Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 669 - 682

§ 669. Kiến thức ngày nay, số 369, ngày 10-11-2000

ĐỘC GIẢ: Từ “người” của tiếng Việt có cùng gốc với từ tương ứng trong tiếng Khmer và/hoặc tiếng Chàm hay không?

AN CHI: Chính cái từ có nghĩa là người trong tiếng Khmer, menús (ghi theo M. Moura, Vocabulaire français-cambodgien et cambodgien -français, Paris, 1878) hoặc trong tiếng Chàm, munụís (ghi theo Gérard Moussay, Dictionnaire căm – vietnamien -français, Phanrang, 1971), lại chẳng phải là những từ “thuần Khmer” hoặc “thuần Chàm” vì chúng đều bắt nguồn từ tiếng Sanskrit manuṣya (Pali manussa). Còn người thì lại là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 人 mà âm Hán Việt hiện đại là nhân. Liên quan đến chữ này, khi bàn về quan hệ hài thanh giữa n và các âm tắc-xát, đặc biệt là tsh, E.G. Pulleyblank đã nhận xét như sau:

“Chữ 千 (thiên – AC) “nghìn” mà âm Hán trung đại là tshen có vẻ như có thanh phù là 人 (nhân – AC) mà âm Hán trung đại là niin trong tự hình cổ xưa của nó và đến lượt nó lại làm thanh phù trong chữ 年 (秊) (niên – AC) “năm” mà âm Hán trung đại là nen. Chữ 信 (tín – AC) mà âm Hán trung đại là siin có lẽ cũng có thanh phù 人 mặc dù nó không được thừa nhận trong Thuyết văn”*.

Với trường hợp đã nêu, Pulleyblank muốn minh họa mối tương ứng n ~ s ~ tsh trong tiếng Hán trung đại và cứ theo hệ thống mà ông tái lập thì ngược lên tiếng Hán cổ đại, dãy tương ứng này không có liên quan gì đến *ŋ (quốc ngữ, ng[h]). Các nhà Hán ngữ học khác cũng không nghĩ đến *ŋ trong trường hợp này. Chúng tôi lại thấy khác vì cứ liệu về các yếu tố Việt gốc Hán, và cả tiếng Hoa ở Bạch Long Vĩ, cho phép nghĩ đến *ŋ của các chữ nhân 人 và thiên 千 ở thời cổ đại.

Hiện tượng chữ thiên 千 có thanh phù nhân 人 mà Pulleyblank nêu lên là điều đã được Cao Hồng Tấn khẳng định trong Trung Quốc tự lệ*. Nhưng còn hai điều quan trọng nữa. Một là chữ nhân 仁 mà thanh phù là nhân 人, còn có một tự hình cổ xưa nữa là 忎, mà thanh phù là thiên 千 (tâm 心 là nghĩa phù). Hai là chính chữ nhân 仁 này cũng dùng thay cho chữ nhân 人 (Xem Hán ngữ đại tự điển, nghĩa 12). Vậy chẳng có gì lạ nếu nhân 人 và thiên 千 từng là đồng âm. Và trong cái thế đồng âm đó, hai chữ này đều có phụ âm đầu *ŋ (trở xuống, xin viết theo chữ quốc ngữ “ng(h)” cho tiện) như vẫn còn thấy trong tiếng Việt hiện đại:

– người, bắt nguồn từ 人 (nhân).

– nghìn, bắt nguồn từ 千 (thiên).

Trước nhất, xin chứng minh mối quan hệ người ~ nhân 人. Về ng- ~ nh- hiện nay người Hoa ở Bạch Long Vĩ vẫn đọc với phụ âm đầu ng- một số chữ thuộc thanh mẫu nhật 日 không được xem là vốn thuộc thanh mẫu nghi 疑: nhân 人 là ngơn, nhị 二 là ngời. Đây mới chỉ là hai trường hợp thấy được trong bài “Quan hệ hôn nhân và gia đình người Hoa ở Bạch Long Vĩ” của Nguyễn Trúc Bình*. Phụ âm đầu ng- ở đây không phải là một hiện tượng hậu khởi mà là di tích của một cách phát âm rất cổ xưa.

Cách phát âm với ng- này còn thấy được qua hiện tượng hài thanh liên quan đến chữ nhân 人 trong các chữ ngân 銀 (= bạc) và nhãn 眼 (= con mắt – vốn thuộc thanh mẫu nghi 疑) mà thanh phù đều là cấn 艮. Cấn thực chất vốn chỉ là một dị thể của chữ kiến 見 mà tự hình trong giáp cốt văn là . Đây là một hình thanh tự mà nghĩa phù là mục (= con mắt) còn thanh phù là nhân , nay viết thành 人, 亻, còn cấn 艮 chẳng qua là kiến mà chữ nhân bị quay sang phải nên mới thành → → 艮. Việc chữ cấn 艮 hài thanh cho chữ ngân và chữ nhãn (< *ngjān) chứng tỏ rằng nó đã từng có lúc đọc với phụ âm đầu *ng-. Huống chi, cấn còn có một dị thể là * mà dị thể này thực chất lại vốn là cổ văn của chữ nhãn (Xem Hán ngữ đại tự điển hoặc Khang Hy tự điển). Vậy không còn nghi ngờ gì nữa, chữ cấn 艮 đã từng đọc với phụ âm đầu *ng- và có nghĩa là con mắt hoặc con ngươi.

Còn kiến 見 thì sao? Chữ này cũng từng đọc với phụ âm đầu *ng- nên mới hài thanh cho các chữ có âm nghiễn như 硯,.. .Các nghĩa thông dụng hiện hành của chữ này (thấy; gặp; hiểu biết; bị, phải, chịu; v.v.) đều trực tiếp hoặc gián tiếp bắt nguồn từ cái nghĩa gốc nay đã tuyệt tích là con mắt hoặc con ngươi (như nghĩa gốc của cấn). Xin nêu hai dạng của chữ mi 眉 là lông mày trong giáp cốt văn để so sánh và chứng minh. Dạng thứ nhất là . Đây là một chữ hội ý: mi là hàng lông phía trên con mắt . Dạng thứ hai là . Đây cũng là một chữ hội ý: hàng lông phía trên con mắt . Nhưng cái chữ có nghĩa là con mắt ở đây không phải là mục → 目 như ở dạng thứ nhất mà lại là kiến → 見. Đây là một cứ liệu văn tự học hiển nhiên để khẳng định rằng kiến cũng có nghĩa gốc là con mắt hoặc con ngươi.

Cấn và kiến là những biến thể ngữ âm – văn tự có cùng một nghĩa gốc là con mắt hoặc con ngươi và đều vốn cùng đọc với phụ âm đầu *ng-, cũng là phụ âm đầu cổ xưa của chữ nhân 人. Đây chính là cơ sở để kết nối người và nhân về mặt phụ âm đầu.

Trở lên là nói về mối tương quan ng ~ nh giữa người và nhân. Bây giờ xin nói về mối tương quan ươi ~ ân. Đây là một mối tương quan trong đó -ươi cổ xưa hơn -ân rất nhiều. Tuy việc nêu ra những dẫn chứng có hệ thống chặt chẽ cho mối tương ứng này sẽ là một việc khó (vì cứ liệu còn lại không nhiều) nhưng đây không phải là một việc tuyệt nhiên không thể làm được nếu quy nó về mối tương quan âm cuối -i ~ -n (-i ở đây là /j/), chẳng hạn:

– tỏi ~ toán 蒜.

– (ma) trơi ~ lân 燐.

và hai trường hợp vẫn thường được đưa ra là:

– lười ~ lãn.

– tươi ~ tiên; v.v..

Nói riêng về mối quan hệ -ươi ~ -ân thì người ta có hai trường hợp song song rất thuyết phục là:

– người ~ nhân 人.

– (con) ngươi ~ nhãn 眼 (chữ này cũng có âm nhẫn).

Nếu đi ngược dòng lịch sử thì, như đã phân tích, trong chữ nhãn có chữ cấn 艮 còn trong chữ cấn 艮 thì có chữ nhân 人 mà chữ nhân này có khi viết thành 仁. Chữ nhân 仁 có nghĩa là hạt, tức cái lõi tròn nhỏ ở bên trong giống như con ngươi là cái “hạt” nhỏ nằm ở tâm của con mắt. Vì vậy nên chúng tôi cho rằng nhãn và nhân 仁 là những đồng nguyên tự có nghĩa gốc là cái hạt. Dần dần, do một sự phân công ngữ âm – ngữ nghĩa – văn tự nên nhãn mới mang cái nghĩa gốc là con ngươi rồi nghĩa phái sinh bằng hoán dụ là con mắt còn nhân thì mang nghĩa “hạt”.

Bây giờ xin nói về mối quan hệ giữa nghìn và thiên 千. Trong giáp cốt văn thì thiên 千 gồm có nhất 一 và nhân . Đây là một hình thanh tự mà nghĩa phù là nhất 一 (tượng trưng cho một con số hoàn chỉnh) còn thanh phù là nhân .

Như đã phân tích ở trên, nhân vốn có phụ âm đầu *ng-. Đây chính là âm mà từ nghìn của tiếng Việt còn bảo tồn được cho đến tận ngày nay. Về vần thì cho đến giữa thế kỷ XVII, nhân vẫn còn đọc nhìn như đã được ghi nhận trong Dictionarium annamiticum lusitanum et latinum của A. de Rhodes (Roma, 1651). Xưa hơn một bước nữa, nhin đọc là nhìn*.

Tóm lại, phụ âm đầu cổ xưa của nhân là ng- còn vần cổ xưa của nhân là -in. Cả hai yếu tố này đều có mặt trọn vẹn trong từ nghìn của tiếng Việt. Đây là bằng chứng không thể chối cãi được về mối quan hệ cội nguồn giữa nghìn và thiên 千 mà thanh phù là nhân 亻.

Chính vì từ nghìn còn giữ được phụ âm đầu *ng- rất cổ xưa của chữ nhân 人 nên chúng tôi mới nêu nó lên để góp phần chứng minh rằng người là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 人 mà âm Hán Việt hiện đại là nhân.

§ 670. Kiến thức ngày nay, số 370, ngày 20-11-2000

ĐỘC GIẢ: Trên một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây, ông có nói rằng hệ thống âm Hán Việt hiện nay không có phụ âm đầu r-. Vậy xin cho biết rốt cuộc thì, trong tiếng Việt, có những từ nào tuy có phụ âm đầu r- mà vẫn bắt nguồn từ tiếng Hán hay không. Nếu có, xin cho dẫn chứng.

AN CHI: Tuy hệ thống âm Hán Việt hiện đại không có phụ âm đầu r- nhưng tiếng Việt vẫn có những từ gốc Hán có phụ âm đầu này vì đó là những từ cổ Hán Việt. Sau đây là một số dẫn chứng.

1. Rà trong rà soát, rà mìn, v.v. là âm Hán Việt xưa của chữ 邏 mà âm Hán Việt hiện đại là la, có nghĩa là tuần hành, tuần tra, rồi nghĩa rộng là đi từ từ, chầm chậm để có thể quan sát được dễ dàng và kỹ càng, và cuối cùng là chậm chạp, trì hoãn, như vẫn còn có thể thấy trong rề rà, cà rà (là những từ tổ đẳng lập chánh tông chứ không phải là những từ lấp láy).

2. Rà trong rầy rà (theo nghĩa trong phương ngữ Nam Bộ) là âm Hán Việt xưa của chữ 囉 mà âm Hán Việt hiện đại cũng là la, có nghĩa gốc là làm rùm beng. Âm này còn có mặt trong la rầy (hoặc rầy la), la lối.

3. Rá trong rổ rá là âm Hán Việt xưa của chữ 籮 mà âm Hán Việt hiện đại là la, có nghĩa là cái giỏ đan bằng tre.

4. Rã trong tan rã, rã đám là âm Hán Việt xưa của chữ 攞 mà âm Hán Việt hiện đại là lã, có nghĩa là chẻ, xé; rách, rời.

5. Rác trong rác rưởi là âm Hán Việt xưa của chữ 落 mà âm Hán Việt hiện đại là lạc, có nghĩa là lá cây hoặc hoa quả rơi xuống đất. Lạc còn có nghĩa là đánh rơi, ném xuống đất và đây chính là nghĩa của rác trong rải rác mà một biến thể ngữ âm nữa là rắc trong gieo rắc. Lạc cũng có nghĩa là rơi, rụng, nghĩa là không còn dính vào nhánh cây, tức là tách ra khỏi. Đây chính là nghĩa của rạc trong rời rạc. Lạc còn có nghĩa là hạ xuống và đây chính là nghĩa của rặc trong nước rặc.

6. Ràn trong ràn trâu (= chuồng trâu) là âm Hán Việt xưa của chữ 攔 mà âm Hán Việt hiện đại là lan, có nghĩa là chuồng nuôi súc vật.

7. Ràn trong ràn rụa là âm Hán Việt xưa của chữ 瀾 mà âm Hán Việt hiện đại là lan, có nghĩa là nổi sóng, là tràn ra.

8. Rạn trong rạn nứt là âm Hán Việt xưa của chữ 爛 mà âm Hán Việt hiện đại là lạn, có nghĩa là mục nát.

9. Ràng trong bồ câu ra ràng là âm xưa của chữ 翎 mà âm Hán Việt hiện đại là linh, có nghĩa là lông chim.

10. Rát trong rát cổ là âm Hán Việt xưa của chữ 辢 mà âm Hán Việt hiện đại là lạt, có nghĩa là cay. Lạt cũng có nghĩa là găng, là căng và đây chính là nghĩa của rát trong bắn rát.

11. Rắp trong rắp tâm là âm Hán Việt xưa của chữ lập 立 trong lập tâm có nghĩa là định bụng.

12. Răng trong răng hàm mặt là âm Hán Việt xưa của chữ 稜 mà âm Hán Việt hiện đại là lăng, có nghĩa là khía, cạnh.

13. Rằng trong chẳng nói chẳng rằng là âm Hán Việt xưa của chữ 令 mà âm Hán Việt hiện đại là lịnh (lệnh) có nghĩa là báo cho biết.

14. Rặng trong rặng núi là âm Hán Việt xưa của chữ 嶺 mà âm Hán Việt hiện đại là lĩnh, có nghĩa là dãy núi.

15. Rặt trong rặt một phường là âm xưa của chữ liệt 列 (trong liệt vị v.v.) có nghĩa là các, những.

16. Rặt trong rặt ròng là âm Hán Việt xưa của chữ 烈 mà âm Hán Việt hiện đại là liệt, có nghĩa là tốt đẹp. Đây cũng chính là rặt trong rặt nòi. Còn ròng là âm xưa của chữ 隆 mà âm Hán Việt hiện đại là long, cũng có nghĩa là tốt đẹp. Đây cũng chính là ròng trong vàng ròng.

17. Ròng trong nước mắt ròng ròng là âm Hán Việt xưa của chữ 瀧 mà âm Hán Việt hiện đại là long (lung) có nghĩa là chảy xiết.

18. Rẹt trong bở rẹt là âm Hán Việt xưa của chữ 劣 mà âm Hán Việt hiện đại là liệt, có nghĩa là xấu, kém.

19. Rẹt trong xé cái rẹt không phải là từ tượng thanh (nếu có tượng thanh thì cũng là tượng thanh từ trong tiếng Hán) mà là âm Hán Việt xưa của chữ 裂 mà âm Hán Việt hiện đại là liệt, có nghĩa là xé.

20. Rét trong sốt rét là âm Hán Việt xưa của chữ 冽 mà âm Hán Việt hiện đại là liệt, có nghĩa là… rét.

21. Rối trong rối ren là âm Hán Việt xưa của chữ 纇 mà âm Hán Việt hiện đại là lỗi, có nghĩa là rối. Còn ren là âm Hán Việt xưa của chữ 聯 mà âm Hán Việt hiện đại là liên, có nghĩa là dính vào nhau, liền với nhau. Nhân tiện, rắc trong rắc rối là âm xưa của chữ 絡 mà âm Hán Việt hiện đại là lạc, có nghĩa là buộc liền vào nhau, dính nhau vì bị buộc liền vào.

22. Rào trong hàng rào là âm xưa của chữ 牢 mà âm Hán Việt hiện đại là lao, có nghĩa là chuồng nuôi súc vật. Từ điển của A. de Rhodes có ghi nhận từ tổ đẳng lập rào rẹt. Rẹt là âm xưa của chữ 例 mà âm Hán Việt hiện đại là liệt, có nghĩa là cây mọc thành hàng.

23. Rờn trong rập rờn là âm Hán Việt xưa của chữ 嶙 mà âm Hán Việt hiện đại là lân, có nghĩa là dáng núi gập ghềnh.

24. Rờn trong xanh rờn là âm Hán Việt xưa của chữ 潾 mà âm Hán Việt hiện đại là lân, có nghĩa là (nước) trong vắt. Chữ này cũng viết theo bộ ngọc thành 璘 để chỉ (vẻ ngọc) tươi sáng.

25. Rơn trong mừng rơn là âm Hán Việt xưa của chữ 憐 mà âm Hán Việt hiện đại là lân, có nghĩa là yêu mến.

26. Rợn trong rùng rợn là âm xưa của chữ 吝 mà âm Hán Việt hiện đại là lận, có nghĩa là xấu hổ.

27. Rộc trong ruộng rộc là âm Hán Việt xưa của chữ 麓 mà âm Hán Việt hiện đại là lộc, có nghĩa là chân núi.

28. Rò trong rò rỉ là âm Hán Việt xưa của chữ 漏 mà âm Hán Việt hiện đại là lậu, có nghĩa là nhỏ giọt. Rò còn có một điệp thức là rỏ, thường nói thành nhỏ trong nhỏ giọt, nhỏ mắt.

29. Rồ trong rồ dại là âm Hán Việt xưa của chữ 魯 mà âm Hán Việt hiện đại là lỗ, có nghĩa là chậm chạp, ngu đần.

30. Rần rần là âm Hán Việt xưa của 轔轔 mà âm Hán Việt hiện đại là lân lân, có nghĩa là xe chạy… rần rần.

§ 671. Kiến thức ngày nay, số 370, ngày 20-11-2000

ĐỘC GIẢ: Cây “câu rút” là cây gì và đâu là xuất xứ của hai tiếng này?

AN CHI: Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, nộp lưu chiểu tháng 3-2000) đã giảng như sau:

“Câu-rút (Pháp: croix) Giá bằng gỗ hình chữ thập, trên đó Chúa Giê-xu bị đóng đinh”.

Thực ra hai tiếng câu-rút không bắt nguồn từ tiếng Pháp croix. Tiếng Pháp chỉ có thể có ảnh hưởng đến tiếng Việt từ đầu thế kỷ XX, sớm lắm cũng chỉ là cuối thế kỷ XIX mà hai tiếng câu-rút đã có mặt trong tiếng Việt muộn nhất là năm 1773. Bằng chứng là nó đã được Pigneaux de Béhaine ghi nhận trong Dictionarium anamitico-latinum (viết tay, 1772 – 1773) dưới hình thức “cu rút”. Hai tiếng này bắt nguồn từ tiếng Bồ Đào Nha cruz, có nghĩa là cây… câu-rút.

§ 672. Kiến thức ngày nay, số 370, ngày 20-11-2000

ĐỘC GIẢ: Tôi đã đọc trong một quyển sách trước 1975, có ghi “Nhất thực, nhất ẩm, giai do tiền định” (một miếng ăn, một miếng uống cũng đã được định từ trước). Nhưng có lần tôi nói câu này thì một người có học thức, tuổi trên ngũ tuần sửa lại là “Nhất thực, nhất trác, giai do tiền định”. Vậy câu nào đúng và nghĩa ra sao?

AN CHI: Về bốn chữ đầu trong câu bà đã nêu thì hình thức gốc chính xác được ghi nhận trong từ điển là “nhất ẩm nhất trác” chứ không phải “nhất thực, nhất trác” hoặc “nhất thực, nhất ẩm”.

Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng, chẳng hạn, giảng trác 啄 là “một miếng ăn” rồi ghi tiếp: “Tục ngữ. Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định (Một miếng uống, một miếng ăn đều được định sẵn từ trước)”.

§ 673. Kiến thức ngày nay, số 371, ngày 1-12-2000

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết âm và nghĩa của hai chữ 双 曰 trong một số bài thơ Nôm cổ.

AN CHI: Chúng tôi xin thành thật nhận lỗi vì đã “neo” lại quá lâu câu hỏi của quý ông vì chúng tôi chưa tìm ra cách giải thích thỏa đáng. Bây giờ thì xin trả lời quý ông như sau. Chúng tôi cho rằng trong các câu thơ hữu quan, âm của hai chữ 双 曰 là sông vát. Đây là âm xưa của hai chữ 生 活 mà âm Hán Việt hiện đại là sinh hoạt.

Chữ 双 đọc thành sông là điều đã được thừa nhận về mặt lý thuyết tại -2.a trong bài Thử tìm cách đọc Nôm hai chữ “song viết” của Nguyễn Tài Cẩn*. Còn chữ 曰 thì đã được chính Nguyễn Tài Cẩn đọc thành vát (nhưng hiểu theo một nghĩa khác) trong bài đã nói. Vả lại, viết 曰 đọc thành vát là chuyện bình thường (So sánh niết bàn = nát bàn; kiết hung = cát hung, v.v.).

Trở lên là nói về cách đọc Nôm hai chữ 双 曰. Bây giờ xin nói về mối quan hệ sông vát ~ sinh hoạt.

Về trường hợp sông ~ sinh, xin lưu ý rằng sinh chỉ là âm hậu khởi vì 生 vốn là một chữ thuộc vận bộ canh 庚 nên âm Hán Việt gốc của nó phải là sanh. Vậy sông ~ sinh ở đây thực chất là sông ~ sanh. Mà sông ~ sanh thì cũng giống như:

– bộng (một loại nồi đất, miệng to) ~ bạnh 甏 (bình to bằng sành);

– bộng (chỗ rỗng trong lòng gỗ) ~ bạnh 窝 (cái lỗ);

– mồng (trong mồng một, mồng năm v.v.) ~ mạnh 孟(trong mạnh xuân, mạnh nguyệt v.v.);

– mống (trong không còn một mống) ~ manh 氓 (trong manh dân);

– mống (trong mầm mống) ~ manh 萌 (mầm);

– mống (trong khôn sống mống chết) ~ manh 盲 (ngu tối);

– phồng (trong căng phồng) ~ bành (trong bành trướng); v.v..

Sông trong sông vát đã trở thành một từ cổ nhưng nó có một điệp thức rất thông dụng hiện nay là sống, như ai nấy đều biết. Sự tồn tại của hai điệp thức sông và sống ở đây không phải là điều khó giải thích vì trong vận thư thì chính chữ 生 cũng có hai hình thức thiết âm với hai thanh điệu tương ứng. Trong Quảng vận, ở phần bình thanh, thiết âm của nó là “sở canh thiết” (= sanh) còn ở phần khứ thanh thì thiết âm của nó là “sở cánh (- kính) thiết”(= sánh).

Còn về trường hợp vát ~ hoạt thì trước hết, xin nói rằng vát trong sông vát cũng chính là vát trong tháo vát, đều có liên quan về xuất xứ với chữ hoạt 活 mà nghĩa gốc là sống, rồi nghĩa phái sinh là nhanh nhẹn, sinh động, v.v.. Vát ~ hoạt thì cũng giống như:

– và (kết từ) ~ hòa 和

– vạ (trong tai vạ) ~ họa;

– vá (trong chó vá) ~ hoa 花 (vá là cái đốm, giống như “đóa” hoa);

– vả (trong nhờ vả) ~ hóa 化 (đi ăn xin);

– van (trong van nài) ~ hoán (trong hô hoán);

– vàng ~ hoàng;

– vạch (trong vạch ngang) ~ hoạch v.v..

Tóm lại, âm của hai chữ Nôm 双 曰 là sông vát và đây là âm xưa của hai chữ Hán 生 活 mà âm Hán Việt hiện đại là sinh hoạt (cũng như góa bụa là âm xưa của quả phụ; thiêng liêng là âm của tinh linh; thơ ngây là âm của si ngai, v.v.).

Vì là âm xưa của hai tiếng sinh hoạt nên nghĩa của sông vát tất nhiên cũng là nghĩa của hai tiếng trên đây. Đó là: sự hoạt động; đời sống, cuộc sống; cuộc đời; cảnh ngộ, hoàn cảnh; kế sinh nhai, nghề mưu sinh*. Các nghĩa này thực sự phù hợp từng nghĩa một với từng câu thơ tương ứng có hai chữ 双 曰 và với chủ đề của từng bài thơ hữu quan trong Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi), Hồng Đức quốc âm thi tập (đời Lê Thánh Tông), Bạch Vân am quốc ngữ thi tập (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và trong một số câu lẻ tẻ khác. Nếu muốn “hiện đại hóa” mà thay sông vát bằng sinh hoạt thì những câu thơ đó tất nhiên vẫn thông nghĩa, thậm chí có khi còn… dễ hiểu hơn. Ngay cả đối với 4 trường hợp mà Nguyễn Tài Cẩn cho là “xem ra cần phải có cân nhắc biện luận” (ông đọc 双 曰 thành rông vát và hiểu là “dong chơi thơ thẩn, ung dung nhàn tản, phóng túng”), nếu thay “rông vát” bằng “sinh hoạt” thì ý thơ, theo chúng tôi, xem ra vẫn thông hơn:

Sinh hoạt chớ rằng đã ngặt

Đến đâu thời cũng có xuân phong.

Mựa hiềm sinh hoạt nhà còn ngặt

Tích đức cho con ấy mới mầu.

Con cháu chớ hiềm sinh hoạt tiện

Thi thư thực ấy báu nghìn đời.

Con cháu mựa hiềm sinh hoạt ngặt

Nghìn đầu cam quít ấy là tôi.

Dĩ nhiên là để phục hồi âm xưa, nhất là để đọc đúng âm của hai chữ 双 曰 thì hai tiếng “sinh hoạt” trong 4 trường hợp trên đây phải được thay bằng hai tiếng “sông vát”. Và dĩ nhiên là cũng không thể không kể đến một số trường hợp mà hai chữ 双 曰 phải được đọc khác và hiểu khác.

§ 674. Kiến thức ngày nay, số 371, ngày 1-12-2000

ĐỘC GIẢ: “Xập xí xập ngầu” có phải là tiếng Quảng Đông hay không?

AN CHI: Lạ một điều là nhiều tác giả lại cho rằng đó là tiếng Quảng Đông: Hoàng Văn Hành, chủ biên (Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994); Nguyễn Lân (Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1989 và Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000); Nguyễn Như Ý, chủ biên (Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 1999), v.v.. Thực ra, như quý vị đều biết, xập xí xập ngầu (mà nghĩa gốc là mười bốn mười lăm) là tiếng Tiều (Triều Châu) còn tiếng Quảng Đông thì lại là xập xi xập ựng mà “ựng” ở đây thực chất chỉ là [ŋ] , một âm mũi rất khó phát âm đối với người Việt Nam.

§ 675. Kiến thức ngày nay, số 371, ngày 1-12-2000

ĐỘC GIẢ: Có người nói rằng “sốt” trong “sốt rét”, “nóng sốt” là do tiếng Pháp “chaude” mà ra, có đúng như thế không?

AN CHI: Hình như làcó người đã nói như thế. Lạ một điều là tại sao đó không phải là “sô”, do giống đực “chaud” mà cứ phải là “sốt”, do giống cái “chaude” mà ra. Thực ra, từ “sốt” đã được dùng trong Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, một tác phẩm song ngữ Hán Việt (phần tiếng Việt được ghi bằng chữ Nôm) mà Hoàng Thị Ngọ cho là xuất hiện vào cuối thế kỷ XV, muộn nhất là đầu thế kỷ XVI. Nó đã có mặt trong mấy câu sau đây:

– “Nuốt của đắng, nhả của ngọt, bẵm ấp nuôi nấng (…), chịu sốt, chịu rét, chẳng ngại khó khăn”.

– “Ngục ấy dài bằng tám muôn do tuần, bốn bên thành sắt châu quanh, rào rẫy lưới ấy, lửa sốt rỗng cháy rực ran. Lò đỏ độc sốt, bằng sấm chớp lóe sáng, dùng nấu nước đồng đỏ rót trong tội thượng nhân”*.

Cách đây đến nửa thiên niên kỷ thì người Việt làm gì đã biết đến người Pháp và tiếng Pháp!

§ 676. Kiến thức ngày nay, số 371, ngày 1-12-2000

ĐỘC GIẢ: Cốc tách: tách là do tiếng Pháp tasse mà ra: còn cốc?

AN CHI: Cốc là âm cổ Hán Việt của chữ 角 mà âm Hán Việt hiện đại là giác. Giác là một thứ đồ dùng bằng đồng để đựng rượu, xuất hiện từ đời Ân nhưng trước đó nữa thì nó chỉ là cái sừng khoét rỗng để đựng chất lỏng (biết rằng giác có nghĩa gốc là cái sừng). Vậy cốc là một từ Việt gốc Hán.

§ 677. Kiến thức ngày nay, số 372, ngày 10-12-2000

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 364, ông có viết đại ý như sau: Bắc đẩu (dân gian gọi là sao Bánh lái) không phải là một ngôi sao duy nhất vì đó là tên một chòm sao gồm bảy ngôi mà người Trung Hoa gọi là Bắc đẩu tinh, còn danh từ thiên văn học hiện nay gọi là Đại hùng tinh, tiếng Pháp là Grande Ourse, tiếng Anh là Ursa Major. Còn sao Bắc cực (dân gian gọi là sao Bắc thần) là một ngôi sao nằm trong chòm Tiểu hùng tinh, (tiếng Pháp là Petite Ourse, tiếng Anh là Ursa Minor). Sao Bắc cực là cách dịch khái niệm thiên văn học mà tiếng Pháp gọi là étoile Polaire còn tiếng Anh là Polaris. Thế nhưng tại mục “Ai? Sao?” cũng trên số Kiến thức ngày nay, số này, TS Trần Văn Nhạc lại giảng sao Bắc đẩu chỉ là một ngôi sao nằm trong chòm sao Tiểu hùng (Gấu nhỏ). Vậy đâu là sự thật?

AN CHI: Từ điển tiếng Việt 1992 (Hoàng Phê chủ biên) giảng “sao Bắc Đẩu” là “chòm sao ở về nửa bắc thiên cầu, có bảy ngôi sáng thành hình giống cái gáo”. Hiện đại Hán ngữ từ điển của Phòng biên tập từ điển thuộc Sở nghiên cứu ngôn ngữ của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc (Bắc Kinh, 1992) cũng giảng ba tiếng “Bắc đẩu tinh” (běidǒuxīng) như sau: “Bảy ngôi sao của chòm Đại hùng, phân bố thành hình cái môi (=cái vá để múc); nối liền hai ngôi sao phía ngoài của hình cái môi và kéo dài khoảng năm lần thì gặp ngôi sao của chòm Tiểu hùng, tức sao Bắc cực (theo cách gọi) hiện nay”.

Từ hải, bản tu đính 1989 (Thượng Hải, 1997) giảng ba tiếng “Bắc đẩu tinh” như sau: “Bảy ngôi sao sắp xếp thành hình cái đấu (hoặc cái môi) ở bầu trời phía Bắc. Đó là: 1. Bắc đẩu nhất (Thiên Khu), 2. Bắc đẩu nhị (Thiên Tuyền). 3. Bắc đẩu tam (Thiên Cơ), 4. Bắc đẩu tứ (Thiên Quyền), 5. Bắc đẩu ngũ (Ngọc Hành), 6. Bắc đẩu lục (Khai Dương), 7. Bắc đẩu thất (Dao Quang)”.

Còn Từ điển bách khoa thiên văn học do Phạm Viết Trinh chủ biên (Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1999) thì đã cho như sau:

“Sao Bắc Đẩu. Từ thường dùng trong thiên văn cổ và khá thông dụng trong dân gian nước ta để chỉ chòm Đại Hùng (Ursa major)”.

“Đại Hùng. Xem chòm Con Gấu Lớn”

“Chòm Con Gấu Lớn (Đại Hùng) gồm 7 ngôi sao khá sáng ở bầu trời Bắc có dạng như một con gấu (hay một cỗ xe), là chòm giúp ta tìm ra sao Bắc Cực”.

Cứ như trên thì Bắc Đẩu là tên mà thiên văn học xưa của Trung Hoa dùng để gọi chòm sao 7 ngôi mà thiên văn học ngày nay gọi là Đại Hùng (tinh), tiếng Pháp là Grande Ourse còn tiếng Anh (gọi theo tiếng La Tinh) là Ursa Major, như đã nói tại Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 364.

§ 678. Kiến thức ngày nay, số 372, ngày 10-12-2000

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 364, ông có viện dẫn câu ca dao:

“Bắc thần đã mọc xê xê

Chị em thức dậy lo nghề nông tang”.

để khẳng định rằng “tên dân gian của sao Bắc cực là Bắc thần” và sao này nằm trong chòm sao Tiểu Hùng.

Theo tôi thì điều này không ổn, bởi lẽ: Sao Bắc cực đúng là một ngôi sao nằm trong chòm sao Tiểu Hùng. Nhưng ngôi sao này lại nằm đúng vào cực Bắc của thiên cầu nên nó không dịch chuyển theo sự tuần hoàn ngày đêm, tức là nó đứng yên một chỗ, không bao giờ mọc cũng không bao giờ lặn.

Nếu câu ca dao trên đây có phản ánh đúng thực tế về một tập quán trong công việc lao động của người nông dân Việt Nam (nhìn sao “Bắc thần” mọc xê xê để biết rằng một ngày mới bắt đầu) thì ngôi sao (hoặc chòm sao) này chắc chắn không phải là sao Bắc cực. Có thể đó là chòm sao Đại Hùng hoặc sáu ngôi sao còn lại của chòm sao Tiểu Hùng chăng?

AN CHI: Tất cả các quyển từ điển quen thuộc (Từ Nguyên, Từ hải bản cũ, Từ hải bản tu đính 1989, Vương Vân Ngũ đại từ điển, v.v.) đều giảng “Bắc thần” là sao Bắc cực. Hiện đại Hán ngữ từ điển của Phòng biên tập từ điển thuộc Sở nghiên cứu ngôn ngữ của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc (Bắc Kinh, 1992) cũng giảng “Bắc thần” (běichén) là “(từ dùng để) chỉ sao Bắc cực trong sách xưa” (Cổ thư thượng chỉ Bắc cực tinh).

Chính vì thế mà chúng tôi thực sự đồng ý với tác giả của Từ điển từ và ngữ Việt Nam rằng sao Bắc thần chính là sao Bắc cực. Chúng tôi chỉ không thừa nhận rằng “nhân dân thường gọi sao Bắc thần là sao Bắc cực” như tác giả này đã khẳng định mà thôi vì chúng tôi chủ trương ngược lại. Chính vì chủ trương ngược lại nên chúng tôi mới dẫn lại câu ca dao:

“Bắc thần đã mọc xê xê,

Chị em thức dậy lo nghề nông tang”

(mà chính tác giả đó đã nêu làm thí dụ tại mục “bắc thần” trong sđd, tr. 102, c.2) để chứng minh rằng “Bắc thần” là tên gọi dân gian còn “(sao) Bắc cực” lại là tên khoa học (của cùng một ngôi sao).

Chúng tôi chỉ xin khẳng định như trên về mặt ngữ nghĩa của hai tiếng “Bắc thần” cũng như sự khác nhau trong cách dùng đối với hai từ tổ đồng nghĩa “Bắc thần” và “(sao) Bắc cực”. Còn ý nghĩa của toàn câu ca dao trên đây như thế nào thì chúng tôi xin nhường cho các nhà thiên văn học và các nhà nghiên cứu văn học.

§ 679. Kiến thức ngày nay, số 373, ngày 20-12-2000

ĐỘC GIẢ: Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cương của Yu.X. Xtêpanov do Trần Khang, Hoàng Trọng Phiến, Nguyễn Anh Quế dịch, Vũ Lộc hiệu đính (bản dịch lại, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HàNội, 1984) có nói đến “những cặp từ được gọi là từ đúp trong nhiều ngôn ngữ châu Âu” (tr. 56). Xin cho biết “từ đúp” là từ gì và xin cho thí dụ trong một vài thứ tiếng quen thuộc (vì sách trên chỉ cho thí dụ trong tiếng Nga).

AN CHI: Nếu chúng tôi không nhầm thì đó là khái niệm mà cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh đều gọi là doublet. Danh từ doublet trước đây đã được dịch là “từ song lập ” trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (Cours de linguistique générale) của Ferdinand de Saussure do Tổ ngôn ngữ học Khoa ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội tổ chức dịch (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973), hoặc “song lập thể”. Gần đây, có tác giả dùng từ “song thức” còn chúng tôi (trước đây cũng dùng “song lập thể ”) thì dùng “điệp thức”. Sở dĩ chúng tôi dùng “điệp” mà không dùng “song” là vì sợ rằng người ta dễ hiểu song là hai, là đôi trong khi mà có từ có thể có hơn một điệp thức nên tiếng Anh mới có các từ triplet (tam lập thể), quadruplet (tứ lập thể). “Từ đúp”, theo chúng tôi, là một cách gọi có vẻ quá “dân dã” nên e là sẽ không được thích hợp với tính chất của thuật ngữ chăng. Vì vậy mà trở xuống, xin gọi là điệp thức.

Điệp thức là những từ cùng bắt nguồn ở một nguyên từ nên có thể có những nét chung về ngữ âm và/hoặc ngữ nghĩa mặc dù không hoàn toàn đồng âm, đồng nghĩa với nhau, nói một cách ngắn gọn, đó là những từ cùng từ nguyên. Sau đây là một số thí dụ trong tiếng Pháp (L. = La Tinh):

– écouter (nghe) và ausculter (nghe mạch, nghe bệnh) < L. auscultare (nghe; rình nghe; nghe lời);

– chenal (lạch) và canal (kênh) < L. canalis (đường dẫn nước, ống dẫn);

– chétif (gầy yếu) và captif (bị giam cầm) < L. captivus (bị giam cầm);

– entier (toàn thể, hoàn toàn) và intègre (liêm khiết) < L. integer (nguyên vẹn);

– épice (gia vị) và espèce (giống, loài) < L. species (vẻ bề ngoài; mảnh, miếng, v.v.);

– cherté (sự đắt đỏ) và charité (lòng từ thiện) < L. caritas (sự đắt đỏ, sự trọng vọng, sự quyến luyến);

– hôtel (khách sạn) và hôpital (bệnh viện) < L. hospitalis (liên quan đến sự đón tiếp);

– livrer (giao, nộp) và libérer (thả, giải phóng) < L. liberare (giải phóng, v.v.);

– meuble (động sản) và mobile (di động) < L. mobilis (di động, có thể di chuyển được); v.v..

Còn sau đây là một số thí dụ trong tiếng Anh:

– cloak (áo choàng không tay – khi phồng lên thì có hình dạng tổng quát như cái chuông) và clock (đồng hồ) < Pháp trung đại cloque (cái chuông), nay là cloche;

– dish (đĩa đựng thức ăn) và disc/disk (đĩa ném hoặc đĩa hát) < L. discus (đĩa);

– faction (bè phái) và fashion (kiểu; mốt) < Pháp trung đại và hiện đại façon < L. factio mà tân cách là factionem.

– frail (dễ vỡ; ẻo lả; tạm bợ) và fragile (dễ vỡ; mảnh dẻ) < Pháp fraile (nay frêle) và fragile < L. fragilis (dễ vỡ; v.v.);

– genteel (quý phái, nhã nhặn) và gentle (dịu dàng, nhẹ nhàng; v.v.) đều < Pháp gentil (xinh xắn; tử tế v.v.); v.v..

Điệp thức không phải là hiện tượng chỉ có thể thấy trong các ngôn ngữ châu Âu mà còn có thể thấy cả trong nhiều ngôn ngữ khác: tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Khmer, v.v. (có thể chỉ là ở cấp độ hình vị). Riêng kỳ này, chúng tôi xin nêu một số thí dụ trong tiếng Quảng Đông (ghi theo chữ quốc ngữ):

– mình trong mình tsì (danh từ) và mẻng trong mếi yệ mẻng (tên gì?) đều là âm của chữ 名;

– chẻng (âm bình dân) và chỉnh (âm bác học) đều là âm của chữ 井 (giếng);

– chẩy trong cấy chẩy, cẩu chẩy (gà con, chó con) và chỉ trong Hủng Chỉ (Khổng Tử) là âm bình dân và âm bác học của chữ tử 子 mà vì không còn rõ từ nguyên nên người Quảng Đông đã ghi âm chẩy bằng chữ 仔;

– xèng trong xèng ma? (thành chứ?) và xình cúng (thành công);

– chữ thính là nghe đọc thành théng trong théng tổu (nghe thấy) nhưng lại đọc thành thính (trong thính chẻ (thính giả); v.v..

Nói chung, tiếng Quảng Đông có những cặp điệp thức mà điệp thức trước, cổ hơn, có âm chính là -e- còn điệp thức sau, mới hơn, thì có âm chính là -i-. Âm cổ hơn thường cũng là âm bình dân còn âm mới hơn là âm bác học. Dĩ nhiên là những điệp thức của tiếng Quảng Đông không chỉ hạn chế trong tương ứng e ~ i nhưng vì khuôn khổ nên chúng tôi tạm dừng tại đây.

§ 680. Kiến thức ngày nay, số 373, ngày 20-12-2000

ĐỘC GIẢ: Chữ cổ 鼓 (= cái trống) có phải là một chữ tượng hình của cái trống hay không?

AN CHI: Đó không chỉ là hình một cái trống mà là hình một bàn tay cầm dùi để gõ vào một cái trống đặt trên giá như có thể thấy trong hình và chữ dưới đây (số 1 là hình, số 2 là chữ).

Ở 1 là hình khắc trên một cái hồ bằng đồng thời Chiến Quốc còn ở 2 là chữ cổ 鼓 trong kim văn đời Tây Chu. Chữ 2 đã theo sát hình 1 một cách khá trung thành (nhưng cái giá trống được lật sang trái còn bàn tay cầm dùi thì được đưa qua bên phải). Tuy ngày nay cổ vừa có nghĩa là trống, vừa có nghĩa là gõ trống nhưng ngày xưa thì chữ cổ là trống viết là 鼓 (bên phải là chữ chi 支 ) còn chữ cổ là gõ thì lại viết thành 鼔 (bên phải là chữ phốc 攴).

Cuối cùng xin nói thêm rằng gõ chính là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ cổ bộ phốc 攴 đã nói ở trên.

§ 681. Kiến thức ngày nay, số 373, ngày 20-12-2000

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết chữ kỳ (= cờ) và chữ lữ (trong lữ đoàn) giống nhau và khác nhau như thế nào về tự dạng.

AN CHI: Trước nhất, xin nói rằng cả hai chữ 旂 và 旗 đều đọc là kỳ và đều có nghĩa là cờ mà xét về nguồn gốc thì chữ thứ nhất có trước chữ thứ hai. Về chữ thứ nhất, tức chữ 旂, xin quan sát hình 1 và chữ 2 dưới đây:

Ở 1 là hình chiến xa (theo nghĩa thời xưa) trên đồ đồng thời Chiến Quốc còn ở 2 chính là chữ kỳ 旂 trong kim văn đời Tây Chu. Trong hình 1 là một cỗ xe do bốn con ngựa kéo và một người cầm cương hướng về phía trước, phía sau xe là một chiến sĩ cầm giáo và ở đuôi xe có cắm cờ (như hình hai nhánh cây khô). Hình đó đã đi vào chữ 2 với những nét ; về sau trở thành trong chữ kỳ 旂 còn nét thì về sau trở thành 斤.

Chữ lữ 旅, mà xưa là , cũng có phần trên giống chữ kỳ, tức là phần ; còn phần dưới bên phải, nay viết thành chính là hình của hai chiến sĩ (hai người) mà xưa là . Hình dưới đây phản ánh đúng thực tế đã sản sinh ra chữ lữ:

Phía sau xe, dưới lá cờ là hai người lính đang giáp chiến và hình hai người lính đó chính là nguyên mẫu của phần trong chữ lữ 旅 ngày nay.

§ 682. Kiến thức ngày nay, số 374, ngày 1-1-2001

ĐỘC GIẢ: Chữ “âu” trong “Âu Cơ” (vợ Lạc Long Quân) có phải cũng là chữ “âu” trong “Âu Lạc” hay không?

AN CHI: Lẽ ra phải là như thế để cho hệ thống truyền thuyết về cổ sử của Việt Nam được nhất quán nhưng rất tiếc rằng sự thật thì lại khác. Chữ âu trong Âu Lạc là 甌 còn chữ âu trong Âu Cơ thì, lạ thay, lại là 嫗. Lĩnh Nam chích quái, bản dịch của Lê Hữu Mục (in lần thứ nhất, Sài Gòn, 1960) phần chữ Hán lấy từ bản chép tay của thư viện Phạm Quỳnh, đã ghi âm “âu” theo chữ thứ hai, nghĩa là chữ thuộc bộ nữ 女 (Xem phần chữ Hán, tr. 5, 6). Những tưởng đó là do lỗi của người sao chép nhưng không phải. Đại Việt sử ký toàn thư, “nội các quan bản”, khắc in năm Chính Hòa thứ 18 (1679), tập IV, do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành tại Hà Nội với sự tài trợ của UNESCO, cũng đã dùng đúng chữ 嫗 (Xem tr. 43, tờ 2a-b, dòng 2). Nhưng chữ này thì không thể đọc là “âu”.

Chữ 甌 thì đúng là âu còn chữ 嫗 thì lại là ẩu theo cách đọc thông dụng trong các quyển từ điển như Việt Hán thông thoại tự vị của Đỗ Văn Đáp, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng, Việt ngữ chánh tả tự vị của Lê Ngọc Trụ v.v.. Còn thiết âm chính xác của nó là ú và ủ, âm trước thuộc khứ thanh còn âm sau thuộc thượng thanh. Với âm ú, nó có nghĩa là mẹ hoặc phụ nữ (kể cả bà lão lẫn thiếu nữ) còn với âm ủ thì nó có nghĩa là ấp trứng hoặc ấp cho ấm*. Vậy rõ ràng là với âm ủ thì nó chính là chữ ủ trong ấp ủ, ủ nóng còn với âm ú thì nó có một biến thể ngữ âm là u, có nghĩa là mẹ, còn lưu hành tại nhiều địa phương ở miền Bắc.

Trong các quyển từ điển, thì Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng và Hán Việt tự điển của Thiều Chửu có ghi nhận cho chữ đang xét âm ủ với nghĩa là “ấp” còn nghĩa là “phụ nữ” thì được hầu hết các quyển (của Đỗ Văn Đáp, Đào Duy Anh, Thiều Chửu, Nguyễn Quốc Hùng, Lê Ngọc Trụ, v.v.) ghi bằng âm ẩu (như trong Triệu Ẩu). Điều này không lạ vì một số tiếng Hán Việt vốn có vận -u đã chuyển thành -âu (là một âm hậu kỳ) chứ không riêng gì chữ ú, thí dụ: cu – câu (ngựa non mà giỏi); chu – châu; thu – thâu, v.v..* Có điều là lẽ ra phải đọc thành ấu thì các quyển từ điển đó lại đọc thành ẩu.

Trở lại với cách đọc chữ đang xét trong tên bà Âu Cơ, chúng tôi cho rằng đó phải là Ấu Cơ (theo đúng phiên thiết trong từ điển tiếng Hán) hoặc Ẩu Cơ (như đã cho trong các quyển từ điển Hán Việt) chứ không phải “Âu Cơ” nếu muốn coi đây là âm Hán Việt trong câu văn tiếng Hán (“Quân thú Đế Lai nữ viết Ấu (Ẩu) Cơ, sinh bách nam (…)”*. Còn nếu muốn xem 嫗 là một chữ Nôm thì, theo chúng tôi, chữ này phải được đọc thành u với nghĩa là mẹ (U Cơ = Mẹ Cơ) chứ không thể là “âu” vì danh từ u (= mẹ) của tiếng Việt không hề có biến thể ngữ âm “âu” ở bất cứ địa phương nào. Truyền thuyết “Truyện Hồng Bàng” trong Lĩnh Nam chích quái đã gọi Lạc Long Quân là “bố” nên đối lại, đã gọi “Âu” Cơ là “u” (mẹ) tất nhiên chỉ là chuyện hoàn toàn bình thường mà thôi. Điều cần nhấn mạnh chỉ là cả u lẫn bố đều là những từ Việt gốc Hán: u, như đã nêu ở trên còn bố ~ phụ thì như đã chứng minh trên Kiến thức ngày nay, số 170, ngày 10-4-1995.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3