Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 716 - 726
§ 716. Kiến thức ngày nay, số 387, ngày 10-5-2001
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết “lâm bô” là gì hoặc là ai.
AN CHI: Nếu “là ai” thì phải viết hoa thành “Lâm Bô”. Lâm Bô là người Tiền Đường, đời nhà Tống, vì không cầu danh lợi nên đã ẩn cư ở Tây Hồ, Cô Sơn. Ông không có vợ con, chỉ trồng mai nuôi hạc làm bạn, do đó người đời mới có câu “mai thê hạc tử” (mai là vợ, hạc là con) để chỉ cảnh sống của ông. Ông cũng giỏi làm thơ và thơ vịnh mai của ông có hai câu đặc sắc vẫn được người đời ưa thích:
“Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển
Ám hương phù động nguyệt hoành hôn”,
nghĩa là bóng (mai) thưa nằm nghiêng trên mặt nước cạn trong và hương thầm của nó thì phảng phất trong ánh trăng buổi hoàng hôn.
Còn hai tiếng “lâm bô” kia, mà ông hỏi “là gì”, thì đã được giảng trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của là “Chỗ hồn ở gởi, mồ mả”. (Xem chữ “bô”), và “Chỗ giam cầm hồn con nít, thường hiểu là cái hòm giả”. (Xem chữ “lâm”). Dictionnaire annamite français của J. F. M. Génibrel thì dịch là “Les limbes. Catafalque”, tương tự với lời giảng của Huình-Tịnh Paulus Của. Điều cần nhấn mạnh là hai tiếng lâm bô ở đây không phải là những yếu tố Hán Việt và nó đã có mặt trong tiếng Việt muộn nhất cũng là vào năm 1772 vì nó đã được Pigneaux de Béhaine ghi nhận trong Dictionarium Anamitico Latinum (1772 – 1773).
Vậy đâu là xuất xứ của hai tiếng lâm bô? Dĩ nhiên đó không phải là danh từ limbes của tiếng Pháp vì ở thời điểm đó thì tiếng Việt chưa có quan hệ tiếp xúc với tiếng Pháp như trong thế kỷ XX. Nhưng từ cuối thế kỷ XVI thì tiếng Bồ Đào Nha đã là một ngôn ngữ “quốc tế” ở Đông Á vì đó là thứ tiếng mà các thương gia và các giáo sĩ phương Tây dùng để giao thiệp với dân các nước sở tại. Chúng tôi đã có dịp nêu tại Chuyện Đông chuyện Tây rằng tiếng Bồ cũng đã đem đến cho tiếng Việt một vài từ ít ỏi như:
– (cây) câu rút < cruz;
– (dây) cót < corda;
– (thêu) ren < renda;
– xà bông < sabão.
Còn bây giờ thì:
– lâm bô < limbo.
Xin chú rằng cả tiếng Bồ limbo và tiếng Pháp limbe(s) đều do tiếng La Tinh limbus mà ra. Cũng xin chú ý rằng mặc dù từ tương ứng của tiếng Anh cũng là limbo nhưng tiếng Việt tuyệt đối không có liên quan gì đến tiếng Anh trong trường hợp này cả. Tóm lại thì lâm bô (tương ứng với tiếng Pháp limbes và tiếng Anh limbo) là một từ Việt mà nguyên từ (etymon) là danh từ limbo của tiếng Bồ Đào Nha.
§ 717. Kiến thức ngày nay, số 388, ngày 20-5-2001
ĐỘC GIẢ: Về quyển Dictionnaire annamite – français của J. F. M. Génibrel, tôi chỉ có trong tay bản in của Imprimerie de la Mission à Tân Định, Saigon, 1898. Nghe nói bản in lần đầu của quyển từ điển này ra đời tại Sài Gòn năm 1877 nhưng không thấy ai có. Vậy xin cho biết sự thực ra sao. Bản in lần đầu và bản in lần thứ hai có khác nhau nhiều hay không? Xin cho biết đôi nét về giá trị của bản 1898.
AN CHI: Về bản mà ông đang có trong tay, Từ điển thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh, do Thạch Phương – Lê Trung Hoa chủ biên (Nxb. Trẻ, 2001) đã ghi nhận tại trang 44 như sau:
“1898 (…) Cuốn Từ điển Việt- Pháp (Dictionnaire annamite -français) của Génibrel được tái bản (lần đầu in năm 1877), có kèm theo chữ Hán, chữ Nôm”.
Rồi tại trang 1049, quyển từ điển đó còn nhắc lại như sau:
“Dictionnaire annamite – français của Génibrel in lần đầu năm 1877 (không có chữ Hán và chữ Nôm), từ bản năm 1898 (có chữ Hán và chữ Nôm) dày 987 trang”.
Cứ như đã được khẳng định trong Từ điển thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh thì quyển Dictionnaire annamite – français của J. F. M. Génibrel đã được in lần đầu tiên năm 1877. Nhưng rất tiếc rằng sự thật thì lại hoàn toàn không phải như thế: bản 1898 mới thực sự là bản in lần đầu tiên của quyển Dictionnaire annamite – français của J. F. M. Génibrel. Vâng, đúng như thế vì trong lời “Cùng độc giả” (Au lecteur) thì chính Génibrel đã viết nguyên văn như sau:
“En 1877 l’Imprimerie de la Mission de Saigon publiait un excellent petit Dictionnaire annamite – français sans caractères, dont l’ auteur, Mgr Caspar, évêque et vicaire apostolique de la Mission de Hué, était alors simple missionnaire à Saigon. C’ est cet ouvrage qui a servi de Canevas à notre travail: voilà pourquoi nous lui avons donné le titre de deuxième édition.”, nghĩa là
“Năm 1877, nhà in của Hội truyền giáo ở Sài Gòn đã ấn hành một quyển Dictionnaire annamite – français đặc sắc cỡ nhỏ không có chữ vuông (chữ Hán và chữ Nôm – AC) mà tác giả, Ngài Caspar, giám mục và khâm mạng Tòa thánh của Hội Truyền giáo Huế, lúc đó chỉ là giáo sĩ thường tại Sài Gòn. Tác phẩm này chính là cái sườn cho công trình của chúng tôi: đó là lý do khiến chúng tôi gọi nó là bản in lần thứ hai”.
Cứ như trên thì hoàn toàn rõ ràng là Dictionnaire annamite -français (1898) của Génibrel là deuxième édition (bản in lần thứ hai) của Dictionnaire annamite – français (1877) mà tác giả là Caspar.
Cách ghi nhận trung thực mà oái oăm của Génibrel (“deuxième édition”) làm cho nhiều người ngộ nhận rằng công trình của ông đã có bản in lần thứ nhất vào năm 1877 mà không ngờ rằng bản 1877 lại là của… Caspar. Chính vì vậy nên không ai có được bản in lần thứ nhất quyển Dictionnaire annamite – français của J. F. M. Génibrel cả vì nó không hề tồn tại. Nhân tiện, chúng tôi xin nói thêm rằng trước quyển từ điển song ngữ Việt – Pháp của Caspar, đã từng có một quyển Dictionnaire élémentaire annamite – français của Legrand de La Liraye do Imprimerie Impériale ấn hành năm 1868.
Tác phẩm của Caspar bây giờ rất khó tìm và vì không có nó nên cũng khó nói một cách chắc chắn công trình của Génibrel khác với nó nhiều đến mức nào, mặc dù có thể nói một cách chung chung theo lời ghi chú nơi trang nhãn là (édition) “refondue et très considérablement augmentée” (soạn lại và bổ sung rất nhiều).
Chúng tôi nghĩ rằng công trình của Génibrel đúng là đã được bổ sung rất nhiều so với quyển của Caspar. Nhưng cũng phải nói rằng quyển từ điển của Génibrel còn có rất nhiều hạt sạn và đây là một công trình mà người ta chỉ có thể tận dụng với một sự dè dặt cần thiết và một sự phê phán tỉnh táo. Rất tiếc rằng nhiều người đã xem nó như khuôn vàng thước ngọc không tì không vết. Và rất tiếc là chính quyển Từ điển thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh cũng đã xưng tụng nó bằng một ngữ danh từ rất kêu: “Cuốn từ điển Việt – Pháp thế kỷ XIX có giá trị nhất” (tr. 1049). Thực ra, chỉ riêng trong việc dẫn và dịch một số thí dụ từ Truyện Kiều, nó cũng cho thấy sự nông cạn của tác giả trong việc nhận thức về từ ngữ của tiếng Việt. Nguyễn Quảng Tuân đã dành ra 18 trang (tr. 65 -82) trong quyển Chữ nghĩa Truyện Kiều (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990) để chỉ ra những chỗ hiểu sai rất non nớt của Génibrel. Sau đây là một số thí dụ mà Nguyễn Quảng Tuân đã nêu:
“Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.
Génibrel đã hiểu sai thưa là đáp lại, trả lời (répondre) nên đã dịch cả câu trên là:
Le coucou chante, perché sur une branche, l’ oie sauvage lui répond du haut des airs où il plane.
Đúng ra thì chữ thưa phải hiểu là thưa thớt và phải dịch là clairsemé”. (tr. 67)
“Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Génibrel đã hiểu sai chữ mai là lúc rạng đông (…) nên đã dịch cả câu trên là:
La tristesse est comme un bouton de fleurs qui s’épanouit comme l’aurore du jour.
Đúng ra thì chữ mai phải hiểu là cây mai và phải dịch là abricotier”. (tr. 67)
“Nghĩ mình phương diện quốc gia
Génibrel đã dịch là:
“Réfléchir à part soi l’ étendue du pays” thì đã chẳng hiểu gì cả.
Câu này Nguyễn Du nói đến vai trò quan trọng của Hồ Tôn Hiến, một vị quan to của triều đình chứ đâu phải đến đất đai rộng lớn (étendue – AC)”.(tr. 78 – 79)
Chúng tôi không dám lạm dụng mà trích dẫn nhiều hơn nữa. Chỉ xin nói thêm rằng trong những câu được nêu, ông Nguyễn Quảng Tuân có dụng ý chỉ nhắm vào một từ nhất định cho gọn chứ thực ra Génibrel còn sai nhiều hơn nữa. Chẳng hạn trong câu
“Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.
mà dịch “cuối trời” thành “du haut des airs” cũng không ổn vì đó phải là “à l’horizon”.
Hoặc trong câu
“Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
mà dịch “cúc” thành “bouton de fleurs” cũng không ổn vì đây là “chrysanthème” (tên một loài hoa) chứ có phải là “nụ hoa” đâu!
Génibrel có nói rằng trong 14 năm dành ra để biên soạn quyển từ điển của mình, ông đã nhờ vào sự giúp đỡ của một bậc túc nho (excellent lettré). Tiếc rằng ông đã không cho biết bậc túc nho đó là ai. Nhưng chắc chắn là những chỗ sai sơ đẳng trên đây của Génibrel đã không được nhà nho đó góp ý còn nếu người này có góp ý mà vẫn còn sai kiểu như thế thì chắc chắn là trình độ tiếng Việt và tiếng Hán của ông ta còn thua xa của các… ông đồ.
Tóm lại, Dictionnaire annamite – français của J. F. M. Génibrel là một quyển sách công cụ cần thiết và bổ ích. Nhưng sự đánh giá có lẽ chỉ nên dùng ở mức độ này mà thôi chứ nếu nâng nó lên hàng “number one” thì e là sẽ gây ra một sự hiểu lầm tai hại chăng?
§ 718. Kiến thức ngày nay, số 389, ngày 1-6-2001
ĐỘC GIẢ: Trong câu “Bà quan tênh nghếch xem bơi trải” thì “trải” có nghĩa là gì và đâu là xuất xứ của từ này?
AN CHI: Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên giảng rằng trải là một loại “thuyền nhỏ và dài, dùng trong các cuộc thi bơi thuyền”.
Theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì trải là một từ cổ Hán Việt bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 履 mà âm Hán Việt hiện đại là lý, có nghĩa là giẫm, đạp (không kể các nghĩa khác). Với nghĩa này, lý còn có một điệp thức là trải (trong từng trải, trải đời, v.v.) và sự tương ứng “lý ~ trải” là điều hoàn toàn có thể chứng minh được.
Trước nhất, về phụ âm đầu, thì lý ~ trải cũng giống như:
– lạm (phép) ~ trộm (phép);
– lan 瀾 (dậy sóng) ~ tràn;
– liêu 撩 (khiêu khích, thách thức; quyến rũ) ~ trêu;
– lung ~ tròng (cổ); v.v.
Còn về vần thì lý ~ trải cũng giống như:
– chi 巵 (bình đựng thức uống) ~ chai (lọ);
– ly 厘 (phần nghìn lạng ta) ~ lai;
– uy (trong uy vũ) cũng đọc là oai;
– thí 翅 (thường đọc sí) ~ sải (tay, cánh); v.v..
Cuối cùng thì sự tương ứng giữa thanh 5 (dấu sắc) với thanh 4 (dấu hỏi) là chuyện mà ngữ âm học lịch sử cũng đã chứng minh từ lâu. Vậy lý ~ trải là một hiện tượng hoàn toàn bình thường. Nhưng trải là một thứ thuyền thì có liên quan gì đến chữ lý là giẫm, đạp mà điệp thức là trải? Sự thể là như sau.
Trong Thuyết văn giải tự của Hứa Thận thì cổ văn (chữ xưa) của lý là * trong đó có chữ chu 舟 (= thuyền), chữ túc 足 và chữ hiệt 頁. Chúng tôi cho rằng sự có mặt của chữ chu trong cổ văn của chữ lý, mà âm xưa là trải, không phải là chuyện ngẫu nhiên vì đó là một yếu tố có chức năng của một nghĩa phù, dùng để chỉ cái nghĩa “thuyền” của chữ trải nay đọc là lý. Cái nghĩa này nay đã tuyệt tích trong tiếng Hán nhưng vẫn còn được bảo tồn trong tiếng Việt. Có ý kiến cho rằng vì lý còn có nghĩa là giày (trong giày dép) nên trong cổ văn thì chữ chu (= thuyền) được dùng để “tượng hình” một chiếc giày. Điều này rất vô lý. Chữ chu chỉ tượng hình một chiếc thuyền mà thôi và vì chữ lý có cái nghĩa rất cổ xưa là “thuyền” nên người ta mới dùng nó theo ẩn dụ để chỉ một thứ giày giống như hình của loại thuyền có tên là lý, mà âm xưa là trải. Cái nghĩa dùng theo ẩn dụ này (giày) đã được từ vựng hóa và tồn tại mãi cho đến ngày nay, còn cái nghĩa gốc (giày) thì đã tuyệt tích giang hồ tự đời nào.
Chúng tôi xin mạo muội trình bày như trên để ông và bạn đọc tham khảo, còn ý kiến đó đúng hay là sai thì lại phải trông chờ vào sự phán xét của các chuyên gia từ nguyên học mới có thể biết được.
§ 719. Kiến thức ngày nay, số 389, ngày 1-6-2001
ĐỘC GIẢ: Tôi thường nghe nhiều người nói:
Tháng năm chưa nằm đã sáng
Tháng mười chưa cười đã tối”.
Có người giải thích rằng sở dĩ có hiện tượng đó là do một năm có hai mùa: sáu tháng đầu năm thì mau sáng, 6 tháng cuối năm thì mau tối. Nhưng theo tôi thì trong Miền Nam chỉ có hai mùa: sáu tháng mưa và sáu tháng nắng. Vậy ai có lý? Xin nhờ An Chi giải đáp giúp.
AN CHI: Về vấn đề mà bạn thắc mắc, tác giả Nguyễn Xiển đã viết trong quyển Vì sao nên dùng dương lịch (Nxb. Phổ thông, Hà Nội, 1977) như sau:
“Hai ngày Xuân phân (21-3) và Thu phân (23-9) ban ngày và ban đêm dài bằng nhau, chia chu kỳ tuần hoàn của Mặt trời ra làm hai thời kỳ, một thời kỳ 6 tháng ban ngày thì dài hơn ban đêm, một thời kỳ 6 tháng ban đêm dài hơn ban ngày. Hai ngày Hạ chí (22-6) và Đông chí (22-12) lại chia mỗi thời kỳ ấy thành hai, mỗi khoảng chừng ba tháng. Hạ chí đánh dấu giới hạn ban ngày dài nhất và Đông chí ban ngày ngắn nhất ở nửa Bắc của Quả đất (…).
“Khác với các xứ lạnh là những nơi suốt mùa đông bị băng tuyết, cây cỏ rụng hết lá đến mùa xuân mới mọc lại, các mùa khí hậu ở nước ta không khác nhau nhiều ở miền Nam nhưng ở miền Bắc cũng có những thay đổi trông thấy từ đông sang hè. Mùa hè, ban ngày dài nhất, có thể dài đến 13 giờ rưỡi, ban đêm ngắn nhất có thể chỉ còn 10 giờ rưỡi; mùa đông thì ngược lại, cho nên nhân dân ta thường nói:
Tháng năm chưa nằm đã sáng
Tháng mười chưa cười đã tối”.
Trong những câu ca dao tính thời gian theo âm lịch như hai câu này, ta có thể chuyển sang dương lịch bằng cách thêm 1 tháng, tháng 5 âm lịch tương đương với tháng 6 dương lịch, tháng 10 âm lịch tương đương với tháng 11 dương lịch.
Với trình độ toán học phổ thông, mọi người có thể tự tính giờ Mặt trời mọc, lặn, độ cao của Mặt trời lúc giữa trưa, độ dài ban ngày, ban đêm để lập ra bảng yếu tố Mặt trời ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
Bảng yếu tố Mặt trời vào các ngày đặc trưng ở Hà Nội
Bảng yếu tố Mặt trời vào các ngày đặc trưng ở Thành phố Hồ Chí Minh
Nếu tính cho cả 12 tháng, riêng độ dài ban ngày ban đêm có thể biểu diễn bằng hình dưới đây:
Sự thay đổi độ dài ban ngày và ban đêm ở Hà Nội qua bốn mùa
Hình này nói lên sự dao động của độ dài ban ngày giữa một cực đại vào ngày Hạ chí (22-6) và một cực tiểu vào ngày Đông chí (22-12). Đối với độ dài ban đêm thì ngược lại”*.
Trở lên là phần trích dẫn những lời giải thích của tác giả Nguyễn Xiển trong quyển Vì sao nên dùng dương lịch về vấn đề mà bạn thắc mắc. Cứ theo đó thì đúng là một năm có 6 tháng ban ngày dài hơn ban đêm và 6 tháng ban đêm dài hơn ban ngày nhưng không phải là 6 tháng đầu năm (1-6), và sáu tháng cuối năm (7-12). Sáu tháng ban ngày dài hơn ban đêm là từ 21-3 đến 23-9 còn 6 tháng ban đêm dài hơn ban ngày thì lại không liên tục mà chia làm hai giai đoạn: từ đầu năm đến 21-3 và từ 23-9 đến cuối năm (Xem lại hình về sự thay đổi độ dài ban ngày và ban đêm). Thế là đầu năm cũng có ngót 3 tháng ban đêm dài hơn ban ngày, nghĩa là trời mau tối (chứ không phải đầu năm thì trời mau sáng).
Cuối cùng thì, đúng như bạn nhớ, ở Việt Nam (chứ không riêng gì ở miền Nam) có một mùa mưa và một mùa khô (nói mùa khô thì chính xác hơn là “mùa nắng”) nhưng đây lại là chuyện khác, không trực tiếp liên quan đến chuyện ban ngày dài hơn ban đêm hay ngược lại.
§ 720. Kiến thức ngày nay, số 390, ngày 10-6-2001
ĐỘC GIẢ: Về chữ giàng trên Kiến thức ngày nay, số 385, tôi xin góp thêm ý kiến như sau.
Giàng là cách viết Việt ngữ hiện đại, xem như ổn định, đúng chính tả (chấp nhận vào từ điển tiếng Việt hiện đại) sau khi chọn lọc từ một cách viết mò mẫm trước đó là “dàng”. Còn thời Pháp thuộc thì ghi là “yang”, phiên âm theo tiếng Gia Rai.
Trong một số ngôn ngữ dân tộc ở Tây Nguyên, giàng không chỉ có nghĩa là Trời mà còn dùng để chỉ những cái gì có vẻ “siêu linh”, từ hàng thượng đẳng (thần thánh, v.v.) đến loài hạ đẳng (yêu ma, v.v.). Vậy khi thấy mấy chữ “Giàng Đất”, xin đừng có la hoảng “Chắc không có người Việt nào biết”* mà tội nghiệp cho Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên đã có công ghi chép vì đó chính là “Yang Dêh”. Vậy xin ông An Chi cứ yên trí hiểu đó là “Thần Đất”, tương tự như “Yang čư” là Thần Núi, “Yang rơbang” là Thần linh, v.v..
AN CHI: Để bạn đọc tiện theo dõi, trước nhất chúng tôi xin chép lại mục từ đang xét trong Từ điển tiếng Việt 1992:
“Giàng. Thần (theo cách gọi của một số dân tộc thiểu số)”. Cúng giàng. Giàng Trời. Giàng Đất”.
Mục từ trên đây sẽ hợp lý nếu các nhà biên soạn chịu dừng lại sau khi đóng ngoặc đơn. Bất ổn là ở những thí dụ mà họ đã nêu ra tiếp sau đó.
Giàng là một từ có nghĩa là thần trong ngôn ngữ của một số dân tộc ở Tây Nguyên, được phiên âm sang tiếng Việt theo nhu cầu khảo tả của dân tộc học chứ không phải là một từ đã nhập tịch vào tiếng Việt để có thể dùng rộng rãi với nghĩa đã nêu. Nó hoàn toàn không thể bình đẳng với hàng loạt từ khác như: trời, thánh, thần, tiên, ma, quỉ, v.v.. Trong khi những từ này có thể tham gia những cấu trúc mà số lượng là vô hạn thì giàng chỉ có thể được dùng một cách hoàn toàn hạn chế trong công việc đã nói mà thôi. Xin trích một đoạn về tín ngưỡng của người Gia Rai làm thí dụ:
“Tôn giáo phổ biến tồn tại trong hầu hết các dân tộc Tây Nguyên nói chung và người Gia Rai nói riêng hiện nay là sự tín ngưỡng và thờ cúng các loại giàng (thần). Trong thế giới tự nhiên muôn hình muôn vẻ ấy đã hình thành một lực lượng vô hình có ảnh hưởng quyết định tới cuộc sống con người. Lực lượng vô hình ấy được quy tụ lại ở khái niệm giàng. Theo quan niệm của đồng bào thì có rất nhiều giàng: giàng hma (thần ruộng nương), giàng ktăn (thần sét), giàng pên ia (thần bến nước), giàng chứ (thần rừng núi). Ngoài ra, còn có thể kể đến cả giàng bnú (thần cây đa), giàng plai (quỉ hình người khổng lồ), giàng hri (thần lúa), giàng pơtao (vua), giàng sang (thần nhà), giàng pên tha (thần sinh ra dòng họ), giàng a la bôn (thần làng), giàng công (thần vòng tay vòng chân), giàng blá (thần chiến tranh)”*.
Trong đoạn văn không dài trên đây, từ giàng đã được dùng đến 16 lần. Nhưng chỉ cần nhạy bén một chút thì người ta cũng đã có thể biết được rằng đó không phải là tiếng Việt. Các tác giả của Từ điển tiếng Việt 1992 phải là những người biết rõ điều này hơn ai hết. Và vì giàng không phải là tiếng Việt nên không thể có những kiểu kết hợp như “cúng giàng”, “Giàng Trời”, “Giàng Đất” theo cách hiểu mà ông đã nêu. Đây chẳng những không phải là tiếng Việt mà cũng chẳng phải là tiếng của bất cứ dân tộc thiểu số nào ở Tây Nguyên. Người Việt không nói “cúng Giàng” mà nói “cúng Trời” còn tương ứng với từ “cúng” của tiếng Việt thì người Gia Rai lại nói “ngă yang” (chứ đâu có nói “cúng”). Người Việt không nói “Giàng Đất” mà nói “Thần Đất” còn tương ứng với “Thần Đất” của tiếng Việt thì tiếng Gia Rai lại là “Yang Dêh” như chính ông cũng đã nêu. Vậy “Giàng Đất” chỉ là một cấu trúc đầu Ngô mình Sở, chẳng những hoàn toàn xa lạ với tiếng Việt chánh tông mà cũng chỉ là một đứa con vô thừa nhận của tiếng Gia Rai (và tiếng của nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên) mà thôi. Cũng may mà trong đoạn trích dẫn trên đây, các tác giả đã hành văn đúng theo phong cách dân tộc học chuyên nghiệp bằng cách ghi nhận tiếng Gia Rai (qua phiên âm) rồi chú nghĩa bằng tiếng Việt trong ngoặc đơn chứ nếu họ làm theo kiểu nghiệp dư mà viết “giàng ruộng nương”, “giàng sét”, “giàng bến nước”, “giàng rừng núi”, “giàng cây đa”, v.v. thì không khéo các tác giả của Từ điển tiếng Việt 1992 cũng sẽ biến những cách nói “ba rọi” này thành tiếng Việt!
Tóm lại, cái công – công lớn nữa ấy chứ! – của các nhà biên soạn Từ điển tiếng Việt 1992 là ở những chỗ khác chứ với ba cái thí dụ đang xét thì họ chỉ góp phần làm hư hỏng tiếng Việt mà thôi. Vì vậy nên chúng tôi vẫn cứ phải bình tĩnh nhắc lại rằng đối với những cách nói đó thì chắc chắn là không có một người Việt thông thạo tiếng mẹ đẻ nào biết đến. Nghĩa là chẳng có ai hiểu đúng tiếng Việt mà lại chịu thừa nhận ba cái thí dụ ấy cả.
§ 721. Kiến thức ngày nay, số 390, ngày 10-6-2001
ĐỘC GIẢ: Có người cho rằng tiếng Nôm vía (trong vía Bà, vía Phật, v.v.) là do chữ Hán húy mà ra. Lại có người cho đó là biến âm của vái vì vái van còn đọc vía van. Ý kiến ông thế nào?
AN CHI: Chúng tôi cũng cho rằng vía là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 諱 mà âm Hán Việt hiện đại là húy, có nghĩa gốc là sợ (từ đồng nghĩa với nó là kỵ trong ngày kỵ ngày giỗ cũng có nghĩa gốc là sợ). Húy còn có nghĩa là tên của người đã chết, đặc biệt là của người được tôn kính. Chúng tôi cho rằng liên quan đến nghĩa này, ngữ vị từ hú vía trong thành ngữ hú hồn hú vía vốn có nghĩa là gọi tên cúng cơm của người đã chết (trong nghi thức cúng tế thời xa xưa chẳng hạn). Trở lên là nói về mặt nghĩa. Còn về mặt ngữ âm, đặc biệt là về phụ âm đầu, thì vía ~ húy cũng hoàn toàn giống như:
– và ~ hòa;
– vạ ~ họa;
– vạch ~ hoạch;
– (màu) vàng ~ hoàng;
– váng (đầu) ~ hoảng (đầu óc rối loạn);
– (vội) vàng ~ hoàng 趪 (tất tả, vội vã);
– vang ~ hoanh, thường đọc oanh (trong oanh liệt).
Còn vái van và vía van là hai cấu trúc độc lập với nhau nên không thể nói rằng vía van là biến âm của vái van được. Vái van là một ngữ vị từ còn vía van thì lại là một ngữ danh từ nên không thể lẫn lộn được.
§ 722. Kiến thức ngày nay, số 391, ngày 20-6-2001
ĐỘC GIẢ: Cái “thẹp” là cái gì và đâu là xuất xứ của từ này?
AN CHI: Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng thẹp là cái vành, cái mép. Đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ mà âm Hán Việt hiện đại là tiệp, ghi bằng chữ 緁 hoặc chữ *, đều có nghĩa là cái mép của tà áo.
§ 723. Kiến thức ngày nay, số 391, ngày 20-6-2001
ĐỘC GIẢ: “Được” đồng nghĩa với “đặng” mà được hẳn là do đắc còn đặng thì do đâu mà ra?
AN CHI: Chúng tôi cho rằng đặng là âm Hán Việt xưa của chữ thắng 勝 (= được, hơn) biết rằng chữ này có cùng thanh phù 月龹 với nhiều chữ “đằng” khác nhau như 滕, 縢, 謄 v.v.. Vậy đ- ~ th- là chuyện hoàn toàn bình thường còn nặng và sắc thì đều bắt nguồn từ một thanh gốc là thanh khứ nên chuyển đổi với nhau cũng không phải chuyện lạ.
§ 724. Kiến thức ngày nay, số 391, ngày 20-6-2001
ĐỘC GIẢ: Con cái: con là… con còn cái thì là gì?
AN CHI: Trong con cái thì con là con trai và cái là con gái. Vậy con cái là một ngữ danh từ đẳng lập đồng nghĩa và tương tự về cấu trúc với ngữ danh từ tử nữ (tử: con trai, nữ: con gái) của tiếng Hán. Con vốn có nghĩa là… con, nghĩa là cả con trai lẫn con gái nhưng hẳn là sau đó phải có một thời từ này dùng để đặc chỉ con trai (giống như tử vốn cũng có nghĩa là con (trai hoặc gái) lại được dùng để chỉ riêng con trai) do quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một trai rằng có, mười gái rằng không) chăng? Còn cái thì, xét về lịch sử, chẳng qua chỉ là một điệp thức (doublet) của gái mà thôi.
§ 725. Kiến thức ngày nay, số 391, ngày 20-6-2001
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết sơ lược về ngôn từ và nội dung của bài “Việt nhân ca”. Có phải đây là một bài ca của tổ tiên người Việt (Kinh) ở Việt Nam hay không?
AN CHI: Ngôn từ của bài Việt nhân ca đã được ghi nhận trong sách Thuyết uyển của Lưu Hướng thời Tiền Hán và đã được tác giả này phiên âm bằng 32 chữ Hán liên tục (không có dấu câu như trong sách chữ Hoa ngày nay), đọc theo âm Hán Việt như sau:
“Lạm hề biện thảo lạm dư xương hộ trạch dư xương châu châu khảm châu yên hồ tần tư tư mạn dư hồ chiêu thiền tần dũ sấm đề tùy hà hồ”.
Nghĩa của bài ca này đã được tác giả ghi thành 6 “dòng” như sau:
“Kinh tịch hà tịch hề, khiên chu trung lưu?
Kim nhật hà nhật hề, đắc dữ quân tử đồng chu?
Mông tu bị hảo hề, bất ti hấu sỉ.
Tâm kỷ ngoan nhi bất tuyệt hề, đắc tri vương tử.
Sơn hữu mộc hề, mộc hữu chi.
Tâm duyệt quân hề, quân bất tri”.
Trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam (Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1999), Lê Mạnh Thát đã ngắt 32 chữ trên đây thành 8 dòng:
“Lạm hề biện thảo
Lạm dư xương hộ
Trạch dư xương châu
Châu khán châu
Yên hồ tần tư
Tư mạn dư
Hồ chiêu thiền tần dũ
Sấm thật tùy hà hồ”. (tr. 39 – 40)
Còn 6 “dòng” nghĩa thì đã được ông dịch như sau:
“Chiều nay chiều nào hề nhổ dòng trung châu
Ngày nay ngày nào hề được cùng thuyền với vua
Được ăn mặc đẹp hề không trách nhục hổ
Lòng từng ngang mà không dứt hề biết được vương tử
Núi có cây hề cây có cành
Lòng thích vua hề vua chẳng rành”. (tr. 40)
Lê Mạnh Thát đã dành ra gần 8 trang (38 – 45) để phân tích rồi khẳng định rằng Việt nhân ca là một bài ca của người Việt thời Hùng Vương và ông đã đề nghị một cách đọc tiếng Việt của 8 dòng trên đây như sau:
Lắm buổi điên đảo
Lắm giờ chung gọ
Nước giờ chung đuốc
Đuốc cành đuốc
Yên dạ gìn vua
Vua vẫn vờ
Dạ sao thân gìn vua
Xiêm thực vị há hổ”. (tr. 43)
Cá nhân chúng tôi cũng rất ước muốn Việt nhân ca đích thực là một bài của tổ tiên chúng ta nhưng sự thật đã không thể như thế được vì nó lại thuộc tác quyền của người nước Việt thời Xuân Thu (770 – 445 tr. CN) bên Trung Hoa mà lãnh thổ lúc bấy giờ nằm trên tỉnh Chiết Giang của Trung Quốc hiện nay. Câu chuyện làm nền cho việc ghi chép bài ca đó cũng cho thấy rõ điều này mà sau đây là lời dịch thuật của chính Lê Mạnh Thát:
“Quan đại phu nước Sở là Trang Tân đi qua nói chuyện (…) Tương Thành Quân giận, đổi sắc mà không nói gì. Trang Tân né chiếu, chắp tay nói: “Chắc có mình ngài không nghe việc Ngạc quân Tử Tích thả thuyền chơi trong giòng Tân ba, cỡi thuyền Thanh hàn rất lộng lẫy, tương lộng thuý, cầm đuôi tê, trải chiếu vạt đẹp. Khi tiếng chuông trống xong, thì chèo thuyền. Người Việt ôm mái chèo ca. Lời ca nói: Lạm hề biện thảo (…) Ngạc quân Tử Tích nói: “Ta không biết lời ca Việt. Ông thử vì ta nói bằng tiếng Sở”. Lúc đó mới gọi Việt dịch, bèn nói tiếng Sở rằng: Kim tịch hà tịch hề (…)”. (tr. 39 – 40)
Cứ nội dung câu chuyện trên đây mà xét một cách thực sự tỉnh táo và khách quan thì Sở và Việt ở đây chính là hai trong những nước đã có lúc mạnh nhất thời Xuân Thu nên Việt ở đây cũng chỉ có thể là nước Việt của Câu Tiễn mà thôi. Ngoài ra, còn phải nói thêm rằng nếu bài Việt nhân ca có là của tổ tiên chúng ta đi nữa thì văn bản tiếng Việt mà Lê Mạnh Thát tái lập cũng có những chỗ không thỏa đáng.
Trước hết, ngay ở dòng đầu tiên mà ông đưa ra, người ta cũng đã bắt gặp hai tiếng “điên đảo” là hai yếu tố Hán Việt chánh tông, chỉ có thể xuất hiện từ đời Đường (618 – 907) trở đi mà thôi. Rồi ở câu cuối, hai tiếng “xiêm thực” cũng là Hán Việt nốt, làm sao có thể xuất hiện ở thời Hùng Vương được?
Thứ hai là văn bản mà ông tái lập xem ra còn thiếu nhiều ý quan trọng so với nội dung của bài ca mà chính ông đã dịch lại từ lời dịch bằng tiếng Hán (xin xem lại ở trên).
Thứ ba là vì không quan tâm đến “tiếng Việt” đích thực của bài ca cùng với những đặc điểm ngữ hệ của nó cho nên Lê Mạnh Thát đã ngắt câu một cách võ đoán. Cũng 32 chữ phiên âm đang xét, Ngữ ngôn văn tự bách khoa toàn thư do Trung Quốc đại bách khoa toàn thư xuất bản xã, Bắc Kinh, ấn hành năm 1994, chỉ ngắt thành 6 dòng mà thôi. Số dòng này phù hợp với 6 “dòng nghĩa” đã được dịch sang tiếng Hán. Sự phù hợp này không do ngẫu nhiên mà là kết quả của một sự so sánh ngôn ngữ công phu và khoa học. Các nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng tiếng Việt ở đây là một ngôn ngữ Tráng Đồng (Zhuàng Dòng) ở Trung Quốc ngày nay. Họ đã căn cứ vào nghĩa của các câu đã được dịch mà so sánh từng chữ (tiếng) trong 32 chữ phiên âm đang xét với những tiếng tương ứng trong các ngôn ngữ đã nói (Tráng, Bố Y, Thái, Thuỷ, v.v.) và với cả tiếng Hán (do quan hệ tiếp xúc) để tìm ra nghĩa cho từng tiếng. Dưới đây là cách ngắt câu và nghĩa của những câu đó theo Ngữ ngôn văn tự bách khoa toàn thư (xin nhớ rằng những câu này là tiếng của nước Việt thời Xuân Thu chứ không phải tiếng Hán):
“Lạm hề biện thảo lạm dư
Xương hộ trạch dư xương châu châu
Khảm châu yên hồ tần tư tư
Mạn dư hồ chiêu
Thiền tần dũ sấm
Đề tùy hà hồ”.
nghĩa là:
“Đêm nay ta giong thuyền trên sông là cái đêm gì đây?
Ta đang chung thuyền với ai? Với vương tử (chứ ai).
Được đại nhân có mỹ ý trọng thị, ta xấu hổ vô hạn.
Ta từng mong được làm quen với vương tử biết bao nhiêu!
Cành quấn quýt cây, cây bám núi.
Trong lòng ta vô cùng trìu mến người, người có biết chăng?
§ 726. Kiến thức ngày nay, số 392, ngày 1-7-2001
ĐỘC GIẢ: Tôi xin góp ý cho câu trả lời của ông trên Kiến thức ngày nay, số 387 về giai thoại “Xỏ sứ” như sau:
1. Chắc ông cũng đồng ý “Xỏ sứ” chỉ là một giai thoại văn học với hai đôi câu đối đề cao anh lái đò và cô hàng nước vả vào mặt vị sứ Tàu. Là giai thoại thì đâu phải là thật. Bởi thế nên làm gì có chuyện “không hiểu tại làm sao mà nhiều người vẫn cứ thích ép tay sứ Tàu phải dùng tiếng ta”. Làm gì có người Tàu nào ở đây.
2. Nếu đã đặt vấn đề thay “sấm” bằng “lôi” thì tại sao ở vế sau lại không đổi “qua” thành “quá” trong khi tiếng Hán có hai từ “qua”, một có nghĩa là quả dưa và một có nghĩa là một loại binh khí. Vậy trong vế đối, phải là “quá” mới đúng nghĩa; chưa nói đến việc nếu đính chính “qua” thành “quá” thì sẽ không chỉnh vì không đối thanh.
3. Có lẽ do cả hai vế đối có quá nhiều từ Hán (đến 3/4), lại thêm nhân vật sứ Tàu nên ông mới tưởng đây là câu đối bằng tiếng Hán chăng? Xin khẳng định đây là câu đối Nôm, Nôm 100%, người không biết chữ Hán nghe đọc đều hiểu rõ nghĩa và nhận biết ngay cái hay tuyệt hay của cả hai câu đối. Vế đầu “động, Nam bang”, vế sau “vũ, Bắc hải” đúng là từ Hán nhưng đã được người Việt hiểu như từ Việt. Cho nên “sấm” ở vế trước và “qua” ở vế sau hoàn toàn tạo thành câu đối Nôm. Thử thay “sấm” bằng “lôi” và “qua” bằng “quá”, dù được đọc lên, người không biết chữ Hán không thể nào hiểu được để cảm nhận cái hay của nó.
4. Tại sao lại có chuyện “sấm” thay “lôi” và “qua” thay “quá”? Chủ câu đối nói tiếng bồi chăng? Ngược lại, chủ câu đối rất giỏi, đã cho ra đôi câu đối Nôm rất chỉnh, rất hay, đã tận dụng trong câu đối Nôm của mình những từ Hán mà người ít chữ cũng có thể hiểu được.
Từ xưa đến nay tất cả đều chấp nhận, khen hay, không một ai đòi đính chính chữ này chữ nọ, không một ai thấy cần phải thay “sấm” bằng “lôi” (mà nếu thế thì cũng phải thay “qua” bằng “quá”). Vậy liệu có nên đặt vấn đề đính chính hoặc bắt lỗi hay không?
AN CHI: Ai cũng biết rằng “Xỏ sứ” hiển nhiên chỉ là một giai thoại do tưởng tượng mà ra. Chứ nếu có thực một tay lái đò nhảy phốc lên mui thuyền chở sứ giả Bắc quốc mà… “tè” ra trên sông nước như thế thì còn đâu là quốc thể của Nam bang!
Vâng, trong thực tế thì không hề có một tay lái đò nào như thế cả. Nhưng “ở đây”, nghĩa là trong giai thoại đang xét, thì có. Và không chỉ có tay lái đò mà còn có cả ngài sứ giả của Thiên triều nữa. Vâng, cái anh Tàu đã lỡ “bật hơi” nơi “cửa sau” này cũng có mặt trong giai thoại nữa đấy. Ai cũng có thể thấy được rằng hai bậc kỳ nhân đó là những nhân vật thực thụ trong cái “truyện ngắn” mini 64 tiếng nhan đề là “Xỏ sứ” mà Phong Châu đã ghi lại trong Câu đối Việt Nam.
Sự thực đơn giản như thế nhưng rất tiếc là vì đã lẫn lộn chuyện ngoài đời với chuyện trong truyện nên ông lại khẳng định rằng “làm gì có người Tàu nào ở đây”!
Ông cũng khẳng định rằng đôi câu đối đang xét là những câu đối Nôm, “Nôm 100%” còn xưa nay người ta vẫn mặc nhận rằng đó là một đôi câu đối tiếng Hán. Đúng như ông đã viết, câu chuyện đang xét là một giai thoại “với hai đôi câu đối đề cao anh lái đò và cô hàng nước vả vào mặt viên sứ Tàu”.
“Sấm (sic) động Nam bang
Vũ qua Bắc hải”
là đôi câu đối của viên sứ Tàu và anh lái đò. Còn sau đây là đôi câu đối của chính viên sứ đó và cô hàng nước:
“An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh
Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất”
(Một tấc đất An Nam không biết bao nhiêu người cày
Đại trượng phu xứ Bắc đều do đường ấy mà ra).
Cả hai đôi đều nhất quán là tiếng Hán nhằm nêu bật cái tài ứng xử và đối đáp bằng tiếng Hán của anh lái đò và cô hàng nước chứ nào có phải đôi đầu tiên lại là Nôm! Đó là xét theo kết cấu chung của cả giai thoại. Còn sau đây là nhận xét về mặt ngôn từ.
Chỉ riêng sự hiện diện của từ vũ (= mưa) trong câu sau cũng đã buộc người ta phải dè dặt khi muốn kết luận rằng đây lại là một câu tiếng Việt. Nó chỉ là một hình vị không độc lập chứ không phải là từ. Không một người Việt nào lại nói “Vũ rơi” thay cho “Mưa rơi”, “Vũ phùn lất phất” thay cho “Mưa phùn lất phất”, v.v..
Nhưng không chỉ có thế mà còn có cả chuyện cấu trúc cú pháp nữa. Nam bang và Bắc hải là những ngữ danh từ mà trật tự hiển nhiên là trật tự của tiếng Hán: định ngữ (Nam, Bắc) đứng trước bị định ngữ (bang, hải) .
Ông có viện lý thêm rằng nếu là tiếng Hán thì chữ thứ hai của câu sau phải đọc thành quá chứ không phải là “qua” vì theo ông thì đây không phải là âm Hán Việt của chữ 過. Nhưng tự thư và vận thư thì lại ghi cho nó đến hai âm. Trong Quảng vận, nó vừa thuộc vận qua 戈 (bình thanh) lại vừa thuộc vận quá (khứ thanh) mà chính nó lại là chữ đầu vận. Còn Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) thì ghi: “Cổ ngoại thiết (= quá). Hựu cổ hòa thiết (= qua)”. v.v.. Vậy qua là âm Hán Việt chính thống của chữ đang xét chứ không phải là một âm “Nôm”.
Cứ như trên thì nhìn vào toàn cục của đôi câu đối đang xét, tiếng sấm là một từ rất lạc lõng. Đây chắc chắn không phải là chữ của “bản gốc”. Chỉ có người thời nay mới “Nôm hoá” chữ “lôi” thành “sấm” mà thôi. Văn bản gốc phải là:
“Lôi động Nam bang
Vũ qua Bắc hải”
Nếu người xưa cần “nói Nôm” thì hai câu này sẽ có thể là:
“Sấm động trời (cõi, v.v.)
Nam Mưa qua đất (bờ, v.v.) Bắc”.
chẳng hạn. Một thứ tiếng Việt như thế này có phải là trong sáng và tự nhiên hơn biết bao nhiêu hay không? Huống chi, đến người Nam cũng còn cho rằng “Nôm na là cha mách qué” thì tay sứ giả của phương Bắc đời nào lại chịu “nói Nôm”.