Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 683 - 699
§ 683. Kiến thức ngày nay, số 374, ngày 1-1-2001
ĐỘC GIẢ: “Dấu người đi là đá mòn”, “Là đá hay mòn, nghĩa chẳng mòn” (Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập): là đá có phải là một từ duy nhất và có nguồn gốc Môn – Khmer hay không?
AN CHI: Là đá là một từ duy nhất là chuyện mà nhiều nhà ngữ học lịch sử về tiếng Việt đã chứng minh một cách đủ sức thuyết phục, ít nhất cũng là trong điều kiện của những cứ liệu so sánh có được cho đến ngày hôm nay. Hai âm tiết của từ duy nhất đó vẫn còn được phản ánh đầy đủ ở những từ cùng gốc trong các ngôn ngữ thân thuộc của tiểu chi Việt – Chứt, ngành Môn – Khmer, họ Nam Á, như:
– lata² (Mày – Rục);
– ate² (Arem);
– tata² (Mã Liềng);
– tata² (Sách)*.
Trần Xuân Ngọc Lan đã căn cứ một phần vào những cứ liệu trên đây và vào cứ liệu tiếng Mường (la tá) mà đề nghị đọc âm tiết thứ nhất thành “la” hoặc “lá” cho phù hợp*. Tạm thời chúng tôi xin chọn âm “la” mà đọc thành la đá để tránh âm lá là một âm có thể gợi liên tưởng đến danh từ đơn vị lá trong lá thư, lá đơn, v.v.. Vậy la đá là một từ duy nhất hai âm tiết. Nhưng đó không phải là một từ gốc Môn – Khmer. Còn chính cái danh từ thmo (có nghĩa là đá) của tiếng Khmer thì lại là một từ gốc Sanskrit, bắt nguồn từ danh từ aśma(n), cùng nghĩa.
La đá (những từ cùng gốc với nó đương nhiên cũng thế), theo chúng tôi, là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 石 mà âm Hán Việt hiện đại là thạch (= đá). La là một hình thái âm tiết hóa của yếu tố đầu tiên trong một tổ hợp phụ âm đầu cổ xưa, có thể là *r, của chữ 石. Âm tiết này đã rụng đi vì sự tồn tại của tiền âm tiết không phù hợp với xu hướng đơn tiết hóa điển hình của tiếng Việt. Vì vậy mà chỉ có âm tiết thứ hai (đá) là còn tồn tại cho đến nay mà thôi. Phụ âm đầu đ của đá vẫn còn được phản ánh trong những hình thanh tự đố 妬, 蠹, mà thanh phù chính là thạch 石. Còn tiền thân của -ô trong đố thì lại chính là -a. Vậy hoàn toàn chẳng có gì lạ nếu (la) đá ~ thạch 石. Một bằng chứng đủ sức thuyết phục cho mối tương ứng (la) đá ~ thạch là tại mục 230, phần IV (Hoa mộc môn) thì quyển An Nam dịch ngữ (đời Minh) đã ghi từ tiếng Việt tương đương với từ “thạch lựu” của tiếng Hán bằng 3 chữ 喇 士 溜 (lă dà lìu) nghĩa là “la đá lựu”)*. La đá lựu không phải là một cấu trúc “thuần Việt” vì đó chỉ là một hình thức phát âm hai chữ 石 榴 sau khi yếu tố thứ nhất trong tổ hợp phụ âm đầu cổ xưa của chữ 石 đã âm tiết hóa nhưng chưa rụng mất mà thôi. Sau khi mối liên hệ giữa cách đọc “la đá” và chữ 石 mất đi rồi hai âm tiết đó được thay thế bằng âm tiết “thạch” thì người ta đương nhiên phải đọc hai chữ Hán đang xét là “thạch lựu”. Nhưng lựu là âm Hán Việt hiện đại của chữ sau; còn âm xưa của nó hồi giữa thế kỷ XVII là “lệu”. Âm này đã đồng hóa âm tiết trước về mặt vần thành thệu nên lúc bấy giờ thạch lựu hãy còn đọc là “thệu lệu” như A. de Rhodes đã ghi nhận trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh (1651). Bấy giờ người ta còn nói tắt thành thệu nhưng ngày nay chỉ còn có lựu mới là cách gọi duy nhất hiện hành mà thôi.
Tóm lại, la đá của tiếng Việt và những từ cùng gốc với nó trong một số ngôn ngữ thuộc tiểu chi Việt – Chứt là những từ gốc Hán, bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 石 mà âm Hán Việt hiện đại là thạch. Xét về cả hai mặt lịch sử tộc người lẫn lịch sử ngôn ngữ thì việc các ngôn ngữ Việt – Chứt đều cùng vay mượn ở tiếng Hán chẳng những là một việc có khả năng xảy ra mà còn là một việc hoàn toàn tự nhiên.
§ 684. Kiến thức ngày nay, số 374, ngày 1-1-2001
ĐỘC GIẢ: Từ điển Việt – Bồ – La của A. de Rhodes (Nxb. Khoa học Xã hội, 1991) có mục “Thộ lồ: Nhận lễ vật, lỡi lạc. Đi lồ: Dâng lễ vật”. Xin cho biết nguồn gốc của hai tiếng “thộ lồ”.
AN CHI: Thộ lồ là âm xưa của hai chữ 受 賂 mà âm Hán Việt hiện đại là thụ lộ. Lộ là đem tiền đi đút lót còn thụ là nhận. Chính quyển từ điển đó còn ghi nhận từ “lồ” thành một mục riêng: “Lồ: Của để hối lộ. Quan thụ lồ, ăn thụ lồ: Nhận của hối lộ. Có người nói: thộ lồ”.
§ 685. Kiến thức ngày nay, số 376, ngày 20-1-2001
ĐỘC GIẢ: Trên tạp chí Xưa & Nay, số 81B (11-2000), câu “We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal” trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ đã được dịch như sau: “Chúng tôi coi đây là chân lý hiển nhiên rằng mọi đàn ông sinh ra đều bình đẳng”. Xin cho biết lời dịch này có gì lạ hay không và nhân tiện xin cho biết giữa hai nghĩa “người” và “đàn ông” của chữ man (trong tiếng Anh) thì đâu là nghĩa gốc.
AN CHI: Lời dịch trên đây lạ là ở chỗ thay vì được dịch thành “mọi người”, thì all men lại được dịch thành “mọi đàn ông” và lạ cả ở chỗ ngữ đoạn mọi đàn ông là một cấu trúc xa lạ đối với tiếng Việt.
Nghĩa của danh từ man (men là số nhiều) trong tiểu cú “all men are created equal” là nghĩa thứ 2 trong Oxford Advanced Learner’s Dictionary, bản in năm 1992, “human being of either sex” (con người thuộc cả hai giới). Thí dụ: All men must die (Mọi (con) người (đều) phải chết); Growing old is something a man has to accept (Già đi là điều mà con người [phải] chấp nhận). Nếu ở đây man chỉ có nghĩa là đàn ông mà thôi thì dĩ nhiên là đàn bà sẽ… trẻ mãi không già và cũng… không bao giờ chết. Tóm lại, “all men are created equal” có nghĩa là “mọi (con) người sinh ra đều bình đẳng”. Đây mới đích thực là tinh thần của bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (chứ không phải “mọi đàn ông (!) sinh ra đều bình đẳng”). Còn thực tế xã hội Mỹ có hoàn toàn được như vậy hay không thì dĩ nhiên lại không phải là chuyện cần bàn đến ở đây.
Giữa hai nghĩa đã nêu của từ man thì “(con) người” mới là nghĩa gốc còn “đàn ông” thì chỉ là nghĩa phái sinh. Thật vậy, trong A Dictionary of Selected Synonyms in the Principal Indo-European Languages (The University of Chicago Press, 1971), C. D. Buck đã nhận xét rằng trong phần lớn các ngôn ngữ Roman và Germanic (trong đó có tiếng Anh) và toàn bộ các ngôn ngữ Slav thì từ chỉ “đàn ông” vốn là từ chỉ “(con) người” hoặc là phái sinh ở từ này*. Vì vậy mà Oxford Advanced Learner’s Dictionary, bản in năm 1992, đã không hợp lý khi cho nghĩa của từ man theo thứ tự sau đây:
“1. adult male human being (đàn ông). 2. human being of either sex (con người thuộc cả hai giới). 3. the human race, mankind (loài người, nhân loại) […]”.
Cái nghĩa đầu tiên được ghi nhận lẽ ra phải là “human being of either sex” vì đây mới chính là nghĩa gốc. Petit Larousse illustré, bản in năm 1992, rất hợp lý khi sắp xếp thứ tự các nghĩa của từ homme: “I.1. Être humain […]”, (“I.1. Con người […]”) rồi mới đến II.1. Être humain de sexe masculin […]” (“II.1. Đàn ông […]”).
Tóm lại, man ở đây là (con) người chứ không phải “đàn ông”. Đó là điểm lạ thứ nhất. Sau đây là điểm lạ thứ hai: “mọi đàn ông” là một cách nói trái với quy tắc cú pháp của tiếng Việt. Liên quan đến cách dùng từ mọi, Cao Xuân Hạo đã chỉ rõ như sau:
“Trong tiếng Việt, cả, tất cả, tất thảy, mọi, mỗi, từng (…) chỉ có thể kết hợp với danh từ đơn vị, chứ không bao giờ kết hợp được với danh từ khối, vì nếu danh từ đơn vị biểu thị những thực thể phân lập trong không gian (hay một chiều kích nào khác) và do đó có thể đếm được và chia được, thì những danh từ khối biểu thị những thuộc tính chất liệu hay chủng loại vô hình lại không thể đếm được mà cũng không thể chia được thành từng phần (tuy những vật được các danh từ này biểu thị phần chất liệu hoàn toàn có thể đếm được và phân chia được)”*.
Người Việt chỉ nói “mọi người đàn ông”, “mọi gã đàn ông”, thậm chí “mọi thằng đàn ông”, v.v. chứ không bao giờ nói “mọi đàn ông”.
Tóm lại, “All men are created equal” có nghĩa là “Mọi (con) người sinh ra (đều) bình đẳng”.
§ 686. Kiến thức ngày nay, số 376, ngày 20-1-2001
ĐỘC GIẢ: Quê tôi ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc, có tên chữ là Dị Nậu nhưng lại có tên Nôm là làng Núc. Hai tên này có liên quan với nhau không và Dị Nậu nghĩa là gì? Ngoài quê tôi ra, có nơi nào khác cũng mang tên Dị Nậu không?
AN CHI: Miền Bắc có nhiều địa phương mang tên Dị Nậu. Theo Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX của Viện nghiên cứu Hán Nôm do Dương Thị The – Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1981), thì có:
– xã Dị Nậu, tổng Hương Ngãi, huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây;
– xã Dị Nậu, tổng Miêu Duệ, huyện Tam Dương, phủ Đoan Hùng, trấn Sơn Tây;
– xã Dị Nậu, huyện Tam Nông, phủ Lâm Thao, trấn Sơn Tây;
– xã Dị Nậu, tổng Cấp Dẫn, huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An;
– thôn Dị Nậu, tổng Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An.
Dị Nậu là vế sau của thành ngữ thâm canh dị nậu, có nghĩa là cày sâu bừa kỹ (nậu: bừa cỏ, giẫy cỏ), lấy từ thiên “Lương Huệ Vương, thượng” trong sách Mạnh Tử. Thành ngữ này về sau dùng để chỉ sự cần cù trong công việc nhà nông.
Núc là âm xưa của chữ nậu 耨. Đây là một hình thanh tự mà nghĩa phù là lỗi 耒 còn thanh phù là nhục 辱. Vậy chẳng có gì lạ nếu nó vốn là một chữ thuộc vận chúc 燭 [uk]. Trong Grammata Serica Recensa (Stockholm, 1964), Bernhard Karlgren đã tái lập âm thượng cổ cho nó là *nug*. Thế nhưng ngay trong Quảng vận nó cũng đã được đọc theo khứ thanh thành nậu, nghĩa là không còn đọc theo nhập thanh (núc) nữa rồi. Điều này chứng tỏ rằng núc là một cách phát âm đã tồn tại từ trước thế kỷ XI (Quảng vận ra đời năm 1008), có thể là đã xuất hiện từ đời Hán, sau khi Mã Viện bình định cuộc khởi nghĩa hai Bà Trưng rồi kinh lý đất Giao Chỉ. Sách Hậu Hán thư chép: “Viện đi qua chỗ nào là đặt quận huyện, xây thành quách, đào sông tưới ruộng để sinh lợi cho dân”*. Tên “Dị Nậu” có lẽ đã được đặt ra trong giai đoạn này và bấy giờ thì chữ nậu hãy còn đọc là núc.
Không phải ngẫu nhiên mà các nơi có tên “Nậu” được gọi là “Núc”, chẳng hạn xã Canh Nậu (tổng Hương Ngái, huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây) cũng có tên “Nôm” là làng Núc: đó chẳng qua vì Núc là âm xưa của Nậu mà thôi. Vậy Núc là tên Hán Việt của các làng “Nậu” đọc theo âm xưa chứ không phải là tên Nôm*.
§ 687. Kiến thức ngày nay, số 377, ngày 1-2-2001
ĐỘC GIẢ: Mục “Dạo quanh làng báo” trên Xưa & Nay số 74 (4-2000) có mẩu tin lấy từ Tuổi trẻ chủ nhật (12-3-2000) như sau: “Nhóm khảo cổ Nhật vừa phát hiện một kiến trúc nhà ở có từ thời người vượn hai chân (Homo erectus) ở Chichibu (…)”. Xin cho biết Homo erectus có phải là “người vượn hai chân” hay không và ngoài “người vượn hai chân” ra thì còn có thứ người vượn mấy chân nữa.
AN CHI: Dĩ nhiên là không thể có “người vượn ba chân” còn nếu có tới bốn chân thì đã chưa thể thành… người. Thực ra, giới khảo cổ học và giới nhân học Việt Nam vẫn dịch Homo erectus là “Người đứng thẳng”. Đây là một thuật ngữ khoa học bằng tiếng La Tinh. Homo có nghĩa là người (Pithecanthropus mới có nghĩa là người vượn) còn erectus có nghĩa là dựng lên, dựng đứng. Vậy Homo erectus (với chữ “h” viết hoa = H) là “Người đứng thẳng”. Trong tiếng La Tinh, danh ngữ homo erectus còn có nghĩa bóng là người có tâm hồn cao thượng nhưng không hề có nghĩa là “người vượn hai chân”. Trước giai đoạn “Người đứng thẳng” là giai đoạn “Người khéo léo” (Homo habilis) trong các nấc thang tiến hóa còn sau Người đứng thẳng là giai đoạn “Người khôn ngoan” (Homo sapiens) trong đó có “Người khôn ngoan khôn ngoan” (Homo sapiens sapiens), tức “Người khôn ngoan hiện đại”, nghĩa là… toàn thể nhân loại ngày nay.
§ 688. Kiến thức ngày nay, số 377, ngày 1-2-2001
ĐỘC GIẢ: Xã hội kim tiền: “kim” có phải là vàng hay không?
AN CHI: Nhiều người cho rằng kim ở đây có nghĩa là vàng. Nhưng không phải như thế vì kim có nghĩa gốc là kim loại và đây mới đích thực là nghĩa của chữ đang xét trong danh ngữ kim tiền. Tại mục “kim tiền”, Từ hải đã giảng rằng “Tiền tệ phần nhiều dùng kim loại mà chế ra, do đó gọi là kim tiền” (Hóa tệ đa dĩ kim thuộc vật chế thành, cố xưng kim tiền).
Cũng vậy, kim nhân không phải lúc nào cũng có nghĩa là (hình) người (bằng) vàng vì Từ hải giảng như sau: “Tượng người chế bằng kim loại, xưa gọi là kim nhân vậy; phần lớn đúc bằng đồng, tức đồng nhân (người bằng đồng)”. (Kim thuộc sở chế chi nhân tượng dã; cổ sở xưng kim nhân, đa chú đồng vi chi, tức đồng nhân). Cứ như trên thì trong phần lớn các trường hợp, kim nhân lại chính là hình người đúc bằng đồng chứ không phải bằng vàng.
Vậy kim trong kim tiền là kim loại (nói chung) chứ không phải là vàng (nói riêng).
§ 689. Kiến thức ngày nay, số 377, ngày 1-2-2001
ĐỘC GIẢ: “Bắn” trong “săn bắn” có phải là một từ gốc Môn – Khmer hay không?
AN CHI: Bắn là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 扳 mà âm Hán Việt hiện đại là phán hoặc ban. Riêng Từ Nguyên còn cho cả âm bán: “Bô loan thiết, âm ban, san vận; hựu khứ thanh, nghĩa đồng” (Thiết âm là bô loan (= ban), đọc là ban, thuộc vận san; cũng đọc theo thanh khứ (thành bán), (cả hai âm đều) cùng nghĩa). Để cho việc biện luận được gọn hơn, chúng tôi xin chọn âm “bán”.
Bán có nghĩa là “kéo, giương; bấm, bóp”: bán cung là giương cung; bán thương cơ là bóp cò súng. Liên quan đến động tác giương cung còn có danh ngữ bán chỉ (chỉ = ngón tay), có nghĩa là cái đê đeo vào ngón tay cái để giương cung mà bắn; còn liên quan đến việc bóp cò súng thì lại có danh ngữ bán cơ, có nghĩa là cò súng và đồng nghĩa với thương cơ. Cứ như trên thì rõ ràng là sẽ không sai nếu nói rằng chữ bán 扳 cũng có nghĩa là “bắn”. Sự chuyển nghĩa của nó từ ‘kéo” đến “bắn” cũng tương tự với sự chuyển nghĩa của động từ tirer trong tiếng Pháp.
Trở lên là nói về mối quan hệ ngữ nghĩa giữa bắn và bán. Còn về ngữ âm thì bắn ~ bán cũng giống như:
– căn (nhà) ~ gian 間 mà âm chính thống là can;
– đằn ~ đàn 彈 (Đại Nam quấc âm tự vị: Đằn ép. Dằn ép, đè ép (đàn áp);
– phăn (Đại Nam quấc âm tự vị: thâu rút, níu kéo lần lần) ~ phan 攀 (= kéo, níu, vịn); v.v..
Dĩ nhiên là người ta còn có hàng loạt thí dụ về mối tương ứng ă ~ a. Với các phụ âm cuối khác ngoài -n, thí dụ:
– (nhìn) đăm đăm ~ (hổ thị) đam đam 眈眈;
– (viếng) thăm ~ thám (hoa);
– thắp (đèn) ~ sáp 插 (= cắm – thắp hương có nghĩa gốc là cắm hương); v.v..
Cứ như trên thì rõ ràng là về ngữ âm cũng như ngữ nghĩa, (săn) bắn ~ bán 扳 là điều đã được chứng minh. Nếu biết thêm rằng bán còn có nghĩa là bẻ, vặn, lật, người ta sẽ thấy rằng cái nghĩa này vẫn còn tồn tại trong từ bắn như đã cho trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, bản 1992:
“Bắn (…) 2. Làm chuyển dời vật nặng bằng cách bẩy mạnh lên: Dùng đòn xeo bắn cột nhà. Bắn hòn đá tảng (…)”.
Với tất cả các cứ liệu dẫn ra ở trên, có thể khẳng định rằng bắn là một từ Việt gốc Hán chứ không phải gốc Môn – Khmer, Tiếng Khmer có từ bănh*, cùng nghĩa và có âm na ná nhưng đây hoặc chỉ là do ngẫu nhiên hoặc do tiếng Khmer đã mượn từ của tiếng Việt mà thôi (thứ tiếng này đã từng mượn của tiếng Việt nhiều từ Việt gốc Hán).
§ 690. Kiến thức ngày nay, số 378, ngày 10-2-2001
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nhận xét về quyển Từ điển từ Việt cổ của Nguyễn Ngọc San – Đinh Văn Thiện do Nxb. Văn hóa – Thông tin mới ấn hành (2001).
AN CHI: Từ điển từ Việt cổ (Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2001) của Nguyễn Ngọc San – Đinh Văn Thiện có nhiều chỗ sai thuộc các loại sau đây:
– Lỗi chính tả, tất nhiên không phải là lỗi morasse, vì theo phần ghi nhận trách nhiệm ở cuối sách thì người sửa bản in lại chính là các tác giả;
– Lỗi gán sai xuất xứ của những lời giảng được trích dẫn;
– Lỗi quy sai hàng loạt từ ngữ của tiếng Việt hiện đại thành từ Việt cổ;
– Lỗi không nhất quán trong việc sử dụng corps chữ và kiểu chữ cho những phần cùng tính chất trong các mục từ khác nhau; thậm chí còn đặt nhiều mục từ riêng biệt vào mục từ khác, làm cho độc giả có thể nhầm đó cũng là nội dung của mục này;
– Lỗi đặt các từ đồng âm (khác nghĩa) vào một mục chung một cách “đại trà”;
– Lỗi trích dẫn sai và cuối cùng là
– Lỗi giảng sai rất nhiều mục từ trong quyển sách.
Chẳng có loại lỗi nào là không hại nhưng tai hại nhất chắc chắn phải là loại sau cùng. Vì vậy, và cũng vì khuôn khổ có hạn, nên ở đây chúng tôi chỉ xin nêu một số dẫn chứng về loại lỗi giảng sai để ông và bạn đọc cùng nhận xét.
1. “Dàng: trời
Tháng ba ngày chín tiết lành
Hội này sãi vãi tụng kinh cúng dàng (TNNL)”. (tr. 84)
Dàng với nghĩa là “trời” chỉ mới nhập tịch vào tiếng Việt từ nửa sau của thế kỷ XX. Đây là một từ thông dụng trong một số ngôn ngữ ở Tây Nguyên. Nó tuyệt đối không thể có mặt trong tiếng Việt ở thời của Thiên Nam ngữ lục (TNNL) được. Dàng ở đây thực ra là một vị từ gần nghĩa với vị từ cúng nên mới đi chung với nó để tạo thành ngữ vị từ đẳng lập cúng dàng, có nghĩa là “đem đồ lễ lên chùa để cúng”, như chính các tác giả cũng đã ghi nhận và giảng tại trang 81.
2. “Đích xác: Vụng về, trái mùa, lôi thôi (Gén.)”. (tr. 114)
Các tác giả đã dẫn lời giảng trong Dictionnaire annamite -français của J. F. M. Génibrel (Gén.). Nhưng Génibrel giảng “đích xác” là “Très vrai. Vraiment” (Rất thật. Thật là (…)). Không biết do phép lạ nào mà Từ điển từ Việt cổ lại biến lời giảng của Génibrel thành “vụng về, trái mùa, lôi thôi”. Có lẽ hai tiếng đích xác gợi nhớ đến hai tiếng “nhếch nhác” chăng?
3. “Động: Người đầy tớ trung thành (Gén.)”. (tr. 120)
Từ điển của Génibrel không hề có mục từ này và người ta không biết là các tác giả đã thấy trong tác phẩm cổ nào rằng động là “người đầy tớ trung thành”.
4. “Đờ: Lờ đờ; Người đi lang thang (Gén.)”. (tr. 121)
Nhưng tại mục “Đờ”, Gén. chỉ giảng rằng “lờ đờ” là “trouble, stagnant” (lờ đờ, đình trệ) mà thôi. Không biết các tác giả đã thấy ở đâu rằng “stagnant” có nghĩa là “người đi lang thang”.
5. “Đợ (đi chợ): Đi chơi (Gén.). (tr. 121)
Gén. không hề có mục từ này, nghĩa là không hề giảng rằng “đợ” mà lại có liên quan đến “đi chợ” và có nghĩa là “đi chơi”.
6. “Eo: Buộc mặt”. (tr. 125)
“Buộc mặt” là một ngữ vị từ ảo trong tiếng Việt và người ta khó lòng biết được tại sao eo lại có nghĩa là “buộc mặt” và “buộc mặt” nghĩa là gì.
7. “Khoắn rắn: Khoắn hùm (AR)”. (tr. 155)
Cứ như trên thì “khoắn rắn” có nghĩa là “khoắn hùm” (Từ đó suy ra: “rắn = hùm” còn “khoắn” là gì thì các tác giả không giảng. Thực ra Alexandre de Rhodes (AR) đã ghi rõ ràng trong Dictionarium annamiticum lusitanum et latinum (Roma, 1651) như sau:
Khŏắn rắn, khŏán hồm: Dùng bùa chú để ếm rắn và hổ. (Xem bản dịch do Nxb. Khoa học Xã hội ấn hành năm 1991).
Lời giảng của AR rất rõ ràng; chỉ có cách làm của các tác giả này mới thực sự cẩu thả mà thôi.
8. “Mống
(…) 2. Trẻ con. Chết chẳng còn một mống (Gén)”. (tr. 212)
Các tác giả cho rằng theo Dictionnaire annamite – français của J. F. M. Génibrel thì mống có nghĩa là “trẻ con”. Thực ra đây chẳng qua là do các vị đã hiểu sai tiếng Pháp và cũng hiểu sai cách trình bày của Génibrel mà thôi. Tại mục “Mống”, trong từ điển của mình, Génibrel đã ghi như sau:
“Mống (…) 3. Chồi mống, Rejeton, scion (tược, chồi). Chết chẳng còn một mống, Mourir sans enfants, sans postérité (Chết mà không có con, không có kẻ nối dõi).
Cứ như trên thì rõ ràng là Génibrel đã đối dịch từ mống bằng tiếng Pháp “enfants”, “postérité”, nghĩa là đã dùng nghĩa bóng của các từ “rejeton”, “scion”. Nhưng “enfant(s)” ở đây là con cái còn “postérité” là con cháu, hậu duệ, chứ không hề có nghĩa là “trẻ con”. Nói cho cùng kỳ lý, trong “Chết không còn một mống”, chính Génibrel cũng hiểu sai nghĩa của từ “mống”. Ở đây mống là đứa, là thằng và là âm xưa của chữ manh 氓 còn mống là mầm, chồi thì lại là âm xưa của một chữ manh khác là 萌, như đã nói tại Chuyện Đông chuyện Tây của Kiến thức ngày nay, số 371.
9. “Thinh. Im lặng.
Vậy nên ngảnh mặt làm thinh (Kiều).
Làm thinh thành chịu mất lời (Phan Trần)”. (tr. 305)
Làm thinh là một lối nói trại từ hàm thinh (= ngậm tiếng → im lặng). Vậy thinh là tiếng chứ không phải “im lặng”; chỉ có ngữ vị từ làm thinh hoàn chỉnh thì mới có nghĩa là im lặng mà thôi.
10. “Vố (…) 2. Cái thò lò (súc sắc) có sáu mặt dùng để chơi và lừa nhau: Chơi cho nó một vố (Gén.)”. (tr. 352)
Lời giảng trên đây hoàn toàn sai và các tác giả đã nói oan cho Génibrel chứ chính Génibrel thì chỉ cho trong từ điển của mình như sau:
“Vố 1. Bâton de cornac (gậy của quản tượng) (…) 2. Ống vố, Pipe à fumer l’ opium (tẩu hút thuốc phiện)”.
Không biết các tác giả đã lấy cái nghĩa 2 (“cái thò lò”) ở đâu ra!
Vì khuôn khổ nên chúng tôi chỉ nêu 10 trường hợp trên đây để làm bằng mà thôi.
§ 691. Kiến thức ngày nay, số 378, ngày 10-2-2001
ĐỘC GIẢ: Nhiều người vẫn nói và viết “nhiêu khê”. Nhưng Hán – Việt từ điển của Đào Duy Anh cũng như Hán – Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn đều ghi là nghiêu khê 蹺蹊. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức cũng ghi “nghiêu khê”. Xin cho biết đâu là cách đọc đúng.
AN CHI: Nhiêu khê là một cách phát âm thông dụng và phổ biến, nhiều người hầu như đã cảm nhận rằng nó không có (hoặc còn) dính dáng gì đến chữ Hán nữa cả. Còn âm Hán Việt chính xác của hai chữ 蹺蹊 thì lại là khiêu hề chứ cũng chẳng phải là “nghiêu khê” như Đào Duy Anh và Nguyễn Văn Khôn đã ghi.
Thật vậy, thiết âm của chữ trước trong Quảng vận là “khứ diêu thiết” (= khiêu) còn của chữ sau là “hồ kê thiết” (= hề). Các quyển tự thư và vận thư khác (Tập vận, Vận hội, Chính vận, Từ Nguyên, Từ hải, v.v.) cũng đều cho phụ âm đầu của chữ trước là kh- và của chữ sau là h-. Bằng chứng cho phụ âm đầu kh- của chữ 蹺 (khiêu) là chữ này còn có nghĩa là cái cà kheo* mà kheo thì lại là âm xưa của chính nó. Nói một cách khác thì kheo trong cà kheo là một từ cổ Hán Việt liên quan đến chữ khiêu còn cà chỉ là một thứ tiền âm tiết “phụ gia” được thêm vào về sau mà thôi. Xin nói kỹ thêm rằng với nghĩa là “cà kheo” thì ngày nay từ khiêu được viết bằng chữ 橇 hoặc chữ 趫.
Tóm lại, âm Hán Việt chính xác của hai chữ mà ông đã nêu là khiêu hề chứ không phải nghiêu (hoặc nhiêu) khê nhưng nhiêu khê lại trở thành một đơn vị từ vựng có nội dung xác định và đã được đa số chấp nhận trong lời ăn tiếng nói hàng ngày. Đây là “sự đã rồi” còn sở dĩ chúng tôi phân tích như trên thì chỉ là để chứng minh cách đọc Hán Việt chính xác của hai chữ đó mà thôi.
§ 692. Kiến thức ngày nay, số 379, ngày 20-2-2001
ĐỘC GIẢ: Quê hương: hương thì hẳn là một từ Hán Việt (như trong cố hương, hương đảng, v.v.), còn quê có phải là một từ gốc Môn – Khmer hay không?
AN CHI: Quê là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 畦 mà âm Hán Việt hiện đại là huề, có nghĩa là khu vực, vùng đất, như đã cho trong Từ hải (nghĩa 2), Từ Nguyên (nghĩa 2), Caractères chinois của L. Wieger (p. 508, série, 212), Grammata Serica Recensa của B.Karlgren (ser. 879, j.) v.v.. Đó là nói về mặt ngữ nghĩa, còn về mối quan hệ ngữ âm thì chính chữ 畦 (huề) là một hình thanh tự mà thanh phù lại là quê 圭, thường bị đọc trại thành “khuê”. Quảng vận đã cho thiết âm của chữ 圭 là “cổ huề thiết” (= quê); các quyển tự thư, vận thư khác cũng đều cho âm “quê”. Thuyết văn giải tự của Hứa Thận cũng ghi rõ rằng chữ huề 畦 đọc theo âm của chữ quê 圭. L. Wieger đã giảng rằng quê 圭 (gồm hai chữ thổ 土 ) có nghĩa gốc là “terres”, nghĩa là đất đai*. Nếu căn cứ vào ngữ liệu tiếng Việt thì có thể khẳng định rằng lời giảng đó là hoàn toàn đúng đắn đồng thời cũng có thể khẳng định thêm rằng huề 畦 và quê 圭 là những đồng nguyên tự, tức là những doublets theo cách gọi trong tiếng Pháp (hoặc tiếng Anh) mà 畦 là một chữ được đặt ra về sau theo kiểu hình thanh để lấy bộ điền 田 làm nghĩa phù (còn quê 圭 là thanh phù) mà nêu rõ khái niệm “đất đai”.
Dù không căn cứ vào thanh phù quê 圭 của chữ huề 畦 thì người ta vẫn có thể chứng minh được mối quan hệ quê ~ huề về mặt phụ âm đầu qua một số dẫn chứng khác như:
– quàn ~ hoãn (dời lại lúc khác);
– (cuống) quít ~ huất 獝 (= quá sợ hãi);
– quơ ~ huy (= vẫy);
– quở ~ hủy (nói xấu, chế giễu);
– quên ~ huyên 諼 (= quyên); v.v..
Có tác giả đã quy từ quê của tiếng Việt hiện đại về một hình thái cổ xưa có -l cuối là *kvel* nhưng sự kiện này không phủ nhận được gốc Hán nếu truy nguyên đến tận thời kỳ proto Việt – Chứt vẫn là những từ vốn có -l cuối*.
§ 693. Kiến thức ngày nay, số 379, ngày 20-2-2001
ĐỘC GIẢ: Tại sao người Nam nói “vỏ, ruột” (xe đạp, xe hơi) mà người Bắc lại nói “săm, lốp”?
AN CHI: Sở dĩ như thế là vì người Nam dùng “nguyên vật liệu” sẵn có trong tiếng Việt theo lối ẩn dụ, còn người Bắc thì phiên âm theo tiếng Pháp. Săm là do chambre trong danh ngữ chambre à air còn lốp thì từ trước đến nay vẫn được xem là do enveloppe (vỏ bọc ngoài). Nhưng theo thông báo riêng của ông Hoàng Dũng (Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh) thì ông TQĐ có cho biết rằng người Pháp không dùng từ enveloppe để chỉ vỏ xe mà chỉ dùng pneu, nói tắt từ pneumatique (lốp, vỏ xe). Theo ông TQĐ thì lốp có thể là do nhãn hiệu Dunlop mà ra (Dunlop là một trong những nhà sản xuất vỏ xe nổi tiếng từ lâu). Vậy xin nêu ra như trên cho rộng đường dư luận*.
§ 694. Kiến thức ngày nay, số 379, ngày 20-2-2001
ĐỘC GIẢ: “Súng kíp”: “kíp” do đâu mà ra?
AN CHI: Tầm-nguyên tự-điển Việt Nam của Lê Ngọc Trụ (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993) đã chú thích rằng kíp là do tiếng Anh clip mà ra. Điều này vô lý vì hai lý do. Thứ nhất là từ kíp xuất hiện trong tiếng Việt vào những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX; lúc đó tiếng Việt không trực tiếp mượn từ của tiếng Anh. Thứ hai, kíp là bộ phận gây nổ còn clip lại là cái băng đạn. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì kíp vẫn là một từ gốc Anh nhưng do người Việt (Kinh) mượn lại từ tiếng Thái ở Tây Bắc Việt Nam nên, để cho danh chánh ngôn thuận, phải nói rằng kíp là một từ Việt gốc Thái. Có thể là những tay thợ săn hoặc những người Việt lưu lạc ở Tây Bắc trước kia đã đem nó từ vùng thượng du về miền xuôi. Còn nguyên từ của kíp thì được người Thái đọc là kép và đây là một từ mà họ đã mượn của tiếng Lào (cũng đọc là kép) sau khi người Lào đã mượn từ tiếng Xiêm (Thái Lan – cũng đọc là kép). Kép là một từ mà người Xiêm đã mượn từ tiếng Anh cap [kæp] , nói tắt từ danh ngữ percussion cap, có nghĩa là cái kíp nổ. Người Tày cũng mượn danh từ này từ tiếng Thái (Tây Bắc) mà đọc thành kép (chứ không phải kíp như trong tiếng Việt)*.
§ 695. Kiến thức ngày nay, số 380, ngày 1-3-2001
ĐỘC GIẢ: “Kẻ” trong “kẻ ở người đi” và “kẻ” trong Kẻ Noi, Kẻ Sặt, v.v.) có phải là một hay không?
AN CHI: Nhiều tác giả cho rằng hai từ đó là một và sự nhầm lẫn này có lẽ đã bắt đầu từ Alexandre de Rhodes. Tác giả này đã ghi nhận và dịch (sang tiếng Bồ Đào Nha và tiếng La Tinh) trong Dictionarium annamiticum lusitanum et latinum (Roma, 1651) như sau:
“Kẻ: Những người, chỉ dùng nói về người ta khi nói cách không kính trọng. Kẻ chợ: Những người ở trong chợ, nghĩa là những người ở kinh đô Đông-Kinh. Kẻ quê: Những người ở làng mạc. Kẻ mùa: Người quê mùa. Quê mùa: Cùng một nghĩa. Kẻ lành: Những người tốt. Kẻ dữ: Những người xấu. Mày ở kẻ nào: Quê mày ở đâu?. Tôi là kẻ hèn: Tôi là người chẳng có giá trị gì cả”*.
Thực ra, kẻ chợ là một ngữ danh từ có nghĩa gốc là chốn thị thành, rồi nghĩa hẹp là kinh thành, kinh đô mà ngôn ngữ văn chương bác học thường vẫn gọi là (chốn) Tràng An (chứ không phải là “những người ở trong chợ” (!)). Đây chỉ là một danh từ chung chứ không phải là địa danh. Liên quan đến nước Đại Việt thì Kẻ Chợ tất nhiên là Thăng Long, nghĩa là Hà Nội xưa. Nhưng vì Kẻ Chợ chỉ là một danh từ chung nên nó còn có thể dùng để chỉ kinh đô của nhiều nước khác nữa, như có thể thấy trong Sách sổ sang chép các việc (hoàn thành năm 1822 tại Lisboa, thủ đô Bồ Đào Nha) của Philiphe Bỉnh, một linh mục người Việt đã sống tại Bồ Đào Nha trên ba mươi năm. Sau đây là một số dẫn chứng:
“Thay vào tên gọi Lisboa (…) Bỉnh rất thích thú khi viện một phương thức khác, rất độc đáo và dễ hiểu (đối với độc giả Việt Nam thời đó). Để biểu đạt khái niệm này, ông viết: Kẻ chợ nước Portugal (hoặc theo văn cảnh – chỉ đơn thuần Kẻ chợ)”*.
“Ở trang 523 của Sách (sổ sang chép các việc – AC), ông đã sử dụng từ này (kẻ chợ – AC) dưới dạng số nhiều, điều này được coi là dấu hiệu hiển nhiên của việc sử dụng nó với tư cách là danh từ chung, “các kẻ chợ Phương Tây”*.
“Thượng vị Phalansa (Napoléon – AC) quyết thân chinh cùng đem những vua chúa là những anh em mình cùng quân các nước phương Tây sang (Nga – AC), khi đến nơi thì thượng vị Russia chẳng đánh, mà cũng truyền cho quân mình giật lui thì vua Phalansa lấy được kẻ chợ (Moskva – AC) cùng nhiều xứ (…) Bonaparte thì chạy về Phalansa, bấy giờ thượng vị Russia liền đem quân đuổi theo mà vào cho đến kẻ chợ thành Paris”*.
Trở lên là một số dẫn chứng trong tác phẩm của Philiphe Bỉnh, lấy từ bài của Niculin. Và dĩ nhiên là không chỉ kinh đô Đại Việt hay kinh đô của một vài nước phương Tây mới được gọi là “kẻ chợ” mà cả kinh đô của Trung Hoa cũng được gọi như thế. Bản dịch của Phan Huy Vịnh từ Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đã diễn câu 41 của nguyên văn tiếng Hán (Tự ngôn bổn thị kinh thành nữ) thành:
Rằng xưa vốn là người kẻ chợ
Kinh thành được dịch thành kẻ chợ. Chợ là âm xưa của chữ thị 巿 mà Thuyết văn cho biết là vốn đọc theo âm của chữ chi (nghĩa là với phụ âm đầu ch-), có nghĩa là thành thị, thị trấn (ngoài nghĩa “chợ”) còn kẻ là một vùng đất nhất định (chứ không phải là “người”) như đã chứng minh tại Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 229.
Tiếc rằng sau A. de Rhodes, một số tác giả khác cũng đánh đồng từ kẻ là vùng đất với từ kẻ là người, chẳng hạn chính Niculin đã diễn đạt ngắn gọn như sau: “Kẻ chợ (dân + chợ, dân ở chợ)” (Bđd, tr. 13). Gần đây nhất, Phan Duy Kha cũng khẳng định rằng “kẻ là người, kẻ cũng là làng” và rằng kẻ là một từ của “ngôn ngữ Việt cổ”*. Nói một cách khác, Phan Duy Kha cho rằng kẻ là một từ Việt cổ. Nhưng đây là một điều vô lý vì với cái nghĩa “người” thì nó hãy còn… sống nhăng*; chỉ có vùng đất (làng) mới là cái nghĩa cổ xưa của nó mà thôi. Dĩ nhiên đây cũng chỉ là hiểu theo cách của Phan Duy Kha chứ thực ra thì, như đã nói, ở đây người ta có hai từ kẻ khác nhau.
Vậy chỉ có kẻ có nghĩa là “vùng đất nhất định” mới là một từ cổ chứ kẻ là người thì không. Mà ngay cả kẻ là vùng đất nhất định cũng chưa phải là một từ đã “chết” hẳn. Bằng chứng là người ta còn có thể thấy được nó trong văn của Tô Hoài kể về chuyện của thế kỷ XX:
“Nhà tôi ngay bên đường cái, ai đi qua chẳng tạt vào nhờ điếu thuốc, chén nước, vờ xem con gà con qué dò la. Người kẻ bãi hỏi tôi năm nay thế nào, tôi chỉ vào đống thóc anh Sự gửi, tôi bảo thóc nhà được chia đợt đầu, chưa kịp cân lại”*.
Kẻ trong đoạn văn trên đây của Tô Hoài đâu phải là một từ đã “chết”; nếu quá cần thiết và bức bách vì nhu cầu về một sự chính xác cao độ thì bất quá người ta cũng chỉ nên nói rằng nó vẫn còn… sống lây lất, ngất ngư, nghĩa là nó chưa cam chịu… chết mà thôi. Và trong một văn cảnh như trên, làm sao mà kẻ lại có thể có nghĩa là “người” (Phan Duy Kha), là “dân” (Niculin) cho được?
§ 696. Kiến thức ngày nay, số 380, ngày 1-3-2001
ĐỘC GIẢ: Tại sao “vị giáo sư”, “vị bác sĩ” v.v. có thể nói được thành “ông giáo sư”, “ông bác sĩ”, “tay giáo sư”, “tay bác sĩ” v.v. mà “vị hôn phu” thì lại không thể nói được như thế?
AN CHI: Vị trong vị giáo sư, vị bác sĩ v.v. là danh từ đơn vị có nghĩa là người nên có thể chuyển đổi với một số danh từ đơn vị tương đương như: viên, người, gã, tên v.v.. Vì vậy nên người ta mới có thể nói tay giáo sư, gã bác sĩ, v.v.. Còn vị trong vị hôn phu thì lại có nghĩa là chưa (vị hôn phu = chồng chưa cưới); vì không phải là danh từ đơn vị nên nó không thể chuyển đổi với các danh từ đơn vị chỉ người. Trong một câu như “Vị hôn phu của cô ta là một vị giáo sư nổi tiếng” thì hai tiếng vị không đồng nhất với nhau: tiếng trước có nghĩa là chưa còn tiếng sau thì lại có nghĩa là người. Trong cấu trúc vị hôn phu thì phu là trung tâm của danh ngữ còn trong cấu trúc “vị giáo sư” thì vị mới là trung tâm của danh ngữ. Xin xem hai sơ đồ dưới đây:
Tóm lại, cấu trúc vị hôn phu chỉ giống các cấu trúc vị giáo sư, vị bác sĩ, v.v. ở cái bề ngoài trớ trêu của nó mà thôi.
§ 697. Kiến thức ngày nay, số 380, ngày 1-3-2001
ĐỘC GIẢ: Lịch sử nước Annam của Bento Thiện, in trong Lịch sử chữ quốc ngữ của Đỗ Quang Chính (Ra Khơi, Sài Gòn 1972) có câu: “Xưa rằng, có Ngươi giái tử (?) sui người ấy gián Vua một hai sự, Vua chẳng nghe, thì người ấy trốn lên ở rừng”. (tr. 120). Xin cho biết “giái tử (?) sui” là gì?
AN CHI: Giái là âm Hán Việt chính thống (về mặt vần) của chữ 介 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là giới, ở đây là họ người. Còn sui là âm Hán Việt xưa của chữ 推 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là suy hoặc thôi, ở đây là tên người.
“Giái tử (?) sui” chính là Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi, còn gọi Giới Chi Thôi, là người thời Xuân Thu bên Trung Hoa đã từng theo Tấn Văn Công lưu vong mười chín năm. Đến khi Văn Công về nước làm vua thì quên mất công lao của Giới Tử Thôi mà chỉ khen thưởng những người khác. Thôi bèn đem mẹ vào ở ẩn ở núi Miên Sơn (Phan Kế Bính, trong Việt Nam phong tục, chép là Điền Sơn). Sau vua nhớ ra, sai người vào núi tìm nhưng không được. Bèn sai đốt rừng cho ông phải ra nhưng Thôi quyết giữ tiết tháo mà chịu chết cháy. Đó là vào ngày mồng 5 tháng 3. Người đời thương tiếc Thôi nên hàng năm không đốt lửa nấu nướng trong ba ngày kể từ ngày mồng 3. Đó là tết Hàn thực (ăn thức ăn nguội lạnh). Chính Bento Thiện cũng có chép vắn tắt sự tích này trong Lịch sử nước Annam.
§ 698. Kiến thức ngày nay, số 381, ngày 10-3-2001
ĐỘC GIẢ: Nếu tôi nhớ không lầm thì làng Hoàng Mai ở Hà Nội còn có tên Nôm là làng Mơ. Vậy “Mơ” và “Mai” có quan hệ với nhau như thế nào?
AN CHI: Cũng như Núc là âm xưa của Nậu trong Dị Nậu, Canh Nậu, v.v. (Xem Kiến thức ngày nay, số 376), Mơ là âm xưa của Mai trong tên của các làng Hoàng Mai, Tương Mai, Mai Động ở Hà Nội cũng như của những làng có tên “Mai” ở nhiều nơi khác trên miền Bắc. Theo Bùi Thiết thì:
“Hoàng Mai và Tương Mai có tên Nôm là Kẻ Mơ hay gọi là làng Mơ nhưng Hoàng Mai là Mơ Rượu vì làng này có nghề nấu rượu cổ truyền với rượu mơ nổi tiếng thời trước còn Tương Mai là Mơ Cơm vì làng này chuyên bán hàng cơm. Làng Mai Động cũng gọi tên Nôm là Mơ nhưng gọi là Mơ Táo. Kẻ Mơ hay ba làng Mai nói chung nằm kề góc Đông Nam của kinh thành Thăng Long xưa, được khai phá từ rất sớm (…) Thời nhà Trần, khu vực này là thái ấp Cổ Mai (hay trang Cổ Mai) mà các vua nhà Trần phong cấp cho anh em Trần Khát Chân và Trần Hãn”*.
Thực ra, chẳng phải chỉ có Hoàng Mai, Tương Mai, Mai Động mới có tên “Nôm” là “Mơ”; các làng cổ mà tên Hán Việt hiện nay có yếu tố Mai, ghi bằng chữ 梅, thì đều có tên “Nôm” là Mơ. Thôn Mai Châu, thuộc xã Đại Mạch, một trong 23 xã của huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, cũng có tên “Nôm” là làng Mơ*. Thôn Mai Trai, thuộc xã Vạn Thắng, một trong 32 xã của huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội, cũng có tên “Nôm” là làng Mơ*.
Cái mà Bùi Thiết, và nhiều người khác nữa, gọi là tên Nôm, chẳng qua là âm xưa của các yếu tố Hán Việt hiện đại mà thôi: Núc là âm cổ Hán Việt của Nậu trong Canh Nậu, Dị Nậu; Ngà, của Nha trong Miêu Nha (xã Tây Mỗ huyện Từ Liêm, Hà Nội); Nghè, của Nha trong Trung Nha (nay là Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm); v.v.; còn Mơ là âm cổ Hán Việt của Mai trong các địa danh đã nói. Điều này đã được ngữ âm học lịch sử khẳng định và sau đây là lời của Nguyễn Tài Cẩn:
“Hiện ta có từ mơ là dạng cổ Hán Việt ứng với cách đọc Hán Việt mai. Mai là kết quả của cả một quá trình diễn biến *əj > oj > aj. Mơ là dạng vay mượn vào lúc âm cuối *-j chưa xuất hiện trong tiếng Hán: theo giới Hán ngữ học, mơ phải được vay trong khoảng từ 1500 năm trở về trước. Mà trong thời cổ đại đó thì – cũng theo sự phục nguyên của giới Hán ngữ học – từ mai (梅 – AC) đang có vần mở là *ə; vần *ə nàykhông chỉ có mặt trong thời Đông Hán, Tây Hán mà còn lên đến tận thời Kinh Thi”*.
Cứ như trên thì mơ là một âm rất xưa của chữ 梅 mà âm Hán Việt hiện đại là mai và những địa danh song tiết có yếu tố mơ > mai rất có thể là những địa danh được đặt ra từ đời Hán, sau khi Mã Viện bình định cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng rồi kinh lý đất Giao Chỉ, như chúng tôi đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 376, khi bàn về quan hệ giữa hai yếu tố núc và nậu trong các địa danh Canh Nậu và Dị Nậu. Tóm lại Mơ không phải là tên “Nôm” ứng với Mai trong tên “chữ” song tiết (Hoàng Mai, Tương Mai, v.v.); cả hai đều là âm của một chữ Hán duy nhất mà tiếng trước là âm xưa còn tiếng sau là âm nay (và tất nhiên cả hai đều là tên “chữ”).
§ 699. Kiến thức ngày nay, số 381, ngày 10-3-2001
ĐỘC GIẢ: Trong “sáng tinh mơ” thì chữ tinh còn có thể hiểu được (đại khái tinh là sáng, như trong tinh mắt; tinh đời) nhưng chữ mơ thì chịu.
AN CHI: Mơ trong tinh mơ là một điệp thức của mờ trong tờ mờ sáng, cũng là một điệp thức của mơi mà biến thể hậu kỳ thông dụng là mai, trong ban mai, sớm mai.
Mối quan hệ ngữ âm mơ > mơi > mai đã được Nguyễn Tài Cẩn nói đến trong Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt ở đoạn mà chúng tôi đã trích dẫn trong câu trả lời về mối tương quan giữa các địa danh làng Mơ và Hoàng Mai ở câu 698. Khi khẳng định như thế, chúng tôi cũng có ý nói rằng mơ là một yếu tố Việt gốc Hán. Nó bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ mô 模 trong mô hồ, có nghĩa là lờ mờ, không rõ. Còn về phần mình, thì mô lại là một đồng nguyên tự (điệp thức) của chữ muội 昧, có nghĩa là mờ, là tối. Xét về lịch sử thì mô xưa hơn muội và mô có quan hệ trực tiếp với mơ, mờ còn muội thì có quan hệ trực tiếp với mơi, mai (với âm cuối vần -j ).
Cũng xin lưu ý rằng ngữ vị từ mờ sáng của tiếng Việt chính là một cấu trúc trực tiếp bắt nguồn ở vị từ cùng nghĩa của tiếng Hán là muội sảng 昧爽 chứ không phải là một cấu trúc hậu kỳ, xuất hiện một cách độc lập trong tiếng Việt.
Cuối cùng, xin lưu ý rằng từ mai trong ngày mai, trưa mai, tối mai, v.v. cũng chính là từ mai (< mơi) trong ban mai, nắng mai chuyển nghĩa mà thành và sự chuyển nghĩa nàycó thể được hình dung như sau: mai (mờ sáng) → rạng sáng → đã sang một ngày khác (so với ngày đang xét) → ngày tiếp theo của ngày hôm nay.