hoàn toàn ngược lại, đến lúc đó, hai chữ trong từng cặp mới trở thành đồng âm.

Thứ hai, ng- và d- là hai phụ âm khác hẳn nhau nên không làm gì có sự “tương đồng” giữa hai âm đó như ông Nguyễn đã viết một cách quá ngây thơ.

Thứ ba, âm trong bản Âm thích “phản ánh đặc điểm tiếng Hán nửa sau thế kỷ XIV nửa đầu thế kỷ XV”* chứ không phải âm tiếng Hán ở các thế kỷ VIII và IX nên không phải là xuất phát điểm của cách đọc Hán Việt như ông Nguyễn đã ngỡ.

Thứ tư, cũng theo Nguyễn Tài Cẩn (Sđd, tr. 93) “cách đọc dạy theo tiếng Hán đời Minh (mà ông Nguyễn ngỡ là xuất phát điểm của cách đọc Hán Việt – AC) đã qua đi như một hiện tượng lâm thời, cuối cùng chúng ta vẫn giữ lại cách đọc bắt nguồn từ hai thế kỷ VIII, IX” (đây mới đích thực là âm Hán Việt – AC) nên chẳng làm gì có chuyện “thời Nguyễn Du viết Truyện Kiều (cuối thế kỷ XVIII) cụ đã dùng chữ 月 (nguyệt) để ghi âm duyệt” như ông Nguyễn đã viết.

Thứ năm, ông Nguyễn đã nói oan cho Nguyễn Tài Cẩn khi ông viết rằng “học giả Nguyễn Tài Cẩn đã phát hiện ra các mối tương ứng ngữ âm giữa hai chữ Hán cổ của bản Âm thích”. Chính tác giả của bản Âm thích này mới là người “phát hiện” sự đồng âm của hai chữ trong từng cặp (nên mới dùng chữ này để chú âm cho chữ kia). Còn Nguyễn Tài Cẩn thì lại là người phát hiện ra rằng âm của những cặp chữ đó không phải là âm đọc theo tiếng Hán đời Đường (tức âm Hán Việt) mà lại là âm đọc theo tiếng Hán đời Minh (nên không phải âm Hán Việt) mà đây, như đã dẫn, cũng chỉ là một cách phát âm “đã qua đi như một hiện tượng lâm thời”.

Tóm lại, ông Nguyễn Khắc Bảo không hiểu ý kiến của Nguyễn Tài Cẩn cũng như ông đã không hiểu cách chú âm của Vương Vân Ngũ đại từ điển và Quảng Châu âm tự điển. Chẳng những thế, ông cũng không hiểu được mối liên hệ giữa âm Hán Việt với âm Bắc Kinh hiện nay nên mới viết:

“Hiện nay ở Trung Quốc, tra theo Từ điển Hán – Việt hiện đại của Nguyễn Kim Thản ta vẫn còn thấy các chữ 悦 (Duyệt), 閱 (Duyệt), 說(Duyệt), 躍 (Dược), 月 (Nguyệt), 軏 (Nguyệt, Ngột) cùng có một cách kí âm theo La Tinh là Yuè, nghĩa là chúng vẫn cùng một cách phát âm giống nhau”. (Bđd, tr. 42)

Ông Nguyễn đã nhầm ở hai điểm. Một là khôngphải những chữ đó “vẫn cùng một cách phát âm giống nhau” vì xưa kia chúng không đồng âm. Hai là chính âm Hán Việt mới còn giữ lại được phần nào cái dáng dấp ngữ âm của tiếng Hán thời trung đại mà tiếng Bắc Kinh đã không còn giữ được. Vì vậy mà tiếng Bắc Kinh đã đọc thành “yuè” những chữ Hán mà âm Hán Việt vẫn còn phân biệt rạch ròi thành: duyệt 悦, nguyệt/ngột 軏, việt 越, dược 跃, nhạc 岳,v.v.. Dựa vào âm Bắc Kinh để đồng hóa về mặt ngữ âm những chữ Hán có âm Hán Việt khác nhau trong tiếng Việt là một sai lầm sơ đẳng.

Tóm lại, toàn bộ các luận cứ về ngữ âm mà nhà hùng biện Nguyễn Khắc Bảo đưa ra để đọc chữ 月 thành “dệt” hoàn toàn không có giá trị.

Bây giờ chúng tôi xin bàn về hai tiếng “châu ngọc” theo đặc điểm của lối tiểu đối. Nếu cứ chê “ngọc” đối với “thêu” không chỉnh thì phải làm thế nào với hàng loạt câu có tiểu đối “không chỉnh” khác của Truyện Kiều? Chẳng hạn:

– Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình;

– Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong;

– Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang;

– Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau;

– Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao; v.v. và v.v..

Làm sao mà nhớ (vị từ) có thể đối chỉnh được với tình (danh từ), nhà (danh từ) với hằng (vị từ chỉ tính chất), sách (danh từ và là một từ độc lập) với trang (hình vị không độc lập, vốn là vị từ trong tiếng Hán), v.v.? Nhưng chắc chắn chẳng có ai lại nói rằng những dẫn chứng trên đây không phải là những vế tiểu đối. Và hẳn là cũng chẳng ai lại cất công đi tìm cách đọc chữ nhớ thành một danh từ hoặc chữ tình thành một vị từ, chữ sách thành một vị từ hoặc chữ trang thành một danh từ, v.v. để chúng đối với nhau cho chỉnh. Huống chi gấm thêu chẳng qua là một lối dịch Nôm hai chữ cẩm tú của tiếng Hán, xưa nay vẫn được xem là một cấu trúc gồm hai từ đẳng lập. Vậy tại sao lại không xem châu ngọc đối với gấm thêu chỉ là chuyện bình thường, cũng như giọng tình đối với mùi nhớ, chất hằng với thói nhà, lầu trang với viện sách, v.v.?

Cái bằng chứng cuối cùng mà nhà hùng biện Nguyễn Khắc Bảo đưa ra là nếu đọc thành “châu dệt” thì câu Lời lời châu dệt, hàng hàng gấm thêu, còn “hàm ẩn ý chê khéo thơ chàng Thúc, tuy lời lẽ có văn hoa mĩ tự như “châu dệt, gấm thêu” nhưng thực chất lại vẫn chỉ là hàng thuộc loại “thêu dệt”, nghĩa là “hành vi bịa đặt, thêm thắt một cách khéo léo” để tán tỉnh, tâng bốc Thuý Kiều mà thôi”. (Bđd, tr. 42)

Sự chê khéo ở đây là một phát hiện riêng của ông Nguyễn chứ trong cuộc tình ở Lâm Truy thì đối với Thúc Sinh, trước sau Kiều vẫn một mực trân trọng và tin yêu. Bảo là Kiều nói lấy lòng thì còn có thể chấp nhận được (nhưng cũng không đúng); đến như bảo là chê khéo thì dứt khoát đã hiểu sai hẳn lời người kể chuyện.

Vì những lẽ trên đây nên chúng tôi xin khẳng định rằng “dệt” là một âm không thể chấp nhận được cho cách đọc Nôm của chữ 月. Huống chi “châu dệt” chỉ là một cấu trúc vô nghĩa cho nên nếu trong câu 1316 mà cụ Nguyễn Du lại dùng đúng hai chữ như thế thì còn đâu là…

Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu!

§ 755. Kiến thức ngày nay, số 400, ngày 20-9-2001

ĐỘC GIẢ: “Dịch là phản” có phải là một câu dịch từ tiếng La Tinh hay không và câu tiếng La Tinh này có bao hàm hình thức chơi chữ nào không?

AN CHI: Nếu chúng tôi không nhầm thì câu “Dịch là phản” được dịch từ câu tiếng Pháp “Traduire, c’est trahir”. Nhưng chúng tôi không thấy ở câu này một hình thức chơi chữ rõ rệt nào cả. Bất quá traduire và trahir chỉ trùng nhau ở âm tiết thứ nhất (tra-) mà thôi. Có chơi chữ chăng là ở câu sau đây của tiếng Ý:

“Traduttore, traditore”.

Nghĩa là:

“Người dịch là người phản”.

Câu châm ngôn này chỉ vỏn vẹn có hai từ mà đó lại là hai danh từ cận âm (paronyme). Hai danh từ này cũng phái sinh từ hai động từ cận âm là tradurre (dịch) và tradire (phản).

§ 756. Kiến thức ngày nay, số 400, ngày 20-9-2001

ĐỘC GIẢ: Ngoài Bắc gọi là “quản tượng” còn trong Nam thì lại gọi là “nài voi”. Xin cho biết chữ “nài” nghĩa là gì và xuất xứ từ đâu.

AN CHI: Có khả năng nài là một danh từ mà người Nam Bộ đã mượn từ tiếng Xiêm (Thái Lan) nai, có nghĩa là người đứng đầu, người chịu trách nhiệm về một công việc nhất định. Trong tiếng Xiêm, danh từ này có một công dụng khá rộng rãi nên có mặt trong rất nhiều ngữ danh từ mà nó làm trung tâm. Đây là một danh từ mà người Thái Lan đã mượn của tiếng Sanskrit hoặc Pali nāyaka, có nghĩa là người dẫn dắt, người đứng đầu. Từ nāyaka có mặt trong từ ghép kurawa-nayaka của tiếng Sri Lanka mà tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Pháp đã phiên âm (có rút ngắn) thành cornaca (Bồ) và cornac (Pháp) để chỉ người… nài voi.

§ 757. Kiến thức ngày nay, số 400, ngày 20-9-2001

ĐỘC GIẢ: Trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000), tác giả Nguyễn Lân đã chú và giảng hai tiếng “ti-vi” như sau:

“ti-vi (Pháp: télévision) 1. Vô tuyến truyền hình (…) 2. Máy vô tuyến truyền hình (…)”.

Xin cho biết chú thích như trên có đúng hay không?

AN CHI: Chắc ông cũng đã sẵn sàng đồng ý với chúng tôi rằng chú thích như thế là sai. Người Pháp chỉ nói tắt télévision thành télé. Còn ti-vi thì lại do tiếng Anh “TV” mà ra chứ cũng không phải do television “nguyên chữ”. Xin chú ý rằng âm tiết thứ nhất của từ này trong tiếng Anh cũng đọc thành [te] như trong tiếng Pháp télévision chứ không phải là [ti]. Chỉ có hai con chữ (chữ cái) TV thì mới đọc thành [tivi] mà thôi.

§ 758. Kiến thức ngày nay, số 401, ngày 1-10-2001

ĐỘC GIẢ: Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000) giảng và chú về mục từ “sa môn” như sau:

“sa môn” (sa: cát; môn: cửa). Người tu đạo Phật”.

Lật Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng ra xem thì thấy “sa môn” được giảng gần giống với từ điển của Nguyễn Lân và đúng “sa” được ghi bằng chữ sa 沙 là cát và “môn” được ghi bằng chữ môn 門 là cửa.

Xin cho biết do phép tu từ nào (ẩn dụ, hoán dụ, v.v.) mà “cửa cát” (sa môn) lại có thể trở thành vị thầy tu bên Phật giáo.

AN CHI: Chẳng riêng gì Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng mới ghi hai tiếng sa môn bằng chữ sa 沙 là cát và chữ môn 門 là cửa. Nhiều quyển từ điển tiếng Hán khác, kể cả từ điển Phật học, cũng đều ghi như thế. Nhưng chẳng có quyển nào lại giảng rằng ở đây sa là cát còn môn là cửa cả, vì đây chỉ là hai âm tiết vô nghĩa dùng để phiên âm mà thôi.

The Sanskrit – Chinese Dictionary of Buddhist Technical Terms của Unrai Wogihara (Sankibo, Tokyo, 1959) đã ghi rõ ràng tại trang 226, mục 270.3, như sau:

“Śramanah: 沙門”.

Vậy sa môn 沙門 là dạng phiên âm bằng chữ và tiếng Hán của tiếng Sanskrit śramanah chứ ở đây cũng chẳng có hình thức tu từ nào cả.

§ 759. Kiến thức ngày nay, số 401, ngày 1-10-2001

ĐỘC GIẢ:

Nào là gia pháp, nọ bay

Hãy cho ba chục biết tay mộ t lần

(Kiều, câu 1735 – 1736)

Xin cho biết “gia pháp” là gì mà Hoạn bà lại sai gia nhân đem ra để đánh Kiều đến ba chục lần.

AN CHI: Nguyễn Thạch Giang (Truyện Kiều, khảo đính và chú thích, Hà Nội, 1972), Đào Duy Anh (Từ điển Truyện Kiều, Hà Nội, 1974), Phan Ngọc (nâng cấp Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh), v.v. đều giảng gia pháp là “phép nhà”. Rất tiếc rằng đây chỉ là một lối giảng theo kiểu “Tam thiên tự”:

Gia: nhà; quốc: nước (chữ 9 – 10).

Pháp: phép; ân: ơn (chữ 1095 – 1096).

Thực ra gia pháp ở đây là cây roi, cái vật mà câu 1793 (Trúc côn ra sức đập vào) nhắc lại và nói rõ bằng hai tiếng trúc côn, nghĩa là gậy tre, roi tre.

Từ hải đã giảng hai tiếng gia pháp như sau: “Thế tục diệc xưng hình trách gia nhân chi cụ viết gia pháp” (Thói đời cũng gọi cái vật dùng để đánh phạt gia nhân là gia pháp). Vậy ở đây hai tiếng gia pháp đã được dùng theo phép hoán dụ để chuyển từ “phép nhà” sang “chiếc roi”.

§ 760. Kiến thức ngày nay, số 402, ngày 10-10-2001

ĐỘC GIẢ: Cụm từ “Infinite Justice” có thể được hiểu như thế nào và liệu mấy tiếng này có bao hàm hình thức chơi chữ nào hay không?

AN CHI: Nhiều phương tiện truyền thông của Việt Nam đã dịch danh ngữ Infinite Justice là “Công lý vô tận”. E rằng đây không phải là cách hiểu của tòa Bạch ốc và Ngũ giác đài: nếu chiến dịch trả đũa bọn khủng bố mà cứ kéo dài bất tận thì liệu dân Mỹ có chịu thấu hay không?

Danh ngữ đang xét cũng còn được dịch thành “Công lý không biên giới”. Nhưng có thứ công lý nào đúng với lương tri và lương tâm của toàn nhân loại mà lại có biên giới? Dù là da vàng, da đỏ, da trắng hay da đen, có ai có lương tri và lương tâm mà lại thích bọn can thiệp hay bọn khủng bố? Vậy nếu hiểu theo cách dịch này, chẳng hóa ra Infinite Justice chỉ là một lối nói rỗng tuếch?

Thực ra, justice còn có nghĩa là sự xét xử, sự tài phán (có thể hiểu rộng ra một chút là… sự trừng trị). Vậy nếu có một sự chơi chữ nào thì đó có lẽ là cái cách hiểu danh ngữ Infinite Justice theo kiểu “diều hâu” thành “Sự trừng phạt không giới hạn”, ẩn đằng sau cái cách hiểu “bồ câu” ngây thơ là “công lý vô tận” hoặc “công lý không biên giới”. Nhưng nếu nhà cầm quyền Mỹ chủ trương “trừng phạt không giới hạn” thì những người dân Mỹ đi biểu tình cũng chơi chữ mà nêu khẩu hiệu “Infinite Mistake” để cảnh báo rằng Infinite Justice chính là “sai lầm không giới hạn”, nghĩa là sai lầm tai hại… khó lường.

§ 761. Kiến thức ngày nay, số 402, ngày 10-10-2001

ĐỘC GIẢ: Từ sau ngày thứ ba đen tối (11-9) của nước Mỹ, trong chương trình “Tin thế giới thu qua vệ tinh” của HTV, khi điểm tin về vụ khủng bố đó, đặc biệt là về chương trình hành động của chính phủ Mỹ đối với b ọn khủng bố, thường có dòng phụ đề “War against Terror”. Tôi nghĩ đây là “Cuộc chiến chống khủng bố”. Nhưng lật Từ điển Anh – Việt của Viện Ngôn ngữ học mà những nhà biên soạn chính là Hồ Hải Thụy, Chu Khắc Thuật, Cao Xuân Phổ (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993) dày 1.992 trang ra tra, thì không thấy terror được dịch thành “khủng bố” mà chỉ có “sự khiếp sợ”, “sự kinh hãi” (còn những nghĩa khác thì lại không thích hợp). Vậy chẳng có lẽ War against Terror lại là cuộc chiến chống lại sự hãi hùng của dân Mỹ?

AN CHI: Chúng tôi không nghĩ rằng một quyển từ điển dày gần 2.000 trang thì nhất định có đầy đủ các nghĩa của từng từ mà nó thu thập. Huống chi nội dung của quyển Từ điển Anh – Việt này thực chất chỉ là “chuyển dịch phần tường giải bằng tiếng Anh sang tiếng Việt” từ quyển Oxford Advanced Learner’s Dictionary, dành cho học viên (dù là học viên “advanced”) nên cũng chẳng phải là từ điển cỡ lớn (mà ngay cả từ điển cỡ lớn cũng có khi sót nghĩa).

Terror cũng có nghĩa là sự khủng bố: the White Terror, chẳng hạn, là Cuộc khủng bố trắng mà phái Bảo hoàng tiến hành vào năm 1815 ở nước Pháp, sau khi Napoléon đệ nhất thoái vị lần thứ hai, để đàn áp và tàn sát những người thuộc phái Bonaparte, những người cộng hòa và những người theo phái Tin lành, v.v..

Vậy, đúng như ông nói, War against Terror chính là “Cuộc chiến chống khủng b ố”.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3