Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 700 - 715

§ 700. Kiến thức ngày nay, số 382, ngày 20-3-2001

ĐỘC GIẢ: Tại mục “Chuyện chữ nghĩa & Đời sống” trên báo Nguồn sáng số 20/97-10-11, độc giả Võ Bá ở Đà Nẵng đã nhắc lại câu trả lời về hai thành ngữ con gái con đứa và đàn ông đàn ang của mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 102 rồi viết: “Ôi chao! Sao mà khó hiểu, giảng theo lối bác học như thế thì tôi biết đi hỏi ai để xin giảng giải lại lời giảng này đây (…) Là tiếng nói dân gian, Nguồn Sáng hãy giảng theo lối dân gian thử xem”. Và Nguồn Sáng đã giải đáp như sau:

“Đứa: Do từ Hán Việt “đóa” là một cái gì đẹp đẽ. Một chùm, một đám, một áng (Đóa hoa) và chữ “đoạ, đoả” là kẹp tóc để tóc quả đào. Chỉ người con gái nhỏ xinh xắn. “Con gái con đứa” là người con gái tươi đẹp, trẻ trung (…).

“Ang: Do từ Hán Việt “áng” là tốt đẹp, đầy đặn, nở nang (áng văn hay), chữ “ang” là cây sào để chống thuyền. Chỉ sự chống chọi việc đời”. “Đàn ông đàn ang” là người đàn ông phải ra dáng đàn ông, có thân hình tốt đẹp, nở nang, đầy đặn và làm những việc lớn, chống chọi với đời (…)”.

Xin ông An Chi cho nhận xét về những lời giảng trên đây. Nguồn Sáng đưa ra những lời giảng này đã hơn ba năm nay; tôi chờ mãi mà không thấy Chuyện Đông chuyện Tây phản hồi nên mới phải hỏi ông.

AN CHI: Vì không đọc Nguồn sáng nên chúng tôi không biết đến những lời giảng mà ông đã có nhã ý sao chép để gởi đến. Nhưng cứ như ông đã chép thì những lời giảng này có nhiều chỗ sai vì hoàn toàn trái ngược với đặc điểm của tiếng Việt (và của cả tiếng Hán nữa).

Nguồn sáng đã giảng rằng đứa là “do từ Hán Việt “đóa” là một cái gì đẹp đẽ. Một chùm, một đám, một áng (Đóa hoa)”. Cứ như trên thì “đứa” trong con gái con đứa là một danh từ đơn vị (mà nhiều người vẫn còn thích gọi là “loại từ”) mà tiếng Việt đã mượn ở lượng từ đóa của tiếng Hán. Nhưng trong tiếng Hán thì chính từ đóa trước sau vẫn chỉ là một lượng từ mà thôi. Lượng từ này lại chỉ là một “danh từ hình thức thuần tuý”* nên tuyệt nhiên không thể “chỉ một cái gì đẹp đẽ” nếu nó không đi chung với một danh từ khối (mass noun) dùng theo ẩn dụ. Xin lấy bài văn tế làm theo lối tán tương truyền là của Mạc Đĩnh Chi làm thí dụ:

Thanh thiên nhất đóa vân,

Hồng lô nhất điểm tuyết,

Thượng uyển nhất chi hoa,

Dạo trì nhất phiến nguyệt.

Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết.

(Trời xanh một đám mây,

Lò cả một chấm tuyết,

Vườn ngự một nhành hoa,

Ao ngọc một vầng trăng.

Ôi! Mây tan, tuyết chảy, hoa tàn, trăng khuyết.)

Trong bài tán này, làm để khóc một nàng công chúa yểu mệnh, các từ dùng để ám chỉ người đẹp trong các danh ngữ hữu quan chính là các danh từ khối, vân, tuyết, hoa (nguyệt là một trường hợp đặc biệt) chứ không phải là lượng từ đóa và các từ đồng từ loại với nó là điểm, chi và phiến. Vì vậy nên chẳng làm gì có chuyện từ đóa mà lại “chỉ một cái gì đẹp đẽ”.

Trở lên là nói ngắn gọn về tiếng Hán còn sau đây là chuyện tiếng Việt. Trong tiếng Việt, danh từ đơn vị, mà cũng chỉ là một số ít, chỉ có thể dùng theo nghĩa bóng nếu nó là trung tâm của danh ngữ, mà liền sau nó là một danh từ khối chỉ khái niệm trừu tượng, thí dụ: tấm lòng (so với nghĩa đen trong tấm ván), mảnh tình (so với nghĩa đen trong mảnh giấy), v.v.. Còn nếu nó đi liền theo sau một danh từ khối thì nó chỉ được dùng theo nghĩa đen mà thôi, thí dụ: gạch thẻ, thuốc viên, đá tảng, mì sợi, v.v.. Trong kiểu danh ngữ này, danh từ đơn vị không bao giờ được dùng theo nghĩa bóng. Vì vậy nên nói rằng trong (con gái) con đứa mà đứa lại chỉ “một cái gì đẹp đẽ” là hoàn toàn vô lý và đây là điểm vô lý thứ nhất.

Điểm vô lý thứ hai là Nguồn sáng giảng rằng đứa vừa do đóa (một cái gì đẹp đẽ) vừa do đọa, đỏa (là kẹp tóc để tóc quả đào) mà ra. Lời giảng này cũng ngộ nghĩnh giống hệt như nói rằng có hai bà mẹ mà lại cùng đẻ ra một đứa con chung. Từ Nguyên học không chấp nhận lối giải thích như thế.

Tương tự như trên, từ nguyên học không chấp nhận lối giảng cho rằng ang trong đàn ông đàn ang vừa do “từ Hán Việt “áng” là tốt đẹp, đầy đặn nở nang (áng văn hay)” lại vừa do chữ “ang” là cây sào để chống thuyền (chỉ sự chống chọi việc đời) mà ra. Giữa hai chữ đó, chỉ có thể chọn một mà thôi và rất tiếc là cả hai chữ mà Nguồn sáng đưa ra đều trái với đặc điểm của tiếng Việt. Thật vậy, trong đàn ông đàn ang, ông là danh từ nên để cho tương xứng, ang cũng phải là một danh từ. Vì vậy, đưa từ ang là “tốt đẹp đầy đặn, nở nang” vào đây thì rất lạc lõng vì đó là một vị từ. Đồng thời, ông là một danh từ chỉ người nên đưa ang là “cây sào để chống thuyền” vào thì cũng lạc lõng không kém vì nó không thuộc cùng một trường nghĩa với ông. Tóm lại, từ nguyên học có phương pháp luận và những nguyên tắc chặt chẽ của nó chứ không phải là những thao tác “nói nhăng nói cuội” mà mục đích chỉ là quy một vài từ nhất định về những từ có âm na ná và có nghĩa từa tựa.

§ 701. Kiến thức ngày nay, số 382, ngày 20-3-2001

ĐỘC GIẢ: Cái “phom” là cái gì và đâu là xuất xứ của từ này?

AN CHI: Phom là cái khuôn đóng giày và là hình thức phiên âm của từ forme trong tiếng Pháp. Forme là cái khuôn để đóng giày hoặc để làm mũ nón (Petit Larousse illustré: “Moule sur lequel on fait un chapeau, une chaussure, etc”.

§ 702. Kiến thức ngày nay, số 382, ngày 20-3-2001

ĐỘC GIẢ: Mục “Tin học lý thú” trên báo Tuổi trẻ ngày 24-2-01 có nói đến “con chim giáo chủ đỏ thắm đầu tiên thuộc loại quí hiếm được đưa vào danh sách bảo tồn thế giới”. Xin cho biết “chim giáo chủ” là con chim gì.

AN CHI: “Chim giáo chủ” là một giống chim sẻ Bắc Mỹ (có bộ lông màu đỏ thắm). Tên tiếng Pháp của nó là cardinal và tiếng Anh là cardinal hoặc cardinal-bird. Cardinal vốn có nghĩa là hồng y (một giáo phẩm bên Công giáo), rồi các nghĩa phái sinh bằng ẩn dụ đã trở thành những từ độc lập (ít ra cũng là trong tiếng Pháp):

– giống chim hồng tước, mà tiếc rằng Từ điển Anh – Việt của Viện Ngôn ngữ học (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975), cũng dịch là “chim giáo chủ” (!);

– giống hồng ngư (cá đỏ thắm) ở vùng biển Antilles;

– giống bướm màu đỏ thắm;

– giống ốc tù và có vỏ màu đỏ thắm;

– giống hoa dơn (glaïeul) màu đỏ thắm.

Sở dĩ các giống trên đây có tên “cardinal” là vì chúng có (bộ lông, bộ vảy, đôi cánh, v.v.) màu đỏ thắm, được xem như màu đặc trưng trong phẩm phục của các hồng y.

§ 703. Kiến thức ngày nay, số 382, ngày 20-3-2001

ĐỘC GIẢ: “Da mồi tóc sương”: “da mồi” có phải là da giống như đồi mồi hay không?

AN CHI: Có người đã giải thích như thế còn chúng tôi thì cho rằng mồi là âm xưa của chữ 黣 mà âm Hán Việt hiện đại là mỗi, có nghĩa là (da dẻ) đen đúa.

§ 704. Kiến thức ngày nay, số 383, ngày 1-4-2001

ĐỘC GIẢ: Tôi nhận được một bức thư e-mail trong đó có hai câu thơ thất ngôn:

Thien thuong phu van nhu bach y

Tu du hot bien vi thuong cau.

Xin cho biết cách đọc, ý nghĩa và xuất xứ của hai câu này.

AN CHI: Cách đọc là:

“Thiên thượng phù vân như bạch y,

Tu du hốt biến vi thương cẩu”.

nghĩa là:

Mây nổi trên trời như áo trắng,

Phút chốc bỗng thành hình chó xanh.

Đây là hai câu đầu trong bài “Khả thán” (Đáng than) mà Đỗ Phủ làm để tỏ lòng đồng cảm với Vương Quý Hữu, cũng là một nhà thơ đời Đường. Vương nhà nghèo từ bé; gia đình sống bằng nghề bán guốc dép. Tuy đọc rộng hiểu nhiều và giỏi làm thơ nhưng lận đận về đường công danh mà gia cảnh lại nghèo túng nên Vương bị vợ là nàng họ Liễu chê bỏ.

Bài thơ còn dài. Từ ý và lời của hai câu trên đây, người ta đã tạo ra thành ngữ bạch y thương cẩu hoặc bạch vân thương cẩu để nói về lẽ biến hóa vô thường của cuộc đời.

Xin nói thêm rằng Ngự định toàn Đường thi, bản in năm Khang Hy thứ 46 (1707), hộp 4, tập 2, quyển 222 và Hán Đại thành ngữ đại từ điển (Thượng Hải, 1997, tr. 15, mục “bái yī cāng gŏu”) đều ghi câu thứ hai là:

“Tư tu cải biến như thương cẩu”.

Thế là khác với văn bản mà ông đã nhận được đến bốn chữ, tư tu ≠ tu du (nhưng đều có nghĩa là chốc lát), cải ≠ hốt, như ≠ vi.

§ 705. Kiến thức ngày nay, số 383, ngày 1-4-2001

ĐỘC GIẢ: Để chỉ người làm gián điệp nhị trùng, có khi người ta còn nói “gián điệp hai mang”. Xin cho biết “hai mang” là gì và xuất xứ từ đâu.

AN CHI: Phương ngữ Bắc Kinh (của tiếng Hán) có mấy chữ “lưỡng đầu mang” 两頭忙 (chữ mang có nghĩa là bận rộn trong công việc) mà Arthur H. Smith giảng là dùng để nói về người có việc làm ở hai nơi, “used of one who has work to do in two places”*. Từ tổ hai mang trong tiếng Việt có lẽ bắt nguồn ở mấy chữ trên đây của tiếng Bắc Kinh và do cán bộ Việt Nam đem từ Trung Quốc về chăng?

§ 706. Kiến thức ngày nay, số 383, ngày 1-4-2001

ĐỘC GIẢ: California là một tiểu bang có nhiều Việt kiều tại Hoa Kỳ. Xin cho biết tên của bang này xuất xứ từ đâu.

AN CHI: Theo Origins của Eric Partridge (London, 1961), một quyển từ điển từ nguyên tiếng Anh đáng tin cậy, thì California là một hình thức Tây Ban Nha hóa vào khoảng năm 1500, của địa danh Califerne (không rõ nguồn gốc) trong La Chanson de Roland, một bản anh hùng ca của nước Pháp cuối thế kỷ XI. Mario Pei, trong The story of language (New York and Toronto, 1966), cũng tán đồng ý kiến trên đây nên đã viết nguyên văn như sau: “California seems to be derived from Califerne, an imaginary land appearing in the eleventh-century French epic Chanson de Roland” (p. 64). Có thể có người sẽ đưa ra cách giải thích ly kỳ và hấp dẫn hơn nhưng, với chúng tôi, thì trên đây là cách giải thích nghiêm túc, ít nhất cũng là của các tác giả nghiêm túc.

§ 707. Kiến thức ngày nay, số 383, ngày 1-4-2001

ĐỘC GIẢ: Tôi đang có trong tay một quyển sách khá đồ sộ nhan đề Tiếng nói nôm na (Sưu tầm dân gian, dẫn giải 30.000 từ tiếng Việt thông dụng có liên quan đến từ Hán Việt) của tác giả Lê Gia do Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1999. Xin cho biết đây có phải là một quyển từ điển từ nguyên hay không và xin cho biết nhận xét của ông về quyển từ điển này.

AN CHI: Chính Lê Gia cũng đã khẳng định trong lời “Phá đề” rằng Tiếng nói nôm na “không phải là sách từ điển vì sách từ điển thì không được phép sai”. Đồng thời cũng chính tác giả đã ghi rõ ngay dưới nhan đề của quyển sách bốn chữ “Sưu tầm dân gian” có lẽ vì đã xác định được rằng cách làm của mình chưa tiếp cận được với từ nguyên học đích thực và chính danh. Đây là một sự thẳng thắn đáng hoan nghênh nhưng cũng là một điều đáng tiếc vì nếu “30.000 từ tiếng Việt thường dùng có liên quan đến từ Hán Việt” mà lại được giải thích tường tận và chính xác về mặt từ nguyên theo những nguyên tắc nghiêm cẩn thì sẽ là một niềm tự hào lớn lao cho từ nguyên học về các từ Việt gốc Hán. Nếu biết được rằng trong lĩnh vực này các chuyên gia đang chắt lọc từng trường hợp một (những trường hợp thông thường thì đã được giải quyết và khẳng định từ lâu) thì người ta sẽ thấy 30.000 là một con số khổng lồ.

Dù sao thì, theo chúng tôi, đây vẫn là một quyển từ điển, ít nhất cũng là do hình thức trình bày của tác giả. Và quyển từ điển này, theo chúng tôi, dù sao cũng là một quyển sách hữu ích, ít nhất cũng là trong việc cung cấp và giảng giải từ ngữ, mặc dù ngay cả trong việc này nó cũng có nhiều sai sót. Sau đây là một vài dẫn chứng:

1. “Á quân”: (…) Chữ quân là người ở ngôi vị cao”. (tr. 7)

Thực ra chữ quân ở đây Hán tự là 軍, có nghĩa là toán lính, binh lính chứ không phải “người ở ngôi vị cao”.

2. “Ác: Do chữ “ác” là tiếng gà gáy, chim kêu. Bởi lúc gà gáy chim kêu cũng là lúc mặt trời lên nên cũng dùng để gọi mặt trời”. (tr. 7)

Xưa nay ai cũng hiểu “ác” là con quạ và danh từ này được dùng theo hoán dụ để chỉ mặt trời vì tương truyền trên mặt trời có một con quạ ba chân (tam túc ô).

3. “Ác vàng (…) Trong Truyện ký có ghi câu “Nghệ nhựt xạ lạc cửu ô” có nghĩa là: “Người Hậu Nghệ, về đời nhà Đường Nghiêu trong một ngày bắn rơi chín con quạ (…). Bởi vì loài quạ rất khôn ngoan, ta rất khó bắn (…). Về sau có người lại đọc câu này là “Nghệ nhựt xạ lạc cửu ác” thì có nghĩa là: Người Hậu Nghệ, dưới thời vua Nghiêu, trong một ngày bắn rớt chín mặt trời. Thật là truyện huyền hoặc và cũng không thấy nói là có ý chỉ gì”. (tr. 7)

Rõ ràng là tác giả không biết đến huyền thoại Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời mà Từ hải, bản tu đính 1989, đã ghi vắn tắt như sau: “Đời Nghiêu, mười mặt trời cùng mọc (thập nhật tịnh xuất), cây cỏ chết khô, thú dữ, chim to, rắn dài làm hại dân. Nghệ đã bắn rơi chín mặt trời (xạ khứ cửu nhật), giết chết thú dữ, chim to, rắn dài, làm cho thiên hạ thái bình”*. Và rõ ràng là tác giả cũng không ngờ rằng chữ ô 鳥 cũng dùng để chỉ mặt trời như đã được ghi nhận trong nhiều quyển từ điển.

4. “An thần: Tinh thần yên ổn”. (tr. 10)

Thực ra, an thần là làm cho tinh thần yên ổn chứ không phải “tinh thần yên ổn” vì đó là một ngữ vị từ chứ không phải một ngữ danh từ.

5. “Ăm: Do chữ am là cái nắp, cái vung đậy. Ăm ắp, tức “đầy ăm ắp” là đầy nồi lên tới sát vung, đầy rương lên tới sát nắp”. (tr. 12)

Ai có hiểu tiếng Việt cũng đều biết được rằng ăm ắp là hình thức láy của từ ắp trong đó ăm chỉ là một âm tiết láy mà thôi. Huống chi, nếu ăm đúng là cái vung thì người Việt chánh tông sẽ nói ắp ăm (chứ ai lại nói “ăm ắp” (!)) cũng như dân Nam Bộ vẫn còn nói ắp lẫm, mà nghĩa gốc là đầy lẫm, đầy kho, còn nghĩa thông dụng trong khẩu ngữ ngày nay là nhiều quá xá ngán.

6. “Ấm cật: Được ấm áp ở hai vai (…) chữ “cật” có nghĩa là cái vai”. (tr. 13)

Không có người Việt nào lại hiểu cật là “cái vai” cả vì cật là phần lưng ở chỗ ngang bụng.

7. “Ấn hành: (…) Chữ “hành” là làm, là đi”. (tr. 14)

Hành ở đây là phát ra, làm cho lưu thông chứ không phải làm hay đi.

8. “Ấn loát (…) Chữ “loát” là dùng ống trục mà cán lên mặt bằng”. (tr. 14)

Thực ra, chữ loát ở đây Hán tự là 刷 có nghĩa là chải, là quét bằng cọ còn chữ 軋, cũng đọc loát, thì mới là “dùng ống trục mà cán…”.

Tiếng nói nôm na dày 1590 trang; chúng tôi chỉ mới nhặt trong 8 trang đầu tiên của phần chính văn (tr. 7 – 14) mà đã thấy có 8 chỗ sai thuộc loại có thể chỉ ra một cách đơn giản và dễ dàng (và đành gác lại những trường hợp cần biện luận chi tiết).

Riêng phần nhận xét kỹ về mặt từ nguyên thì chúng tôi xin tạm gác lại đến một kỳ sắp tới.

§ 708. Kiến thức ngày nay, số 384, ngày 10-4-2001

ĐỘC GIẢ: Có phải câu “Đánh trống qua cửa nhà sấm” là dịch từ câu “Lôi môn kích cổ” của tiếng Hán hay không?

AN CHI: Trong các quyển từ điển quen thuộc (Từ Nguyên, Từ hải, Vương Vân Ngũ đại từ điển, Mathews, Couvreur, v.v.) không thấy quyển nào ghi nhận câu “Lôi môn kích cổ”. Lớn đến như Hán Đại thành ngữ đại từ điển (Thượng Hải, 1997), thu thập 24.808 thành ngữ, cũng không ghi nhận câu này. Nghĩa là, hình như “Lôi môn kích cổ” không phải là một câu thành ngữ của tiếng Hán.

Tiếng Hán chỉ có thành ngữ “Bố cổ Lôi Môn” mà thôi. Sở dĩ chúng tôi viết “Lôi Môn” với chữ “l” hoa và chữ “m” hoa là vì đây là một địa danh chứ không phải một từ tổ danh từ chính danh có nghĩa là “cửa sấm”. Thật vậy, Hán Đại thành ngữ đại từ điển đã giải thích thành ngữ “Bố cổ Lôi Môn” 布鼓雷門 như sau:

“Thành ngữ này xuất xứ từ Hán thư, “Truyện Vương Tôn”, câu “Vô trì bố cổ quá Lôi Môn”. Nhan Sư Cổ chú: “Lôi Môn là cửa thành Cối Kê; cửa này có cái trống, mỗi lần người Việt đánh thì tiếng của nó vang đến tận Lạc Dương; do đó mà Vương Tôn mới dẫn tích này. Bố cổ là trống bịt bằng vải (bố: vải; cổ: trống – AC) nên đánh không kêu”. Câu này dùng để ám chỉ việc “trổ tài” trước người có bản lĩnh hơn mình”.

Từ hải, bản cũ, sau khi nhắc lại lời chú của Nhan Sư Cổ, còn dẫn kỹ hơn như sau:

“Vương Tiên Khiêm chú thích bổ sung rằng Thẩm Khâm Hàn nói: “Vua nước Việt là Câu Tiễn cho đánh cái trống to ở Lôi Môn để áp đảo quân Ngô (…) Sách Ngự lãm nói: Xưa vua nước Ngô là Phù Sai dựng Xà Môn để trấn áp người Việt; người Việt dựng Lôi Môn để đối phó. Họ đánh cái trống to dưới Lôi Môn mà ở Xà Môn còn nghe tiếng (…)”. Cối Kê ký nói: “Trên Lôi Môn có treo một cái trống to, chu vi hai trượng tám thước, tiếng vang đến Lạc Dương. Đến cuộc loạn Tôn Ân (đời Tấn – AC) khi bị quân lính phá vỡ thì bên trong có hai con hạc trắng bay ra. Từ đó, đánh không còn kêu nữa”.

Và Từ hải kết luận: “Các thuyết có khác nhau chút ít nhưng đều không thật. Đến thời Vương Tôn thì câu này có ý nói rằng chớ đem trống vải không tiếng mà qua trước Lôi Môn nơi có cái trống to tiếng lớn, để khuyên kẻ bất tài không nên tự huyễn hoặc trước người tài giỏi hơn mình”.

Cứ như trên thì dù các thuyết có khác nhau nhưng hai tiếng Lôi Môn trước sau vẫn là một địa danh, nói cho chính xác, chỉ là tên của một cửa thành như Từ hải đã ghi mà thôi. Thanh nhất thống chí (cũng dẫn theo Từ hải) còn ghi rõ hơn nữa: “Lôi Môn tức là Ngũ Vân Môn ở Thiệu Hưng (tỉnh Chiết Giang) ngày nay”.

Tóm lại, chúng tôi không tìm thấy câu “Lôi Môn kích cổ” trong các từ điển tiếng Hán và từ điển song ngữ Hán – Pháp hoặc Hán – Anh. Vậy câu “Đánh trống qua cửa nhà sấm” xuất xứ từ đâu? Rất có thể đây là một câu mà người Việt đã tự mình đặt ra. Nhưng chúng tôi tin ở khả năng thứ hai: câu “Bố cổ (quá) Lôi Môn” đã được một số nhà nho người Việt dịch thành “Đánh trống qua cửa nhà sấm” vì họ tưởng rằng bố là phô bày, là trưng ra còn lôi môn là cửa sấm (nên bố cổ Lôi Môn đại khái là “khoe trống trước cửa sấm” – “đánh trống qua cửa nhà sấm”). Chẳng những thế, họ còn dịch ngược câu “Đánh trống qua cửa nhà sấm” thành “Lôi môn kích cổ” nữa. Có lẽ vì đây không phải là một câu thành ngữ tiếng Hán chánh cống nên chẳng có quyển từ điển tiếng Hán nào ghi nhận nó cả. Chúng tôi chỉ thấy câu “Lôi môn kích cổ” trong Việt Hán thông thoại tự vị của Đỗ Văn Đáp (Nam Định, 1933) mà thôi. Nhưng một thân hữu đã khẳng định với chúng tôi rằng ông có thấy câu “Lôi Môn kích cổ” trong một tác phẩm văn học của Trung Hoa mà ông chưa nhớ ra, có thể là Liêu trai chí dị (?) của Bồ Tùng Linh. Vậy xin nêu ra như trên để thỉnh giáo ở các bậc thức giả.

§ 709. Kiến thức ngày nay, số 384, ngày 10-4-2001

ĐỘC GIẢ: Tôi xin góp ý về hai từ săm, lốp trên Kiến thức ngày nay, số 379 như sau.

Petit Larousse, ấn bản 1956, ngoài các nghĩa khác, đã ghi cả nghĩa sau đây cho từ enveloppe, “Partie extérieure d’un pneumatique” (Bộ phận bên ngoài của một bộ vỏ ruột xe). Từ điển Pháp – Việt, in lần thứ ba, của Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994), cũng ghi nghĩa thứ ba của từ enveloppe là lốp xe. Nhưng đến Petit Larousse Illustré, ấn bản 1993 thì lại không còn ghi nghĩa nào liên quan đến lốp xe cho từ enveloppe nữa cả. Cứ như trên thì nghĩa “vỏ xe” (lốp xe) là một nghĩa cổ của từ enveloppe mà người Pháp hiện nay không còn dùng nữa. Không biết cái nghĩa này đã tuyệt tích giang hồ từ lúc nào nhưng cứ theo Petit Larousse 1956 thì nó vẫn còn tồn tại cho đến năm đó. Vậy rõ ràng là từ lốp trong săm lốp của tiếng Việt là phiên âm từ enveloppe của tiếng Pháp trước năm 1956 rất lâu, khi mà chính người Pháp hãy còn dùng nó để chỉ cái vỏ xe. Và như thế thì từ lốp trong săm lốp không có liên quan gì đến nhãn hiệu Dunlop cả.

AN CHI: Chúng tôi rất hoan nghênh những lời góp ý chí lý của ông. Vậy xin trân trọng giới thiệu để bạn đọc tham khảo và cũng để khẳng định xuất xứ của từ lốp trong săm lốp như ông đã nêu. Riêng về việc ông dẫn Từ điển Pháp – Việt của Nxb. Khoa học Xã hội 1994 thì chúng tôi xin có ý kiến như sau.

Như ông đã nói, cái nghĩa “lốp xe” của từ enveloppe không biết đã tuyệt tích từ bao giờ – trong Nouveau Petit Larousse en couleurs, ấn bản 1969 thì nó vẫn còn được ghi nhận – nhưng chắc chắn phải là trước 1993. Thế mà Từ điển Pháp – Việt 1994 hãy còn ghi nhận nó! Điều này chứng tỏ là các tác giả đã không nắm được sự chuyển biến ngữ nghĩa và/hoặc từ vựng của tiếng Pháp. Sự đối dịch sai lầm đó làm cho người sử dụng quyển từ điển ngỡ rằng, cho đến năm đó người Pháp vẫn còn dùng từ enveloppe để chỉ cái lốp xe. Điều này dĩ nhiên là rất… nguy hiểm. Nếu họ nắm vững được “tình hình thời sự” thì hẳn là họ đã phải chú thích rằng đó là một nghĩa cổ để cảnh báo người dùng sách. Nhân tiện chúng tôi cũng xin nói rằng quyển từ điển đó hình như có xu hướng ghi nhận nhiều từ cổ của tiếng Pháp. Nếu ghi nhận mà giảng đúng thì chẳng nói làm gì. Đằng này, có khi nó lại giảng sai. Xin nêu một trường hợp:

“Frelampier(cũ): thầy tu [lo việc] thắp đèn (trong tu viện)”.

Frelampier là một từ mà Larousse 1956 còn ghi nhận nhưng Larousse 1993 đã gạt ra (ngay trong Larousse en couleurs 1969 người ta cũng đã bỏ nó rồi). Còn “thầy tu lo việc thắp đèn trong tu viện” thì lại là một cách hiểu sai trái về từ nguyên mà Pierre Guiraud từng nêu ra để chế giễu những người chỉ sính chuyện từ nguyên dân gian mà không biết gì đến từ nguyên học đích thực chứ không phải là một lời giảng về ngữ nghĩa*. Vậy frelampier nghĩa là gì?

Nouveau petit Larousse illustré, 113e édition, 1956, đã cho như sau:

“Frelampier (de frère lampier, frère chargé d’allumer les lampes dans un couvent). Homme qui n’ est bon à rien”.

nghĩa là:

“Frelampier (do hai từ) frère lampier (mà ra, có nghĩa là) thầy dòng chịu trách nhiệm thắp đèn trong một tu viện). Kẻ vô tích sự”.

Trong lời giảng trên đây, phần đặt trong ngoặc đơn là phần từ nguyên – mà Pierre Guiraud đã chế giễu)! – còn “kẻ vô tích sự” thì mới đích thị là nghĩa của danh từ frelampier. Không biết do phép lạ nào mà Từ điển Pháp – Việt 1994 của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội lại biến cái phần từ nguyên bị chế giễu thành cái nghĩa mà danh từ frelampier không hề có?

Viết thêm cho lần in năm 2018:

Thực ra thì cũng không hẳn enveloppe là một từ đã “chết”. Bên cạnh từ pneu (< pneumatique), người Pháp vẫn dùng từ enveloppe với nghĩa lốp/vỏ xe. Tại mục “enveloppe”, Le Grand Robert đã ghi nhận danh ngữ enveloppe d’une chambre à air (vỏ của ruột [bánh] xe). Ortolang (cntrl.fr) thì dẫn một thí dụ từ tác giả Rousset: Une vieille enveloppe de bandage pneumatique pour auto (Một cái vỏ cũ cho ruột xe ô tô). Còn Larousse en ligne (www.larousse.fr) thì giảng một trong những cái nghĩa của enveloppe là “synonyme de pneu” ([enveloppe] đồng nghĩa với pneu). Mới đây (24-2-2018), trên trang quảng cáo Cyphoma của đảo Réunion (ở Ấn Độ dương), có người tên Ritchy Bataille đã rao tại mục “enveloppe” (vỏ xe) bằng tiếng Pháp Créole: “Vend enveloppe en très bonne état roulé que 1 jours. Cause pas le bon dimensions. Pas déformer rien. 195/55R15 85v. 50euro les 2.*”. Đại ý là muốn bán 2 cái vỏ xe mới chạy có 1 ngày vì không thật vừa kích thước, không hề biến dạng, 50 euro cho cả hai.

Cứ như trên thì danh từ enveloppe vẫn được dùng một cách bình thường để chỉ “lốp xe”, chẳng những tại Pháp mà cả ở đảo Réunion, nơi mà tiếng Pháp là một ngôn ngữ Créole. Vậy cũng chẳng có gì lạ nếu nó đã đi vào tiếng Việt trong cái vỏ lốp.

§ 710. Kiến thức ngày nay, số 385, ngày 20-4-2001

ĐỘC GIẢ: Nhân Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 378 có hai tiếng cúng dàng, tôi xin đóng góp vài điều hiểu biết như sau.

Thời kháng chiến chống Pháp, tôi có hân hạnh quen biết một số anh làm công tác miền núi ở Tây Nguyên. Qua thư từ hoặc tiếp chuyện, các anh cho biết đồng bào Tây Nguyên gọi Trời là Giàng (không phải “dàng”). Mỗi khi xảy ra sự cố quan trọng trong đời sống như trúng mùa, mất mùa, tai ương, dịch bệnh v.v., họ thường sắm lễ “cúng giàng” rất kính cẩn.

Còn hai tiếng “cúng dàng” trong câu:

“Tháng ba ngày chín tiết lành,

Hội này sãi vãi tụng kinh cúng dàng”

thì khác. Tôi nghĩ đó là biến âm từ hai tiếng “cúng dường” (chỉ dùng trong Phật giáo), nguyên từ âm Hán Việt “cung dưỡng” có nghĩa là cung cấp để nuôi dưỡng ba ngôi tam bảo (Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo) được thường còn. “Cúng dường”, hoặc đọc trại ra là “cúng dàng”, chỉ dùng riêng trong đạo Phật, nói về việc đem tiền bạc hoặc phẩm vật (toàn thức chay tịnh) đến chùa để cung cấp cho việc nuôi dưỡng cho ba ngôi báu nói trên được hằng còn. Số cúng phẩm này sẽ được sử dụng để:

– Mua hương hoa, đèn nến, v.v. cúng Phật;

– Bồi bổ pháp bảo, pháp khí (kinh sách, chuông mõ, đồ thờ v.v.) để nâng cao phương tiện hoằng dương chánh pháp;

– Nuôi dưỡng tăng, ni để họ có cuộc sống đầy đủ và tu hành cho tinh tấn.

Còn đồng bào Tây Nguyên làm lễ “cúng giàng” tức là cúng Trời, có mục đích tôn vinh và biết ơn Đấng tối cao hằng che chở cho cuộc sống của họ hoặc để cầu xin hay tạ lỗi về một việc gì đó. Cúng phẩm thường là rượu thịt. Sau phần nghi lễ, dân làng cùng nhau ăn uống, ca hát, nhảy múa quanh đống lửa.

Hai việc ấy có hình thức có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau, không thể lẫn lộn.

AN CHI: Chúng tôi thực sự nhất trí với ý kiến mà ông đóng góp và xin trân trọng giới thiệu để bạn đọc tham khảo. Thực ra, về mấy tiếng “cúng dàng” và “cúng giàng”, thì ngoài số 378, chúng tôi cũng có đề cập đến và phân tích trong một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây cách đây đã lâu khi nhận xét về cách ghi nhận của Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản 1992). Kỳ này, chúng tôi xin nói thêm về hai tiếng “cúng giàng” như sau.

Như đã nói, “cúng giàng” không phải là tiếng Việt. Hai tiếng này thực chất chỉ là một hình thức “siêu ngôn ngữ” dùng để ghi nhận một nghi thức cúng bái như ông đã miêu tả mà thôi. Giàng là một đơn vị, chưa nhập tịch vào tiếng Việt nên hai tiếng “cúng giàng” cũng không phải là tiếng Việt, càng không phải là một ngữ cố định của tiếng Việt. Vì vậy nên, như đã nói, việc Từ điển tiếng Việt 1992 ghi nhận chữ “giàng” thành một mục từ và nêu các thí dụ “cúng giàng”, “Giàng Trời”, “Giàng Đất” là không đúng. Các nhà biên soạn quyển từ điển này đã lẫn lộn hai tiếng “cúng dàng” (bên Phật giáo như ông đã nói) với “cúng giàng” là một cấu trúc phi bản ngữ. Họ cũng lẫn lộn ngữ giới từ dàng trời (= dường (như) trời → quá trời) thành “Giàng Trời” nên mới “Tây Nguyên hoá” nó mà đưa vào quyển từ điển của mình. Đến như hai tiếng “Giàng Đất” thì chắc không có người Việt nào biết.

§ 711. Kiến thức ngày nay, số 385, ngày 20-4-2001

ĐỘC GIẢ: “Lai căng” hay “lai căn”?

AN CHI: Dictionarium anamitico latinum (1772 – 1773) của Pigneaux de Béhaine, Dictionarium anamitico latinum của Taberd, rồi Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của, Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức đều viết “lai căn”. Chúng tôi cho rằng đây là cách viết đúng vì theo chúng tôi thì căn ở đây là cội nguồn, là gốc gác. Và ở đây dân Nam Bộ đã không phạm sai lầm về hành động siêu chỉnh (hypercorrection) mà “sửa” thành “lai căng”.

Lạ một điều là những quyển từ điển theo đúng chuẩn chính tả như Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Hà Nội, 1967) hoặc Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (bản 1992) đều viết “lai căng” nhưng tiếc rằng ta lại chẳng biết “căng” có nghĩa là gì.

Vậy xin nêu lên như trên để thỉnh giáo ở các bậc thức giả.

§ 712. Kiến thức ngày nay, số 386, ngày 1-5-2001

ĐỘC GIẢ: Trong bài hát nói “Ngất ngưởng”, Nguyễn Công Trứ có viết hai câu như sau:

Được mất dương dương người thái thượng;

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Cùng một câu trên mà sách Văn học lớp 11 của Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh thì ghi là “người thái thượng” và giảng rằng đó là người thượng cổ không quan tâm đến chuyện được thua còn sách Văn học lớp 11 hợp nhất thì lại ghi là “người tái thượng” và giảng bằng tích “tái ông thất mã”. Vậy sách nào ghi câu trên đúng nguyên văn của tác giả? Mấy tiếng “ngọn đông phong” có liên quan gì đến câu “lời nói gió bay” hay không?

AN CHI: Rất tiếc là chúng tôi không có trong tay văn bản Nôm của bài hát nói này nên cũng khó mà khẳng định sách nào chép đúng, sách nào chép sai. Vì vậy nên ở đây chúng tôi chỉ xin dựa vào “cái lý thông thường” để biện luận mà thôi.

Ngay trong một quyển sách, quyển Nguyễn Công Trứ – Con người cuộc đời và thơ của Nhà xuất bản Hội Nhà văn (Hà Nội, 1996), chúng tôi cũng đã thấy ba cách ghi khác nhau:

-Bài “Phong cách Nguyễn Công Trứ” của Trương Chính ghi “người thế thượng” (tr. 72);

-Bài “Bài ca ngất ngưởng – Lời thơ tuyên ngôn” của Trần Thị Băng Thanh ghi “người tái thượng” (tr. 86);

– Bài “Ngất ngưởng” trong phần “Tác phẩm của Nguyễn Công Trứ” do Ngô Văn Phú tuyển chọn thì ghi “người thái-thượng” (tr. 204).

Trong ba cách ghi trên đây dĩ nhiên chỉ có thể có một cách là đúng mà thôi (hoặc cả ba đều sai) và chúng tôi cho rằng phải là “người thái thượng” thì mới đúng. Nguyễn Bách Khoa, trong Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (in lần thứ hai, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1951) cũng ghi “người thái thượng” (tr. 215).

Hai câu đang xét nói lên cái tâm trạng của kẻ “dửng dưng với cảnh thăng trầm của số kiếp”, như Nguyễn Bách Khoa đã viết (sđd, tr. 215) mà những người như thế khó lòng chiếm được đa số để có thể đại diện cho loài người trên cõi đời này (“thế thượng”).

Vì vậy mà chữ “thế” ở đây là một chữ lạc lõng. Dĩ nhiên là cũng không thể hiểu rằng “người thế thượng” là người đứng vượt lên trên cuộc đời vì hình như xưa nay không có ai lại hiểu mấy tiếng đó theo nghĩa này.

Chúng tôi cũng không cho rằng “tái” là một chữ thích hợp. Đã đành rằng “người tái thượng” có nghĩa là người trên quan ải và người ta hoàn toàn có thể dùng mấy tiếng này để chỉ “ông già nơi quan ải bị mất ngựa”, nghĩa là để nhắc đến tích “tái ông thất mã” nhưng nếu Nguyễn Công Trứ mà đưa cái tích này vào câu đang xét thì chỉ chứng tỏ rằng ông đã non tay trong việc sử dụng từ ngữ mà thôi. Lý do rất đơn giản: “tái ông thất mã” là chuyện hoàn toàn do ngẫu nhiên, may rủi mà ra còn thái độ phớt lờ trước chuyện được mất ở đây là chuyện nhân sinh quan rành mạch, rõ ràng, dứt khoát của Uy Viễn tướng công trước nhân tình thế thái. Chỉ có chữ “thái” mới thực sự là một chữ thích hợp mà thôi.

Nhưng giảng rằng “người thái thượng” là người thượng cổ (hoặc thái cổ) với lý do người thượng cổ không quan tâm đến chuyện được mất thì cũng không ổn. Người thượng cổ, nếu đây là người của xã hội cộng sản nguyên thủy, làm gì đã biết đến các khái niệm “danh lợi” và/hoặc “doanh lợi” mà nghĩ đến chuyện “được mất”? Còn nếu hiểu hai tiếng “được mất” theo sát cái nghĩa đen của từ ngữ thì chính họ lại phải là những người quan tâm đến chuyện này nhiều hơn là người của bất cứ chế độ nào khác vì trình độ sản xuất của họ hãy còn quá thấp kém. Nếu lại bảo rằng người thượng cổ là người của chế độ chiếm hữu nô lệ thì đối với những người này chuyện “được mất”, dù hiểu theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, cũng là chuyện đã trở thành “vấn đề” sau khi công xã nguyên thủy tan rã.

Tóm lại, dù có vận vào chế độ xã hội nào đi nữa thì “thượng cổ” (hoặc “thái cổ”) cũng không thể là cái nghĩa thích hợp với hai tiếng “thái thượng” trong câu đang xét. Vậy “người thái thượng” ở đây là người gì? Chúng tôi muốn thưa rằng đó là bậc thánh nhân. Quả có như thế, vì Từ hải có dẫn lời sớ trong sách Tả truyện nói rằng thái thượng là “thượng thánh chi nhân” còn Hán Đại thành ngữ đại từ điển (Thượng Hải, 1997), cũng ghi tại mục “Thái thượng vong tình” (tài shàng wàng qíng) rằng thái thượng là hai tiếng dùng để “chỉ thánh nhân”.

Còn hai tiếng “Đông phong” thì cũng chẳng có liên quan gì đến câu “lời nói gió bay” cả: nó chỉ muốn nhắc đến thành ngữ “đông phong quá nhĩ” (dōng fēng guò ěr: gió Đông (thổi) qua (tai)) của tiếng Hán mà thôi. Hán Đại thành ngữ đại từ điển giảng rằng câu này dùng để ví với việc bịt tai không nghe, quyết không lay chuyển (sung nhĩ bất văn, vô động vu trung), hoàn toàn phù hợp với nghĩa và ý của câu “Khen chê phơi phới ngọn Đông phong”.

Nghĩa của mấy tiếng “thái thượng” và “Đông phong” mà chúng tôi mạo muội nêu ra trên đây hoàn toàn phù hợp với ý của hai câu đã dẫn từ bài “Ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ.

Được mất là chuyện bậc thánh nhân không màng đến;

Khen chê cũng là chuyện đáng bỏ ngoài tai.

Vậy xin nêu lên như trên để thỉnh giáo ở các bậc thức giả.

§ 713. Kiến thức ngày nay, số 386, ngày 1-5-2001

ĐỘC GIẢ: Trong “say túy lúy” thì chữ túy chắc có nghĩa là say nhưng chữ lúy nghĩa là gì? Nó có phải là yếu tố láy trong từ láy túy lúy hay không?

AN CHI: “Túy lúy” vốn là hai tiếng đầu trong thành ngữ “túy lý càn khôn”, có nghĩa là trời đất trong cơn say (túy: say; lý: trong; càn: trời; khôn: đất). Trời đất trong cơn say thì thường quay cuồng, điên đảo (vì chính đương sự điên đảo, quay cuồng) chứ đâu có vững vàng, yên ổn. Vì vậy nên người ta mới tạo ra thành ngữ này để diễn tả cơn say. Nhiều người Việt khi sử dụng thành ngữ này chỉ biết ý nghĩa chung của cả câu chứ không nắm được nghĩa của từng tiếng, và có khi là cả cái âm chính xác của mỗi tiếng nữa. Điều này làm cho nó dễ bị đồng hóa theo tiếng cùng vần (là túy ở phía trước) nên mới mang thêm giới âm [w] mà thành lúy. Sau khi hai tiếng “túy lúy” tách ra khỏi câu thành ngữ hoàn chỉnh thì người ta càng dễ có ấn tượng rằng đó là một từ láy đích thực. Dĩ nhiên là xét về phương diện hình thức thuần túy và đặt vào tiếng Việt đương đại thì đó là một tổ hợp có hình thức láy nhưng xét về lịch sử thì đó không phải là một từ láy được tạo bằng phương thức láy vì lúy (< lý) vốn là một yếu tố có nghĩa cụ thể và rành mạch.

§ 714. Kiến thức ngày nay, số 387, ngày 10-5-2001

ĐỘC GIẢ: Thỉnh thoảng báo chí vẫn nhắc đến vấn đề “người ngoài trái đất” và vấn đề “OVNI” (Objets Volants Non Identifiés = Vật thể bay không xác định). Xin cho biết ý kiến về hai vấn đề này của một nhà khoa học mà cá nhân ông cho là có sức thuyết phục.

AN CHI: Nhà vật lý thiên văn người Mỹ gốc Việt Trịnh Xuân Thuận đã trả lời một cách súc tích về hai vấn đề trên đây trong quyển Trinh Xuan Thuan un astrophysicien – Entretien avec Jacques Vauthier (Beauchesne – Fayard, 1992). Về vấn đề thứ nhất, ông đã nói như sau:

“Dải ngân hà gồm có 100 tỉ ngôi sao mà nhiều tỉ ngôi thì tương tự với mặt trời. Nếu những ngôi sao đó có đủ bộ sậu các hành tinh tùy tùng như hệ mặt trời của chúng ta thì hẳn phải có vô khối hành tinh ở khá xa mặt trời của chúng để nhiệt độ của nó không làm cho nước bốc hơi mà khá gần để cho sự thiếu nhiệt độ không biến nước thành băng và do đó mà cho phép nảy nở sự sống giống như chúng ta đang trải qua trên địa cầu. Và số lượng những hành tinh đó phải được nhân lên 100 tỉ lần vì đây là con số của những thiên hà nằm trong phần vũ trụ có thể quan sát được. Kính thiên văn vũ trụ Hubble có nhiệm vụ quan sát những đoàn tùy tùng các hành tinh đó chung quanh các ngôi sao gần với chúng ta nhất nhưng, tiếc thay, sự “cận thị” nhất thời của nó đang là một trở ngại. Kính hiệu chỉnh mà các phi hành gia sẽ đem lên vào năm 1993* sẽ cho phép phát hiện những hành tinh khác bên ngoài hệ mặt trời của chúng ta. Lúc đó, chúng ta sẽ biết phải hướng kính thiên văn vô tuyến của mình về hướng nào để phát hoặc thu các tín hiệu giữa các vì sao. Ngay trước mắt, thì tìm kiếm một sự sống ngoài trái đất còn khó hơn là mò kim đáy biển”*.

Về vấn đề thứ hai, ông đã nói:

“Ngôi sao gần mặt trời nhất cũng cách nó đến bốn năm ánh sáng. Bởi người ta không bao giờ phi hành được nhanh như ánh sáng, vì phải có một năng lượng vô tận để đẩy tên lửa đến vận tốc đó, cho nên phải hàng mấy chục, thậm chí mấy trăm năm mới đến được ngôi sao gần nhất. Quả là một cuộc du hành kéo dài trong nhiều thế hệ của người trần gian. Và đó là còn chưa nói đến chuyện thám hiểm chỗ tận cùng của dải Ngân hà kéo dài đến 90.000 năm ánh sáng.

Đó là lý do làm tôi hơi hoài nghi khi tôi nghe các phương tiện truyền thông nói về các OVNI. Tại sao người ngoài trái đất cứ phải đến thăm chúng ta bằng cái giá của một sự tốn kém kinh khủng và của những khó khăn phi thường, thay vì gởi những tín hiệu vô tuyến đến trái đất cho chúng ta với vận tốc của ánh sáng? Dĩ nhiên là sẽ có những sự im lặng kéo dài giữa các cuộc đàm thoại (một tín hiệu mà một nền văn minh ngoài trái đất có thể gởi đến từ đầu kia của dài Ngân hà phải mất 75.000 năm để đến với chúng ta. Ngay cả nếu chúng ta có trả lời tức khắc thì người ngoài trái đất cũng sẽ chỉ nhận được sự phúc đáp của chúng ta sau 150.000 năm) nhưng để liên lạc với nhau thì đó là một phương cách tiết kiệm hơn biết bao nhiêu”*.

Trên đây là lập luận rất súc tích của nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận về hai vấn đề mà ông đã hỏi. Chúng tôi cho rằng đó là những ý kiến hoàn toàn chín chắn và đầy sức thuyết phục. Vậy xin dẫn ra để ông và bạn đọc tham khảo.

§ 715. Kiến thức ngày nay, số 387, ngày 10-5-2001

ĐỘC GIẢ: Trong sách Câu đối Việt Nam của Phong Châu (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991) có chuyện “Xỏ sứ” như sau:

“Sứ Trung Quốc đang ngồi trên thuyền, bỗng nổ một phát trung tiện. Để cho đỡ thẹn, sứ mới đọc một câu:

Sấm động Nam bang.

Trạng Quỳnh lúc đó giả làm người lái đò, liền chạy ngay lên mui, vạch quần ra tiểu tiện và đọc:

Vũ qua Bắc hải.

Sứ Trung Quốc nghe thấy thế, không biết nói ra làm sao nữa”. (tr. 36)

Xin cho biết ông có nhận xét gì về lời kể trên đây.

AN CHI: Trong đôi câu đối thì câu trước có vấn đề vì chữ “sấm” không thể là chữ mà vị sứ người Trung Quốc đã dùng: đó là tiếng ta chứ không phải tiếng Tàu còn trong tiếng Tàu thì “sấm” lại là lôi 雷. Vậy lẽ ra, khi đã nhỡ làm…“cái sự tiện lợi vừa vừa” thì vị sứ giả Tàu phải trịch thượng thốt lên:

Lôi động Nam bang, chứ không phải là “Sấm động Nam bang”.

Nhưng không hiểu tại làm sao mà nhiều người vẫn cứ thích ép tay sứ Tàu phải dùng tiếng ta để chỉ cái tiếng gầm của ông Trời. Mới đây, trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 4-2001, trong bài “Bàn thêm về một đôi câu đối cổ”, tác giả Đỗ Quang Lưu cũng ghi rành mạch “Sấm động Nam bang (sấm động ở nước Nam)” (tr. 26, chú thích 1). Vậy, tưởng cũng nên cảnh báo kịp thời kẻo muôn người như một ai cũng nói rằng “sấm” là tiếng Hán (đương nhiên là đọc theo âm Hán Việt) thì e là sẽ gây rối loạn cho từ vựng của tiếng Hán chăng? Đồng thời cũng để cho những ai học tiếng Hán khỏi phải cất công lật từ điển ra mà tìm một chữ… không hề tồn tại.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3