Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 641 - 648

§ 641. Kiến thức ngày nay, số 349, ngày 20-4-2000

ĐỘC GIẢ: Qua thơ văn của Nguyễn Trãi, có thể biết được thái độ và tình cảm của ông đối với nhà Lê sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi hay không?

AN CHI: Về vấn đề mà ông hỏi, Trần Thanh Mại có phân tích trong bài “Vài nét về tư tưởng Nguyễn Trãi qua thơ văn của ông” đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9-1962. Bài này đã được trích in lại trong quyển Nguyễn Trãi do PTS. Hồ Sĩ Hiệp cùng một số giáo viên chuyên Văn sưu tập và biên soạn, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1997. Chúng tôi xin trích lại từ quyển sách này như sau.

“Thơ Nguyễn Trãi cho chúng ta thấy ông là một người vô cùng thanh khiết, thiết tha vì đất nước, vì nhân dân. Ông bị gièm pha, bị chèn ép, ông rất đau khổ. Không phải đau khổ vì những thiệt hại mà sự gièm pha chèn ép gây ra cho bản thân, mà chính vì thấy “đạo mình” không được dùng, những hoài bão “trí quân trạch dân”, những ước vọng “trị quốc bình thiên hạ” của mình không được thực hiện. Nhiều người nhận thấy thơ Nguyễn Trãi có nhiều tư tưởng yếm thế bi quan. Quả có như vậy. Trong thơ Nguyễn Trãi, cả thơ chữ Hán lẫn thơ tiếng Việt, nhìn chung thì buồn nhiều hơn vui. Nhìn chung, thơ chữ Hán thì đầy giọng trầm hùng, não nuột; thơ quốc âm thì nhiều chất luân lý, chua chát, mỉa mai (…) Cái buồn nản, cái tiêu cực trong thơ ông chỉ có vén lên cho kẻ hậu thế hơn 500 năm sau là chúng ta, thấy một phần vết thương lòng mà một thời kỳ trung cổ của lịch sử đã gây nên cho ông.

(…)

Ngay từ buổi đầu hòa bình lập lại, những tư tưởng địa vị, danh lợi, kèn cựa, bè phái tham ô hưởng lạc và nghi kỵ lẫn nhau đã nảy sinh trong nội bộ triều đình nhà Lê. Đến cả Lê Lợi, con người anh hùng sáng suốt biết bao nhiêu trong kháng chiến, thì lúc này cũng tỏ ra đa nghi, sợ sệt cho ngôi báu, cho dòng họ mình. Ông để cho bọn gian thần xúc siểm, đến nỗi ngay năm thứ hai và thứ ba triều đại mình, ông đã giết luôn hai công thần, hai đại tướng tài giỏi là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo, chỉ vì lý do một người là dòng dõi nhà Trần, một người là người Kinh đô. Nguyễn Trãi là người chính trực không hay khuất trước bất kỳ uy vũ nào, nhưng trong hai trường hợp này, ông đành ngậm miệng, vì xét ra trong hai tội người ta quy cho Hãn và Xảo, bản thân ông lại có cả hai. Ông vẫn đẻ và sinh trưởng ở Hà Nội (sic), trong dinh quan tư đồ Trần Nguyên Đán, lại đã từng làm quan với nhà Hồ ở Kinh đô, và bị quân Minh giam lỏng trên dưới mười năm ở Kinh đô. Còn như dòng dõi nhà Trần, thì ông lại là anh em cô cậu với Trần Nguyên Hãn. Ông là cháu ngoại Trần Nguyên Đán, mà Hãn là cháu nội. Mặt khác, ngày tựu nghĩa Lam Sơn, hai người đã trèo đèo lặn suối cùng nhau đi tìm Lê Lợi (…) Mặc dù sử giấu kín không nói tới, nhưng nghiên cứu thơ văn Ức Trai, chúng ta có thể xác định sau hai vụ án bất công này, bản thân Nguyễn Trãi cũng đã bị nghi ngờ, bị bắt giam và suýt bị giết chết.

Tư tưởng bi quan của ông phát sinh từ đấy, và rủi thay, ngày càng có cơ phát triển với sự kế ngôi của Lê Nguyên Long, con Lê Lợi, một ông vua mười tuổi, với sự chấp chính của một lũ gian thần thô lỗ, thiển cận như Lê Vấn, Lê Sát và vây cánh của chúng. Sự giết hại công thần, chèn ép người trung trực lại tiếp diễn với một cái đà ngày càng tăng nhanh. Nguyễn Trãi bị dồn vào thế cô lập và vào hoàn cảnh luôn luôn phải nơm nớp lo sợ cho an toàn, cho tính mệnh của mình. Thêm vào đó một sự kiện đặc biệt cần kể đến, là việc con người hôn quân vô đạo Lê Thái Tông lúc đã bắt đầu khôn lớn, công khai sàm sỡ với Nguyễn Thị Lộ, người vợ trẻ của Nguyễn Trãi mà y đưa vào nội cung sung chức Lễ nghi nữ học sĩ…

Cho nên chúng ta không nên lấy làm lạ mà thấy thơ Ức Trai hay nói đến việc muốn rút lui về vườn, đi ở ẩn.

(…)

Khi thì ông nói:

Diên tưởng cố viên tam kính cúc,

Mộng hồn dạ dạ hướng qui dao.

(Thu nhật ngẫu thành)

(Luống mơ tưởng đến ba luống cúc nơi vườn cũ. Đêm đêm hồn mộng cứ muốn theo chiếc thuyền con mà về).

Khi thì nói:

Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,

Trần thổ đê đầu chỉ tự liên…

… Hà thời kết ốc vân phong hạ,

Cấp giản thanh trà chẩm thạch miên?

(Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác)

(Rừng suối đã từng hẹn ước với nhau há nỡ phụ nhau? Chỉ thương hại cho ta cứ còn phải lao đầu vào chốn cát bụi… Biết ngày nào làm được cái nhà dưới ngọn núi có mây che. Múc nước khe đun trà, gối đầu lên tảng đá mà ngủ?).

Triều đình nhà Lê, xã hội phong kiến nhà Lê tàn nhẫn đến mức mà người trí thức vĩ đại là Nguyễn Trãi, người anh hùng cứu quốc ấy phải thốt lên rằng việc mình giúp đời là một lỗi lầm! Làm sao không cảm động được khi nghe ông nói:

Cửu vạn đoàn phong ký tích tằng,

Đương niên thác tỉ Bắc minh bằng.

(Mạn hứng II)

(Nhớ xưa tôi từng vượt lên chín vạn dặm gió cao. Thuở ấy tôi trót lầm mà tự coi mình như con chim bằng nơi biển Bắc).

Hoặc khi thấy ông than:

Tùng cúc do tồn, qui vị vãn

Lợi danh bất tiện, ẩn phương chân.

Ta dư cửu bị nho quan ngộ,

Bản thị canh nhàn điếu tịch nhân!

(Tùng cúc vẫn còn, bây giờ lui về cũng chưa muộn. Lợi danh chẳng hám, đi ở ẩn là cách đúng nhất đối với ta. Đáng thương cho ta lâu nay bị cái mũ của nhà nho đánh lừa. Chứ thực ra ta vốn là kẻ chỉ thích cày nhàn câu vắng!).

Tôi nghĩ rằng giá câu thơ này từ miệng một nhà nho nào, như Lý Tử Cấu, người đồng thời với Nguyễn Trãi chẳng hạn, không làm cho quân Minh xâm lược, nhưng cũng không tham gia kháng chiến cứu nước, nói ra, thì cũng là một điều nhạt nhẽo khuôn sáo mà thôi. Nhưng khi người nói ra nó chính là người trăm lần vào sinh ra tử, đã từng đem gan óc của mình hiến cả cho nước cho dân, thì quả tình chúng ta thấy có một cái gì xót xa, tội nghiệp, rất đáng ngả mũ nghiêng mình!

Tình hình triều chính nhà Lê sơ đen tối đến mức làm cho Nguyễn Trãi cứ mỗi lần nghĩ mình còn sống, thân mình còn nguyên vẹn, thì y như là ông có sự ngạc nhiên và mừng thầm! Khi được nghỉ việc quan trở về thăm làng cũ, trông thấy lại xóm thôn quen thuộc ngày xưa, bất giác nhà thơ thốt lên:

Hương lý tài qua như mộng đáo,

Can qua vị tức hạnh thân tuyền!

(Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác)

(Trông thấy xóm làng mà chợt nghĩ như gặp đâu trong giấc chiêm bao. Nạn gươm đao chưa dứt, thật là may mà thấy thân mình còn nguyên vẹn!).

Nhiều khi, đang tả một cảnh núi, cảnh khe, cảnh vườn nhà ở ẩn của mình, lúc ông đã về rồi, bỗng nhiên cái ám ảnh giết chóc lại đến với ông, ông phải than lên những câu như:

Hoạn tình dị khiếp thương cung điểu…

(Mạn hứng bài số V)

(Trong chốn quan trường, lòng những khiếp sợ như con chim phải cung).

Hoặc

Tĩnh lý càn khôn kinh vạn biến…

(Thu nguyệt ngẫu thành)

(Đã ở trong cảnh yên tĩnh của đất trời rồi, vẫn kinh sợ cho muôn biến cố có thể xảy ra…) v.v..”. (Sđd, tr. 82 – 88)

Trên đây là những lời phân tích của Trần Thanh Mại. Về vấn đề này, xin xem thêm: Huệ Thiên, “Từ hai câu thơ trần tình của Nguyễn Trãi”, đăng trên Kiến thức ngày nay, số 93, ngày 1-10-1992.

§ 642. Kiến thức ngày nay, số 351, ngày 10-5-2000

ĐỘC GIẢ: Có phải vì mùa thu là mùa gợi buồn nên trong chữ sầu 愁 (=buồn) mới có chữ thu 秋 hay không? Nhưng tại sao lại gọi là “thu”?

AN CHI: Xét về mặt văn tự thuần túy thì sầu 愁 là một hình thanh tự mà hình phù (cũng gọi nghĩa phù) là tâm 心 còn thanh phù là thu 秋. Nhưng xét theo từ nguyên sâu xa thì mùa thu quả là một mùa gợi buồn nên tên của nó mới liên quan đến chữ sầu 愁 còn sở dĩ nó được gọi là thu thì chỉ vì nó là mùa của sâu bọ mà thôi. Vâng, mùa thu là mùa của côn trùng vì xét theo từ nguyên thì thu 秋 lại vốn là một danh từ dùng để chỉ sâu bọ nói chung hoặc một giống sâu bọ nhất định.

Trong giáp cốt văn, chữ thu 秋 hãy còn là một chữ tượng hình và cái hình mà nó tượng thì lại là những nét phác họa về một giống côn trùng có thể sơ bộ khẳng định là thuộc bộ cánh thẳng. Trong Cổ văn tự học đạo luận (thủ cảo, Lạc Thiên xuất bản xã, Đài Bắc, 1970), Đường Lan đã ghi nhận đến 20 biến thể của chữ này tại trang 40b của phần hạ biên. Chúng tôi xin chụp và in kèm theo đây 3 cột 7, 8 và 9 (tính từ phải sang – mỗi trang có 10 cột) của trang này với 20 chữ đã nói; đó là chữ thứ 5 và chữ cuối cùng (không kể các chữ nhỏ dùng để chú thích) của cột 7, chữ cuối cùng của cột 8 và 17 chữ liên tục từ trên xuống của cột 9. Có biến thể như chữ thứ 3 của cột 9 đã bị tỉnh lược đến mức không dễ dàng nhận ra cái hình được tượng nếu không so sánh với các biến thể khác. Còn nhìn chung thì đó là những nét phác họa về một giống côn trùng với đầu, mình, râu, mắt (như ở chữ cuối của cột 7) hoặc miệng (như ở chữ cuối của cột 8 và nhiều chữ của cột 9), cánh và chân. Có tác giả, như Cao Hồng Tấn, cho rằng đó là con dế (Theo Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển của Cao Thụ Phiên) còn chúng tôi thì cho rằng cũng có thể đó là con cào cào (mà ngoài Bắc gọi là châu chấu). Nhưng dù đó có là con cào cào hay con dế thì đây cũng chưa phải là vấn đề quan trọng nhất. Vấn đề quan trọng nhất lại là ở chỗ, với cái tự hình đã thấy thì chữ thu trong giáp cốt văn gợi cho người ta một sự liên tưởng đến danh từ sâu (trong sâu bọ) của tiếng Việt vì những lý do sau đây.

Thứ nhất là về mặt hình thì, như đã thấy, đó là những nét phác họa về một giống sâu bọ nhất định. Đây tất nhiên không thể là một việc làm không lý do, nói một cách khác, việc làm này chỉ có thể xuất phát từ chỗ chữ thu trong giáp cốt văn dùng để ghi một từ có nghĩa là sâu bọ nói chung hoặc là một giống sâu bọ nhất định.

Thứ hai là về mặt âm thì sâu ~ thu là một mối tương ứng rất đẹp. Về phụ âm đầu, sâu ~ thu cũng giống như: – sa (trong sa ngã) ~ tha 蹉 (= sảy chân); – san (trong san bằng) ~ than 攤 (= bày trải ra trên đất); – sạp (trong sạp hàng, sạp vải, v.v.) ~ tháp 榻 (= cái chõng); – sảy (trong sàng sảy) ~ thải 汰 (= loại bỏ); v.v.. Về vần thì sâu ~ thu cũng giống như: – dầu (trong xăng dầu) là âm xưa của chữ du 油; – dầu (trong dầu mưa dãi nắng) là âm xưa của chữ du 游 (= bơi); – dâu (trong quả dâu) là điệp thức của du 榆 (= một loại cây giống cây dâu); v.v.. Nói một cách khác, sâu ở đây chính là âm xưa của thu, giống như sấu trong cá sấu là âm xưa của thú trong thú vật*.

Thứ ba là, từ hai điểm trên, có thể suy ra rằng về mặt nghĩa thì thu, mà âm xưa là sâu, có nghĩa từ nguyên là một giống sâu bọ nhất định (cào cào hoặc dế) rồi sâu bọ nói chung. Cái nghĩa này của chữ thu 秋 đã tuyệt tích trong tiếng Hán nhưng vẫn còn được bảo tồn với từ sâu (trong sâu bọ) của tiếng Việt vì đây là một từ Việt gốc Hán rất xưa. Chính cái nghĩa từ nguyên trên đây của chữ thu 秋 đã đem đến cho nó cái nghĩa phái sinh hiện hành là mùa thứ ba trong bốn mùa vì mùa thu là mùa của côn trùng, là mùa sâu.

Mùa sâu là mùa côn trùng hoạt động “rộn ràng”, “tấp nập” và trong các hoạt động đó, cái hoạt động mà con người không cần thấy cũng có thể nhận biết được là tiếng kêu tỉ tê, rả rích của chúng, nhất là về đêm. Đó là những tiếng kêu gợi buồn cho nên mùa thu (< sâu) cũng là mùa sầu (= buồn). Cái khía cạnh này của mùa thu vẫn còn đeo đẳng chữ thu 秋 cho đến tận bây giờ. Chẳng thế mà sách Quảng nhã lại giảng: “Thu, sầu dã” (Thu là buồn vậy). Còn thơ Chương Bỉnh Lân thì có câu: “Anh hùng nhất nhập ngục. Thiên hạ diệc bi thu” (Ngục trung tặng Trâu Dung), tạm dịch là “Anh hùng mà sa ngục, Thiên hạ cũng sầu bi” v.v.. Cứ như trên thì chữ sầu 愁 thực chất chỉ là một cách hình thanh hóa chữ thu 秋 bằng bộ (tức hình phù) tâm 心 để cho cái chữ mới (愁) gánh cái nghĩa “buồn” của chữ cũ (秋) mà thôi. Nói một cách khác, sầu 愁 và thu 秋 chẳng qua chỉ là những đồng nguyên tự, nghĩa là những chữ cùng gốc. Quá trình phân hóa có thể đã diễn biến như sau. Ngay khi chữ 愁 vừa mới được tạo ra thì âm của nó và của chữ 秋 chỉ là một (vì vậy nên Thuyết văn mới phân tích chữ 愁 là “tùng tâm, thu thanh” = “theo bộ tâm 心, đọc là thu 秋”)và thuộc về bình thanh, tạm ghi là “sâuBT”. Về sau khi bình thanh phân hóa làm hai thành một thanh cao (thanh 1, không dấu) và một thanh thấp (thanh 2, dấu huyền) thì sâu gánh cái nghĩa “mùa thứ ba trong bốn mùa” rồi về sau lại diễn biến thành thu, còn sầu thì gánh cái nghĩa “buồn” và không thay đổi về mặt ngữ âm cho đến ngày hôm nay.

Tóm lại, sở dĩ mùa thứ ba trong bốn mùa được gọi là thu (mà âm xưa là sâu) là vì đó là mùa sâu bọ, mùa côn trùng hoạt động rộ và mạnh, còn sở dĩ trong chữ sầu 愁 có chữ thu 秋 là vì mùa thu là mùa gợi buồn do tiếng côn trùng thảm thiết, đồng thời vì sầu 愁 và thu 秋 thực chất cũng chỉ là những đồng nguyên tự mà thôi.

Viết thêm. Ở trên, để chứng minh cho mối quan hệ sâu ~ thu về mặt phụ âm đầu, chúng tôi có dẫn ra cả trường hợp (cá) sấu ~ thú (vật) . Ở đây, xin dẫn thêm một trường hợp nữa là trường hợp của chữ sâu trong nông sâu. Đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 透 mà âm Hán Việt hiện đại là thấu, có nghĩa là thông, suốt, xuyên qua cho đến tận đáy, v.v.. Thấu có một biến thể ngữ âm là thâu trong thâu đêm (= suốt đêm), đêm thâu (= đêm “sâu”), v.v.. Chúng tôi cho rằng sâu là một từ cổ Hán Việt, xưa hơn thấu/thâu và nếu sâu có cùng gốc với những từ thuộc một số ngôn ngữ Môn – Khmer nào đó thì cả những từ có nghĩa là “sâu” trong các ngôn ngữ Môn – Khmer này cùng với sâu của tiếng Việt đều chỉ là những từ gốc Hán mà thôi.

§ 643. Kiến thức ngày nay, số 352, ngày 20-5-2000

ĐỘC GIẢ: Hai tiếng thổ mộ trong xe thổ mộ do đâu mà ra?

AN CHI: Có ý kiến cho rằng thổ mộ là do tiếng Pháp tombereau mà ra. Ý kiến này không đúng vì người Pháp ở Sài Gòn và Nam kỳ trước đây chỉ gọi xe thổ mộ là boîte d’allumettes (= hộp quẹt) hoặc tac-à-tac, “có lẽ vì khi chạy, vó ngựa chạm mặt đường trải đá nghe (…) “tắc tắc” (tách tách)”, như Vương Hồng Sển đã cho biết trong Tự vị tiếng Việt miền Nam (Nxb. Văn hóa, 1993). Họ không bao giờ gọi xe thổ mộ là “tombereau”.

Lại có ý kiến cho rằng thổ mộ là do thảo mã mà ra vì đây là xe chở cỏ cho ngựa ăn (ở đồn Tây) thời trước. Ý kiến này cũng lạ: người ta khó mà biết được tại sao thảo mã lại có thể trở thành “thổ mộ”. Huống chi, bản thân hai tiếng thảo mã đã là tiếng Việt, dù là đọc theo âm Hán Việt. Hay là người đề xướng cách giải thích này muốn liên hệ đến âm Quảng Đông của hai tiếng thảo mã là tshổu mạ chăng? Thổ mộ quả có na ná với tshổu mạ trong tiếng Quảng Đông nhưng dân Quảng Đông thì có liên quan gì với sự hoạt động ở các đồn Tây thời trước? Huống chi tshổu mạ (= thảo mã) chỉ có nghĩa là con ngựa bằng cỏ hoặc con “ngựa cỏ” tức ngựa hoang (?) chứ đâu phải là “xe chở cỏ cho ngựa ăn”.

Chỉ có cách hiểu thổ mộ là ngôi mộ bằng đất thì mới thật sự phù hợp để giải thích nguồn gốc của hai tiếng thổ mộ trong xe thổ mộ mà thôi: cái thùng xe thổ mộ với cái mui khum khum của nó rất giống với hình một nấm mộ bằng đất.

§ 644. Kiến thức ngày nay, số 352, ngày 20-5-2000

ĐỘC GIẢ: Chuyện Đông chuyện Tây đã có lần nhắc đến Grammata Serica Recensa của Bernhard Karlgren. Đây có phải là “Hán văn điển”, theo cách dịch của người Trung Quốc không? Tại sao không dịch thành “Hán tự điển” mà lại dịch thành “Hán văn điển”? Có phải vì nó thiên về “văn” hay không? Xin cho biết trên đại thể từng mục từ của nó được trình bày như thế nào.

AN CHI: Hán văn điển là mấy tiếng dùng để dịch tên công trình Grammata Serica của Bernhard Karlgren. Công trình này được đăng tải trên Bulletin of the Museum of Far Eastern Antiquities (BMFEA) của Thụy Điển, số 12, 1940. Ấn bản này đã hết từ lâu, mặc dù cùng năm đó, tại Bắc Kinh, nó cũng đã bị “luộc”, nghĩa là ấn hành “thêm” mà không hề được phép của tác giả. Karlgren không muốn tái bản Grammata Serica trong nguyên trạng của nó vì ông thấy cần phải chỉnh lý và bổ sung nhiều. Kết quả của sự chỉnh lý và bổ sung này chính là Grammata Serica Recensa, ra mắt trên BMFEA số 29, 1957, in lại tại Goteborg năm 1964. Vậy nếu cần dịch sang tiếng Hán thì Grammata Serica Recensa sẽ là Tu đính Hán văn điển (hoặc Hiệu đính Hán văn điển, v.v.).

Sở dĩ không dịch thành “tự” mà dịch thành “văn” là vì thực ra, văn ở đây cũng chính là tự, nghĩa là chữ, thí dụ: giáp cốt văn là chữ khắc trên yếm rùa, xương thú; triện văn là chữ triện, lệ văn là chữ lệ; v.v..*

Grammata Serica Recensa không trình bày theo từng mục từ như những quyển từ điển thông thường. Xin xem bản sao chụp trang 21 in ở trang sau làm mẫu. Trên cùng là những dãy chữ Hán có cùng thanh phù; mỗi dãy đều có số thứ tự (trang 21 có 2 dãy là 3 và 4) đánh dấu bằng chữ số Á Rập. Mỗi chữ trong từng dãy được đánh dấu bằng các chữ cái La Tinh (như 3a. là chữ 多, 3k. là chữ 哆; 4a. là chữ 它, 4a’: là chữ 弛, v.v.). Ngoài dạng hiện hành của từng chữ, khi cần thì có ghi thêm dạng giáp cốt văn hoặc dạng kim văn của chữ đó, thí dụ: 4b. và 4c. là dạng giáp cốt văn (đời Ân) còn 4d. và 4e. là dạng kim văn đời Chu của chữ 4a. (chữ 它). Những chữ cùng âm được sắp xếp liền với nhau để thuận tiện cho việc chú âm. Sau phần chữ Hán, là phần chú âm cho từng chữ và lời giảng của từng chữ bằng tiếng Anh, kèm theo nhận xét hoặc bình luận nếu cần. Nhìn chung, cách trình bày rất rành mạch và súc tích.

ㄏㄬ

Trong phần chú âm và giải nghĩa của trang 21, 7 dòng đầu thuộc về các chữ từ m. (趍) đến t. (㢋) của dãy 3 (mà phần đầu được in ở trang 20). Phần còn lại của trang này thuộc về các chữ từ a. (它) đến x. (馳) của dãy 4 (mà phần tiếp theo được đưa sang trang 22). Mỗi chữ đều được chú theo ba âm: âm đầu tiên in bằng chữ nghiêng và có dấu hoa thị ở trước là âm thượng cổ mà Karlgren gọi là “archaic”; âm thứ hai cũng in bằng chữ nghiêng, không có dấu hoa thị ở trước là âm cận cổ mà Karlgren gọi là “ancient” còn âm thứ ba, in chữ đứng, là âm Quan thoại. Thí dụ: *t’â/ t’â/ t’o là âm thượng cổ, âm cận cổ và âm Quan thoại của các chữ từ a. – e. cho đến g. thuộc dãy 4. Các chữ giáp cốt văn và kim văn đều được chú rõ xuất xứ cụ thể theo ký hiệu đã ghi thành một bảng riêng. Nghĩa của mỗi chữ, trừ nghĩa mà tác giả suy đoán, cũng được chú rõ xuất xứ cụ thể. Thí dụ, bên cạnh phần chú âm đã nêu, tác giả đã nhận xét và giải nghĩa các chữ từ a. – e. cho đến g. ở trang 21 như sau.

“Nghĩa nguyên thủy trong văn khắc ở xương thú thời nhà Ân (của 5 chữ a. – e. trong dãy 4 – AC) có vẻ như là: mối nguy hiểm (danger), sự thiệt hại (harm), sự trở ngại (obstacle); (các chữ đó) dùng giả tá cho chữ cũng đọc là *t’â/ t’â/ t’o (có nghĩa là) khác, cái khác (another), như trong Kinh Thi. Chữ b. là chữ trên xương thú đời Ân (Ân khư thư khế tiền biên, quyển 1, tr. 39, mảnh số 2); chữ c. là chữ trên xương thú đời Ân (Ân khư thư khế tiền biên, quyển 1, tr. 52, mảnh số 1); chữ d. là chữ đời Chu giai đoạn I, văn khắc trên “Thẩm tử tha cứu” (một loại đồ đựng – AC), chỉ tên); chữ e. là chữ đời Chu giai đoạn II, văn khắc trên “Mi (?) bá cứu” (một loại đồ đựng – AC), nghĩa là “khác”). Hình vẽ đời Ân (tức chữ b. và chữ c. – AC) cho thấy một bàn chân đạp lên một con rắn. Hình vẽ đời Chu (tức chữ d. và chữ e. – AC) cho thấy một con rắn giống như rắn hổ mang. Đó có thể là tự hình nguyên thủy của chữ l. bên dưới (tức chữ xà 蛇 – AC). Về chữ f. (tức chữ 㐌 – AC). Đây chẳng qua là một biến thể hiện đại khác của chính chữ đang xét thời thượng cổ. Về chữ g. (tức chữ 也 – AC). Một lần nữa, đây là biến thể hiện đại thứ ba (biến thể hiện đại thứ nhất là chữ a., tức 它 -AC) của chính cái chữ thượng cổ đó, như thấy được qua các chữ o. và u. bên dưới; dùng giả tá cho chữ có âm *dịa/ ịa: ye (tức chữ dã 也 – AC), tiểu từ (dùng ở) cuối câu (thấy trong Kinh Thi)”.

Cách trình bày nội dung của Grammata Serica Recensa đại khái là như trên. Do khuôn khổ có hạn nên chúng tôi xin tạm ngừng tại đây và hẹn sẽ đề cập tiếp trong một kỳ tới.

§ 645. Kiến thức ngày nay, số 353, ngày 1-6-2000

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 331, trang 51, cột 3, An Chi có viết: “Caesar chưa bao giờ là hoàng đế”. Thế nhưng sách Phúc âm Thánh Gioan, chương 19, câu 15 lại viết: “Khi Philatô hỏi: Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao? Các thượng tế đáp: Chúng tôi không có vua nào ngoài Xê-da cả”. Vừa rồi, trên phụ san Khoa học phổ thông, số 504, tháng 1-2000, trang 17, Anh Khoa cũng viết: “Khi hoàng đế La Mã Julius Caesar đắc thắng tiến vào Roma năm 45 trước Công nguyên (…)” Xin An Chi mách hộ cho đâu là thực, đâu là hư trong mâu thuẫn trên đây.

AN CHI: Ông đã đặt ra một vấn đề rất lý thú. Chúng tôi xin trả lời như sau.

Trên Kiến thức ngày nay, số 331, ngày 20-10-1999 chúng tôi có viết rằng Caesar chưa bao giờ là hoàng đế. Trước đó khá lâu, trên Kiến thức ngày nay, số 153, tháng 10-1994, chúng tôi cũng đã chứng minh bằng sự kiện lịch sử thành văn để kết luận một cách dứt khoát rằng Julius Caesar không phải là hoàng đế. Nhưng quả thật là Kinh Thánh đã chép, nói cho hoàn toàn chính xác là đã được dịch sang tiếng Việt, đúng như ông đã dẫn.

Bản dịch do Hội Ghi-đê-ôn Quốc tế ấn hành năm 1965 (trở xuống sẽ gọi là bản A) chép:

“Phi-lát nói với chúng rằng: “Ta sẽ đóng đinh Vua của các ngươi sao?” Các thầy tế-lễ cả đáp rằng: “Chúng tôi không có vua nào ngoài ra Sê-sa”. (Giăng, 19:15)

Bản dịch do Thánh-kinh Hội tại Việt Nam ấn hành năm 1975 (sẽ gọi là bản B) thì chép:

“Phi-lát nói với chúng rằng: Ta sẽ đóng đinh Vua của các ngươi lên thập-tự-giá hay sao? Các thầy tế-lễ cả thưa rằng: Chúng tôi không có vua khác, chỉ Sê-sa mà thôi”. (Giăng, 19:15)

Còn bản dịch do Tòa Tổng Giám Mục Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1994 (sẽ gọi là bản C) cũng chép:

“Ông Phi-la-tô nói với họ: “Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?” Các thượng tế đáp : “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da”. (Gio-an, 19:15)

Quả là trong ba bản dịch trên đây, danh từ Sê-sa/Xê-da (Caesar) đã được liên hệ với khái niệm “vua”. Nhưng Sê-sa (chúng tôi xin phiên âm theo bản A, trừ những trường hợp trích dẫn cụ thể) ở đây không phải tên người mà chỉ là một danh từ chỉ tước vị. Nghĩa này đã được dùng một cách nhất quán tại tất cả các câu có chữ “Sê-sa” trong Tân ước: Ma-thi-ơ 22: 17, 21; Mác 12:14, 16, 17; Lu-ca 2: 1, 3: 1 và 20: 22, 24, 25; Giăng 19: 12, 15; Công vụ 25: 8, 12 và Phi-líp 4: 22. Trong 15 câu trên đây, Sê-sa đều có nghĩa là hoàng đế, chính xác hơn nữa là hoàng đế La Mã. Nghĩa này đã được chú thích rõ ràng trong các bản A, B và C ở lần xuất hiện đầu tiên của danh từ Sê-sa, tức ở câu Ma-thi-ơ 22: 17:

“Có phép nộp thuế cho Sê-sa hay không?” (Bản A).

“Có nên nộp thuế cho Sê-sa hay không?” (Bản B).

“Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?” (Bản C).

Bản A đã ghi nơi cước chú (a) như sau: “Người La-mã xưa gọi hoàng-đế là Sê-sa”. Bản B, cũng nơi cước chú (a): “Người Rô-ma gọi vua là Sê-sa”. Còn bản C thì đã cho tại cước chú 1) như sau: “Đất Pa-lét-tin lúc ấy thuộc về đế quốc Rô-ma; Xê-da bấy giờ là hoàng đế Ti-bê-ri-ô”. Lời chú của bản C đã mặc nhiên thừa nhận rằng Sê-sa có nghĩa là vua, là hoàng đế, chính xác nhất là hoàng đế La Mã. Và mệnh đề “Xê-da bấy giờ là hoàng đế Ti-bê-ri-ô” có nghĩa là hoàng đế đang trị vì tại La Mã lúc bấy giờ là Ti-bê-ri-ô.

Vậy Sê-sa ở đây là một danh từ chung, có nghĩa là hoàng đế La Mã chứ không phải là tên viên tướng độc tài lừng danh của La Mã cổ đại là Julius Caesar (100 – 44 tr. CN). Trong 15 câu trên đây, các bản Kinh Thánh bằng tiếng Anh như: The Hebrew-Greek Key Study Bible, King James Version; The Holy Bible, New International Version (International Bible Society, USA, 1984); v.v., đều dùng “Caesar” tại những chỗ mà các bản A, B, C dịch thành Sê-sa/ Xê-da. Nhưng vì Caesar ở đây có nghĩa là hoàng đế (La Mã) nên tại những chỗ đó, bản tiếng Anh Good News for Modern Man, the New Testament in Today’s English Version (American Bible Society, New York, 1966) đều thay “Caesar” bằng “Emperor” (= hoàng đế). Thí dụ, tại John 19:15, King James Version viết “We have no king but Caesar” nhưng Good News for Modern Man thì lại diễn đạt thành “The only king we have is the Emperor”. Cả hai câu đều có nghĩ là “Ngoài hoàng đế (La Mã) ra, chúng tôi không có ông vua nào khác”.

Xin nêu thêm hai dẫn chứng trong đó Caesar có nghĩa là hoàng đế (chứ không phải Julius Caesar). Đó là hai câu tiếng La Tinh sau đây:

– Aut Caesar, aut nihil: Hoặc là hoàng đế, hoặc không là gì cả.

– Ave Caesar (hoặc Imperator), morituri te salutant: Hoàng đế vạn tuế, những kẻ sắp chết xin vĩnh biệt người (lời các đấu sĩ khi đi qua ngự đài).

Tóm lại, Sê-sa (Caesar) trong Tân ước là một từ gốc La Tinh có nghĩa là hoàng đế (La Mã). Với nghĩa này, nó đã đi vào tiếng Đức thành Kaiser để chỉ các hoàng đế của nước Đức và vào tiếng Nga thành tsar, tzar hoặc czar để chỉ các hoàng đế của nước Nga (có khi cũng gọi theo phiên âm là Sa hoàng), như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 153. Và câu mà ông đã dẫn (Giăng 19: 15) chỉ có nghĩa là: “Ngoài hoàng đế La Mã ra, chúng tôi chẳng có ông vua nào khác”. Còn danh tướng Caesar thì chẳng có liên quan gì đến câu nói này cả (đây là câu báo hiệu Chúa Jesus sắp chịu đóng đinh trên cây thập giá) vì ông ta đã chết năm 44 tr. CN, trước khi Chúa Jesus chịu nhục hình (khoảng năm 29 của CN) đến hơn 70 năm. Caesar cũng chẳng phải là hoàng đế vì ông ta đã chết trước khi Đế quốc La Mã (27 tr. CN – 476 CN) được thiết lập đến 17 năm.

Không cứ gì một số tác giả người Việt Nam mới thích phong Caesar làm hoàng đế mà một số tác giả người Trung Quốc cũng thế, Anh – Hoa đại từ điển do Trịnh Dịch Lý và Tào Thành Tu biên soạn lần đầu tiên (bản tu đính do Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, ấn hành năm 1996) cũng ghi tại mục “Caesar” như sau: “Chu Lợi Ô Tư Khải Tát (Công nguyên tiền 100 – 44), La Mã tướng quân, hoàng đế, chính trị gia, lịch sử gia”, nghĩa là “Julius Caesar (100 – 44 tr. CN), tướng quân La Mã, hoàng đế, nhà chính trị, sử gia”. Tướng quân thì đúng, với câu nói lừng danh “Veni, vidi, vici” (Ta đã đến, ta đã thấy, ta đã thắng); nhà chính trị, cũng đúng vì đây là điều được chứng minh bằng cả cuộc đời hoạt động của Caesar; sử gia, cũng đúng với các tác phẩm danh tiếng như Những cuộc chinh chiến ở các xứ Gaule và Cuộc nội chiến. Nhưng hoàng đế thì không bao giờ.

Xin nhân tiện trở lại với câu trong Ma-thi-ơ 22: 21 mà chúng tôi đã nói đến trên Kiến thức ngày nay, số 167. Bản A dịch câu này là: “Vậy, hãy nộp vật gì của Sê-sa cho Sê-sa, vật gì của Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Trời”. Đây là câu trả lời của Chúa Jesus cho câu hỏi: “Có phép nộp thuế cho Sê-sa hay không?” Với nghĩa đã nói của danh từ “Sê-sa”, vế đầu của câu này phải được hiểu là “Vậy, hãy nộp vật gì của hoàng đế La Mã cho hoàng đế La Mã”. Chính vì hàm nghĩa của nó như thế nên bản C mới viết tại cước chú m/ cho đoạn hữu quan như sau: “Người Do Thái, kể cả nhóm Pha-ri-sên, vẫn dùng đồng quan Rô-ma trong thị trường chung Pa-lét-tin hồi đó. Đồng tiền này mang hình và danh hiệu hoàng đế Rô-ma, bởi vì đúc tiền là quyền của người nắm quyền tối thượng trên một dân tộc. Cho nên dùng tiền Rô-ma là nhận quyền hoàng đế trên dân tộc mình. Vậy thì tất nhiên phải nộp thuế cho hoàng đế Rô-ma (Chúng tôi nhấn mạnh – AC)”.

Tóm lại, Sê-sa trong Tân ước không phải là danh tướng Julius Caesar mà lại có nghĩa là hoàng đế La Mã.

§ 646. Kiến thức ngày nay, số 353, ngày 1-6-2000

ĐỘC GIẢ: Đại Cồ Việt: “cồ” là chữ Hán hay chữ Nôm, và nghĩa là gì?

AN CHI: Một số người cho rằng đó là một tiếng “Nôm”, có nghĩa là to lớn như trong gà cồ, bự cồ, v.v. của phương ngữ Nam Bộ. Thực ra, cồ chỉ là âm Hán Việt xưa của chữ 巨 mà âm Hán Việt hiện đại là cự, có nghĩa là to lớn mà thôi. Mối quan hệ ô ~ ư giữa cồ và cự không phải là điều khó hiểu và một dẫn chứng lý thú là các chữ ư 於, hồ 乎, vu 于 đều là những đồng nguyên tự (chữ cùng gốc) qua đó có thể thấy ư ~ ô ~ u. Về mối quan hệ thanh 2 (dấu huyền) ~ thanh 6 (dấu nặng) thì thanh 2 (cồ) xưa hơn thanh 6 (cự) đồng thời cự 巨 còn có một đồng nguyên tự là cừ 渠, cũng có nghĩa là to lớn, như trong cừ suý (soái), cừ khôi, v.v..

§ 647. Kiến thức ngày nay, số 354, ngày 10-6-2000

ĐỘC GIẢ: Nhân đọc mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 344 nói về danh từ dinosaure trong từ điển Larousse, tôi xin có đôi ý kiến như sau.

Theo từ điển Hy Lạp – Pháp và Pháp – Hy Lạp Lexikon Ellêno = Gallikon Cai Gallo – Ellênikon của Nxb. Mik. Saliberoz A.E., Athênai (không ghi năm), phần Pháp – Hy Lạp, trang 335 có ghi: “dinosauriens, deinosauroi”.

Lật sang phần Hy Lạp – Pháp, trang 175 có ghi:

“deinos, sérieux, grave, affreux, terrible, dangereux, horrible, violent, cruel, atroce, fort, grand”. Và tr. 607 có ghi:

“saura, lézard”.

Với xuất xứ gốc như vậy, thiết tưởng đủ rõ có thể tin vào đâu. Có lẽ người Trung Quốc (hay Nhật?) khi dịch sang Hán văn đã căn cứ vào nghĩa của từ gốc trên đây mà dịch dinosaure là khủng long chăng?

Không hiểu sao Larousse là từ điển rất có uy tín đối với người học Pháp ngữ, có thể nói là trên toàn thế giới, mà lại thiếu nhất quán trong các ấn phẩm của mình như thế?

AN CHI: Chúng tôi mạn phép nghĩ rằng cũng rất khó mà nhất quán cho đến từng tiểu tiết vì từ điển Larousse có nhiều loại, nhiều cỡ mà lại không phải đều do một cá nhân hoặc một nhóm duy nhất biên soạn.

Tuy nhiên, trên đây chỉ mới là nói đi, chứ nếu nói lại thì chúng tôi thực sự nhất trí với ông rằng rất đáng tiếc là các loại từ điển của nhà Larousse lại không nhất quán về nội dung như đã thấy. Các cá nhân hoặc nhóm biên soạn có thể quan niệm khác nhau về phương châm, phương pháp, v.v. nhưng những lời giảng của họ về các khái niệm đã được giới khoa học nhất trí thừa nhận thì không thể “chỏi” nhau được. Đã “chỏi” nhau trong trường hợp này thì ắt có vấn đề: hoặc cả hai cách giảng đều sai, hoặc trong hai cách đó chỉ có một cách đúng chứ không thể nào cả hai đều đúng. Và chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ông rằng dinosaure (hoặc dinosaurien) là khủng long chứ không phải “đà loa long” (đà loa = bong vụ, con quay).

Đó là cách hiểu duy nhất đúng vì yếu tố gốc Hy Lạp dino (< deinos) còn góp phần tạo ra một số thuật ngữ khoa học khác trong đó nó cũng có nghĩa là kinh khủng, thí dụ:

– dinoflagellés là “trùng roi kinh khủng”,

– dinornis là “chim kinh khủng” (hóa thạch),

– dinothérium là “thú kinh khủng” (hóa thạch), v.v..

Những đối tượng có tên trên đây có một đặc điểm chung là có (những) nét hoặc bộ phận “dễ gây sợ hãi” nên mới được các nhà khoa học “xem mặt đặt tên” như thế chứ có lẽ nào chúng đều có những cái đầu giống như những “con quay”.

§ 648. Kiến thức ngày nay, số 354, ngày 10-6-2000

ĐỘC GIẢ: Xin đề nghị mục Chuyện Đông chuyện Tây thỉnh thoảng nêu thêm những chỗ sai trong từ điển Larousse (hoặc các từ điển khác nữa) nếu có dịp thấy thêm trong khi tra cứu. Một động tác “điểm sách” như thế sẽ rất có ích cho độc giả. Xin trân trọng cám ơn.

AN CHI: Về những chỗ sai của Larousse thì thỉnh thoảng chúng tôi lại thấy thêm một ít trong quá trình tra cứu. Sau đây là một vài trường hợp nữa (ngoài những chỗ đã nêu trên Kiến thức ngày nay, số 335).

Petit Larousse illustré đầu thập niên 1990 đã giảng tại phần “Dérivation suffixale en français” (Phép phái sinh bằng hậu tố trong tiếng Pháp) rằng hậu tố -ite là “état maladif” (tình trạng ốm yếu, bệnh hoạn) kèm theo hai thí dụ: gastrite, méningite. Nhưng chính từ gastrite thì lại được giảng là “inflammation de la muqueuse de l’estomac” (viêm màng nhầy dạ dày) còn từ méningite thì được giảng là “inflammation des méninges…” (viêm màng não…). Cứ như trên thì -ite có nghĩa cụ thể và chính xác là “inflammation” (viêm) chứ không thể là “état maladif” (tình trạng ốm yếu, bệnh hoạn) chung chung được. Nếu cứ “chơi chữ” kiểu đó thì rất nguy hiểm như sẽ chứng minh sau đây. Ở mục “Suffixes d’origine grecque” (Hậu tố gốc Hy Lạp), chính quyển từ điển đó đã ghi nhận rằng hậu tố -algie có nghĩa là “douleur” (sự đau đớn), tức cũng là một “état maladif”. Vậy thì gastralgie (đau dạ dày) đồng nghĩa với gastrite (đau dạ dày) chăng? Đây rõ ràng là hai khái niệm rất khác nhau: một đằng là “douleur”, một đằng là “inflammation”. Nhưng cả hai đều là những “états maladifs”! Đó là còn chưa nói rằng tiếng Pháp cũng có một hậu tố -ite đồng âm dùng để tạo ra nhiều danh từ khoáng vật học (như dolomite, hématite, v.v.) hoặc hóa thạch học (như: ammonite, trilobite, v.v.). Nếu cả tin theo Petit Larousse illustré rằng tiếng Pháp chỉ có một hậu tố -ite mà thôi và rằng nó có nghĩa là “état maladif” thì sẽ có thể hiểu rằng dolomite (bạch vân thạch, bạch vân nham) là “bệnh của ông Dolomieu” vì căn tố dolom- là do tên của Dolomieu mà ra (Dieudonné de Grater de Dolomieu là tên và họ của một nhà địa chất học người Pháp). Còn ammonite (cúc đá hóa thạch) sẽ là “bệnh của thần Ammon” (Ammon ở đây, nay viết thành Amon, khác với Ammon là con của Lot và anh của Moab, thủy tổ của dân Ammonite ở vùng Cận Đông thời cổ đại) vì căn tố ammon- là do tên của thần Ammon (Amon) mà ra. Thậm chí, sẽ có người (như đã có) còn có thể hiểu rằng dolomite là ngài Dolomieu ốm yếu và ammonite là thần Ammon (Amon) bệnh hoạn. Vẫn chưa hết vì tiếng Pháp còn có một hậu tố -ite thứ ba nữa, dùng để tạo ra những danh từ chỉ những người là dân của một vùng (xứ, nước, v.v.), hoặc là con cháu chung của một vị tổ, hoặc là đồ đệ của một học thuyết, một giáo phái, v.v. mà sau đây là một số thí dụ: Moscovite là người Moscou (Moskva), Mzabite (hoặc Mozabite) là dân vùng Mzab (trong sa mạc Sahara); Sémite là “con cháu của ông Sem” (Sem là con cả của Noé theo Kinh thánh); Ammonite là “con cháu của Ammon” (Ammon ở đây là con của Lot và anh của Moab như đã nói trên); v.v. và v.v.. Nếu người ta cả tin mà nghe theo Larousse rằng tiếng Pháp chỉ có độc một hậu tố -ite, mà lại có nghĩa là “état maladif” nữa, thì có thể sẽ có người hiểu rằng Moscovite là “bệnh của Moscou” còn Sémite là “bệnh của ông Sem”, v.v.. Thậm chí, sẽ có (như đã có) người hiểu rằng Moscovite là “thành phố Moscou bệnh hoạn” còn Sémite là “ông Sem yếu đau”.

Từ trên đây suy ra, rõ ràng -ite không phải là “état maladif” mà là inflammation và rõ ràng là tiếng Pháp không chỉ có một hậu tố -ite mà thôi. Chúng tôi đã có dụng ý đưa ra danh từ hóa thạch học ammonite (cúc đá hóa thạch) và danh từ Ammonite liên quan đến tộc người (“con cháu của Ammon”) để chứng minh rằng chỉ với hai từ này thôi cũng đã thấy được thêm hai hậu tố đồng âm -ite mà Larousse đã bỏ sót.

Trên đây là mấy chỗ sai hoặc dở về mặt ngữ pháp (và một phần là về ngữ nghĩa) của Larousse. Sau đây là một điểm sai về từ nguyên. Tại mục “shiatsu”, Petit Larousse illustré 1992 có ghi chú rằng đây là một từ mà tiếng Pháp đã mượn từ tiếng Hán (“du chinois”). Tác giả của mục từ này đã nhầm. Shiatsu là một từ mà tiếng Pháp đã mượn từ tiếng Nhật, viết theo Kanji (Hán tự) là 指 压, đọc theo âm Hán Việt là chỉ áp và âm Bắc Kinh là zhỉ yá. Shiatsu và zhỉ yá khác nhau rất xa thì làm sao có thể nói rằng từ đang xét được mượn từ tiếng Hán?

Trên đây là một vài cái sai hoặc cái dở của Larousse về mặt ngôn ngữ. Sau đây là mấy cái sai về mặt lịch sử. Tại mục “Viêt-nam”, Petit Larousse illustré 1992 đã viết như sau: “1969: à la mort d’Hô Chi Minh, Pham Van Dông devient Premier ministre et Le Duan premier secrétaire du parti des travailleurs (communiste)”, nghĩa là: “1969: khi Hồ Chí Minh qua đời, Phạm Văn Đồng trở thành thủ tướng và Lê Duẩn (trở thành) bí thư thứ nhất Đảng Lao động (Cộng sản)”.

Thực ra ông Phạm Văn Đồng đã trở thành Thủ tướng từ năm 1955 còn ông Lê Duẩn thì đã làm Tổng Bí thư từ năm 1960 (lúc này còn gọi là Bí thư thứ nhất).

Trên đây là một vài chỗ sai hoặc chỗ dở của Larousse mà chúng tôi xin nêu thêm theo gợi ý của ông.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3