Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 649 - 657
§ 649. Kiến thức ngày nay, số 355, ngày 20-6-2000
ĐỘC GIẢ: Tự vị Annam Latinh do Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch phần tiếng La Tinh sang tiếng Việt từ quyển Dictionarium Anamitico Latinum (1772 – 1773) của Pigneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc Bỉ Nhu), do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1999, có một vài chỗ làm tôi thắc mắc, thí dụ:
– Trần ai: người lạ, người khác (tr. 17);
– Cạnh: phần cuối của một vật gì (tr. 58);
– Cơ đồ: thừa kế (tr. 92);
– Gan dạ: bụng (tr. 106); v.v..
Xin cho biết những lời giảng là lạ trên đây là do nguyên văn tiếng La Tinh hay là do cách dịch mà ra.
AN CHI: Chúng tôi không có ý nói rằng mọi mục từ trong Dictionarium Anamitico Latinum của Pigneaux de Béhaine (sẽ viết tắt là bản PB) đều tuyệt đối chính xác. Nhưng lời dịch của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên trong Tự vị Annam Latinh do Nxb. Trẻ ấn hành năm 1999 (sẽ viết tắt là bản HN) thì quả là có rất nhiều chỗ không chính xác. Sau đây là một số dẫn chứng chọn lọc, có khảo chứng ở Dictionnaire latin – français của Ch. Lebaigue, Paris, 1960 (sẽ viết tắt là DLF) trong những trường hợp thật sự cần thiết.
1. HN: “Giọt sành: Một thứ cua bể”. (tr. 416)
Giọt sành là một giống “cào cào (tức “châu chấu” trong tiếng Nam Bộ – AC) đầu nhọn, râu dài, ngực dô, màu nâu đất hay vàng lục” (Từ điển tiếng Việt, 1992). Chính vì vậy nên PB mới chuyển sang tiếng La Tinh là “species locustae”. Locusta (locustae là sinh cách) là con châu chấu mà ngoài Bắc gọi là cào cào (DLF: sauterelle). Vậy species locustae là (một) giống châu chấu chứ không phải “một thứ cua b ể”.
2. HN: “Thiềm thừ: Con trâu mà người ta nói là ở trên mặt trăng”. (tr. 465)
Thiềm thừ là con cóc và nguyên văn La Tinh trong PB là “bufo quem in luna habitare dicunt”, nghĩa là “con cóc mà người ta nói là ở trên mặt trăng”. Bufo là con cóc (DLF: crapaud) nhưng có lẽ đã bị dịch giả nhầm với bufalus, dùng để chỉ một giống bò ở châu Phi và là nguyên từ (étymon) của tiếng Ý bufalo, có nghĩa là con trâu (Tiếng Pháp buffle và tiếng Anh buffalo đều bắt nguồn từ tiếng Ý này).
3. HN: “Con cà tong: Một thứ quạ”. (tr. 496)
Cà tong là một giống động vật có vú, giống như con hươu, chân cao, mình thon, ốm (nên trong Nam mới có các lối nói: ốm như cà tong, cà tong cà teo, ốm tong ốm teo). Con vật này, đã bị dịch giả biến thành một loài chim. Nguyên văn La Tinh trong PB là “species cervi”, nghĩa là (một) giống hươu. Cervus (cervi là sinh cách) là con hươu đã bị dịch giả nhầm với corvus là con quạ nên mới ra nông nỗi.
4. HN: “Giột: Cắn bằng răng ác độc”. (tr. 178)
Giột là một động từ mà Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng là “nói biếm nhau, nói khéo nhau, nói xa gần mà cười nhau”. Còn Dictionnaire annamite – français của J. F. M. Génibrel thì dịch là “taquiner, persifler”, nghĩa là chọc ghẹo, chế giễu. Nhưng tại sao Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên lại dịch là “cắn bằng răng ác độc”? Ấy là vì Đức Cha cả Bá Đa Lộc đã chơi một kiểu hành văn trớ trêu. Ngài đã dịch “giột” là “inique dente mordere”. Mordere có nghĩa đen là cắn nhưng nghĩa bóng là châm chọc, làm tổn thương (DLF: 5. mordre (en paroles), blesser). Dente (trạng cách của dens) có nghĩa đen là răng, nhưng nghĩa bóng là lời nói với tính cách là vũ khí dùng để khiêu khích, thí dụ: Maledico dente carpere là châm chọc bằng cách (phương tiện, vũ khí) nói xấu. Còn inique (trạng cách của iniquus) có nghĩa là độc ác, thù nghịch. Vậy khi viết “inique dente mordere” là Đức Cha cả muốn diễn cái ý “châm chọc bằng lời lẽ độc ác” chứ đâu phải là “cắn bằng răng ác độc”!
5. HN: “Lòng sắt: Ngực sắt”. (tr. 418)
Ai cũng có thể biết được rằng đây là chuyện “lòng sắt dạ đá” (hoặc “lòng dạ sắt đá”) và rằng mấy tiếng này dùng để nói về tình cảm thủy chung như nhất hoặc tinh thần kiên định đến cùng. Vì vậy nên Pigneaux de Béhaine mới dịch “lòng sắt” thành “ferreum pectus”. Cũng lại là một kiểu hành văn oái ăm! Pectus có nghĩa đen là ngực (mà ai mới học tiếng La Tinh cũng có thể biết được) nhưng nghĩa bóng là lòng dạ, tâm hồn, lương tâm, sự nhạy cảm (DLF: 2. coeur, âme, conscience, sensibilité); dũng khí (DLF: 3. courage); tinh thần, trí thông minh, tư duy, trí nhớ (DLF: 4. esprit, intelligence, pensée, mémoire). Còn ferreus (ferreum là giống trung) có nghĩa đen là bằng sắt, giống như sắt nhưng nghĩa bónglà mạnh mẽ, cứng cỏi, chắc chắn (DLF: 2. fort, dur, solide). Vậy khi Đức Cha cả dịch “lòng sắt” thành “ferreum pectus” là Ngài muốn diễn cái ý “lòng dạ cứng cỏi”, “tinh thần kiên định”, v.v. chứ phải đâu là chuyện cái ngực bằng sắt!
6. HN: “Ngải: Thứ cây cỏ làm thuốc chữa vết thiêu đốt”. (tr. 317)
Đây rõ ràng chỉ là một cách dịch theo kiểu đoán mò. Nguyên văn La Tinh trong PB như sau: “Herba quaedam medicinalis qua adustiones fiunt”, nghĩa là “thứ cỏ thuốc (dược thảo) dùng để tạo ra những vết đốt (với nó những vết đốt được tạo ra)”. Đây đích thị là cây ngải mà tên thông dụng đầy đủ là ngải cứu, tức là cây ngải dùng để cứu, nghĩa là để “đốt” mà chữa bệnh chứ không phải để “chữa vết thiêu đốt”.
7. HN: “Ông gia: Mẹ vợ, mẹ chồng, mụ gia”. (tr. 366)
Nguyên văn trong PB là “socer”, nghĩa là bố vợ hoặc bố chồng, tức ông gia. Còn mẹ vợ hoặc mẹ chồng, tức mụ gia, là socrus. Vậy ông gia vẫn là ông gia, không hề thay đổi giới tính.
8. HN: “Ó: một thứ diều hâu mái”. (tr. 362)
Cứ như lời dịch trong HN thì giống ó không có con trống. Vậy thì chúng “sinh sản vô tính” chăng (không có con trống để “làm giống” mà vẫn không tuyệt chủng)? May thay, trong PB, danh từ “ó” đã được dịch là “species milvi”, nghĩa là “một giống diều hâu”. Milvi là sinh cách của milvus, có nghĩa là diều hâu nói chung hoặc diều hâu trống. Còn diều hâu mái là milva mà sinh cách là milvae. Nếu đúng là “một thứ diều hâu mái” thì PB đã viết là “species milvae”.
9. HN: “Giám trường: Người thứ nhất trong học viên, sinh viên”. (tr. 521)
Nếu lời dịch trên đây đúng thì quả là học viên, sinh viên đã làm đảo chính. Chứ giám trường vẫn là người đứng đầu nhà trường đó thôi. PB đã dịch “giám trường” là “primus inter scholasticos”, nghĩa là “người đứng đầu các giảng viên”. Scholasticus (scholasticos là tân cách, số nhiều) đâu chỉ có nghĩa là học viên, sinh viên mà còn có cả nghĩa là bác học, học giả (DLF: 3. savant, lettré) nữa ấy chứ!
10. HN: “Nhơn trung: Lỗ chân răng hàm trên”. (tr. 346)
Lời dịch độc đáo này có thể làm biến đổi khoa nhân tướng học bởi các thầy tướng sẽ phải vạch mồm vạch miệng thân chủ ra mà tìm cái nhân trung, tức cái chỗ lõm phía dưới mũi và phía trên môi trên. Nguyên văn trong PB là “alveolus in labro superiori”, nghĩa là “chỗ trũng trên môi trên”. Dịch giả đã nhầm alveolus với alvéole (ổ răng) của tiếng Pháp nên mới dịch thành “lỗ chân răng” nhưng labro (trạng cách của labrum) là môi mà dịch thành “hàm” thì cũng phải kể là độc đáo. Cuối cùng, xin nói thêm rằng “in” không chỉ có nghĩa là “trong” mà còn có nghĩa là “trên” (DLF: 1. sur).
Trên đây là 10 trong khá nhiều chỗ sai mà chúng tôi đã ghi nhận được trong bản HN. Vậy xin tạm nêu để ông và bạn đọc tham khảo*.
§ 650. Kiến thức ngày nay, số 357, ngày 10-7-2000
ĐỘC GIẢ: Cũng là tác giả của quyển Dictionarium anamitico – latinum mà Phan Ngọc thì nói tên là “Contans Taberd” (Từ điển Truyện Kiều của Đào DuyAnh do Phan Ngọc bổ sung và sửa chữa, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1987, tr. 16) còn Trần Nghĩa thì lại nói tên là “Ravier Taberd” (“Một bộ từ điển Việt – La Tinh viết tay vào cuối thế kỷ XVIII vừa sưu tầm được”, Nghiên cứu Hán Nôm, 1984, tr. 127). Xin cho biết ai đúng ai sai? Xin cho biết thêm: Có phải quyển từ điển này có hai ấn bản, một in tại Serampore năm 1838 và một in ở Ninh Phú năm 1877 hay không?
AN CHI: Về câu hỏi thứ nhất, chúng tôi xin trả lời rằng cả Phan Ngọc lẫn Trần Nghĩa đều không chính xác vì tên họ của tác giả quyển Dictionarium anamitico – latinum in tại Serampore năm 1838 không phải là Constans Taberd (“Contans” có lẽ là do lỗi morasse), cũng chẳng phải Ravier Taberd mà là Jean Louis Taberd như đã có trả lời trên một kỳ Kiến thức ngày nay. Nay xin nói rõ hơn như sau.
Dictionarium anamitico – latinum in năm 1838 tại Serampore là do Taberd hoàn tất từ công trình viết tay của Pigneaux de Béhaine, cũng tên là Dictionarium anamitico – latinum (1772 – 1773). Vì vậy nên nhan đề bản 1838 mới ghi rõ như sau: “Dictionarium anamitico – latinum, primitus inceptum ab Illustrissimo et Reverendissimo P. J. Pigneaux (…) dein absolutum et editum a J. L. Taberd (…)”, nghĩa là “Từ điển An Nam – La Tinh, nguyên là do Đức P. J. Pigneaux tối hiển danh và tối tôn kính khởi thảo, rồi do J. L. Taberd hoàn tất và công bố”. Khi bản Ninh Phú được ấn hành năm 1877 thì nó đã được giới thiệu như sau: “Dictionarium anamitico -latinum, ex opere Ill. et Rev. Taberd constans, necnon ab Ill. et Rev. J. S. Theurel (…) recognitum et notabiliter adauctum”, nghĩa là “Từ điển An Nam – La Tinh, cấu thành từ công trình của Đức Taberd tối hiển danh và tối tôn kính, rồi còn do Đức J. S. Theurel tối hiển danh và tối tôn kính hiệu đính và bổ sung một cách đáng kể”.
Vậy để trả lời cho câu hỏi thứ hai của ông, chúng tôi xin khẳng định rằng bản Dictionarium anamitico – latinum in năm 1877 tại Ninh Phú không còn hoàn toàn là của Taberd (Serampore, 1838) nữa vì nó đã được Theurel “hiệu đính và bổ sung một cách đáng kể”. Sau đây là mấy dẫn chứng cụ thể.
– Mục “Giọt sành” trong bản Taberd 1838 là “Species locustae”, nghĩa là “(một) giống châu chấu” còn trong Theurel 1877 thì lại là “Cicada maj or viridis nocte cantans”, nghĩa là “con ve sầu lớn hơn (= con bọ lớn hơn con ve sầu) màu xanh lục hay kêu vào ban đêm”. Nét nghĩa “hay kêu vào ban đêm” rất đúng với tập tính của con giọt sành và chứng tỏ rằng ở đây sự hiểu biết của Theurel sâu sắc hơn là của Taberd. Người ta sẽ còn phải ngạc nhiên thêm một lần nữa khi đọc đến cái thành ngữ (không có trong Taberd) mà Theurel đã ghi nhận “Nói xanh xánh như giọt sành” và dịch là “Insulsa ore continuo loqui”, nghĩa là “Không ngừng nói những lời nhạt nhẽo”. Và ngay tại chữ “giọt” thì Theurel cũng ghi nhận nhiều hơn Taberd đến 6 mục phụ.
– Tại chữ “Hỏa” mục “Hỏa mai” đã được Taberd theo sát bản 1772 – 1773 của Pigneaux de Béhaine mà dịch thành “Vestis ignita” (miếng vải bén lửa). Đến Theurel thì tác giả này đã hiệu đính thành “Restis ignita”, nghĩa là “ngòi dẫn lửa”, hoàn toàn đúng với nghĩa của hai tiếng hỏa mai, nghĩa là “cái mồi lửa”.
– Mục “Lận đận” trong Taberd là “Instabilis et inquietus” nghĩa là “không ổn và không yên” đã được Theurel hiệu đính thành “Multum laboriosus”, nghĩa là “cực nhọc nhiều”. Rõ ràng là sát hơn.
Vì khuôn khổ của chuyên mục nên chúng tôi không thể nêu thêm nhiều dẫn chứng khác nhưng rõ ràng bản 1877 không phải là bản 1838. Vậy Phan Ngọc đã nhầm khi khẳng định rằng “quyển Dictionarium anamitico – latinum của Constans Taberd in lần đầu tại Serampor năm 1838 và in lần thứ hai năm 1877 do Hội truyền giáo Bắc Kỳ xuất bản” (Sđd, tr. 16). Và càng thiếu trung thực hơn khi dùng bản 1877 của Theurel mà lại ghi rằng đó là bản của Taberd năm 1838 như Phan Ngọc đã làm khi “sửa chữa” Từ điển Truyện Kiều. Tác giả Hoàng Dũng cũng nhận xét rằng “Phan Ngọc đã sử dụng cuốn 1877, chứ không phải cuốn 1838”*. Chính việc sử dụng bản 1877 của Theurel đã làm cho Phan Ngọc lầm tưởng rằng tên của Taberd là “Constans”. Như đã nói, bản này “ex opere Ill. et Rev. Taberd constans”, nghĩa là “cấu thành từ công trình của Đức Taberd tối hiển danh và tối tôn kính”. Constans, phân từ của động từ constare (cấu thành) là trung tâm của đoản ngữ La Tinh trên đây, đã bị Phan Ngọc lấy làm tên cho Taberd. Nếu ông dùng bản 1838, nơi trang bìa có ghi rõ tên họ của tác giả là “J. L. Taberd” thì ông đã chẳng đọc chữ “J.”, hoặc chữ “L.” thành “Constans”.
Cuối cùng, tại sao Trần Nghĩa lại đặt tên cho Taberd là “Ravier”? Số là bên cạnh quyển Dictionarium anamitico – latinum (Từ điển An Nam – La Tinh) của J. S. Theurel ấn hành năm 1877, còn có một quyển từ điển La Tinh – An Nam ấn hành năm 1880, cũng tại Ninh Phú. Đó là quyển Dictionarium latino – annamiticum của M. H. Ravier. Trần Nghĩa đã lấy họ của Ravier làm tên cho Taberd.
§ 651. Kiến thức ngày nay, số 358, ngày 20-7-2000
ĐỘC GIẢ: Trong mục “Chuyện vui chữ nghĩa” của tuần báo Văn nghệ, số 17, ngày 22-4-2000, ông Đỗ Quang Lưu có nhắc đến hai câu:
“Văn như Siêu Quát: vô Tiền Hán.
Thi đáo Tùng Tuy: thất Thịnh Đường!”
và giảng là “Văn mà hay được như hai ông Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thời ấy thì xem như không có thời Tiền Hán (của Trung Quốc) nữa! Và thơ mà hay đến như hai ông Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương cũng thời ấy thì xem như cũng chẳng còn thời Thịnh Đường (của Trung Quốc) nữa!”
Ông Đỗ Quang Lưu bình: “Bút pháp tài tình, ẩn dụ kết hợp với thậm xưng! Đọc lên thật sướng miệng, nghe thật sướng tai!”.
Nhưng bình tĩnh lại mà nghĩ thì “văn Siêu, Quát; thi Tùng, Tuy”, dù có hay, cũng đâu vượt nổi Tiền Hán và Thịnh Đường.
Từ lâu, tôi đã được một cụ lão nho giảng cho nghe về hai câu đó. Theo cụ, cái “ẩn ý”, hay đúng hơn là cái “ác ý”, nằm ở hai chữ “vô” và “thất”. Thực ra đây không phải là một lời khen, mà là một lời chê, thậm chí là sổ toẹt! Xin Chuyện Đông chuyện Tây cho ý kiến.
AN CHI: Trước khi được thư của ông, chúng tôi cũng hiểu hai câu đang xét theo cách hiểu của nhiều người, có thể nói là hầu hết, rằng đó là hai câu có ý khen ngợi (có thậm xưng) một cách thật lòng. Nhưng cách hiểu của vị lão nho không phải là không có lý. Rất có thể đó là một cách phản ứng mạnh mẽ trước việc người ta ca ngợi thần Siêu, thánh Quát và hai ông hoàng Tùng Thiện, Tuy Lý mà tác giả của hai câu đó cho là quá mức. Vì vậy nên tác giả này mới “tung” chúng ra để nói rằng:
Văn mà chỉ như của Siêu, của Quát thì chẳng làm gì có được (văn đời) Tiền Hán;
Thơ mà đến như của Tùng, của Tuy thì chẳng làm gì còn được (thơ đời) Thịnh Đường.
Xét về ngôn từ và cú pháp chặt chẽ thì hai câu đang xét hoàn toàn có thể được hiểu như trên. Còn cách hiểu này đúng hay cách hiểu thông thường của đại đa số đúng với dụng ý ban đầu của tác giả thì chúng tôi không dám khẳng định. Chỉ xin giới thiệu cách hiểu của vị lão nho để bạn đọc tham khảo và xin trân trọng cảm ơn ông đã cung cấp cho bạn đọc của “Chuyện Đông chuyện Tây” một cách hiểu độc đáo về hai câu đang xét.
• Xin nhận xét thêm rằng trong hai câu đó không có ẩn dụ mà chỉ có tỉ dụ (so sánh trực tiếp).
§ 652. Kiến thức ngày nay, số 358, ngày 20-7-2000
ĐỘC GIẢ: Người thì nói “Thuốc đắng đả tật” và lý giải rằng “đả” ở đây có nghĩa là đánh, là trị. Người khác đáp lại rằng câu này là “Thuốc đắng dã tật” rồi cũng giải thích rằng “dã” là làm cho tan, cho mất, cho tiêu hao. Vậy ai đúng, ai sai?
AN CHI: Hình thức được số đông chấp nhận có lẽ là “Thuốc đắng dã tật (…)”. Nhưng Từ điển thành ngữ, tục ngữ – ca dao Việt Nam của Việt Chương, quyển hạ (Nxb. Đồng Nai, 1995) thì ghi nhận: “Thuốc đắng đả tật (…)”. Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (Nxb. Văn hóa, 1989 lại ghi “Thuốc đắng rã tật (…)”. Còn Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức thì ghi “Thuốc đắng đã tật (…)”. Chúng tôi cho rằng trong câu tục ngữ đang xét, chữ thứ ba không phải là “đả” hoặc “rã”, đó chỉ có thể là “dã” hoặc “đã” mà thôi. Đây là hai từ có nghĩa phù hợp với văn cảnh đang xét và đã được ghi nhận từ lâu đời, đặc biệt là từ “đã”.
Dictionarium anamitico – latinum của Pigneaux de Béhaine (1772 – 1773) ghi: “Dã. Vim rei alicujus frangere (Làm dịu đi tác dụng của một vật gì đó – AC) – Dã thuốc. Medicamento vim veneni comprimere (Giảm thiểu tác dụng độc hại cho thuốc – AC) – Thuốc dã. Ejusmodi medicamentum (Thứ thuốc như thế, nghĩa là dùng để giảm thiểu tác dụng độc hại của một thứ thuốc khác hoặc của một chất gì đó – AC)”. Nghĩa này đã được ghi nhận trong Từ điển tiếng Việt, 1992 như sau: “Làm giảm, làm mất tác dụng của chất, thường là có hại, đã hấp thu vào trong cơ thể. Ăn đậu xanh cho dã rượu. Dã độc”.
Còn “đã” thì được quyển từ điển của Pigneaux de Béhaine giảng như sau: “Sanari”, nghĩa là “Khỏi bệnh”. Quyển từ điển này còn ghi thêm: “Đã bệnh. Convalescere (Phục hồi sức khỏe – AC)”. Và: “Đã tật. E morbo evadere (Qua cơn bệnh – AC). Nghĩa này cũng được Từ điển tiếng Việt 1992 ghi nhận như sau: “Khỏi hẳn bệnh. Đau chóng đã chầy”.
Cứ như trên thì mặc dù phần đông muốn chấp nhận chữ “dã” nhưng có lẽ “đã” mới là chữ thích hợp hơn hết chăng? Còn “đả” và “rã” thì xem ra chỉ là hai chữ… lạc lõng mà thôi, ít nhất cũng là theo thiển ý.
§ 653. Kiến thức ngày nay, số 358, ngày 20-7-2000
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 351, ông có nói con cào cào là con châu chấu theo phương ngữ miền Bắc, nhưng thật ra hai con bọ này khác nhau, kiểu như bầu khác với bí vậy. Con cào cào có đầu nhỏ, dài và nhọn còn con châu chấu thì có đầu to, bè. Trong các túi ni-lông đựng châu chấu ở đường Lê Hồng Phong (Thành phố Hồ Chí Minh) mà người ta mua về cho chim ăn, tôi kiểm tra trong mỗi túi như thế có lẫn năm bảy con cào cào. Để cho chắc ăn, tôi có hỏi nhiều người thì họ đều khẳng định là cào cào khác châu chấu.
Một độc giả khác: Trên Kiến thức ngày nay, số 351, ông có giải thích rằng con cào cào ngoài Bắc gọi là con châu chấu. Điều này hoàn toàn không đúng, mong ông coi lại.
AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 351, chúng tôi có viết: “Còn chúng tôi thì cho rằng cũng có thể đó là con cào cào (mà ngoài Bắc gọi là châu chấu)”. Đó là nhận xét của chúng tôi về chữ thu ở giai đoạn mà nó còn thực sự là một chữ tượng hình. Ý chúng tôi muốn nói rằng cái hình mà chữ đó tượng không phải là con dế (như đã nói trên số 351), cũng không phải là con châu chấu (mà ngoài Bắc gọi là cào cào) vì đó chỉ là con cào cào (mà ngoài Bắc gọi là châu chấu). Ông Lê Tuấn Thọ đã nhận xét rất đúng rằng các túi ni-lông đựng châu chấu ở đường Lê Hồng Phong thường có lẫn năm bảy con cào cào. Ở bên hông Lăng Ông Bà Chiểu (quận Bình Thạnh) cũng thế: mấy người bán chim phóng sanh cũng có bán những túi ni-lông đựng thứ thức ăn “sống” đó cho những người nuôi chim rừng và bịch nào thường cũng có lẫn cào cào như thế. Nhưng đó là nói theo tiếng Bắc. Còn dân nuôi chim tại Thành phố Hồ Chí Minh thì gọi đó là những bịch cào cào vì mỗi bịch như thế chỉ có lẫn vài con châu chấu mà thôi.
Tóm lại, cào cào và châu chấu thì trong Nam ngoài Bắc đều có. Khác nhau chỉ là ở chỗ con mà người Nam gọi là cào cào thì người Bắc gọi là châu chấu, còn con cào cào ở ngoài Bắc thì lại là con châu chấu ở trong Nam. Chính vì thế nên trên Kiến thức ngày nay, số 355 chúng tôi mới viết: “Giọt sành là một giống cào cào (tức châu chấu trong tiếng Nam Bộ (…) Locusta là con châu chấu mà ngoài Bắc gọi là cào cào”.
§ 654. Kiến thức ngày nay, số 359, ngày 1-8-2000
Bổ sung cho câu trả lời về danh từ lạc xoong trên Kiến thức ngày nay, số 345 và danh từ l’Auction trên Kiến thức ngày nay, số 357.
Nhà thư tịch học kỳ cựu Đỗ Văn Anh đã có nhã ý thông báo thêm cho chúng tôi về nguồn tư liệu liên quan đến danh từ “l’ Auction” mà chúng tôi đã bổ sung trên Kiến thức ngày nay, số 357. Đó là một đoạn tuy ngắn nhưng rất quan trọng trong thiên chuyên khảo của Ant. Brébion nhan đề “Monographie des rues et monuments de Saigon” đăng trên hai kỳ Revue indochinoise, 10 & 11, 1911*. Đoạn này nằm trong trang 368 của số 10, nguyên văn tiếng Pháp như sau:
“Au n° 201, rue Catinat, surl’emplacementde l’ actuelmagasin de l’Omnium, dont la construction a été achevée en 1908, se trouvait, à deux mètres en retrait de l’ alignement, un assez vaste hangar vitré occupé par la Salle des Ventes saigonnaises – l’Auction – transférée là, vers 1880 par les Commissaires-priseurs Bernard Fleith et Laplace. Il y avait ventes régulières aux enchères publiques tous les dimanches matin”.
Xin dịch như sau:
“Ở số 201 đường Catinat, tại vị trí của cửa hàng Omnium hiện nay (1911 – AC), xây cất xong năm 1908, trước kia là một cái lán hàng khá rộng lắp kính, thụt vào trong hai mét so với dãy mặt tiền, dùng làm nơi tọa lạc của Hội trường bán đấu giá Sài Gòn, cửa hàng Auction, do các uỷ viên bán đấu giá Bernard Fleithe và Laplace dời đến đó vào khoảng 1880. Tại đây, sáng chủ nhật nào cũng có bán đấu giá đều đặn”.
Đoạn văn tiếng Pháp trên đây của Ant. Brébion do ông Đỗ Văn Anh cung cấp giúp xác nhận điều mà chúng tôi đã suy đoán trên Kiến thức ngày nay, số 357, rằng có thể là tại đường Catinat lúc bấy giờ từng có một cửa hàng bán đấu giá mà chủ nhân đã dùng tiếng Anh “auction” để vừa làm tên vừa chỉ hoạt động của cửa hàng. Chẳng riêng gì cửa hàng này mới được đặt tên bằng tiếng Anh mà sau khi nó dọn đi nơi khác (về sau lại có một Salle des Ventes tại đường Lagrandière, nay là Lý Tự Trọng, nhưng không biết có phải cũng chính là cửa hàng đó hay không) thì doanh nghiệp mới dọn về đó cũng được đặt tên bằng một từ tiếng Pháp gốc Anh. Vâng, Omnium là một từ Pháp gốc Anh, mượn theo nguyên dạng chính tả; danh từ tiếng Anh này bắt nguồn từ sinh cách số nhiều của tiếng La Tinh omnis, có nghĩa là “tất cả”.
Từ trên đây suy ra, quả chẳng có gì lạ nếu Hội trường bán đấu giá Sài Gòn đã được đặt tên bằng tiếng Anh “Auction”. Và việc Nguyễn Liên Phong ghi nhận trong Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca (1909) rằng “(nhà) lạc-xoong là do l’Auction” mà ra cùng với việc Ant. Brébion khẳng định trong “Monographie des rues et monuments de Saigon” (1911) rằng tại đường Catinat đã từng có một cửa hàng mang tên “(l’) Auction”, hai việc đó là những bằng chứng không thể chối cãi được về nguyên từ của hai tiếng lạc-xoong. Đó là những cứ liệu “ngôn ngữ chi ngoại” (extra-linguistique) rất quan trọng và hoàn toàn bất ngờ (ít ra là cho đến hiện nay) để khẳng định điều mà có một tác giả thường nghiên cứu về từ nguyên đã bác bỏ. Tác giả này đã lập luận rằng “Về ngữ âm, l’Auction rất ít khả năng cho ra lạc xon (tức lạc-xoong – AC). Về ngữ nghĩa “bán đấu giá” (auction = bán đấu giá – AC) chỉ áp dụng cho những vật giá trị, đắt tiền, còn lạc xon chỉ dùng cho những vật rẻ, cũ”.
Xin có đôi lời nhận xét về lập luận trên đây. Trước nhất, về ngữ âm, không phải bao giờ yếu tố vay mượn cũng được phát âm y chang như tiếng gốc vì một lẽ đơn giản là nói chung thì hệ thống âm vị của ngôn ngữ đi vay mượn thường khác với hệ thống âm vị của ngôn ngữ được vay mượn. Huống chi, cũng về mặt này, cái mà người bản ngữ quan tâm khi vay mượn là cố uốn nắn các từ được vay mượn sao cho nó phù hợp với hệ thống âm vị của tiếng mẹ đẻ chứ không phải là ép tiếng mẹ đẻ của mình phải tuân theo hệ thống âm vị của ngôn ngữ được vay mượn. Dĩ nhiên đây là nói về sự vay mượn các từ ngữ diễn đạt những sự vật hoặc hiện tượng thuộc phạm vi sinh hoạt thông thường chứ không phải là thuật ngữ khoa học. Mà ngay cả thuật ngữ khoa học nhiều khi cũng bị gò theo đặc điểm ngữ âm của tiếng mẹ đẻ. Nếu cứ nhất nhất đòi “trung thành” với nguyên ngữ như tác giả kia thì làm thế nào mà infirmier có thể trở thành “phạm nhe”, cellule có thể trở thành “xà lim” và police có thể trở thành “cú lít”, v.v..
Còn xét về ngữ nghĩa thì rõ ràng là người ta không thể trông đợi vào việc ngôn ngữ vay mượn bao giờ cũng tuyệt đối theo sát cái nghĩa thông dụng của từ ngữ được vay mượn như nó vốn có trong nguyên ngữ. Xin đơn cử một thí dụ. Hẳn là chẳng có nhà từ nguyên học nào lại không thừa nhận rằng tiếng Việt xà-lách là do tiếng Pháp salade mà ra. Nhưng người Pháp lại không dùng danh từ salade để chỉ riêng thứ rau (trong Nam gọi là “cải”) mà người Việt gọi là xà-lách. Lý do là trong tiếng Pháp thì salade lại vốn có nghĩa là món ăn trộn giấm, nghĩa là món ăn gồm có một (vài) thứ rau trộn với dầu, tiêu, muối và giấm. Đây là nghĩa gốc và từ nghĩa gốc này danh từ salade mới có nghĩa phái sinh là thứ rau dùng để trộn giấm như chicorée (rau diếp xoăn), cresson (cải xoong), laitue (đây mới chánh cống là rau “xà-lách”), v.v.. Rõ ràng là trong tiếng Việt thì nghĩa của hai tiếng xà-lách đã bị thu hẹp một cách tối đa để chỉ còn tồn tại một cách tối thiểu, nghĩa là chỉ còn dùng để chỉ độc một thứ mà tiếng Pháp gọi là “laitue” mà thôi. Từ điển Pháp – Việt của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam do Lê Khả Kế làm Tổng biên tập (Agence de Coopération Culturelle et Technique, 1981) đã không đúng vì đã ghi và dịch như sau:
“Salade. 1. xà lách, rau sống (…)”.
Dịch salade thành “xà lách” là đã thu hẹp phạm vi ngữ nghĩa mà danh từ đó vốn có trong tiếng Pháp, là đã vô hình trung Việt hóa danh từ salade vì chỉ ấn định cho nó có cái nghĩa duy nhất là “laitue” (= xà lách) mà thôi. Dịch salade thành “rau sống” thì, ngược lại, là đã mở rộng phạm vi ngữ nghĩa của nó một cách vô giới hạn, nghĩa là vô nguyên tắc: có phải bất cứ thứ rau sống nào cũng được người Pháp gọi là salade đâu! Và rốt cuộc thì cái nghĩa gốc của danh từ salade (món rau trộn giấm) trong tiếng Pháp đã bị các nhà biên soạn của quyển từ điển trên đây… “đánh rơi”.
Sở dĩ chúng tôi phải dài dòng như trên chẳng qua chỉ là để khẳng định điều quan trọng sau đây: Trong nhiều trường hợp, người ta không thể trông chờ người bình dân theo sát cái nghĩa vốn có trong nguyên ngữ của từ ngữ được vay mượn, đến các nhà trí thức biên soạn từ điển có khi cũng còn không theo sát nữa là…
Trở lại với danh từ “auction”, xin nhấn mạnh rằng không có gì lạ nếu nó vốn “chỉ áp dụng cho những vật giá trị, đắt tiền” mà cuối cùng lại “dùng cho những vật rẻ, cũ” vì cái lý do tối quan trọng đã nói ở trên. Huống chi ở đây người bình dân lại còn có một lý do tối quan trọng khác nữa của họ. Họ thấy các món hàng bán đấu giá và đồ lạc-xoong cùng có một đặc điểm chung là đồ cũ, nghĩa là đồ đã được dùng qua (hàng bán đấu giá cũng là đồ cũ đấy chứ!). Vậy họ có đầy đủ lý do chính đáng để xài hai tiếng lạc-xoong theo ẩn dụ mà chỉ các món hàng đã xài qua nay được đem ra bán theo giá có trừ tỷ lệ hao mòn, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 345.
Thực ra, trên đây cũng chỉ là nói cho… cùng kỳ lý, chứ riêng cứ liệu của Nguyễn Liên Phong trong Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca và cứ liệu của Ant. Brébion trong Monographie des rues et monuments de Saigon tự chúng cũng đã là những điều kiện cần và đủ để khẳng định một cách dứt khoát rằng nguyên từ của hai tiếng lạc-xoong chính và chỉ là danh từ “l’Auction” mà thôi. Tiếc rằng học giả Vương Hồng Sển, được xem là quyển từ điển sống về cổ tích và cổ tịch của đất Sài Gòn và học giả Lê Ngọc Trụ, nhà từ nguyên học kỳ cựu, đều đã không phát hiện được các cứ liệu trên đây nên cũng đã giải thích sai về xuất xứ của hai tiếng lạc-xoong.
Một lần nữa, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn ông Đỗ Văn Anh đã cung cấp cho chúng tôi những tư liệu thú vị và bổ ích. Không có những tư liệu này, chắc là người ta sẽ còn lạc bước lâu hơn và xa hơn trong việc truy tầm từ nguyên của hai tiếng lạc-xoong.
§ 655. Kiến thức ngày nay, số 361, ngày 20-8-2000
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 357, tr. 52, c.2, ông An Chi có viết: “Dictionarium anamitico – latinum in năm 1838 tại Serampore là do Taberd hoàn tất từ công trình viết tay của Pigneaux de Béhaine (…) primitus inceptum ab Illustrissimo et Reverendissimo P. J. Pigneaux (…) dein absolutum et editum a J. L. Taberd (…)”. Trong đoạn ngắn trên đây, hai lần ông An Chi viết chữ “Pigneaux” có “x” cuối trong khi nhiều sách báo quen thuộc đều viết “Pigneau” không “x”. Vậy giữa “Pigneaux” và “Pigneau” thì chữ nào mới đúng?
AN CHI: Ông Vũ Văn Đạo đã nhận xét rằng cách viết của chúng tôi (Pigneaux) thừa chữ “x”, nghĩa là ông cho rằng chúng tôi đã viết sai. Quả là nhiều sách báo lâu nay vẫn viết chữ “Pigneau” không có “x” cuối, như trong tài liệu mà ông đã làm photocopy để gởi đến. Nhưng trong những nguồn thư tịch xưa nhất thì lại không phải như thế: ở đây, chữ đang xét được viết là “Pigneaux”, chẳng hạn trong từ điển của Taberd in tại Serampore năm 1838, trong từ điển của Theurel in tại Ninh Phú năm 1877 và đặc biệt là trong bản viết tay của chính Pigneaux de Béhaine.
Tên quyển từ điển của Taberd in tại Serampore năm 1838 đã được ghi rõ ràng tại trang nhãn như sau:
“Dictionarium anamitico – latinum, primitus inceptum ab Illiustrissimo et Reverendissimo P. J. Pigneaux (Chúng tôi nhấn mạnh – AC), episcopo Adranensi, vicario apostolico Cocincinae & C., dein absolutum et editum a J. L. Taberd (…). (Xin xem ảnh 1 )
nghĩa là:
“Từ điển An Nam – La Tinh, nguyên là do đức PJ. Pigneaux tối hiển danh và tối tôn kính, giám mục Adran, đại diện tông tòa tại Đàng Trong, v.v. khởi thảo rồi do J. L. Taberd (…) hoàn tất và công bố.
Ảnh 1: Trang nhãn quyển từ điển của Taberd in tại Serampore năm 1838
Còn “Lời nói đầu” (Prooemium) quyển Dictionarium anamitico – latinum (Từ điển An Nam – La Tinh) của J.S. Theurel in tại Ninh Phú năm 1877 (d. 27 – 30, tr. IV) thì có câu viết về công việc của Pigneaux de Béhaine như sau:
“Attamen circa finem seculi decimi octavi, Ill. et. Rev. Pigneaux (Chúng tôi nhấn mạnh – AC) de Béhaine episcopus Adranensis et vicarius apostolicus Cocincinae j am colligerat omnes materias novi dictionarii et suo operi summam manum imposuerat (…)”.
Nghĩa là:
“Thế nhưng vào khoảng cuối thế kỷ thứ mười tám thì đức Pigneaux (Chúng tôi nhấn mạnh – AC) de Béhaine tối hiển danh và tối tôn kính, giám mục Adran và đại diện tông tòa tại Nam Kỳ, đã thu thập đủ loại tư liệu của cuốn từ điển mới (so với Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh của A. de Rhodes, được xem là cuốn cũ – AC) và đã hoàn thành công trình của mình (…)”.
Rõ ràng là trong hai công trình quan trọng và nổi tiếng trên đây thì tên của tác giả đang xét được viết là “Pigneaux”. Còn trong bản viết tay của chính Pigneaux de Béhaine thì sao? Đây là chỗ phải làm rõ. Trong bài “Một bộ từ điển Việt – La Tinh viết tay vào cuối thế kỷ XVIII vừa sưu tầm được”, in trong tập Nghiên cứu Hán Nôm, 1984, ở trang 128 tác giả Trần Nghĩa đã viết:
“Tác giả bộ từ điển, như những dòng ghi chú bằng tiếng La Tinh ngay ở trang đầu tập sách cho thấy, là Pierre Pigneau (sic) de Béhaine, người của Chủng viện Paris thuộc Hội truyền giáo nước ngoài, Khâm mạng Tòa thánh (ở – AC) Nam Kỳ, Campuchia và Chàm, mất ngày 9-10-1799”.
Tại cước chú 3 trang 128, Trần Nghĩa còn cho biết nguyên văn La Tinh như sau:
“Vocabularium Anamitico – Latinum authore Ill.R.D. Petro Josepho Georgio Pigneau (sic) episcopo Adranensi vicario apostolico Cocincinae, Cambodiae et Ciampae, qui obiit 9 Octobris 1799”.
Trong lời văn (tiếng Việt) của chính mình và trong nguyên văn La Tinh mà Trần Nghĩa đã dẫn, ông đều viết “Pigneau” không có “x” cuối. Điều này không đúng với thực tế vì trong mấy dòng viết tay bằng tiếng La Tinh ở trang đầu, bản viết tay của Pigneaux de Béhaine, thì chính chữ “Pigneaux” đã được viết với “x” cuối.
Tóm lại trong bản viết tay của chính Pigneaux de Béhaine (1772 – 1773), trong từ điển của Taberd (1833) và trong từ điển của Theurel (1877) thì “Pigneaux” đều viết với “x” cuối. Vì vậy nên hoàn toàn chẳng có gì lạ nếu trong quyển Tự vị Annam – Latinh (Dictionarium anamitico – latinum), do Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch phần tiếng La Tinh sang tiếng Việt và do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1999, thì tên của tác giả đã được ghi như sau:
“Pierre Pigneaux de Béhaine”.
Và cũng chẳng có gì lạ nếu chúng tôi đã viết “Pigneaux” (có “x”) trên Kiến thức ngày nay, số 357, tại chỗ mà ông Vũ Văn Đạo đã đánh dấu và ghi “Thừa chữ x” trong trang viết của chính chúng tôi mà ông đã làm photocopy để gởi đến vì chẳng qua, tại chỗ đó, chúng tôi cũng chỉ sao đúng nguyên văn những gì đã được ghi trong từ điển của Taberd mà thôi.
Sau đây, xin nói một chút về cách viết của chính người Pháp. Cứ như đã trình bày ở trên thì rõ ràng hình thức gốc – và chính xác – là “Pigneaux” (có “x” cuối).
Nhưng ngay trong bản thảo viết tay của Pigneaux de Béhaine, tại tr. 436, người ta đã thêm vào phần nhận xét ngắn in bằng typo trong đó chữ đang xét được viết thành “Pigneau”.
“G.52, Dictionnaire annamite composé par Mgr Pigneau (sic) de Béhaine, évêque titulaire d’Adran, vicaire apostolique de Cochinchine (1741 – 1799)”. (Xin xem ảnh 2)
Ảnh 2: Phần nhận xét ngắn bằng typo tại trang 436 quyển từ điển viết tay của Pigneaux de Béhaine.
nghĩa là:
“G.52. Từ điển tiếng An Nam do đức ông Pigneau de Béhaine, giám mục thực hàm Adran, đại diện tông tòa tại Nam Kỳ biên soạn (1741 – 1799)”.
Thế là chính người Pháp cũng đã viết khác hình thức gốc (Pigneaux) bằng cách bỏ đi chữ “x” ở cuối (nên mới thành “Pigneau”); nói một cách khác, “Pigneau” chẳng qua chỉ là một cách viết sai so với hình thức gốc Pigneaux mà thôi.
§ 656. Kiến thức ngày nay, số 362, ngày 1-9-2000
ĐỘC GIẢ: Trong truyện Tam Quốc, có anh chàng họ Mã đã để thất thủ Nhai Đình, làm hỏng kế hoạch xuất quân ra Kỳ Sơn của Gia Cát Lượng. Có một anh tướng mà mấy quyển sách đã gọi bằng ba cái tên khác nhau. Trong bản in thời tạm chiếm do nhà thuốc Thượng Đức xuất bản thì ghi là Mã Tắc.
Trong bản Tam quốc diễn nghĩa và Lịch sử Trung quốc 5000 năm thì ghi là Mã Tốc. Còn trong quyển Bình giảng Tam Quốc ấn hành năm 1989 (quên tên tác giả) thì lại gọi là Mã Thốc. Vậy nhân vật này tên Tắc, Tốc hay là Thốc.
AN CHI: Tên họ của nhân vật đang xét, chữ Hán là 馬謖. Về họ (馬) thì đã rõ nhưng về tên (謖) thì cách đọc chưa nhất quán, như cụ đã nêu.
Chẳng riêng bản của nhà thuốc Thượng Đức mới phiên âm tên của nhân vật này thành “Tắc”, mà Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng v.v. cũng phiên như thế. Những người phiên thành “Tắc” có lẽ đã đọc theo âm của chữ tắc 稷 trong xã tắc vì cả chữ này lẫn chữ 謖 trong tên của nhân vật đang xét đều là những hình thanh tự có cùng một thanh phù là 畟. Nhưng, như chúng tôi đã nói, chẳng hạn trên Kiến thức ngày nay, số 158, ngày 1-12-1994, căn cứ như thế là không đúng vì xét theo đương đại thì một hình thanh tự hiện nay không nhất thiết còn đồng âm với thanh phù của nó nữa mà hai hình thanh tự cùng có một thanh phù cũng không nhất thiết đồng âm với nhau. Chẳng hạn, có thanh phù dã 也 nhưng chữ 地 lại đọc là địa; có cùng thanh phù dã 也 nhưng chữ 池 thì đọc là trì mà chữ 他 thì lại đọc là tha; v.v.. Do đó, căn cứ vào âm của chữ 稷 là tắc để đọc chữ 謖 thành “tắc” thì không đúng. Tiếc rằng hình như đây lại là một cái “nếp” của không ít người từ xưa đến nay.
Vậy âm của chữ đang xét không phải là “tắc”. Nhưng đó cũng không thể là tốc hoặc thốc. Hai cách đọc này chỉ đúng ở phần vần (-ốc) mà không đúng ở phần phụ âm đầu: 謖 là một chữ thuộc thanh mẫu sơ 疏 nên phụ âm đầu của nó phải là s-. Chỉ trong trường hợp của các yếu tố cổ Hán Việt và “Hán Việt Việt hóa” (xin tạm dùng cách gọi quen thuộc này), chẳng hạn sơ (lược) ~ thưa (thớt), sái (tảo) ~ tưới (tắm), v.v. người ta mới thấy có các mối tương ứng phụ âm đầu s ~ t, s ~ th chứ trong hệ thống âm Hán Việt chính thống đời Đường thì những chữ thuộc thanh mẫu sơ 疏 không thể có phụ âm đầu t- hoặc th-. Phụ âm đầu t- của các yếu tố Hán Việt chỉ bắt nguồn từ các thanh mẫu tâm 心, tà 邪, tinh 精, tùng 從 bang 邦, tịnh 並 còn phụ âm đầu th- thì từ các thanh mẫu thấu 透, thanh 青, thuyền 船, thư 書, thường 常 mà thôi*. Chính vì những lẽ trên đây mà Từ Nguyên và Từ hải mới cho thiết âm của chữ đang xét là “sở ốc thiết 所屋切”(sở là một chữ thuộc thanh mẫu sơ). Vậy âm của nó là s (ở) + ốc = sốc.
Nhưng để cho cùng kỳ lý, cần phải nói rõ rằng tại vận ốc 屋, Quảng vận đã xếp chữ 謖 vào tiểu vận sốc 縮 mà chữ 縮 này ngày nay đã được đọc thành súc, nghĩa là đọc theo vần -úc (mà âm chính là -u-). Không riêng gì chữ sốc 縮 mà nhiều chữ khác thuộc vận -ốc 屋(mà âm chính là -ô-) nay cũng đã đọc với nguyên âm -u-, như: lục 六, mục 目, trúc 竹, v.v.. Nhưng đây chỉ là những hiện tượng có tính chất cục bộ chứ nhìn chung thì ốc 屋 vẫn là một vận riêng biệt (nên không thể lẫn lộn được) vì đó là nhập thanh (-ốc, -ộc), tương ứng với vận đông 東 (bình thanh -ông, -ồng), vận đổng 董 (thượng thanh: -ổng, -ỗng) và vận tống 送 (khứ thanh: -ống, -ộng), trong vận bộ đông 東. Khi mà vận -ốc 屋 nằm trong một vận bộ chặt chẽ và rành mạch như thế thì, trừ những trường hợp đã quá thông dụng và phổ biến (như các chữ lục, mục, trúc, và cả súc 縮 nữa), người ta không thể bỗng chốc vô cớ thay đổi âm chính của các chữ trong vận đó từ ô thành u. Vì vậy mà mặc dù chữ 謖 nằm trong tiểu vận đứng đầu là chữ sốc 縮 nay đã đọc thành súc, nhưng bản thân nó vẫn phải được đọc thành “sốc” cho đúng theo phiên thiết trong các tự như và vận thư. Sốc có nghĩa là đứng lên, trỗi dậy. Với âm này và nghĩa này, nó chỉ có thể là từ trong Hán văn Việt Nam mà thôi chứ trong tiếng Việt thì nó chỉ là một hình vị không độc lập, chỉ tồn tại về mặt lý thuyết. Nhưng chính nó lại là cơ sở của hình thái “Hán Việt Việt hóa” xốc, nay đã trở thành một từ thực thụ trong tiếng Việt, có nghĩa là: xông lên, kéo lên, nâng lên, lật lên, hất lên, v.v.. Khi Nguyễn Du kể rằng Kim Trọng “Buông cầm xốc áo vội ra” thì chính là ông đã sử dụng hình thái “Hán Việt Việt hóa” của chữ sốc 謖 đó vậy. Và chính hình thái “Hán Việt Việt hoá” xốc đã góp phần khẳng định vần -ốc cho chữ sốc đang xét.
Vì tất cả những lẽ đã trình bày trên đây nên chúng tôi xin khẳng định rằng tên của nhân vật trong truyện Tam Quốc mà cụ đã hỏi là “Mã Sốc” chứ không phải Mã Tốc hoặc Mã Thốc, càng không thể là Mã Tắc vì “Tắc” là một âm sai biệt rất xa.
§ 657. Kiến thức ngày nay, số 362, ngày 1-9-2000
ĐỘC GIẢ: Sau đây là một câu văn thấy được trong bài “Kẻ chợ” của N. I. Niculin, Tạp chí Văn học, số 7-2000, trang 15 (TS. Trịnh Thị Hồng Vân dịch): “Đó là vị sứ giả của giáo phái Tunkin Thiên Chúa giáo”. Xin cho biết “giáo phái Tunkin Thiên Chúa giáo” là giáo phái nào. Người dịch có chú thích về mấy tiếng “sứ giả của giáo phái Tunkin Thiên Chúa giáo” bằng tiếng nước ngoài như sau: “Enviado da christandade do Reyno de Tunkin”. Xin cho biết đây là thứ tiếng nào.
AN CHI: Đây là tiếng Bồ Đào Nha và “christandade do Reyno de Tunkin” có nghĩa là “cộng đồng Ki Tô giáo của Vương quốc Đông Kinh (tức Đàng Ngoài)” chứ chẳng phải là “giáo phái Tunkin” nào của Thiên Chúa giáo cả. Vậy “enviado da christandade do Reyno de Tunkin” có nghĩa là “sứ giả của cộng đồng Ki Tô giáo của Vương quốc Đông Kinh”.