Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 727 - 744
§ 727. Kiến thức ngày nay, số 392, ngày 1-7-2001
ĐỘC GIẢ: Trong bài thơ “Ta đi tới” của Tố Hữu có câu “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”. Có người hiểu (và giải thích cho tôi) rằng cơm vắt là cơm bị ướt (mưa dầm mà!) nên bộ đội phải vắt cho kiệt nước mới ăn được. Thậm chí có người còn hiểu rằng cơm vắt là cơm có lẫn con vắt (một loài sâu ở miền rừng núi chuyên hút máu người và động vật).
Riêng tôi hiểu cơm vắt chỉ đơn giản là cơm nắm. Vì trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), do điều kiện chiến đấu áp sát địch, không thể dùng hiệu kẻng tập trung bộ đội đến “nhà ăn” nên “anh nuôi” phải nắm cơm thành từng nắm (vắt) đưa đến từng tổ chiến đấu (thậm chí từng chiến sĩ) để bộ đội có thể bám sát trận địa thường xuyên.
Xin ông cho biết ý kiến.
AN CHI: Cơm vắt đúng là thứ cơm mà ông đã nói chứ không có liên quan gì đến con vắt hoặc nước mưa cả.
§ 728. Kiến thức ngày nay, số 393, ngày 10-7-2001
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết chữ “chua” trong “chua ngoa” có phải cũng là chữ “chua” trong “chua cay” hay không.
AN CHI: Trong chua ngoa thì chua là một từ gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 侜 mà âm Hán Việt hiện đại là trưu/tru, có nghĩa là nói dối, nói quá đi. Về ngữ âm thì tr ~ ch và u ~ ua là những mối tương ứng rất thông thường. Vậy đó chỉ là một từ đồng âm với chua trong chua cay mà thôi.
§ 729. Kiến thức ngày nay, số 393, ngày 10-7-2001
ĐỘC GIẢ: Trong Nam nói: “bá súng” còn ngoài Bắc nói “báng súng”. Vậy “bá” và “báng” có phải là những từ cùng gốc không mà trong “báng” lại có “bá”?
AN CHI: Bá trong bá súng là âm Hán Việt chính thống của chữ 弝, có nghĩa là cái cán cung. Chữ này có một đồng nguyên tự là bả 把 (cũng = cái cán). Còn báng là âm xưa của chữ bính 柄, cũng có nghĩa là cái cán. Vậy trong tiếng Việt thì bá và báng là những từ có nguồn gốc riêng biệt. Nhưng trong nội bộ tiếng Hán thì bá 弝, bả 把 và bính 柄 lại là những đồng nguyên tự như Vương Lực đã chứng minh trong Đồng nguyên tự điển (Bắc Kinh, 1997, tr. 173).
§ 730. Kiến thức ngày nay, số 393, ngày 10-7-2001
ĐỘC GIẢ: Tuổi trẻ chủ nhật, số 24-01, có giới thiệu tác giả của Thi tù tùng thoại là nhà thơ “Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng” (tr. 35, cột 3). Xin cho biết “Minh” có đúng hay không.
AN CHI: Tác giả của Thi tù tùng thoại là Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng. Mính 茗 là nõn trà, mầm trà, rồi trà (chè) nói chung. Đây cũng chính là chữ “mính” trong tên của báo Nông cổ mín đàm mà chính tờ báo này đã viết sai thành “mín”. Mính đàm là chuyện trò trong lúc uống trà và Nông cổ mính đàm là bàn luận về nghề nông và nghề buôn bán (cổ) trong lúc uống trà.
§ 731. Kiến thức ngày nay, số 393, ngày 10-7-2001
ĐỘC GIẢ: Tại sao cũng chỉ trái me mà tiếng Anh tamarind lại có “d” còn tiếng Pháp tamarin thì không?
AN CHI: Hình thái tiếng Pháp trung đại vốn cũng có “d” và viết là tamarinde, nay mới mất đi “de” mà thành tamarin.
§ 732. Kiến thức ngày nay, số 393, ngày 10-7-2001
Bổ sung cho câu trả lời về bài “Việt nhân ca” trên Kiến thức ngày nay, số 391.
Trên số 391 chúng tôi có nhận xét về lập luận của tác giả Lê Mạnh Thát đối với bài “Việt nhân ca” mà tác giả đã trình bày trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, do Nhà xuất bản Thuận Hóa (Huế) ấn hành năm 1999. Lập luận đó còn được ông Lê Mạnh Thát trình bày chi tiết hơn rất nhiều trong cả Chương II (“Về Việt ca: tr. 90 – 135) của quyển Lịch sử âm nhạc Việt Nam, tập 1, do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành tháng 6-2001, mà chúng tôi chỉ được đọc sau khi đã phát hành Kiến thức ngày nay, số 391. Vì vậy nên chúng tôi phải bổ sung để nhấn mạnh rằng lập luận của tác giả trong Lịch sử âm nhạc Việt Nam cũng không có sức thuyết phục mặc dù cứ liệu do tác giả đưa ra thì quá nhiều, chẳng hạn phần “Phân tích các từ Việt cổ” (tr. 102 – 120), mà thoáng nhìn thì đầy sức hấp dẫn. Phải nói rằng về cả hai mặt ngôn ngữ và lịch sử thì tác giả đều đã phiêu lưu hơi xa, nếu không phải là quá xa.
Về ngôn ngữ, xin đơn cử một thí dụ: chữ tư mà Lê Mạnh Thát lấy làm chữ đầu tiên để biện luận trong phần đã nói. Ông đã căn cứ vào Phương ngôn của Dương Hùng cho rằng đó là một từ của miền Ngô Việt, có nghĩa là “giúp đỡ (trong việc cai trị)”; căn cứ vào Grammata Serica Recensa của B. Karlgren cho rằng chữ đó “có âm là sio hay siwo” (tr. 102) rồi lại căn cứ vào sự suy luận của chính mình cho rằng chữ tư ở đây tương đương với chữ quân trong lời dịch bài “Việt nhân ca”* để khẳng định như sau:
“Chữ quân nghĩa là vua, lại tương đương với tư, mà theo Karlgren có âm là sio/siwo rõ ràng là âm Việt cổ có khả năng là một ngôn ngữ phức âm, hay đúng hơn là một ngôn ngữ lưỡng âm, mà dấu vết hiện còn tìm thấy trong tiếng Việt Quảng Đông và Phúc Kiến. Chẳng hạn (…):
– Việt gì: Quảng Đông mất giệ,
– Việt đâu: Quảng Đông bin đầu,
– Việt cấy (vợ): Phúc Kiến cây lai.
Trong đó có âm mất, bin và lai đã bị đánh mất trong tiếng Việt hiện đại của gì, đâu và cấy (…). Do thế, từ sio/siwo qua hai ngàn năm tồn tại đã đánh mất âm si để chỉ còn o/wo trong từ vua của tiếng Việt hiện đại:
tư → sio/siwo → vua là một khả năng lớn”.(tr. 102 – 103)
Trên đây là lập luận của Lê Mạnh Thát chung quanh chữ tư còn dưới đây là nhận xét của chúng tôi về những điểm bất ổn của lập luận đó.
Thứ nhất, Phương ngôn của Dương Hùng giảng rằng tư là một từ của miền Ngô Việt nhưng đây là Ngô Việt thời Xuân Thu bên Trung Hoa, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 391, nên Việt ở đây chỉ có thể là nước Việt của Câu Tiễn chứ không phải của Hùng Vương.
Thứ hai, Phương ngôn chỉ giảng rằng tư là một từ của miền Ngô Việt, có nghĩa là giúp đỡ chứ tuyệt nhiên không có cái ý phụ “trong việc cai trị” như ông Lê Mạnh Thát tự ý thêm vào để có thể “chuyển nghĩa” từ chữ tư sang chữ vua. Huống chi “giúp đỡ (trong việc cai trị)” thì lại là công việc của các quan trong triều chứ đâu phải của “vua”.
Thứ ba là ông Lê Mạnh Thát đã không phân biệt các hình thức phiên âm trong Grammata Serica Recensa của B. Karlgren. Trong công trình này, mỗi chữ Hán (và các biến thể của nó) đều có ba âm theo thứ tự: âm thượng cổ – âm trung cổ/âm hiện đại. Theo quy ước này, sio là âm thượng cổ của chữ tư còn siwo thì lại là âm trung cổ của nó nên không thể nói rằng nó “có âm là sio hay siwo” như tác giả đã diễn đạt (tr. 102). Với sio (âm thượng cổ) thì may ra mới có thể đi ngược lên thời Ngô Việt chứ với siwo (âm trung cổ) thì Ngô Việt đã bị… Hán hóa từ lâu.
Thứ tư là ông đã lẫn lộn âm tiết có giới âm với tổ hợp hai âm tiết nên mới cho rằng sio/siwo là “lưỡng âm” trong khi đây chỉ là những âm tiết đơn lẻ. Chỉ có “mất giệ”, “bin đầu” và “cây lai” thì mới đúng là “lưỡng âm”, nghĩa là những tổ hợp hai âm tiết mà thôi.
Thứ năm là, xét theo lịch sử, thì không thể có “tiếng Việt Quảng Đông” và “tiếng Việt Phúc Kiến” như ông Lê Mạnh Thát đã viết (tr. 102). Tiếng Quảng Đông và tiếng Phúc Kiến hiển nhiên đều là những phương ngữ chánh tông của tiếng Hán (nên không thể gọi là “Việt”). Còn (những) thứ tiếng mà người ta nói tại địa bàn nay là tỉnh Quảng Đông và tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc trước khi dân nói (những) thứ tiếng đó bị Hán hóa thì lại không phải là tiếng Quảng Đông (Cantonese) và tiếng Phúc Kiến (Hokkien Chinese).
Thứ sáu, cứ cho rằng tiếng Quảng Đông và tiếng Phúc Kiến là những thứ tiếng Việt (trong Bách Việt) thì cũng chẳng nhất thiết chúng phải có họ hàng với tiếng Việt (Kinh) tại Việt Nam. Huống chi, hai trường hợp về tiếng Quảng Đông mà Lê Mạnh Thát đưa ra lại chứng tỏ rằng ông chưa nắm được thứ tiếng này (còn tiếng Phúc Kiến thì vì không rành nên chúng tôi không dám nói đến). Trước khi bàn tiếp, chúng tôi xin mạn phép chuyển “mất giệ” thành mắt yệ và “biên đầu” (đây không phải là tiếng Quảng Đông) thành pín tồu theo cách phiên âm của chúng tôi. Mắt yệ là một ngữ gồm có hai từ mắt và yệ. Yệ là một danh từ có nghĩa là đồ, vật; thí dụ: mại yệ là mua đồ, xịch yệ là ăn quà (đồ), xặt yệ là hàng (đồ) thật, néy cô yệ là cái (vật) này, v.v.. Còn mắt là một đại từ nghi vấn có nghĩa là gì, nào. Vậy gì tương ứng với mắt chứ không phải với yệ (còn mắt thì mất đi) như Lê Mạnh Thát đã khẳng định. Pín tồu cũng là một ngữ danh từ gồm có hai từ pín và tồu . Tồu là một danh từ tương ứng với tiếng Hán Việt đạo có nghĩa gốc là đường, lối, rồi hướng, phía, v.v.. Còn pín là một đại từ nghi vấn có nghĩa là nào; thí dụ: pín xü (ü đọc như u của Pháp) là nơi nào, pín kìn là cái nào, pín thìu cái là đường nào, pín cán úc là nhà nào, v.v.. Vậy đâu tương ứng với pín chứ không phải với tồu (mà Lê Mạnh Thát đã ghi thành “đầu” để dễ liên hệ với đâu về mặt ngữ âm) còn pín thì mất đi, như ông đã khẳng định.
Thứ bảy, biểu thức “tư → sio/siwo → vua” chẳng những không phải là “một khả năng lớn” như Lê Mạnh Thát đã khẳng định mà còn là kết quả của một sự suy luận khá xa lạ với ngữ âm học lịch sử về tiếng Hán và về các yếu tố Việt gốc Hán. Huống chi, trình tự của biểu thức đó lại còn chứng tỏ rằng tác giả đã tỏ ra quá dễ dãi trong suy luận hoặc ít nhất cũng là trong cách trình bày: tư là một hình thái Hán Việt làm sao có thể cho ra sio là một hình thái Hán thượng cổ và siwo là một hình thái Hán trung cổ để hai hình thái này trực tiếp cho ra vua, được xem là một hình thái “Hán Việt Việt hóa”?
Thứ tám, cứ cho rằng biểu thức ngữ âm ở trên là hoàn toàn chính xác thì chữ quân ở đây cũng không hề có nghĩa là “vua” như Lê Mạnh Thát đã nêu. Đây chỉ là một danh từ dùng làm từ xưng hô có công dụng khá rộng rãi và có thể được dịch sang tiếng Việt bằng nhiều từ khác nhau tùy theo văn cảnh: anh, ngài, bạn, nàng, v.v.. Trong câu “Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu” (Vương Hàn) thì quân đâu có phải là vua còn trong câu “Ngã lãng du thời quân thượng thiếu” (Dương Khuê) thì quân chỉ là một ca nữ mà thôi. Huống chi, hai tiếng vương tử ở những câu trên nữa cũng không hề có nghĩa là “vua” như Lê Mạnh Thát đã dịch vì đó chỉ là “con của vua” mà thôi. Ngay cả chữ vương (không có tử đi kèm) cũng không nhất thiết có nghĩa là vua, chẳng hạn trong Hưng Đạo Đại Vương, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, v.v..
Thứ chín là những bằng chứng mà Lê Mạnh Thát đưa ra (tinh phu, áng đồ, tr. 103 – 104) để củng cố cho lập luận của mình về chữ tư thì lại chính là những thí dụ sinh động chứng tỏ rằng tác giả đã đi quá xa: ông đã vượt ra khỏi mọi nguyên tắc mà nhà từ nguyên học nghiêm cẩn cần phải tuân thủ để hy vọng có thể thuyết phục được người khác.
Thứ mười là, thay vì đọc thành
“Yên hồ tần tư
Tư mạn dư”
như Lê Mạnh Thát thì Ngữ ngôn văn tự bách khoa toàn thư đã đọc thành
“Khảm châu yên hồ tần tư tư”
nên đã phát hiện ra rằng “tư tư” là một hình thái láy đôi tương ứng với essese của tiếng Đồng (Dòng) hiện nay, có nghĩa là xấu hổ. Trong khi đó, để đặt ngang hàng hai chữ tư với hai chữ quân, Lê Mạnh Thát đã xáo trộn bản dịch nghĩa đã có* bằng cách “đảo lộn hai câu giữa xuống thế hai câu cuối và đưa hai câu cuối lên chỗ hai câu giữa”*. Đây rõ ràng là một sự “cưỡng chế” không có sức thuyết phục.
Trở lên chúng tôi đã đưa ra mười điểm để chứng minh rằng lập luận của Lê Mạnh Thát chung quanh chữ tư thực sự không có cơ sở. Trừ trường hợp của chữ lạm mà ông quy về từ lắm của tiếng Việt, tất cả các trường hợp khác còn lại cũng đều không có sức thuyết phục. Nói chung, chúng tôi cho rằng Lê Mạnh Thát đã không thành công về mặt ngôn ngữ khi ông muốn chứng minh rằng “Việt nhân ca” là một bài ca của người Việt (Kinh) thời Hùng Vương.
Còn về mặt lịch sử thì sao? Cũng không hơn gì, vì chỉ cần khách quan một chút thì đã có thể thấy được lập luận của ông đầy những ý kiến võ đoán và chủ quan. Chẳng hạn Lê Mạnh Thát đã viết:
“Bài Việt ca viết bằng tiếng Việt cùng bản dịch của nó trong Thuyết uyển phải đến từ nước ta, từ đất nước người Việt của các vua Hùng, thông qua các văn kiện ngoại giao do nhà nước Việt Thường thị gởi cho chính quyền Hán ở kinh đô Trường An. Thông qua các văn kiện này, Lưu Hướng lúc ấy đang làm ở bí các, đã rút ra và chép lại được bài Việt ca tiếng Việt ấy”*.
Trong hiện trạng tư liệu về cổ sử, có lẽ không có nhà viết sử dè dặt nào dám khẳng định một cách dứt khoát như Lê Mạnh Thát đã viết. Còn sự thật thì, theo chúng tôi, rất là đơn giản: Bài “Việt nhân ca” này là do “người Việt ôm lấy chèo mà ca” trong câu chuyện về Ngạc quân Tử Tích và dĩ nhiên là nó cũng được chép lại từ đó. Thế thôi! Chuyện nó được gửi đến kinh đô Tràng An từ nước Việt của các vua Hùng rồi được lưu trữ nơi bí các của nhà Hán, có lẽ mang nhiều màu sắc… lãng mạn chăng?
Tóm lại, mặc dù trong Lịch sử âm nhạc Việt Nam, Lê Mạnh Thát đã phân tích và biện luận về bài “Việt nhân ca” kỹ hơn trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam rất nhiều nhưng, dù có kỹ đến đâu thì, theo chúng tôi, lập luận của ông cũng thực sự không có sức thuyết phục. Cái tối cần thiết ở đây là sử liệu xác thực và khả tín chứ không phải là lập luận hùng hồn trên cơ sở của những điều suy luận võ đoán.
§ 733. Kiến thức ngày nay, số 394, ngày 20-7-2001
ĐỘC GIẢ: Một độc giả hỏi: “Bản đồ của nước Việt Nam có từ bao giờ?” và một tác giả trả lời như sau: “Theo tôi được biết, bản đồ Việt Nam do các vị cố đạo Pháp, Tây Ban Nha, Nhật vẽ cách đây khoảng 400 năm. Bản đồ hình chữ S vì địa hình đất nước Việt Nam giống chữ S. Ngày nay, vệ tinh nhân tạo chụp ảnh toàn cầu xác nhận cách vẽ địa đồ theo lối cổ “tại chỗ” là đúng”. (“Bạn đọc đặt câu hỏi”, Sài Gòn giải phóng thứ bảy, 5-5-2001). Ông có nhận xét gì về câu trả lời này?
AN CHI: Chẳng cần đến các vị cố đạo Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nhật (?) phải cất công vẽ hộ thì cách đây trên 500 năm, nghĩa là trước các vị đó đến hơn 100 năm, dân nước Việt Nam, bấy giờ gọi là Đại Việt, cũng đã tự mình vẽ “tại chỗ” bản đồ của nước mình rồi. Đó là Hồng Đức bản đồ, nghĩa là bản đồ vẽ vào niên hiệu Hồng Đức (1470 – 1497) đời Lê Thánh Tông (1460 – 1497), một vị hoàng đế văn võ song toàn. Còn bản đồ Việt Nam mà các vị cố đạo kia vẽ cách đây 400 năm, dù có nhìn từ vệ tinh, cũng không thể có hình chữ “S” được; vì lúc bấy giờ làm gì đã có Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ! Cuối cùng, nếu có giống hình chữ “S” đi nữa thì đó chỉ là hình thể chứ không phải “địa hình” vì địa hình (relief) lại là chuyện bằng phẳng hoặc lồi lõm trên b ề mặt địa cầu của đồng bằng, cao nguyên và đồi núi chứ đâu có phải là chuyện những đường cong của… biên giới!
Sau Hồng Đức bản đồ, còn có thể kể thêm “Bản đồ đất liền Việt Nam thời Mạc thế kỷ 16” mà tác giả Đinh Khắc Thuân đã phát hiện và giới thiệu trong một bài cùng tên đăng trên i, số 80B, 10-2000:
“Về đại thể, bản đồ này tương tự bản đồ Việt Nam được vẽ vào niên hiệu Hồng Đức đời Lê (…). Tuy nhiên, các khu vực hành chính được phân định cụ thể hơn. Cả nước có hai kinh đô là Đông đô (Thăng Long), kinh đô nhà Mạc và Tây đô (vùng Thanh Hóa ngày nay) là kinh đô nhà Lê, cùng 13 thừa chánh ty hay đạo, đơn vị hành chính cao nhất ở địa phương dưới thời Mạc, là An Bang, Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Nam, Sơn Tây, Lạng Sơn, Thái Nguyên (Ninh Sóc), Hưng Hóa, Minh (Tuyên) Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa và Quảng Nam”*.
Cứ như trên thì bản đồ nước Việt Nam mà các vị cố đạo kia vẽ cách đây khoảng 400 năm không thể có hình chữ S được đồng thời trước công trình của họ thì nước Việt Nam cũng đã có ít nhất hai bức bản đồ do chính dân của nước mình thực hiện là bản đồ đời Hồng Đức (1470 – 1497) và bản đồ thời nhà Mạc (1527 – 1593).
§ 734. Kiến thức ngày nay, số 394, ngày 20-7-2001
ĐỘC GIẢ: Có người cho rằng “cửi” trong “khung cửi” là do “cơ” trong “chức cơ” mà ra; có đúng không?
AN CHI: Tương đương với cơ trong chức cơ lại là khung (chứ không phải “cửi”) trong “khung cửi” (còn cửi thì lại ứng với chức). Có lẽ một phần cũng vì thấy như thế nên Lê Ngọc Trụ mới cho rằng cửi là do cơ trữ (trữ là con thoi) nói ríu mà ra. Nhưng đây là một điều khó tin. Cửi là “do chữ kỷ là sắp xếp các mối tơ lại cho khỏi rối”, như Lê Gia đã nêu trong Tiếng nói nôm na (Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, Phần tăng bổ). Nó chẳng có liên quan gì với chữ cơ và/hoặc chữ trữ cả.
§ 735. Kiến thức ngày nay, số 395, ngày 1-8-2001
ĐỘC GIẢ: Giữa “bộc phát” và “bột phát” thì cách nói nào đúng?
AN CHI: Bộc phát và bột phát là hai ngữ động từ đồng nghĩa. Bột phát 勃發 là cách dùng trong văn ngôn thời xưa còn Hán ngữ hiện đại thì lại dùng bộc phát 爆發. Xin lưu ý rằng âm chính thống của chữ “bộc” đúng ra phải là bốc vì thiết âm của nó là “bổ ốc thiết”(Từ hải), nghĩa là phải thuộc thanh 5 (dấu sắc) chứ không phải thanh 6 (dấu nặng). Đây chính là chữ bốc trong bốc lửa, bốc hơi, v.v.. Vậy bốc là một từ Hán Việt chánh tông.
§ 736. Kiến thức ngày nay, số 395, ngày 1-8-2001
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết câu “Jepense, donc je suis” (Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại), tiếng La Tinh nói như thế nào và nếu cần dịch sang tiếng Hán thì có thể dịch như thế nào cho thật gọn.
AN CHI: Tiếng La Tinh là “Cogito ergo sum” và người Trung Quốc vẫn dịch thành “Ngã tư cố ngã tại”.
§ 737. Kiến thức ngày nay, số 395, ngày 1-8-2001
ĐỘC GIẢ: Một CD của Trung Quốc có ghi bảy chữ Hán đọc được như sau: “Bối cửu hợp xướng giao hưởng khúc”. Xin cho biết đó là gì.
AN CHI: Bối là hình thức nói tắt của Bối Đa Phân, ba chữ/tiếng dùng để phiên âm tên của Beethoven còn cửu là đệ cửu nói tắt. Vậy “Bối cửu hợp xướng giao hưởng khúc” = Bối Đa Phân đệ cửu hợp xướng giao hưởng khúc = Bản giao hưởng số 9 của Beethoven.
§ 738. Kiến thức ngày nay, số 395, ngày 1-8-2001
ĐỘC GIẢ: Tên vua Càn Long (nhà Thanh), có người nói thành “Kiền Long”. Như thế đúng hay sai?
AN CHI: Chữ càn ở đây có thể đọc thành kiền (kiền khôn = càn khôn, v.v.). Vậy Kiền Long không phải là một cách đọc sai mà chỉ là một cách đọc không phổ biến (và nên tránh).
§ 739. Kiến thức ngày nay, số 395, ngày 1-8-2001
ĐỘC GIẢ: Có phải “ná” và “nỏ” là những từ cùng gốc hay không? Nếu đúng thì đâu là nguồn gốc chung, còn nếu không đúng thì đâu là nguồn gốc riêng của mỗi từ?
AN CHI: Cách đây 23 năm, Phạm Đức Dương đã nói về nguồn gốc của từ ná như sau:
“Từ panah trong tiếng Indonesia có nghĩa là cái nỏ. Từ này vốn có gốc Đông Nam Á cổ:
– *pah = bắn (CVC).
– *pnah = cái để bắn (trung tố -n-) (CCVC).
Hiện nay các ngôn ngữ Nam Á vẫn giữ được hình thức này. Sang tiếng Việt ta có:
– bắn (CVC). Ở đây phương pháp phụ tố đã mất hẳn và được đơn tiết hoá.
– ná (CV). Thanh điệu được hình thành.
Và tiếng Indonesia:
– panah (ná) (CVCVC)”.
– memanah (bắn) (CVCVCVC)”*.
Một năm sau, có lẽ là độc lập đối với ý kiến trên đây của Phạm Đức Dương (vì không thấy nêu trong “Tài liệu tham khảo”), Nguyễn Tài Cẩn đã viết:
“Ở tiếng Nam Á vốn có danh từ chỉ thứ vũ khí ta kêu là ná (so sánh với na ở Mường, Chứt, Cuối, sa-na ở Kơ-ho, s-na ở Khmer). Có khá nhiều cơ sở để có thể khẳng định chính từ tên gọi này mà sản sinh ra tiếng Hán ghi bằng chữ 弩. Nhưng sau đó chữ 弩 lại quay trở lại Việt Nam, đưa đến cách đọc cổ Hán Việt nõ (sic) và cách đọc Hán Việt nỗ hiện nay”*.
Phạm Đức Dương và Nguyễn Tài Cẩn đã khẳng định như trên còn chúng tôi thì lại thấy vấn đề một cách khác hẳn. Trước hết, riêng về từ bắn thì, trên Kiến thức ngày nay, số 377, chúng tôi đã chứng minh rằng đó là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 扳 mà âm Hán Việt hiện đại là phán/bán, có nghĩa là kéo, giương, bấm, bóp,… bắn. Vậy bắn không có liên quan gì đến hình thái “Đông Nam Á cổ” *pah mà Phạm Đức Dương đã tái lập.
Còn về từ ná thì Nguyễn Tài Cẩn cho rằng “có khá nhiều cơ sở (Chúng tôi nhấn mạnh – AC) để có thể khẳng định chính từ tên gọi này mà sản sinh ra tiếng Hán ghi bằng chữ 弩”.Nhưng nếu muốn khẳng định như Nguyễn Tài Cẩn thì trước nhất phải chứng minh cho được rằng chính dân nói (các) ngôn ngữ Nam Á, chứ không phải dân Hoa Hạ, mới là những người đã sáng chế ra nỏ. Vậy không biết Nguyễn Tài Cẩn dựa vào những cứ liệu dân tộc học, cổ sử học, lịch sử kỹ thuật, v.v. nào để khẳng định như trên vì ở đây nếu chỉ có cứ liệu ngữ học không thôi thì dứt khoát không đủ (huống chi cứ liệu ngữ học ở đây rất… chông chênh!). Còn nhà Trung Hoa học nổi tiếng Joseph Needham thì đã chứng minh rằng nỏ là một sáng chế của người Trung Hoa. Ông viết:
“Chính tại đấy (Trung Hoa – AC), người ta đã sáng chế ra nỏ – một trong những thứ vũ khí sát thương mạnh nhất – từ rất lâu trước khi nó được biết đến ở những nơi khác”*.
Người ta có thể phản bác Needham và chứng minh ngược lại (nhưng nếu không phải là Trung Hoa thì cũng đâu có nhất thiết phải là Đông Nam Á). Còn trong khi chờ đợi thì chúng tôi tin theo nhà Trung Hoa học này và trong điều kiện đã biết thì tất nhiên là dân Trung Hoa chẳng cần phải đi vay mượn cái từ ghi bằng chữ 弩 của ai cả. Chính họ đã tự mình đặt ra nó. Âm thượng cổ của nó là *na theo sự phục nguyên của Vương Lực trong Đồng nguyên tự điển (Bắc Kinh, 1997, tr. 149). Âm này rất khớp với âm của từ ná trong tiếng Việt vì đây chính là một yếu tố cổ Hán Việt tiền kỳ (nên thuộc loại xưa nhất) còn nỏ chỉ là một yếu tố cổ Hán Việt hậu kỳ mà thôi.
Vậy thì, theo chúng tôi, cả ná lẫn nỏ đều là những từ Việt gốc Hán. Trong hai điệp thức này thì ná là một yếu tố cổ Hán Việt sớm còn nỏ là một yếu tố cổ Hán Việt muộn chứ không phải ná có nguồn gốc Nam Á còn nỏ thì mới có gốc Hán.
Bây giờ xin trở lại với ý kiến của Phạm Đức Dương. Sau khi tái lập hai hình thái “Đông Nam Á cổ” (ĐNA cổ) là *pah (bắn) và *pnah (cái để bắn), tác giả đã khẳng định rằng “hiện nay các ngôn ngữ Nam Á vẫn giữ được những hình thức này”.
Nhưng tiếc rằng ông chỉ dẫn chứng bằng tiếng Việt (bắn, ná) và tiếng Indonesia (panah, memanah) mà không nêu thêm một ngôn ngữ Nam Á nào khác (chẳng hạn Khmer, Bahnar, Stiêng, v.v.). Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Với một số ngôn ngữ Nam Á khác thì các hình thái mà Phạm Đức Dương tái lập khó có cơ may đứng vững. Chẳng hạn chỉ với tiếng Khmer sna thôi thì tác giả cũng sẽ phải vất vả tìm năm bảy thí dụ, ít nhất cũng là vài ba, để thuyết phục người đọc rằng quả thực là ĐNA cổ *pn- có thể dẫn đến Khmer sn- và ĐNA cổ *-h có thể rụng… hàng loạt khi sang tiếng Khmer. Nếu không có được một hệ thống tối thiểu như thế thì sự trùng hợp ngữ âm (-na-) giữa ĐNA cổ *pnah với Khmer sna rất có thể chỉ là hoàn toàn ngẫu nhiên mà thôi, giống như sự trùng hợp giữa tiếng Eskimo estimantik với tiếng Việt ăn thịt mà viên sĩ quan người Pháp họ Frey đã nêu lên năm nào. Nhưng ngay cả với cứ liệu tiếng Việt thì sự tái lập của Phạm Đức Dương cũng rất là bấp bênh. Xin quan sát:
– ĐNA cổ *pah > Việt bắn (1).
– ĐNA cổ *pnah > Việt ná (2).
Phạm Đức Dương giải thích rằng với bắn thì “phương pháp phụ tố đã mất hẳn và từ được đơn tiết hoá”. Nhưng ở (1) thì *pah (> bắn) làm gì có phụ tố (nên làm sao mất đi được?) đồng thời chỉ là một từ đơn tiết (nên làm sao còn có thể “đơn tiết hoá” được nữa?). Ông còn giải thích rằng với ná ở (2) thì “thanh điệu được xuất hiện” nhưng chẳng có lẽ với bắn ở (1) thì chưa có thanh điệu? Rõ ràng là lập luận của Phạm Đức Dương rất chông chênh. Nhưng chưa hết. Tại sao đều là *-a- mà ở (1) thì thành -ă- (bắn) còn ở (2) lại là -a- (ná)? Tại sao đều là *-ah mà ở (1) thì thành -ăn (bắn, có -n cuối) còn ở (2), với ná, thì chỉ là -a mà thôi? v.v.. Rõ ràng là hoàn toàn không ổn.
Trở lên chúng tôi đã theo lẽ thường của phương pháp so sánh mà quy bắn về *pah và ná về *pnah để phân tích lập luận của Phạm Đức Dương. Thực ra, chúng tôi cũng không biết ông đã căn cứ vào hình thái hiện đại cụ thể nào để tái lập từng hình thái “ĐNA cổ” đã nêu bởi lẽ cách trình bày của ông quá giản lược và dễ dãi (nên cũng rất mơ hồ!). Chính Phạm Đức Dương trong khi so sánh và phục nguyên, chẳng hạn, trong một bài khác, đã cho rằng “hầm bà làng” (theo cách ghi của ông) là tiếng Việt rồi phục nguyên hình thái cổ của nó là mblan* mà không hề sợ dân Quảng Đông đòi lại “bản quyền” vì hằm pà làng hiển nhiên là Coỏng Túng wả*. Cũng như, cùng với đồng tác giả Hà Văn Tấn, ông đã khẳng định rằng trong ngữ danh từ kẽ nách thì hai từ (đích thực) kẽ và nách chỉ là những âm tiết vô nghĩa, bắt nguồn từ một hình thái cổ là *knek đã song tiết hóa*.
Trở lại với trường hợp cụ thể của từ ná, chúng tôi xin khẳng định rằng lập luận của Phạm Đức Dương chung quanh từ này thì rất chông chênh. Rất tiếc rằng một luận cứ như thế mà lại được tác giả đưa ra làm điển hình để minh họa cho một lý thuyết lớn về “quá trình thay đổi hình thái học trong các ngôn ngữ Đông Nam Á”, vốn là lý thuyết chung của ông và đồng tác giả Hà Văn Tấn trong bài “Về ngôn ngữ Tiền Việt – Mường” đã dẫn ở trên.
Xem ra, người ta không thể trông mặt mà bắt hình dong khi ứng dụng phương pháp so sánh của ngữ học. Còn nếu vẫn muốn tiếp tục đi tìm dấu vết của trung tố -n- theo kiểu đó thì chúng tôi xin gợi ý rằng nó cũng còn có mặt trong tiếng Hán nữa.
Ai cũng biết rằng xạ 射 (x ở đây thực chất là [s] là bắn và ná, như đã nói, là âm xưa của nỗ 弩 (= nỏ, ná). Có thể phục nguyên *sa cho động từ xạ và *sna cho danh từ nỗ với lý do là danh từ này được tạo ra bằng trung tố -n- (là một trung tố chỉ công cụ) trên cơ sở của động từ *sa (= bắn; còn *sna là cái dùng để bắn). Tổ hợp phụ âm đầu (sn-) của danh từ *sna vẫn còn để lại dấu vết trong tự hình của chữ nỗ 弩 hiện nay. Thật vậy, đây là một hình thanh tự mà thanh phù là nô 奴; bản thân thanh phù này cũng là một hình thanh tự mà thanh phù là nữ 女. Đi ngược lên thật xa trong quá khứ thì nữ 女 vốn có tổ hợp phụ âm đầu *sn- nên mới có mặt trong chữ như 如, là thanh phù của chữ thứ 恕, biết rằng ở đây nh < n còn th < s (Xin nhớ rằng ná trong na ná là một âm rất xưa của chữ như 如).
Cứ như trên thì danh từ *sna (= nỏ) của tiếng Hán cổ đại chính là nguyên từ (etymon) của danh từ sna trong tiếng Khmer, nghĩa là tiếng Khmer đã trực tiếp mượn danh từ này từ tiếng Hán. Nhưng đây mới chỉ là một khả năng.
Khả năng thứ hai là tiếng Khmer đã mượn danh từ sna từ tiếng Việt vào cái thời mà người Việt vẫn hãy còn phát âm chữ 弩 theo hình thức ngữ âm *sna của tiếng Hán. Xin chú ý rằng tiếng Khmer còn mượn của tiếng Việt nhiều từ gốc Hán khác, mà trực tiếp có liên quan đến sna về mặt ngữ nghĩa là động từ Khmer baɲ (ɲ = nh) < Việt bắn < Hán bán 扳 (có nghĩa là bắn, như đã nói ở trên). Về sau, ở tiếng Việt và tiếng Hán, yếu tố đầu tiên của tổ hợp sn là s đã tiêu biến đi nhưng nó vẫn tiếp tục tồn tại trong tiếng Khmer sna cho đến tận ngày nay.
Khả năng thứ ba là danh từ sna của tiếng Khmer không phải là một từ gốc Hán (hoặc trực tiếp mượn từ tiếng Hán hoặc mượn qua tiếng Việt). Đó là một từ mượn từ tiếng Sanskrit asana. Đây là một từ phái sinh từ căn tố AS, có nghĩa là phóng, ném: asana là sự phóng, động tác phóng, rồi vật dùng để phóng. Với nghĩa này, nó có mặt trong danh từ ghép bāṇasana (bāṇa) = (cây) tên + asana = vật dùng để phóng), có nghĩa là (cây) cung. Việc tiếng Khmer lược bớt âm tiết của những từ mượn ở tiếng Sanskrit là một hiện tượng hoàn toàn bình thường nên chẳng có gì lạ nếu Sanskrit (bāṇa)sana hoặc (a)sana trở thành sna trong tiếng Khmer.
Trở lên là nói về tiếng Khmer; còn danh từ panah của tiếng Indonesia thì sao? Chúng tôi cho rằng đây cũng là một từ bắt nguồn từ tiếng Sanskrit bāṇasana. Nhưng nếu tiếng Khmer lấy phần sau (asana = vật dùng để phóng) thì ngược lại tiếng Indonesia lại lấy phần trước là bāṇa (= cây tên). Từ danh từ bã a của tiếng Sanskrit sang danh từ panah của tiếng Indonesia: a dài (ā) trở thành a, là “ṇ trở thành n”, a ngắn (a) trở thành ah đều là những hiện tượng hoàn toàn bình thường.
Dĩ nhiên là không thể loại trừ khả năng danh từ sna của tiếng Khmer và danh từ panah của tiếng Indonesia có nguồn gốc độc lập đối với tiếng Sanskrit hoặc tiếng Hán. Nhưng ý kiến cho rằng danh từ chỉ cái nỏ trong tiếng Hán bắt nguồn ở danh từ chỉ thứ vũ khí này trong một ngôn ngữ Nam Á nào đó là một ý kiến khó tin. Còn ná và nỏ của tiếng Việt thì lại là hai từ cùng gốc, bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 弩 mà âm Hán Việt hiện đại là nỗ, có nghĩa là nỏ, ná chứ không phải từ trước có nguồn gốc Nam Á còn từ sau mới là một từ gốc Hán.
§ 740. Kiến thức ngày nay, số 396, ngày 10-8-2001
ĐỘC GIẢ: Trong câu thành ngữ “thâm sơn cùng cốc” thì “cốc” là hang núi hay khe nước trong núi? Nếu hiểu là hang núi thì đối như thế (thâm sơn – cùng cốc) có xứng hay không (lẽ ra núi phải đối với nước)?
AN CHI: “Thâm sơn cùng cốc” còn có những dị bản hoặc thành ngữ đồng nghĩa sau đây:
- Thâm sơn trường cốc;
- Thâm sơn lão lâm;
- Thâm sơn mật lâm;
- Thâm sơn cùng lâm;
- Thâm sơn dã úc;
- Thâm sơn u cốc;
- Cùng sơn tịch nhưỡng;
- Cùng hương tịch nhưỡng;
- Cùng nhai tuyệt cốc; v.v..
Trong “Thâm sơn cùng (lão, mật) lâm” thì “núi” cũng chỉ đối với “rừng” chứ không phải “nước”. Cũng thế trong “Cùng sơn tịch nhưỡng” vì nhưỡng là đất (nên ở đây cũng không có nước). Vậy, có lẽ chữ cốc trong “Thâm sơn cùng cốc” hiểu theo nghĩa nào (hang núi hay khe nước) cũng đều được cả chăng?
§ 741. Kiến thức ngày nay, số 396, ngày 10-8-2001
ĐỘC GIẢ: Chữ “nặc” có nghĩa là giấu, trốn, nấp, v.v.. Vậy “nấp” (trong “ẩn nấp”) có liên quan gì với “nặc” về nguồn gốc hay không?
AN CHI: Trong tiếng Việt thì núp là âm cổ Hán Việt của chữ 入 mà âm Hán Việt hiện đại là nhập, có nghĩa là vào, đi vào, đem vào, v.v.. Vậy nó không có liên quan gì đến chữ nặc 匿 cả. Nhưng trong tiếng Hán thì nặc và nhập lại là những đồng nguyên tự, nghĩa là những chữ dùng để ghi những từ cùng gốc, những điệp thức (doublet). Xin chú ý rằng chữ nhập 入 còn có âm nhực (nhật lực thiết) nữa; với âm này thì rõ ràng nó có cùng một phụ âm cuối ([k]) với chữ nặc còn n ~ nh vẫn là điều thường thấy. Xa hơn nữa, nhập, núp, nấp cũng còn cùng gốc với nạp trong nạp đạn và nộp trong nộp thuế.
§ 742. Kiến thức ngày nay, số 397, ngày 20-8-2001
ĐỘC GIẢ: “Dừa ý” có phải là “vừa ý” ghi theo cách phát âm của người miền Nam hay không?
AN CHI: Tự vị Annam Latinh của Pierre Pigneaux de Béhaine (Nxb. Trẻ, 1999) đã ghi nhận như sau:
“Dừa (…), theo.
Dừa lòng. Chiều theo í ai.
Dừa theo. Cùng nghĩa, theo.
Dừa ý. Theo, chiều theo í ai”. (tr. 122)
Về những mục này, trong “Tiếng Đàng Trong, tiếng Đàng Ngoài” đăng trên Xưa & Nay, số 63B, tháng 5-1999, tác giả Hồng Nhuệ lại cho rằng đó chính là chữ “vừa” ghi theo cách phát âm của người Đàng Trong. Hồng Nhuệ khẳng định rằng dừa lòng, dừa theo, dừa ý ở đây chính là vừa lòng, vừa theo, vừa ý. Và ông còn nhận xét thêm:
“Đây là một thích thú, một khám phá độc đáo, mở ra một cách ghi âm xác đáng. Không thể nói soạn giả lầm, không thể bảo ông viết sai, vì như câu ngạn ngữ tiếng Pháp nói: Chasser (sic) le naturel, il revient au galop, nghĩa là xua đuổi tính tự nhiên đi thì nó chạy nước đại mà trở về”. (tr. 18 – 19)
Rất tiếc là tác giả đã khen không đúng chỗ: Pigneaux de Béhaine không ghi “dừa” thay cho “vừa” mà ghi nhận hai chữ hoàn toàn riêng biệt. Ông giảng dừa là “theo” còn vừa là “vừa phải, trung bình, vừa mới”; đặc biệt dừa ý là “theo, chiều theo í ai” còn vừa ý thì lại là “hợp í”.
Cứ như trên thì dừa là một động từ có nghĩa là “theo” còn vừa thì lại là một tính từ có nghĩa là “hợp” nên dứt khoát không thể lẫn lộn với nhau hoặc thay thế cho nhau được. Vậy, tác giả của Tự vị Annam Latinh không ghi “dừa” theo cách phát âm của Đàng Trong thay cho “vừa” của Đàng Ngoài mà đã ghi nhận hai chữ “dừa” và “vừa” hoàn toàn riêng biệt và độc lập với nhau. Đây mới thật đúng là cái i của Pigneaux de Béhaine.
§ 743. Kiến thức ngày nay, số 397, ngày 20-8-2001
ĐỘC GIẢ: Một người bạn có đưa cho tôi xem một tập mỏng viết bằng tiếng Anh nhan đề là Shalom, nội dung nói đến việc cầu nguyện và giảng kinh Phúc âm. Xin ông cho biết shalom có phải là gốc ở tiếng Do Thái không và ý nghĩa là gì?
AN CHI: Shalom là tiếng Do Thái, có nghĩa là sự bình an (nếu dùng như danh từ) hoặc cầu cho (ai) được bình an (nếu dùng như thán từ trong lời chào hỏi).
§ 744. Kiến thức ngày nay, số 397, ngày 20-8-2001
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 392, trả lời một độc giả Nha Trang, ông có viết:
“An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh;
Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất”.
Tôi e rằng ông sơ sót chăng? Chữ đại 大 trong đại trượng phu lẽ ra phải là chư 諸 để thành chư trượng phu thì đối với nhất thốn thổ (các đối với một; các trượng phu đối với một tấc đất) mới chỉnh chứ. Xin ông cho biết ý kiến.
AN CHI: Ông rất có lý khi cho rằng chữ chư đối với chữ nhất thì mới chỉnh chứ chữ đại thì không. Xin thưa thật với ông rằng cá nhân chúng tôi cũng thấy đại đối với nhất thì không chỉnh nhưng chúng tôi vẫn cứ theo “quán tính” mà chép vì lâu nay nhiều sách báo cũng chép như thế. Nếu “căng” ra mà xét một cách thực sự chặt chẽ thì còn phải điều chỉnh một số chữ khác nữa. Nam bang đối với Bắc quốc thì mới chỉnh chứ An Nam thì không. Rồi trượng phu đối với thốn thổ cũng không thể xem là chỉnh được vì thốn là một danh từ đơn vị còn trượng thì lại không. Và tri là một động từ thì làm sao mà đối được với do là một giới từ? Nhưng bao trùm lên tất cả là đôi câu đối hoàn toàn không xứng với nhau vì cấu trúc cú pháp của chúng rất khác nhau. “An Nam nhất thốn thổ” sánh với “Bắc quốc đại trượng phu” nhưng cấu trúc trước là bổ ngữ (của vị từ canh), còn cấu trúc sau lại là chủ ngữ (của vị từ xuất). Một đằng là bổ ngữ còn một đằng lại là chủ ngữ thì còn đối với nhau thế nào được?
Tóm lại đôi câu đối đang xét đã hỏng ngay từ đầu cho nên nếu có sửa thì phải sửa cả cái cấu trúc của chúng để cho hai câu trở nên tương xứng về mặt cú pháp chứ không thể chỉ sửa chữ mà thôi. Vì vậy nên chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến sau đây của Thế Anh:
“Loại câu đối này cũng chỉ là câu chuyện giai thoại và ta nên dừng lại ở mức thư giãn, giải trí thôi (…) chứ làm sao có thể đạt đến độ tuyệt kĩ hoặc tài hoa trong kho tàng câu đối cổ (…) được”*.