Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 658 - 668

§ 658. Kiến thức ngày nay, số 362, ngày 1-9-2000

ĐỘC GIẢ: “Hỗ trợ” có phải là tiếng Hán hay không? Hay đó chỉ là một cách nói sai lệch từ hai tiếng “hộ trợ”?

AN CHI: Có người đã giải thích rằng “hỗ trợ” là một cách nói sai lệch của “hộ trợ” và rằng “hộ trợ” mới đúng là tiếng Hán. Thực ra cả hộ trợ lẫn hỗ trợ đều là tiếng Hán: hộ trợ là một từ tổ gồm có hai từ đẳng lập đồng nghĩa (hộ = trợ = giúp đỡ) còn hỗ trợ là một từ tổ chính phụ mà trợ là trung tâm (hỗ chỉ tác động qua lại; trợ = giúp đỡ).

Mathews’Chinese – English Dictionary đã ghi tại chữ 2152 như sau:

“互 助 : to render mutual assistance”(hỗ trợ: giúp đỡ lẫn nhau); rồi tại chữ 2190:

“護助 or 救護 : to rescue; to save; to succour; to assist”(hộ trợ hoặc cứu hộ: cứu vớt; cứu thoát; cứu trợ; giúp đỡ).

Còn từ điển tiếng Hán cỡ nhỏ như Tân Hoa tự điển (Bắc Kinh, 1973, khổ 11⨯12,5, 579 trang chính văn) thì tại chữ “hộ” (tr. 169) đã không hề ghi nhận từ tổ “hộ trợ” nhưng tại chữ “hỗ” (tr. 170) thì lại có nêu từ tổ “hỗ trợ” làm thí dụ. Lớn hơn quyển này nhưng vẫn chưa phải loại lớn như Hiện đại Hán ngữ từ điển của Phòng biên tập từ điển, Sở nghiên cứu ngôn ngữ thuộc Viện Khoa học xã hội Trung quốc (Bắc Kinh, 1992, khổ 13⨯18, 1554 trang chính văn) cũng không hề ghi nhận từ tổ “hộ trợ” trong số 26 mục phụ của chữ “hộ” (tr. 476 – 477) nhưng lại ghi nhận từ tổ “hỗ trợ” trong số 10 mục phụ của chữ “hỗ” (tr. 477). Việc những quyển từ điển cỡ nhỏ, nghĩa là thuộc loại thông dụng và phổ biến, chỉ ghi nhận có “hỗ trợ” mà không có “hộ trợ” chứng tỏ rằng có lẽ chính “hỗ trợ” mới thông dụng hơn “hộ trợ” và rằng không phải chỉ có “hộ trợ” mới là tiếng Hán.

§ 659. Kiến thức ngày nay, số 364, ngày 20-9-2000

ĐỘC GIẢ: “Sao Bánh lái” là sao nào? “Bánh lái” là gì và “bánh” trong “bánh lái” là gì? Sao này có liên quan gì với sao Bắc cực hay không? Đâu là tên dân gian của sao Bắc cực?

AN CHI: Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng rằng sao Bánh lái “cũng gọi là sao Bắc-đẩu hay sao Đẩu, chòm sao 7 cái ở hướng bắc mọc thành hình bánh lái thuyền, phần nhỏ gọi tiểu-hùng, phần lớn gọi đại-hùng, thường được các nhà đi biển lấy đó mà gióng hướng”. Còn Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của lại giảng rằng sao Bánh lái “cũng gọi là nam tào” (Xem chữ “lái”), là “các vì sao chòm, giống hình cái bánh lái ghe” (Xem chữ “bánh”). Xưa hơn nữa, Dictionarium anamitico – latinum của Pigneaux de Béhaine (bản viết tay 1772 – 1773, tr. 300) giảng rằng sao Bánh lái là “ursa major”, nghĩa là (chòm sao) Đại hùngtinh. Rồi Dictionnaire annamite-français của J. F. M. Génibrel cũng giảng rằng sao Bánh lái là “Constellation de la grande Ourse” (chòm sao Đại hùng tinh).

Có nhiều phần chắc chắn là Génibrel thừa hưởng công trình của Pigneaux de Béhaine nên đã giảng giống tác giả này còn cá nhân chúng tôi thì cho rằng sao Bánh lái chính là Đại hùng tinh vì, trong trường hợp này, chúng tôi tin ở Pigneaux de Béhaine. Nói rằng sao Bánh lái cũng gọi Nam tào như Huình-Tịnh Palus Của thì không đúng. Còn nói như Lê Văn Đức thì lại quá rộng vì gồm có cả Tiểu hùng tinh: người Trung Hoa chỉ dùng mấy tiếng “Bắc đẩu tinh” để gọi bảy ngôi sao của chòm Đại hùng mà thôi. Huống chi nếu có thêm Tiểu hùng nữa thì tất cả phải là 14 chứ không thể là “chòm sao 7 cái” được.

Vậy “sao Bánh lái” chính là tên dân gian xưa mà người Việt đã dùng để gọi các ngôi sao mà người Trung Hoa gọi là “Bắc đẩu tinh” còn danh từ thiên văn học hiện nay thì gọi là “Đại hùng”, tiếng Pháp là “Grande Ourse” còn tiếng Anh thì gọi theo tiếng La Tinh là “Ursa major”. Sao Bắc cực không nằm trong chòm sao Bánh lái vì nó nằm trong chòm Tiểu hùng (Pháp: Petite Ourse, Anh < La Tinh: Ursa Minor). Tên dân gian xưa của sao Bắc cực là “Bắc thần” nhưng Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, nộp lưu chiểu tháng 3-2000) thì đã giảng ngược lại như sau:

“Sao bắc cực: Từ thường dùng để chỉ Sao bắc thần: Nhân dân thường gọi sao bắc thần là sao bắc cực” (tr. 1558).

Thực ra, “sao Bắc cực” là một lối gọi rất mới vì đó là cách dịch để diễn đạt khái niệm thiên văn học mà tiếng Pháp gọi là “Polaire” và tiếng Anh là “Polaris”. Còn cách gọi của “nhân dân” thì lại chính là “sao Bắc thần”. Vì vậy nên nó mới có thể đi vào ca dao:

“Bắc thần đã mọc xê xê.

Chị em thức dậy lo nghề nông tang”.

Tóm lại, tên dân gian của sao Bắc cực là “Bắc thần” chứ không phải ngược lại và sao này nằm trong chòm sao Tiểu hùng chứ không phải Đại hùng mà dân gian Việt Nam gọi là sao Bánh lái.

Vậy bánh lái là cái gì? Có người cho rằng đó là cái tay lái hình vòng tròn giống như cái bánh xe. Sự thật không phải như thế vì cái tay lái kiểu đó, tiếng Pháp là “volant”, chỉ mới du nhập vào Việt Nam trong thế kỷ XX còn từ tổ bánh lái thì đã tồn tại trong tiếng Việt muộn nhất cũng là từ giữa thế kỷ XVII. Nó đã được ghi nhận vào Dictionarium anamitico – lusitanum et latinum (Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh) của A. de Rhodes (Roma, 1651): “Bánh lái: a pa do leme (tiếng Bồ – AC): timonis palmula (tiếng La – AC)”.

Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng rằng bánh lái là “tầm cây tra sau lái ghe, để mà khiến nó đi” (Xem chữ “bánh”), “chính là cây ván đóng bổ, tra sau đốc chiếc thuyền, để mà khiến bát cạy” (Xem chữ “lái”). Từ tổ này vẫn còn được dùng cho đến ngày nay như một thuật ngữ của ngành giao thông và như đã được ghi nhận trong Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1 (Hà Nội, 1995):

“Bánh lái (giao thông), thiết bị để điều khiển hướng đi của tàu thuyền. Bánh lái thường có dạng tấm hoặc hộp quay quanh một trục” (tr. 144).

Tóm lại, bánh lái là một bộ phận dùng để điều khiển hướng đi của tàu thuyền. Nhưng “bánh” trong “bánh lái” nghĩa là gì nếu không phải là cái bộ phận của xe, hình vành tròn có thể lăn chung quanh một cái trục để xe có thể chuyển động?

Bánh là một từ Việt gốc Hán, đó là âm Hán Việt xưa của chữ 柄 mà âm Hán Việt hiện đại là bính, có nghĩa là cái cán. Đây là một chữ thuộc vận ánh 映, (khứ thanh, -ánh, -ạnh) tương ứng với canh 庚 (bình thanh, -anh, -ành), cảnh 梗 (thượng thanh: -ảnh, -ãnh) và mạch 陌 (nhập thanh: -ách, -ạch) thuộc vận bộ canh 庚. Vậy chẳng có gì lạ nếu âm thông dụng của nó hiện nay là bính (như trong quyền bính) nhưng âm xưa của nó là bánh. Và bánh lái, hiểu theo nghĩa của từng thành tố, là cái cán dùng để lái còn hiểu đầy đủ hơn thì đó chính là cái vật có đặc điểm như Huình-Tịnh Paulus Của đã giảng. Do hình dạng của cái vật mà nó diễn đạt nên hai tiếng bánh lái mới được dùng theo ẩn dụ trong “sao Bánh lái” để chỉ chòm sao Đại hùng tinh mà sau đây là sơ đồ (vì lý do kỹ thuật nên chúng tôi mạn phép thay các chữ cái Hy Lạp bằng số Á Rập) với tên của từng ngôi sao bằng tiếng Hán và tiếng châu Âu như sẽ liệt kê bên dưới:

Sao 1: Thiên Khu – Dubhe; sao 2: Thiên Tuyền – Mérak; sao 3: Thiên Cơ – Phecda; sao 4: Thiên Quyền – Mégrez; sao 5: Ngọc Hành – Alioth; sao 6: Khai Dương – Mizar; sao 7: Dao Quang – Alkaid.

Nếu để ý quan sát thì sẽ thấy sao Bánh lái có hình dáng tổng quát na ná như cái bánh lái.

§ 660. Kiến thức ngày nay, số 364, ngày 20-9-2000

ĐỘC GIẢ: Múi giờ là gì và tại sao lại đặt ra múi giờ?

AN CHI: Tác giả Nguyển Xiển có viết ở trang 33 – 34 quyển Vì sao nên dùng dương lịch (Nxb. Phổ thông, 1977) như sau:

“Quả đất quay từ Tây sang Đông. Mặt trời mọc ở phương Đông trước ở phương Tây sau. Cứ lùi 15° độ kinh sang phía Tây thì giờ Mặt trời chậm 1 giờ, lùi 15’ độ kinh thì giờ chậm 1 phút đồng hồ, lùi 15’’ độ kinh thì giờ chậm 1 giây đồng hồ. Để giảm bớt sự khác nhau đến mức có thể được, người ta đã đặt ra hệ thống múi giờ quốc tế. Người ta chia mặt đất ra làm 24 múi, mỗi múi rộng 15° độ kinh. Trong phạm vi mỗi múi, người ta lấy giờ thống nhất theo kinh tuyến trung tâm của múi đó, từ một múi đi sang múi bên cạnh ở phía Đông thì phải thêm 1 giờ, ở phía Tây thì bớt đi 1 giờ. Đồng hồ mỗi lúc trên thế giới có kim phút, kim giây chỉ như nhau, kim giờ thì khác nhau, như vậy là giờ các nước chỉ khác nhau một số giờ nguyên.

Các múi giờ được đánh số thứ tự 0, 1, 2… 23 từ Tây sang Đông. Múi giờ 0 có kinh tuyến trung tâm là kinh tuyến gốc đi qua Gơ-rin-uýt (Greenwich – AC). Giờ của múi đó là giờ quốc tế. Nước ta nằm toàn bộ trong múi thứ 7 có kinh tuyến trung tâm (105°Đ) đi qua gần thủ đô Hà Nội. Vì vậy Chính phủ ta đã quyết định lấy giờ của múi đó làm giờ chính thức. Giờ chính thức của nước ta chậm 1 giờ so với giờ Trung Quốc lấy theo múi thứ 8, chậm 2 giờ so với giờ Nhật Bản lấy theo múi thứ 9, sớm hơn giờ Mát-xcơ-va 4 giờ, sớm hơn giờ múi được chọn làm gốc 7 giờ”.

§ 661. Kiến thức ngày nay, số 364, ngày 20-9-2000

ĐỘC GIẢ: Một bộ phim truyền hình nhiều tập của Pháp có tên “Une femme d’honneur” đang được trình chiếu trên màn ảnh nhỏ. Tên phim được dịch sang tiếng Việt thành “Người phụ nữ trọng danh dự”. Xin hỏi: “Honneur” ở đây có phải là “danh dự” và “d’honneur” có phải là “trọng danh dự” hay không?

AN CHI: Petit Larousse illustré 1992, tại chữ “honneur”, đã ghi rõ như sau:

“D’honneur (…) b. (Précédé d’un nom désignant une personne): Digne de confiance, estimable”.

nghĩa là:

“D’honneur (Đứng sau một danh từ chỉ người): Đáng tin cậy, đáng kính nể”. Vậy “une femme d’honneur” mà dịch thành “người đàn bà trọng danh dự” thì e là không sát nghĩa mà cũng chẳng đúng với dụng ý của những người làm phim chăng?

§ 662. Kiến thức ngày nay, số 365, ngày 1-10-2000

ĐỘC GIẢ: Trong một số sách, hai tiếng “Hoa Lang” được dùng để chỉ người Bồ Đào Nha và/hoặc người Hà Lan, rồi người châu Âu nói chung. Nhưng đâu là xuất xứ của hai tiếng đó?

AN CHI: Trong bài viết rất công phu và đầy tư liệu quý hiếm nhan đề Nguồn gốc và ý nghĩa các tên gọi “Hoa Lang” và “Hoa Lang đạo”, đăng trên Ngôn ngữ, số 8-2000, Roland Jacques đã giải thích về nguồn gốc của tên gọi “Hoa Lang” đại khái như sau.

Nguồn gốc xa xăm của nó là các từ “Frans”, “Franken”, “Franchi” trong một số ngôn ngữ ở châu Âu, dùng để chỉ một dân tộc gốc Đức là người Frăng (theo cách phiên âm của tác giả). Đây là thành phần cư dân chủ yếu của đế quốc Charlemagne ở Tây Âu đầu thế kỷ IX. Người Á Rập theo Hồi giáo gọi họ là “Ifranji” (số nhiều), rồi từ đó lại thành ra “Faranji”. Trong thời Thập tự chinh, “Ifranji/Faranji” trở thành từ phổ biến ở vùng Trung Đông và được dùng để gọi quân thù. Khi người Bồ Đào Nha chiếm thành quốc Malacca vào năm 1511 thì họ cũng được gọi là “Ifranji/Faranji” hoặc “Ifranghi/Faranghi”. Nhưng tên gọi này dần dần mất đi sắc thái thù địch và người Bồ được gọi là “Frangue (s)” theo mẫu “Ifranghi” nhưng mất đi nguyên âm ở đầu. Tiếng Mã Lai và tiếng Indonesia hiện nay vẫn còn dùng từ “Perenggi”, còn tiếng Thái Lan thì dùng từ “Farang” (cả hai đều theo mẫu “Faranghi”) để gọi người châu Âu với sắc thái hơi coi thường. Thành phố Malacca bấy giờ có ba phường của người Trung Hoa, một của người Phúc Kiến, một của người Chương Châu và một của người Quảng Châu. Nhờ họ mà tên dùng để chỉ người Bồ Đào Nha sớm được truyền đến Trung Hoa, hẳn là theo cách ghi thích hợp cho từng phương ngữ. Mục “Thời luận” trong Minh sử năm Chính Đức thứ 16 (1521) còn nhắc đến một khẩu đại bác, có tên gọi là “Fu-lang-chi” (nhưng không rõ được ghi bằng những chữ Hán nào vì chỉ dẫn theo phiên âm), dạo ấy bị tước đem về Bắc Kinh. Về sau, người ta đã xác định nghĩa đen của ba chữ đó là tên gọi một loại “dương nhân” (người nước ngoài), chứ không phải một loại pháo. Từ “faranji” đến “fu-lang-chi” không xa rồi từ “fu-lang-chi” chuyển sang “Hoa Lang” cũng khá gần gũi. Có thể chữ thứ ba bị bỏ đi vì được coi như chữ 之 “chi” là một trợ từ vô nghĩa, hoặc là dùng giữa định ngữ và danh từ trung tâm trong tiếng Hán cổ, có nghĩa là “của”. “Fu-lang-chi pháo” là “súng đại bác của người Fu lang”. Còn có một giả thiết khác: song song với dạng Á Rập hoặc Mã Lai, từ “Farang” của tiếng Xiêm cũng được truyền miệng đến Trung Hoa. Nếu đúng thì riêng tiếng “Farang” này được người Quảng Đông phiên âm bằng chữ Hán: về sự tương ứng “rang ~ lang” thì đã rõ còn chữ “Hoa” (Hán Việt) thì tiếng Quảng Đông đọc là “Fa”. Từ Quảng Đông sang Việt Nam hồi giữa thế kỷ XVI thì có cả hai dạng, đều dùng để gọi người Bồ Đào Nha: dạng truyền miệng là “Falang”, ghi bằng chữ quốc ngữ “Pha lang” và dạng viết bằng chữ vuông mà người Việt đọc thành “Hoa Lang”.

Trở lên chúng tôi đã lược thuật kiến giải của Roland Jacques về nguồn gốc của hai tiếng “Hoa Lang” còn sau đây là nhận xét của chúng tôi về kiến giải đó.

1. Sự ráp nối “faranji → fu-lang-chi (~fu lang chi pháo) → Fu lang → Hoa Lang” là một chuỗi thao tác không chặt chẽ.

Fu-lang-chi là ba tiếng mà Hán tự là 佛郞機 , đọc theo âm Hán Việt là “Phật lang cơ”. Đâylà một hình thức phiên âm để chỉ người Franc(s) như đã được ghi nhận và chú giải trong nhiều quyển từ điển quen thuộc: Từ Nguyên, Từ hải (bản cũ), Từ hải (bản tu đính 1989), Mathews’ Chinese – English Dictionary, Vương Vân Ngũ đại từ điển, v.v.. Đặc biệt bản tu đính năm 1989 của Từ hải đã ghi nhận cho ba chữ “Phật lang cơ” đến bốn nghĩa mà nghĩa thứ nhất là: “Đời Minh gọi người Bồ Đào Nha là Phật lang cơ (phiên âm từ tiếng Ba Tư frangí hoặc firingí, vốn chỉ chung tín đồ Cơ Đốc giáo của châu Âu)”. Còn sau đây là nghĩa thứ tư: “Đời Minh cũng gọi pháo (đại bác) do người Bồ Đào Nha chế tạo là phật lang cơ”. Vốn chỉ là một hình thức phiên âm thuần túy (cả ba âm tiết đều vô nghĩa) với nghĩa thứ nhất, đến nghĩa thứ tư thì âm tiết thứ ba (cơ) vô hình trung đã được xem như một danh từ có nghĩa là “máy móc”, “súng ống” (nên Phật lang cơ mới có nghĩa là súng do người Phật Lang, tức người Bồ Đào Nha chế tạo). Nhưng để tránh nhầm lẫn hoặc tên tộc người thành tên một loại đại bác hoặc ngược lại, người ta đã đặt ra cụm từ “Phật lang cơ pháo”, có nghĩa là “đại bác (của người) Phật lang cơ (tức Bồ Đào Nha)”, như đã được ghi nhận trong Từ Nguyên và Vương Vân Ngũ đại từ điển.

Từ trên đây suy ra, chữ “chi ” trong “Fu-lang-chi ” chẳng qua chỉ là một cách ghi âm cũ theo tiếng Bắc Kinh của chữ cơ 機, mà phương án pínyín hiện nay ghi thành “jī” (nên trong Xứ Đàng Trong, Nxb. Trẻ, 1999, tr. 86, d.5, Li Tana mới ghi thành “fulangji” để chỉ người Bồ Đào Nha) chứ không phải của chữ chi 之 mà âm Bắc Kinh (pīnyīn) là “zhī ”. Một đằng là cơ (Hán Việt)/ jī (Bắc Kinh) còn một đằng là chi (Hán Việt)/ zhĩ (Bắc Kinh) nên không thể lẫn lộn được. Do đó, việc ông Roland Jacques đưa chữ chi 之 vào cấu trúc “Fu-lang-chi” là một việc làm thực sự không thích hợp. Huống chi chữ 佛, mà âm Bắc Kinh là fú, âm Quảng Đông là fặt, âm Hán Việt là phật, âm cổ Hán Việt là bụt, tuyệt đối không thể nào được phát âm thành “hoa”. Vậy thì làm sao mà “Fu lang” có thể trở thành “Hoa Lang”.

2. Tiếng Xiêm Farang có được người Quảng Đông phiên âm bằng chữ Hán hay không là một vấn đề khó khẳng định hoặc phủ định. Nhưng nói rằng tiếng Xiêm Farang đã được người Quảng Đông phiên âm bằng hai chữ 花 郞 (Bđd, tr. 8) nên người Việt mới đọc thành “Hoa Lang” (Bđd, tr. 12), thì lại là một việc có thể phủ định được.

Ám chỉ chữ 花 tác giả có lập luận rằng trong phương ngữ Quảng Đông chữ Hán Việt “Hoa” được đọc là “Fa”. Quả có gần đúng như thế vì âm Quảng Đông của chữ đang xét là “fá”, thí dụ: Fá khềy là “Hoa Kỳ”, fá fúi là “hoa khôi”, fá chúc là “hoa chúc” v.v.. Vậy nói rằng người Quảng Đông dùng chữ 花 mà họ đọc là “fá” trong tiếng Xiêm “Farang” là một điều có thể tạm chấp nhận được. Đến như nói rằng chữ 郞 mà lại được họ dùng để phiên âm âm tiết “rang” của từ đó thì lại khó có thể chấp nhận. Dùng “l” để phiên âm “r” là chuyện hoàn toàn bình thường. Bất bình thường là ở chỗ dùng một nguyên âm tròn môi là “o” [ɔ] để phiên âm một nguyên âm không tròn môi là “a”, âm Quảng Đông của chữ 郞 là “loòng” [lɔ̄ŋ²] nên không thể dùng để phiên âm âm tiết “rang” của tiếng Xiêm. Đây là nói về điểm xuất phát. Còn nói về điểm đến thì nếu họ đã dùng hai chữ 花 郞 để phiên âm tiếng Xiêm “Farang” thì tất nhiên là họ phải đọc thành “Fá loòng” nên cái dạng truyền miệng sang tiếng Việt cũng phải là “Phá loòng” (người Việt vẫn đọc được vần [ɔ̄ŋ]: kính coong, xoong chảo) chứ không thể là “Pha lang”.

Nhân tiện, xin nói thêm về hai tiếng “Pha lang”. Đây là dạng “truyền miệng” mà người Đại Việt đã đọc theo âm Bắc Kinh của hai chữ pháp lang 法 郞. Âm Bắc Kinh của hai chữ này, ghi theo lối pīnyīn, là “fáláng”. Đây là một hình thức phiên âm tương ứng với hai chữ phật lang 佛 郞 (trong Phật lang cơ). Bằng chứng là danh từ franc dùng để chỉ một đơn vị tiền tệ (của Pháp hoặc Thụy Sĩ) có thể được phiên âm bằng một trong hai dạng: pháp lang (nay dùng phổ biến trong tiếng Bắc Kinh) hoặc phật lang (mà trước đây người Việt Nam đã đọc trại thành “phật lăng”). Dạng “truyền miệng” của âm Bắc Kinh không phải là một hiện tượng hiếm hoi trong tiếng Việt sau thời nhà Minh, mà cái thí dụ có thể coi như đã trở thành “cổ điển” là tiếng “tủ” vốn là đọc theo âm Bắc Kinh (pīnyīn là dứ) của chữ độc 櫝, có nghĩa là… cái tủ (Chú ý: chữ “d” của lối pīnyīn dùng để ghi âm [t]).

Tóm lại, giả thiết thứ hai của Roland Jacques về nguồn gốc của tên gọi “Hoa Lang” cũng không đáng tin.

3. Vậy thì đâu là nguồn gốc đích thực của tên gọi “Hoa Lang” trong tiếng Việt?

Chúng tôi cho rằng đó chính là tên gọi “Hoa Lang” 花郞 sẵn có trong tiếng Hán. Tại mục từ cùng tên, Từ Nguyên đã giảng như sau: “Tục của nước Tân La, chọn trong con em các gia đình cao sang những người xinh đẹp mà tô son điểm phấn, gọi là hoa lang”. Vậy hoa lang hẳn phải là những trang thanh niên trắng trẻo, hồng hào và đặc điểm này có lẽ chính là cơ sở cho cách dùng hai tiếng đang xét theo phép ẩn dụ để chỉ người Bồ Đào Nha chăng, vì nói chung họ cũng là những người hồng hào, trắng trẻo? Chẳng biết đúng, sai thế nào, xin cứ tạm nêu lên để chất chính cùng các bậc thức giả.

§ 663. Kiến thức ngày nay, số 366, ngày 10-10-2000

ĐỘC GIẢ: Tại một bài (do Vương Lộc dịch) in trong tuyển tập Giao lưu văn hóa & Ngôn ngữ Việt- Pháp (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999), tác giả Michel Ferlus có viết như sau:

“Sự đè bẹp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bởi Mã Viện vào năm 40 của kỷ nguyên chúng ta đã kéo theo sau đó sự lưu đày những người ưu tú của đất nước và sự chạy trốn của một bộ phận cư dân. Không phải không có khả năng là vùng trống để lại (ở Giao Chỉ – Người hỏi) do những đảo lộn này đã có thể giúp cho các cư dân phía Nam (chỉ Cửu Chân – Người hỏi) tràn dâng ra phía Bắc, kéo theo những sự thay đổi ngôn ngữ học tại vùng chúng ta ở hiện nay”. (Sđd, tr. 160-161)

Xin cho biết sự “tràn dâng” của cư dân Cửu Chân ra Giao Chỉ sao cuộc đàn áp của Mã Viện mà ông Michel Ferlus đã phác họa có khả năng xảy ra hay không.

AN CHI: Như ai nấy đều biết, Cửu Chân cũng khởi nghĩa như Giao Chỉ; rồi như Giao Chỉ, chính Cửu Chân cũng bị Mã Viện bình định và kinh lý. Hàng trăm cừ súy của Cửu Chân đã bị quân của Mã Viện chém đầu và chính quân khởi nghĩa của Cửu Chân còn sống sót cũng phải trốn vào nơi rừng sâu núi cao. Vậy có lẽ nào dân Cửu Chân lại chạy ra phía Bắc để lấp những vùng trống kia mà tử vì đạo thay cho dân Giao Chỉ? Dĩ nhiên người ta vẫn có thể biện luận rằng những người rời bỏ Cửu Chân để ra Giao Chỉ không phải là những người đã từng tham gia khởi nghĩa – mặc dù sử chép rằng cuộc khởi nghĩa nổ ra đều khắp – nên họ không sợ bị quân của Mã Viện đàn áp hoặc tàn sát. Cứ cho là họ đã từng ngây thơ đến thế thì vẫn còn lại một sự thật mà người làm sử không thể bỏ qua. Đó là tại Giao Chỉ, sau cuộc bình định thì Mã Viện đi đến đâu cũng đặt quận huyện, thực hiện chế độ trực trị, xây thành quách, kiểm soát dân chúng rất gắt gao, đào mương khơi ngòi, tạo điều kiện thuận lợi cho quý tộc và địa chủ người Hán phát triển các đại điền trang* thì những vùng trống kia tất nhiên không thể là những phần đất lành dành sẵn cho dân di cư từ Cửu Chân ra. Huống chi dân Cửu Chân bấy giờ phần lớn sống về nghề săn bắn thì liệu họ có thấy cần thiết phải di cư đến một miền thuận lợi cho sự trồng trọt và/hoặc chăn nuôi hay không; liệu họ có thể tồn tại dễ dàng ở một môi trường như thế hay không?

Vì những lẽ trên đây nên chúng tôi cho rằng sự “tràn dâng” của dân Cửu Chân ra Giao Chỉ sau cuộc đàn áp của Mã Viện là một giả thuyết không phù hợp với sự thật lịch sử.

§ 664. Kiến thức ngày nay, số 366, ngày 10-10-2000

ĐỘC GIẢ: Từ “vặt” có nghĩa là “chùa” của tiếng Lào bắt nguồn ở từ nào của tiếng Sanskrit (hoặc Pali)? Từ này có tồn tại trong ngôn ngữ nào ở Việt Nam hay không?

AN CHI: Trong Không gian xã hội vùng Đông Nam Á (Ngọc Hà, Thanh Hằng dịch, Nxb. Văn hóa, 1997), Georges Condominas có ghi ở “Bảng từ vựng các từ hệ ngôn ngữ Thái” như sau:

“vat (l.) = /vat/ (p.vatthu, sk.vastu = địa điểm, vị trí) = chùa”. (Sđd, tr. 503)

Nghĩa là Condominas cho rằng từ “vặt” (= chùa) của tiếng Lào bắt nguồn ở từ Pali vatthu, Sanskrit vāstu, có nghĩa là địa điểm, vị trí. Thực ra, từ đang xét bắt nguồn ở tiếng Sanskrit và cả Pali vāţa, có nghĩa là vườn hoặc hàng rào. Cùng một kiểu chuyển nghĩa (vườn, rào → tu viện), danh từ ārāma trong tiếng Pali lại có cả hai nghĩa là vườn và tu viện: do đó nó cũng được phiên âm thành tiếng Lào aram để chỉ chùa. Aram cùng với vặt còn tạo thành từ tổ đẳng lập “vặt aram” để chỉ chùa chiền nói chung trong tiếng Lào. Danh từ vặt của tiếng Lào đã phiêu bạt sang Tây Bắc Việt Nam (thành tiếng Thái) như có thể thấy trong đoạn văn sau đây của tác giả Cầm Trọng:

“Ở Lào sang, người Thái Mộc Châu vẫn quen thờ Thích-ca Mô-ni, nên họ đã lập chùa ở bản Vặt (tên Vặt là âm chệch của Phật) và hàng năm tổ chức lễ Phật gọi là “Chách vặt, chách và” vào tháng 5 âm lịch”*.

Vặt không phải là “âm chệch của Phật” mà bắt nguồn ở từ “vặt” của tiếng Lào có nghĩa là chùa. Có thể là riêng trong tiếng Thái, từ vặt đã chuyển nghĩa theo hoán dụ (hoặc do từ nguyên dân gian) để chỉ Phật nhưng nguyên từ (étymon) của nó thì chắc chắn là “vặt” (= chùa) của tiếng Lào. Bản Vặt chẳng qua là “bản Chùa”. Vì không thấy được từ nguyên và nghĩa gốc đích thực của từ vặt nên các nhà biên soạn quyển Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái (Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977) mới chú giải rằng “Mường Vạt là mường Phật vì ở đó có chùa Phật” (Xem tr. 422). Thực ra, mường Vạt chẳng qua là “mường Chùa” (Vạt, nếu đây là một cách ghi đúng, là một biến thể của vặt): chùa vừa là một hiện tượng lạ đối với người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, vừa là đặc điểm nổi bật của bản và của mường hữu quan nên các đơn vị này mới được đặt tên như thế.

Trở lại với nguồn gốc của từ “vặt” trong tiếng Lào, chúng tôi xin khẳng định rằng đó là tiếng Sanskrit/Pali vāţa chứ không phải Sanskrit vāstu/Pali vatthu*.

§ 665. Kiến thức ngày nay, số 367, ngày 20-10-2000

ĐỘC GIẢ: Truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh là một thần thoại phản ánh cuộc đấu tranh của tổ tiên chúng ta chống nạn lũ lụt. Nhưng có tác giả nào quan niệm rằng truyện này phản ánh một cuộc đấu tranh xã hội hay không? Nếu có thì Sơn Tinh và Thủy Tinh đại diện cho những lực lượng nào?

AN CHI: Trong Cổ sử Việt Nam (Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 1955), Đào Duy Anh đã viết như sau: “Đến miền Bắc Việt Nam, người Lạc-việt gặp những người thổ trước cũ, dùng đồ đá mới, còn ở trình độ thị tộc mẫu hệ, có lẽ một phần đến thị tộc phụ hệ (…). Giống người này tiếp xúc với một giống người mới đến, văn hóa cao hơn, phải lui dần để nhường những phần đất rộng rãi phì nhiêu cho họ. Sự thắng lợi của người Lạc-việt tất phải trải qua những cuộc đấu tranh gay go. Truyền thuyết của ta còn ghi lại chuyện Sơn-tinh và Thuỷ-tinh có lẽ phản ảnh cuộc xung đột lâu dài giữa những người tự miền biển đến và những người thổ trước vẫn ở những miền đất cao và đồi núi ở trung du”. (tr. 56)

Thế là, theo Đào Duy Anh, người Lạc Việt là một giống Việt tộc (trong nhóm Bách Việt) gốc ở Phúc Kiến (Trung Quốc) còn người thổ trước là một giống Anh-đô-nê-diêng (cách viết của tác giả) mà di duệ là các dân tộc ít người ở Tây Nguyên hiện nay. Thủy Tinh là hình ảnh đại diện cho người Lạc Việt còn Sơn Tinh đại diện cho người Anh-đô-nê-diêng. Đào Duy Anh cho rằng người Anh-đô-nê-diêng đã phải rút dần lên núi để nhường những phần đất rộng rãi phì nhiêu cho những người đến sau là người Lạc Việt. Mặc dù không cho rằng truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh phản ánh một cuộc đấu tranh vì môi trường sống giữa các tộc người nhưng chúng tôi nghĩ rằng nếu có khai thác nó theo hướng này thì phải khẳng định như Đào Duy Anh mới đúng: Những người mới đến đã đẩy dân bản địa lên miền rừng sâu núi cao. Nhưng gần đây, có tác giả đã phân tích ngược lại nên chúng tôi cho là không hợp lý.

Trong Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Nxb. Giáo dục, 1995), Nguyễn Tài Cẩn đã viết: “Ở các vùng đó (vùng có nhiều địa danh Thái – Kadai ở Bắc Bộ – AC) cư dân Thái – Kadai cổ đã phải bỏ chạy trước kẻ mới đến (từ miền núi Khu IV và Trung Lào – AC) hoặc đã ở lại nhưng phải chịu bị khuất phục, bị đồng hóa, và chuyển sang nói cái ngôn ngữ của kẻ mạnh, thạo chinh chiến hơn mình. Truyền thuyết Sơn tinh thắng Thủy tinh phải chăng lúc ban đầu chính là truyền thuyết phản ánh sự kiện tiền sử này? Bởi vì bên chiến thắng (…) chính là cư dân săn bắn miền núi đến, và bên bị khuất phục (…) lại chính là cư dân đã tiến sang nông nghiệp, ở vùng thấp hơn, gần với sông nước hơn”. (tr. 321)

Thế là theo Nguyễn Tài Cẩn thì chính cư dân ở vùng thấp đã bỏ chạy trước cư dân miền núi. Nhưng một câu hỏi không dễ trả lời sẽ được đặt ra: Họ chạy đi đâu (vì tất nhiên là họ sẽ không thể chạy lên miền núi cao)? Huống chi sự khẳng định của ông cũng không phù hợp với nội dung của truyền thuyết. Hào sảng đến như lời kể trong Ngữ văn 6, sách giáo khoa thí điểm ấn hành trong khuôn khổ của Dự án phát triển Giáo dục Trung học cơ sở (Nxb. Giáo dục, 2000) thì cũng chỉ là như sau:

“Thần (Sơn Tinh – AC) dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu (…) cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã kiệt. Thần nước đành rút quân”. (Sđd, tr. 31)

Thế là Sơn Tinh chỉ tránh né (bốc đồi, dời núi) hoặc tự vệ tại chỗ (dựng lũy đất và làm cho đồi núi cao lên), chứ không hề phản công và càng không có truy kích. Vậy thì làm sao có thể nói rằng cư dân săn bắn miền núi đã đến vùng mang nhiều địa danh Thái – Kadai, rằng cư dân Thái – Kadai cổ đã bỏ chạy, rằng một bộ phận của họ đã bị cư dân săn bắn miền núi khuất phục và đồng hóa? Huống chi nếu Sơn Tinh có thắng Thủy Tinh thì cũng chỉ là thắng trong phạm vi căn cứ địa của mình mà thôi chứ làm sao có chuyện dân săn bắn miền núi tràn xuống miền thấp hơn khi mà truyện lại kể, vẫn theo Ngữ văn 6, như sau:

“Thần (Thủy Tinh – AC) hô mây, gọi gió làm thành giông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn đánh Sơn Tinh. Nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên mặt nước”. (Sđd, tr. 31)

Trên đây rõ ràng là hình ảnh cư dân vùng thấp ào ạt tấn công lên miền núi chứ làm sao lại có thể là chuyện cư dân săn bắn miền núi tràn xuống vùng thấp? Đã đành là, vẫn theo Ngữ văn 6, cuối cùng thì “Thần Nước đành rút quân” nhưng đây vẫn là hình ảnh cư dân vùng thấp rút quân về căn cứ của mình chứ không thể là gì khác.

Vậy, cứ truyền thuyết đang xét mà xét thì không thể có chuyện cư dân săn bắn miền núi khuất phục cư dân đã tiến sang nông nghiệp ở vùng thấp vì chỉ có thể là chuyện ngược lại mà thôi. Và tất nhiên là càng khó có chuyện cư dân săn bắn mà lại đồng hóa được cư dân đã tiến sang nông nghiệp.

Tóm lại, theo chúng tôi, truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh không phản ánh một cuộc đấu tranh giữa các tộc người vì đó chỉ là câu chuyện về một cộng đồng người đấu tranh chống lũ lụt theo sự tổ chức và chỉ huy của một thủ lĩnh mà Sơn Tinh là hình tượng. Nhưng nếu xem nó như là câu chuyện về một cuộc đấu tranh của hai tộc người thì, cứ theo nội dung, đó chỉ có thể là chuyện người ở vùng thấp, gần sông nước, đẩy người cũng ở vùng thấp đó và/hoặc vùng trung du lên dần miền thượng du mà thôi.

§ 666. Kiến thức ngày nay, số 367, ngày 20-10-2000

ĐỘC GIẢ: Có phải có người cho rằng “đang” (phó từ chỉ thời gian) là một từ cùng gốc với từ tương ứng trong tiếng Indonesia hay không? Đâu là xuất xứ của hai từ còn lại trong bộ ba “đã, đang, sẽ”?

AN CHI: Cách đây 37 năm, trong công trình Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt Nam (Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1963), Vương Hoàng Tuyên đã cho rằng đang cùng gốc với tiếng Indonesia sedang còn đã với sudah (Xem tr. 184). Sau đó (1990), K. Gregerson cũng xem sudah là cội nguồn của từ đã*. Nhưng nhà ngữ học không thể để cho hình thức ngữ âm đánh lừa một cách quá dễ dàng. Tiếng Việt và tiếng Indonesia là hai ngôn ngữ có quan hệ, nếu có, rất xa xôi nên các vị từ tình thái đã, đang, và sẽ khó có thể cùng gốc với các từ cùng nghĩa trong thứ tiếng đó. Cả ba đều là những từ Việt gốc Hán.

Trường hợp của đang/đương là hiển nhiên vì đây là âm Hán Việt hiện đại của chữ 當 như có thể thấy trong đương đại, đương kim, đương thời, v.v..

Đã là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 已 mà âm Hán Việt hiện đại là dĩ, có nghĩa là… đã. Hẳn là có người sẽ nghi ngờ mối tương ứng ngữ âm “dĩ ~ đã” nhưng đối với ngữ âm học lịch sử và văn tự học thì đây lại không phải là một chuyện lạ. “Dĩ ~ đã” không phải là trường hợp duy nhất của mối quan hệ [zi] ~ [da] (di ~ đa).

Trường hợp đầu tiên mà chúng tôi muốn nêu lên để chứng minh là: Chữ di 移 được hài thanh bằng chữ đa 多.

Sau đây là một vài dẫn chứng khác:

– Chữ tha 佗 còn có âm đà (Tập vận, Vận hội, Chính vận đều cho thiết âm là “đường hà thiết, âm đà 駝”), với nghĩa là cõng, mang trên lưng và âm di (Chính vận: “diên tri thiết, âm di 移”),với nghĩa là quanh co.

– Chữ xà 蛇 (= rắn) còn có âm đà (Khang Hy, “đồ hà thiết, âm đà, 駝”), cũng với nghĩa là rắn và âm di (Quảng vận: dực chi thiết, âm di 移),với nghĩa là quanh co. Đặc biệt, Vận bổ (dẫn theo Khang Hy) có nói rằng “chữ “xà” trong long xà cũng đọc là di 移 (long xà chi xà diệc độc vi di). Từ trên đây suy ra, chỉ với cái nghĩa “rắn” thì chữ 蛇 đã có ba âm: xà, đà và di. Rồi cũng theo Khang Hy thì “chữ di trong uỷ di (= quanh co) cũng nhập với âm đà” (uỷ di chi di diệc hiệp âm đà). Thế là với nghĩa “quanh co”, chữ 蛇 có thể đọc thành di hoặc đà, v.v..

Cứ như trên thì rõ ràng mối quan hệ ngữ âm “dĩ ~ đã” hoàn toàn không phải là chuyện thực sự lạ lùng. Mà nếu có lạ lùng thì nó cũng không phải là một hiện tượng có thể bác bỏ được.

Cuối cùng, sẽ là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 且 mà âm Hán Việt hiện đại là thả, có nghĩa là “sắp sửa”. “Sẽ ~ thả” không phải là chuyện khó chứng minh:

– s ~ th: – (sàng) sảy ~ thải (hồi); – sút (kém) ~ thất (thoát); – se (lạnh) ~ thê (lương); v.v..

– e ~ a: – chè ~ trà; – the (lụa) ~ sa; – mè (vừng) ~ ma v.v..

– “ngã” ~ “hỏi”, đều là do thượng thanh gốc mà tách ra.

Tóm lại, bộ ba vị từ tình thái “đã”, “đang”, “sẽ” là những từ Việt gốc Hán, chẳng có liên quan gì đến tiếng Indonesia.

§ 667. Kiến thức ngày nay, số 368, ngày 1-11-2000

Bổ sung cho câu trả lời về từ “vặt” (= chùa) trên số 366. Do không còn chỗ cho câu trả lời này trên số 366 nên chúng tôi đã không nói được hết ý. Để cho cùng kỳ lý, xin bổ sung mấy ý sau đây.

Trong thành ngữ chách vặt chách và của tiếng Thái mà Cầm Trọng đã ghi nhận thì và cũng có nghĩa là chùa. Từ này tương ứng với thành tố thứ hai trong từ tổ đẳng lập (nói cho đầy đủ là từ tổ gồm hai từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa đặt song song với nhau) vặt va của tiếng Lào, có nghĩa là chùa chiền. Vặt và va là hai điệp thức (doublets) bắt nguồn từ tiếng S./P. vāţa (S. = Sanskrit, P. = Pali). Trong việc Lào hóa tiếng S. hoặc P., nhiều khi tiếng Lào chỉ giữ lại có âm tiết đầu của từ đa tiết trong tiếng S. hoặc P. mà thôi. Nếu âm tiết này có kết cấu CV (C = phụ âm, V = nguyên âm) thì nó có thể được chuyển sang tiếng Lào bằng một trong hai cách.

Cách thứ nhất là giữ nguyên kết cấu CV như trong từ gốc của tiếng S. và/hoặc P., thí dụ:

– ba (thủy ngân) < S. pārata, P. pārada;

– ka (dấu thập) < P. kākapāda;

– thi (con gái) < S. dhītā, P. dhītu;

– sá (ao, đầm) < S. saras, P. sara;

– sỉ (sư tử) < P. sīha, v.v..

Cách thứ hai là biến kết cấu CV của âm tiết đầu trong từ gốc thành kết cấu CVC bằng cách lấy phụ âm đầu của âm tiết thứ hai trong từ gốc (có Lào hóa khi cần thiết) làm phụ âm cuối cho âm tiết đầu, thí dụ:

– hểm (vàng “kim loại”) < P. hema;

– kam (tình dục) < S./P. kāma;

– rụp (hình dạng) < S./P. rūpa;

– sít (sắc, bén) < S. sita;

– thển (trộm, cắp) < P. thena;

– văn (rừng) < S./P. vana v.v..

Nguyên từ vāṭa của tiếng S./P. đã cho tiếng Lào từ va theo cách thứ nhất và từ vặt theo cách thứ hai. Từ vặt thoạt kỳ thủy có thể là *vạt nhưng có lẽ a dài đã trở thành a ngắn do ảnh hưởng của các từ: vặt, có nghĩa là bổn phận, sự phục vụ; vặt thá, có nghĩa là chu kỳ đầu thai; vặt thá ká là tận tâm, hết lòng, v.v..

Dù thế nào mặc lòng, khi một từ S. hoặc P. đã Lào hóa một cách dân dã thì việc đòi hỏi một a dài ā của S. và/hoặc P. nhất thiết phải ứng với một a dài của Lào sẽ là một đòi hỏi không thực tế. Huống chi nếu cho rằng vặt của Lào là do S. vāstu (địa điểm, vị trí) mà ra thì a trong vāstu cũng là một a dài đấy thôi (nên lẽ ra nó phải đưa đến *vạt chứ không phải là vặt). Hiện tượng tương tự trong tiếng Khmer sẽ là một bằng chứng rất tốt để khẳng định hiện tượng này trong tiếng Lào.

Tiếng Khmer cũng đã mượn từ vāţa trong tiếng S./P. theo hai cách đã nói trong tiếng Lào. Hai cách này dĩ nhiên không chỉ áp dụng cho từ vāṭa một cách đơn độc mà còn cho hàng loạt từ khác nữa. Sau đây là một số dẫn chứng.

Theo cách thứ nhất, tiếng Khmer có:

– ka (công việc) < S./P. kāra;

– kha (hăng, hắc) < P. khara;

– phô (dối trá) < P. bhadra (chứ không do tiếng Pháp faux);

– ria (nhật thực, nguyệt thực) < S./P. rāhu;

– sa (công văn) < P. sārapaṇṇa;

– sê (cái mào) < S. śikhā, P. sikhā;

– thia (chịu đựng) < S./P. dhara v.v..

Theo cách thứ hai, tiếng Khmer có:

– bap (tội lỗi) < S./P. pāpa;

– hêm (sương, rét) < S./P. hima;

– kâl (trụ, cột) < S./P. kīla;

– mul (gốc) < S./P. mūla;

– nil (xanh) < S./P. nīla.

– phit (sợ) < S./P. bhīti;

– tiêm (dây buộc ách) < S. dāman, P. dāma, v.v..

Tiếng Khmer cũng đã mượn từ vāṭa của tiếng S./P. theo hai cách trên đây: theo cách thứ nhất thành va và theo cách thứ hai thành vôt (Xin tạm dùng cách ghi này). Rồi tiếng Khmer cũng ghép hai điệp thức này lại thành từ tổ đẳng lập vôt va để chỉ chùa chiền nói chung. Tiếng Khmer cũng mượn từ S./P. ārāma thành aram để chỉ chùa rồi cũng đã ghép từ này với từ vôt thành từ tổ đẳng lập vôt aram để chỉ chùa chiền. Nói thêm một chút, tiếng Xiêm (Thái Lan) cũng đã có cách mượn tiếng S./P. vāṭa và ārāma giống hệt như tiếng Lào và tiếng Khmer.

Cứ như trên thì va trong vặt va của tiếng Lào và vôt va của tiếng Khmer không phải tiếng đệm vì đó cũng là một từ có nghĩa là chùa còn và trong thành ngữ chách vặt chách và của tiếng Thái chính là được mượn ở từ va của tiếng Lào. Vậy chách vặt chách và có nghĩa là “cúng chùa cúng chiền” chứ và không phải là một yếu tố vô nghĩa.

§ 668. Kiến thức ngày nay, số 368, ngày 1-11-2000

ĐỘC GIẢ: Chữ 宏 mà ông An Chi đã phân tích trên một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây còn có một âm rất thông thường nữa là “hồng” như “khoan hồng”: 寬 宏.

AN CHI: Lời thông báo súc tích trên đây hàm ý rằng chữ 宏 còn có một âm nữa là “hồng” nhưng chúng tôi đã không biết đến. Thực ra, âm chính xác của hai chữ 寬 宏 là “khoan hoành” (có người đọc là “khoan hoằng”, chẳng hạn Đào Duy Anh trong Hán Việt từ điển). Còn khoan hồng thì chữ Hán lại là 寬 洪 nhưng vì một số từ điển quen thuộc như Từ Nguyên, Từ hải không ghi nhận nên, để làm bằng, chúng tôi xin sao chụp mục từ khoan 寬 ở cột 1 và cột 2, trang 529 trong Mathews’ Chinese – English Dictionary để ông và bạn đọc tham khảo:

Tại cột 1, ở dòng thứ 5 (chữ Hán) là hai chữ “khoan hậu”; ở dòng thứ 6 là hai chữ “khoan hoà” rồi ở dòng thứ 7 là các chữ “khoan đại”, “khoan khoát”, “khoan xưởng”, “khoan hoành” (đây chính là hai chữ mà ông đã nêu) và “khoan quảng”.

Tại cột 2, ở dòng thứ 20 (chữ Hán) là bốn chữ “khoan phòng đại ốc”, rồi ở dòng 21 là bốn chữ “khoan hồng đại lượng” và ở dòng 22 là bốn chữ “khoan hồng trắc đát”.

Cuối cột 1 từ dòng chữ Hán số 1 đến dòng số 10 và giữa cột 2 từ dòng chữ Hán số 20 đến dòng số 32, trang 529 trong Mathews’ Chinese – English Dictionary.

Cứ như trên thì “khoan hoành” 寬 宏 và “khoan hồng” 寬 洪 rõ ràng là hai từ tổ riêng biệt. Vậy hoành (hoằng) 宏 và hồng 洪 là hai chữ khác hẳn nhau nên không thể lẫn lộn được.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3