Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 628 - 640

§ 628. Kiến thức ngày nay, số 344, ngày 1-3-2000

ĐỘC GIẢ: Nhân xem mục Chuyện Đông chuyện Tây của An Chi trên Kiến thức ngày nay, số 335 nói về những chỗ sai của từ điển Larousse, tôi nhớ đến Nouvelle Encyclopédie Bordas X, trang 5.841, mục “Viêt-nam” có một sự lầm lẫn lớn như sau: “Le Premier ministre Pham Van Dong, ancien compagnon de Hô Chi Minh, qui était en fonction depuis 1955, est mort en mars 1987. Après un an de flottement, c’est M. Do Muoi qui lui a succédé”. Còn trang 5.837 chép: “Les négociants étrangers apparaissent (Hollandais et Anglais), puis les missions catholiques (françaises avant tout)”. Điều này cũng không đúng vì chính ra là các giáo sĩ Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha (hai dòng Franciscain và Jésuite) đã đến trước.

Vậy xin chuyển đến ông An Chi để thêm vào sự phát hiện của người phụ trách mục Chuyện Đông chuyện Tây.

AN CHI: Xin hoan nghênh ông đã cung cấp những thông tin trên đây về Nouvelle Encyclopédie Bordas.

Xin tạm dịch trang 5841 (cho một số bạn đọc) như sau: “Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cựu chiến hữu của Hồ Chí Minh, nhậm chức từ 1955, đã mất hồi tháng ba 1987. Sau một năm dự kiến (flottement: sự do dự), ông Đỗ Mười đã kế nhiệm ông”.

Thật là một sự lầm lẫn khó tưởng tượng nổi vì hiện nay (năm 2000, nghĩa là 13 năm sau thời điểm mà Nouvelle Encyclopédie Bordas đưa ra), ông Phạm Văn Đồng vẫn còn tại thế. Ông đã bước vào tuổi cửu tuần đại thọ từ mấy năm nay. Năm 1987 chỉ là thời điểm ông thôi đảm nhiệm chức vụ thủ tướng vì lý do tuổi tác. Nếu cứ lấy năm thôi chức làm năm qua đời kiểu Bordas thì có biết bao nhiêu vị thủ tướng của nước Cộng hòa Pháp đã qua đời trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) vì nội các của họ cứ thay phiên nhau mà… đổ. Đó là cái sai thứ nhất, và bất ngờ nhất, trong đoạn thông tin ngắn ngủi trên đây. Sau đây là cái sai thứ hai: người kế nhiệm ông Phạm Văn Đồng không phải là Đỗ Mười mà là Phạm Hùng.

Về trang 5.837, xin tạm dịch (cũng cho một số bạn đọc) như sau: “Các nhà buôn nước ngoài xuất hiện (người Hà Lan và người Anh), rồi các đoàn thừa sai Công giáo (chủ yếu là Pháp)”. Về thông tin này, chúng tôi không cho rằng Nouvelle Encyclop édie Bordas đã sai vì “avant tout”, ngoài nghĩa “trước hết” (d’abord), lại còn có nghĩa là “nhất là”, “chủ yếu là” (surtout, notamment). Vậy nếu tác giả dùng theo nghĩa sau thì câu trên không sai.

§ 629. Kiến thức ngày nay, số 344, ngày 1-3-2000

ĐỘC GIẢ: Tôi đồng ý với bạn rằng về danh từ dinosaure (Chuyện Đông chuyện Tây/Kiến thức ngày nay, số 338) thì Larousse ghi là do Hy Lạp deinos (= terrible = kinh khủng) và saura (= lézard = thằn lằn). Nhưng hai quyển từ điển khác thì ghi khác.

Dictionnaire étymologique du français (Robert, 1999), trang 501: “Dinosaure, de dinos (= toupie), à la tête en forme de toupie”. (Dinosaure, do dinos (= con quay, bong vụ), có đầu hình con quay).

Nouveau Larousse universel cũng nói tươngtự. “Dinosaurien, du grec dinos = toupie et saura = lézard. Ordre de reptiles fossiles qui comprenait des animaux gigantesques, dont certains dépassent 20m de longueur”. (Dinosaurien: do Hy Lạp dinos = con quay và saura = thằn lằn. Bộ bò sát hóa thạch gồm những động vật khổng lồ, mà một số dài đến trên 20m).

Vậy tin ai, không tin ai?

AN CHI: Vì là người hoàn toàn ngoại đạo về cổ sinh vật học nên chúng tôi chỉ tin ở cái lý thông thường mà thôi. Petit Larousse illustré 1992 ghi: “Dinosauriens, très vaste groupe de reptiles de l’ère secondaire, comprenant le brontosaure, le diplodocus et d’autres formes parfois géantes” (Dinosauriens: nhóm rất đông đảo những động vật bò sát thuộc kỷ đệ nhị, gồm có lôi long, lương long và các dạng khác đôi khi khổng lồ). Và trong hình vẽ minh họa cho nhóm dinosauriens kèm theo mục từ, còn có: tyrannosaure (ngược long), tricératops (tam khỉ long) và stégosaure (giáp long).

Thế là dòng họ dinosaures (hoặc dinosauriens), tức bọn khủng long kể tàm tạm đã có con lôi long (“rồng” sấm), con lương long (con “rồng” có hai cái “rường” là cái đầu và cái đuôi dài ngoẵng), con ngược long (cũng là một thứ “rồng” kinh khủng), con tam khỉ long (con “rồng” có ba sừng) và con giáp long (mà tấm lưng được ví với một cái khiên đồ sộ). Những con “rồng” đó quả thuộc họ “deinos” (= kinh khủng) chứ làm sao mà thuộc họ “dinos” (= con quay) được? Dài loằng ngoằng như cái đầu con lương long hoặc có ba cái sừng chĩa ra như cái đầu của con tam khỉ long thì giống với con quay thế nào được? Còn sự thật ra sao thì chúng tôi không dám lạm phần của các nhà cổ sinh vật học.

§ 630. Kiến thức ngày nay, số 344, ngày 1-3-2000

ĐỘC GIẢ: Gần đây báo chí có đưa tin “cầu Mỹ Thuận hợp long”. Có phải hợp long viết theo chữ Hán là 合攏 hay không? Nếu chữ Hán là như thế thì theo tôi, chữ 攏 phải đọc là “lũng” mới đúng. Nếu ngại đọc “hợp lũng” khó nghe thì tại sao ta không dùng từ “ráp nối”, một từ cây nhà lá vườn vừa trong sáng vừa dễ hiểu?

AN CHI: Thay vì “ráp nối” tiếng Việt còn có cả từ tổ nối nhịp, sát nghĩa hơn. Và như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 342, nối nhịp có sắc thái trung hòa còn hợp long lại có sắc thái trang trọng nên theo chúng tôi, có vẻ như thích hợp hơn để nói về khâu cuối cùng của việc kiến tạo cầu Mỹ Thuận, một kỳ công của sự hợp tác Việt – Úc vào năm cuối cùng của thế kỷ XX.

Nhưng đây là hợp long hay hợp lũng? Chúng tôi không phủ nhận từ tổ đẳng lập 合攏 mà ông đã nêu. Đó là một tổ hợp hai từ đồng nghĩa: vì 攏 cũng có nghĩa là 合 nên hai từ này đi chung với nhau thì cũng rất hài hòa. Vấn đề chỉ là ở cách đọc chữ thứ hai trong tổ hợp. Chữ này có hai âm: một âm đọc theo thanh thượng thành lũng (như ông đã viết) và một âm đọc theo thanh bằng thành long, như đã cho trong Từ Nguyên và Từ hải. Vậy đọc thành hợp lũng, như ông đã viết, là đúng mà đọc thành hợp long thì cũng không sai. Nhưng đây thực chất không phải là hai chữ gốc dùng để chỉ việc nối nhịp vì hai chữ gốc đích thực lại là 合龍, mà chữ thứ hai, chữ long, có nghĩa gốc là rồng.

Sau đây là bằng chứng để khẳng định chữ long trong hợp long (= nối nhịp) có nghĩa gốc là rồng. Thời xưa, hợp long chỉ là một thuật ngữ của ngành thủy lợi. Khi một con đê bị vỡ, thì cái chỗ bị vỡ đó, cái “lỗ hổng” đó, gọi là “long khẩu” 龍口* hoặc “long môn” 龍門. Vì chỗ đê vỡ gọi là “long môn” nên hàn chỗ đê vỡ gọi là hợp long môn (Xem Từ Nguyên và Từ hải, ở chữ hợp long), về sau mới gọi tắt thành hợp long 合龍. Ngày nay, khi ngành cầu đường phát triển, người ta mới so sánh việc nối nhịp một chiếc cầu với việc vá đê, nghĩa là với việc nối hai đoạn đê đã bị chỗ vỡ tách ra làm hai phần. Do cách dùng theo ẩn dụ đã phân tích trên đây mà từ tổ hợp long cũng trở thành một thuật ngữ của ngành kiều lộ, bất kể chiếc cầu được nối nhịp hoặc dòng sông có chiếc cầu đó bắc qua có phải là con rồng hay không.

Nhưng tại sao lại phải dùng đến chữ long là rồng mà nói long khẩu, long môn, hợp long môn rồi hợp long trong trường hợp này? Vấn đề ở đây có liên quan đến thuật phong thủy. Các nhà phong thủy (kham dư gia) xem hình thể núi non gợn sóng, kéo dài quanh co giống như con rồng nên mới gọi là long (từ đó mới có các khái niệm “long mạch”, “long huyệt”). Một con đê kéo dài quanh co cũng giống như một dãy núi nhìn từ xa nên chữ long dùng để chỉ núi lại được dùng theo ẩn dụ để chỉ con đê. Khi con đê đã là con “rồng” thì cái miệng hố do nước lũ xoáy thành nơi thân đê hẳn có thể được gọi là “miệng rồng” (long khẩu) hoặc “cửa rồng” (long môn) mà không thể nói là phi lý. Và tất nhiên cũng chẳng có gì phi lý nếu gọi việc bít cái “cửa rồng” đó lại là hợp long môn vì chữ hợp 合 không chỉ có nghĩa là “tụ lại” mà còn có cả cái nghĩa là “làm cho tụ lại, khít lại” nữa. Cuối cùng việc nói tắt hợp long môn thành hợp long 合龍 chỉ là chuyện hoàn toàn bình thường mà thôi. Nhưng người duy luận lý cực đoan có thể sẽ bắt bẻ: Tại sao không nói tắt thành “hợp môn” màlại nói tắt thành “hợp long”? Thưa rằng sự nói tắt nhiều khi không cần đến luận lý. Thí dụ như trong cái tên sách Hán Đại thành ngữ đại từ điển (Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, 1997) thì hai tiếng “Hán Đại” là tên nói tắt của “Hán ngữ đại từ điển”. Người duy luận lý cực đoan sẽ đòi sửa lại thành “Hán điển” cho “lô-gích”. Nhưng trong ngôn ngữ thường lại có nhiều cái phi “lô-gích” mà lại hoàn toàn bình thường.

Tóm lại, chữ long 龍 trong hợp long vốn có nghĩa là rồng nhưng vì không thấy được cái nguồn gốc hợp lý đích thực của từ ngữ nên một số người mới sửa nó thành chữ 攏 như ông đã dẫn ra trong câu hỏi trên đây.

§ 631. Kiến thức ngày nay, số 345, ngày 10-3-2000

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguồn gốc của hai tiếng “lạc-xoong”. Đồ lạc-xoong thực chất là đồ gì?

AN CHI: Về nguồn gốc của hai tiếng lạc-xoong, có người đã cho rằng lạc xon (theo cách viết của tác giả này – AC) là một tổ hợp đẳng lập (tức tổ hợp gồm hai yếu tố đồng nghĩa hoặc gần nghĩa) gồm có lạc là một từ Hán Việt và xon là một từ gốc Ấn – Âu. Lạc ở đây, theo ông, có nghĩa là “rơi, rớt, rụng” như có thể thấy trong từ tổ lạc giá, có nghĩa là “rớt giá”, tức hạ giá, giá rẻ. Còn xon, cũng theo ông, là một từ gốc Pháp bắt nguồn ở danh từ solde trong en solde mà ông đã căn cứ vào Dictionnaire français – vietnamien do Lê Khả Kế làm tổng biên tập để dịch là “bán xon, bán hạ giá”.

Tác giả này đã làm một cuộc xe duyên “đẳng lập” nhưng rất tiếc rằng lạc và xon không phải là từ vì chỉ là hai âm tiết vô nghĩa dùng để phiên âm mà thôi. Huống chi, nếu đó có là những từ đích thực thì lạc cũng không thể gần nghĩa với xon được. Lạc là “rơi, rớt, rụng” còn xon lại là hàng hạ giá (“rớt giá”) nên chỉ có từ tổ lạc giá mới gần nghĩa với xon mà thôi.

Như vậy khó có thể chấp nhận lạc xon là một tổ hợp đẳng lập.

Điểm thứ hai là dù cho tác giả có viết âm tiết thứ hai của từ lạc-xoong trong đồ lạc-xoong thành “xon” nhưng hễ đã là dân Sài Gòn cố cựu, kể cả người Trung lẫn người Bắc thì ai cũng nói thành [sɔŋ¹] chứ không bao giờ nói thành [sɔn¹]. Ngược lại, đối với chữ xon trong đồ xon thì ngay cả dân Sài Gòn gốc Nam Kỳ chánh cống cũng luôn luôn phát âm thành [son¹] chứ không bao giờ “ngờ” hóa phụ âm cuối “nờ” của nó (nghĩa là biến [n] thành [ŋ] mà đọc thành [sɔŋ¹]. Sở dĩ họ làm như thế là vì trong ý thức của họ, cũng như trong thực tế, đồ lạc-xoong và đồ xon là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Vâng, ai có ở tại Sài Gòn lâu năm cũng biết rằng:

– Đồ lạc-xoong có trước đồ xon rất lâu (ít nhất là vài thập kỷ) vì mãi đến giữa thập kỷ 1950 thì đồ xon mới “đổ bộ” xuống lề đường Bonard (nay là Lê Lợi, Quận 1) và Rue des Marins (nay là Trần Hưng Đạo, Quận 5), đoạn từ Jaccaréo (nay là Tản Đà) đổ về Tổng đốc Phương (nay là Châu Văn Liêm).

– Đồ lạc-xoong là đồ đã xài rồi còn đồ xon là đồ chưa ai xài đến trước khi đem ra bán.

– Đồ lạc-xoong có thể nằm trong tiệm từ năm này sang năm khác mà không khiến cho chủ tiệm phải lo lắng chứ đồ xon thì hễ đã tung ra thị trường là để lấy lại vốn cho nhanh chóng mà thường thì thiên hạ cũng chen nhau mua… ào ào nên chẳng mấy chốc mà hết (dĩ nhiên cũng có khi ế).

– Đồ lạc-xoong nói chung là đồ từng món (vì thế nên Vương Hồng Sển mới viết trong Tự vị tiếng Việt miền Nam rằng “nhiều khi với mắt tinh đời, sẽ gặp đồ cổ quí, Minh, Khang Hi, ẩn tàng trong đám lạc son chợ trời”) còn đồ xon thì nói chung là đồ cùng loại và cùng mẫu mã đem bán hàng loạt.

– Đồ lạc-xoong không phải là đồ hạ giá mà chỉ là đồ bán theo giá có trừ tỉ lệ hao mòn do đã sử dụng (nhưng đó chỉ là nói chung chứ có thứ rất đắt vì là hàng “độc đắc”), còn đồ xon thì mới chánh cống là đồ hạ giá vì hàng tuy vẫn mới nhưng lại bán theo giá thấp hơn giá đã định ban đầu để thanh toán cái stock cũ cho mau lẹ (stock: lượng hàng đang có).

Tóm lại, đồ lạc-xoong không phải là đồ hạ giá, càng không phải là đồ xon. Về phương thức bán xon, để minh họa thêm, chúng tôi xin trích dẫn bài ghi nhanh của Thanh Hà nhan đề “Hàng xon Hà Nội” đăng trên trang 3 của báo Tuổi trẻ ngày 27-1-2000: “Bán xon không còn lạ với người Sài Gòn, song với dân Hà Nội chợ xon mới mọc được xem là “sự kiện” với nhiều ngỡ ngàng, lạ lẫm. Từ ba tối nay khu phố Hàng Đào, Hàng Ngang bỗng trở nên tấp nập, ồn ào đến tắc đường với những đống hàng bán xon. Trên vỉa hè, cứ cách vài mét lại có một tấm biển viết vội trên giấy các tông “đại hạ giá”, “đại đại hạ giá” gắn tạm trên gốc cây, cánh cửa, cột đèn; còn bên dưới là quần áo, đồ len, túi xách,…; rồi đồng hồ đeo tay loại rẻ tiền, cặp tóc, vớ, găng tay (…) Hàng bán đổ đống hoặc chất trên ghế xếp, khách thoải mái tự bới chọn (…) và (theo lời một người bán hàng – AC) chỉ trong mấy ngày bán hạ giá, vợ chồng anh đã “đẩy” được quá nửa lô hàng ế, bằng bán cả mấy tháng trời trong tiệm”.

Đấy, đồ xon và phương thức bán xon đại để là như thế. Còn bây giờ, xin nói thêm đôi chút về đồ lạc-xoong rồi trở lại với hai tiếng lạc xoong. Chủ tiệm lạc-xoong chánh tông (có môn bài hẳn hoi) trước đây, đặc biệt là trước 1954, đều là người Hoa (do đó mới có mấy tiếng “Chệch lạc-xoong”), thuộc bang Phước Kiến, chí thú làm ăn mà cũng rất “chịu chơi” trong nghề mua bán đồ cũ. Một chủ tiệm lạc-xoong đã từng “rinh” cả một cái nồi súp-de của đầu máy xe lửa về kho hàng của mình để “chờ giá”, chứ chẳng cần vội vàng (cho nên nói rằng đồ lạc-xoong là đồ hạ giá thì kể như là chỉ mới biết sơ sơ về thứ đồ này mà thôi).

Viết thêm cho hai tiếng lạc xong (Kiến thức ngày nay, số 357, 10-7-2000). Vậy thì đâu là nguồn gốc của hai tiếng lạc-xoong? Ông Đỗ Văn Anh, nhà thư tịch học kỳ cựu của Sài Gòn, đã có nhã ý thông báo cho chúng tôi rằng xuất xứ của hai tiếng này đã được ghi chú rõ ràng trong Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong, cuốn thứ nhất, do Phát Toán Libraire – Imprimeur ấn hành tại Sài Gòn năm 1909 (trang 30). Lời ghi chú đó nằm trong đoạn lục bát sau đây:

Chực đường có trẻ cu-li (coolie)

Kêu đâu sẳng đó đem đi lẹ làng.

Lớp thời xuống bến Nam-vang,

Lớp qua Khánh Hội, lớp sang Nhà Rồng.

Lớp xe về lối ngoài trong,

Lớp đi theo dõi mấy ông dọn nhà.

Nhà-in, nhà-thuốc, nhà-chà,

Nhà hàng ăn ngủ với nhà Lạc-xon (l’ auction).

Lạc-xon chính là lạc-xoong và đấy cũng chính là âm của từ l’auction mà Nguyễn Liên Phong đã có công ghi lại cho ta một cách rạch ròi. Đoạn lục bát trên đây nói về đường Catinat. Có thể là lúc bấy giờ trên con đường này đã có một cửa hàng bán đấu giá mà chủ nhân lấy tên bằng tiếng Anh auction (sự bán đấu giá). Người Pháp đã giữ nguyên dạng mà thêm quán từ vào thành l’auction rồi người Việt Nam thì phát âm thành lạc-xoong. Lạc-xoong ban đầu là cửa hàng bán đấu giá. Về sau người ta mới dùng hai tiếng này theo nghĩa hiện hành và sự chuyển nghĩa này không phải là chuyện không thể giải thích được.

§ 632. Kiến thức ngày nay, số 346, ngày 20-3-2000

ĐỘC GIẢ: Té lăn cù: cù là gì và đâu là nguồn gốc của tiếng này?

AN CHI: Cù là con quay, tức cái bong vụ. Té lăn cù là té lăn quay, nghĩa là lăn như cái bong vụ. Đây là một lối nói cường điệu… cho vui (nên cái sắc thái bình dân buồn cười vẫn còn đeo đẳng theo nó cho đến bây giờ). Cù là một từ gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 球 mà âm Hán Việt hiện đại là cầu, có nghĩa là vật hình khối tròn, như có thể thấy trong địa cầu, nguyệt cầu, túc cầu v.v.. Cù là âm xưa, cầu là âm nay. Tương tự, chữ 觩 là cái sừng cong của thú vật hiện nay đọc là cầu nhưng âm xưa của nó cũng là cù như còn thấy trong cù móc, cù ngoéo, cù nèo (do nghĩa phái sinh bằng ẩn dụ). Hoặc tương tự, cù trong con lân con cù cũng là âm xưa của chữ cầu 虯, cũng viết 虬, có nghĩa là con rồng có sừng.

Danh từ cù (con quay) còn có mặt trong từ tổ danh từ cố định đèn cù, tức đèn kéo quân, vì loại đèn này cũng quay vòng như… cái trái cù.

§ 633. Kiến thức ngày nay, số 346, ngày 20-3-2000

ĐỘC GIẢ: Người Nam trước đây còn nói “bắn đạn (bắn bi)” là “bắn cu-li”. Vậy “cu-li” là do tiếng Pháp nào mà ra?

AN CHI: Đạn là từ Hán Việt, chữ Hán là 彈. Bi là do tiếng Pháp bille. Còn cu-li là do người Nam Bộ mượn của tiếng Khmer kuli có nghĩa là viên bi, mà chính người Khmer đã mượn từ tiếng Sanskrit gulika có nghĩa là viên, hòn. Người Khmer phát âm từ này thành kulika để chỉ viên, hòn nói chung. Hình thức rút ngắn kuli trong tiếng Khmer chỉ dùng để chỉ viên bi mà thôi.

§ 634. Kiến thức ngày nay, số 346, ngày 20-3-2000

ĐỘC GIẢ: Trong một bài viết đăng trên một tờ báo, một tác giả đã viết như sau:

“Vì không thấy qui luật này (tức luật đồng hóa ngữ âm), đã có trường hợp giải thích không đúng nguồn gốc một số từ ngữ. Chẳng hạn, nghĩ rằng săn trong săn sóc có lẽ cũng là săn trong săn bắn. Thật ra không phải thế. Trong Đại Nam quấc âm tự vị (1895 – 1896), Huình-Tịnh Của viết: “Chăn: coi giữ (trâu, bò)” và chăn sóc: coi sóc, săn sóc”. Vậy chính chăn sóc bị đồng hóa âm đầu thành săn sóc.

Hai trường hợp khác: tết nhất chính là kết quả của sự biến âm (tiết thành tết) và sự đồng hóa thanh điệu của tiết nhật, chứ tết nhất không phải là “tết thứ nhất”. Còn rắn mắt không phải “rắn ở cái mắt tre hay cây” mà chính là kết quả của hiện tượng đồng hóa thanh điệu của từ ngữ rắn mặt. Trong Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chỉ ghi âm gốc rắn mặt, không ghi âm biến rắn mắt. Từ thế kỷ 17, trong Từ điển Việt-Bồ-La (1651), A. de Rhodes đã ghi thành ngữ rắn mày rắn mặt. Mặt ở đây chính là “cái mặt” nên mới đi với mày. Và trong từ điển của Rhodes không có rắn mắt”.

Trên đây là một cách giải thích nhưng Chuyện Đông chuyện Tây lại có cách giải thích khác về mấy tiếng “tết nhất” Kiến thức ngày nay, số Xuân Nhâm Thân, 1992) và “rắn mắt” Kiến thức ngày nay, số 336, ngày 10-12-1999). Vậy xin cho biết nhận xét của ông về những ý kiến trên đây.

AN CHI: 1. Tác giả đó cho là “chính chăn sóc bị đồng hóa âm đầu thành săn sóc”. Nhưng chăn sóc là một từ tổ đẳng lập có mô hình trọng âm [11] (không tiếng nào có khinh âm) nên, về nguyên tắc, hiện tượng đồng hóa ngữ âm ở đây là điều không thể xảy ra. Sự đồng hóa ngữ âm chỉ tác động đến tiếng có khinh âm mà thôi, thí dụ: thâm ma (xá na) có mô hình trọng âm [01] nên thâm là tiếng khinh âm mới bị tác động mà trở thành tha trong (bãi) tha ma (Xin xem thêm câu trả lời về hai tiếng này trên Kiến thức ngày nay, số 321). Huống chi từ tổ săn sóc xuất hiện rất sớm chứ không phải muộn màng như tác giả này đã chứng minh. Tác giả chỉ đưa ra Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của mà quên bẵng đi những quyển ra đời trước nó nên không ngờ rằng hai tiếng săn sóc đã có mặt sớm hơn. Trong ba từ tổ đồng nghĩa là săn sóc, chăn móc và chăn sóc, chính nó đã được ghi nhận sớm hơn chăn sóc. Dictionarium anamitico-latinum, bản viết tay của Pigneaux de Béhaine (1772 – 1773) chỉ ghi nhận có chăn móc. Dictionarium anamitico-latinum của Taberd (1838) chỉ ghi nhận có chăn móc và săn sóc mà không có chăn sóc. Quyển từ điển này của Taberd do Theurel bổ sung và hiệu đính (1877) cũng ghi nhận y như Taberd. Phải đến Huình-Tịnh Paulus Của, với Đại Nam quấc âm tự vị (1895 – 1896) thì chăn sóc mới xuất hiện cùng với chăn móc và săn sóc. Xin tóm tắt về thời điểm xuất hiện của hai từ tổ đang xét như sau:

– săn sóc: 1838, 1877, 1895 – 1896;

– chăn sóc: 1895 – 1896.

Rõ ràng là săn sóc đã được ghi nhận trước chăn sóc đến gần sáu thập kỷ. Thì làm sao có thể nói rằng “chính chăn sóc bị đồng hóa âm đầu thành săn sóc?” Lập luận của tác giả hoàn toàn không có cơ sở khoa học.

Vậy săn trong săn sóc có phải cũng là săn trong săn bắn hay không? Xin trả lời bằng câu khẳng định và xin chứng minh như sau. Săn là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 趁 mà âm Hán Việt hiện đại là sấn, có nghĩa là… săn, là đuổi (vì thế mới có từ tổ đẳng lập săn đuổi). Còn sóc cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 畜 mà âm Hán Việt hiện đại là súc có nghĩa là nuôi dưỡng, chăn nuôi. Chính từ chăn sóc mà tác giả đưa ra cũng đã gồm có chữ chăn trong chăn vịt, chăn bò. Rồi móc trong chăn móc chẳng qua cũng chỉ là một biến thể của mục 牧 trong mục súc, mục đồng mà thôi. Săn sóc thoạt đầu còn rõ cái nghĩa “đuổi bắt (săn) và chăn nuôi (sóc) động vật”; nay cái nghĩa “đuổi bắt” của săn đã mờ mất còn cái nghĩa “chăn nuôi” của sóc thì nổi lên, có nhiều phần là do liên tưởng đến chăm sóc, coi sóc, và cả… chăn sóc nữa. Cũng như “săn đón” ban đầu có nghĩa là “đuổi theo” (săn) và “chặn ví” (đón), nghĩa là “vây bắt” (thú rừng); nay cái nghĩa “đuổi theo” của săn đã mờ mất còn đón lại được hiểu thành đón trong tiếp đón, chào đón, đưa đón nên săn đón mới có nghĩa là tiếp đãi một cách niềm nở, vồ vập. Vậy chăn móc, săn sóc và chăn sóc đều vốn là những “thuật ngữ” của nghề chăn nuôi, đương nhiên “áp dụng” cho… gia súc rồi về sau mới “ứng dụng” cho cả con người. Điều này hoàn toàn không có gì lạ vì nhiều từ ngữ của ngôn ngữ toàn dân vốn chỉ là những lối nói chuyên biệt của nhiều ngành nghề (có khi rất hẹp) khác nhau trong xã hội mà chỉ có ngữ nghĩa học lịch sử mới chứng minh được.

2. Tác giả đã quên rằng tết nhất là một từ tổ đẳng lập do chính người Việt tạo ra một cách hoàn toàn độc lập với tiếng Hán; còn hai tiếng tiết nhật lại là một từ tổ chính phụ “made in China” chánh cống.

3. Tác giả cho rằng từ tổ rắn mắt là “kết quả của hiện tượng đồng hóa thanh điệu của từ ngữ (sic) rắn mặt”. Nhưng trong rắn mặt thì mặt là tiếng luôn luôn có trọng âm, nghĩa là không bao giờ bị nhược hóa, nên về nguyên tắc nó cũng không thể bị “đồng hoá”. Tác giả có nói rằng rắn mắt không có mặt trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh của A. de Rhodes. Nhưng đây đâu phải là cái cớ để phủ nhận sự tồn tại của từ tổ đó vì một quyển từ điển loại nhỏ, lại dành cho các giáo sĩ (là chính) thì làm sao chứa được mọi từ ngữ của tiếng Việt! Tác giả lại nói rằng từ điển Hoàng Phê cũng không ghi nhận nó. Nhưng từ điển Hoàng Phê đâu có ghi nhận mọi từ ngữ của tiếng địa phương trong khi rắn mắt lại là một lối nói riêng của tiếng Nam Bộ.

Tóm lại, tất cả những lý lẽ mà tác giả đưa ra không thể giúp bác bỏ được cách giải thích trên Kiến thức ngày nay, số 336.

§ 635. Kiến thức ngày nay, số 347, ngày 1-4-2000

ĐỘC GIẢ: Máy móc: máy thì dễ hiểu vì đồng nghĩa với machine trong tiếng Anh, tiếng Pháp và với cơ trong tiếng Hán. Nhưng móc nghĩa là gì hay chỉ là một tiếng đệm? Nếu đây là một tiếng có nghĩa thì đâu là nguồn gốc của nó?

AN CHI: Nghĩa tương ứng với machine trong tiếng Anh, tiếng Pháp và cơ trong tiếng Hán chỉ là nghĩa phái sinh của từ máy, nay mặc nhiên được xem là nghĩa gốc còn cái nghĩa gốc đích thực của nó thì gần như đã tuyệt tích. Chính là nhờ cái nghĩa gốc đó mà máy mới đi chung với móc như sẽ nói ở một phần sau. Và rất may là nghĩa gốc của từ máy vẫn còn thấp thoáng trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của với những mục từ sau đây:

1. “Cò súng. Máy súng làm cong cong”. (tập I, tr. 175)

2. “Máy lảy” (lẫy – AC). Đồ làm ra giống hình cái chốt, để mà gài sợi lạt (ná); miếng thép có tài búng ra cho súng nổ”. (tập I, tr. 531)

3. “Máy lảy (lẫy – AC)”. Cái cốt nhỏ có thể gài sợi lạt ná cùng có thể lảy (lẫy – AC) cho trật sợi lạt”. (tập II, tr. 9)

4. “Gài bẩy (bẫy – AC). Tra máy bẩy (bẫy – AC)”, (tập I, tr. 342)

Từ trên đây suy ra, máy là một thứ chốt gài có công dụng phát động, như cái lẫy nỏ, cái lẫy bẫy hoặc cái cò súng. Đây chính là nghĩa gốc của máy và do cái nghĩa này mà máy mới có nghĩa phái sinh hiện đại tương ứng với machine trong tiếng Anh, tiếng Pháp và cơ trong tiếng Hán. Xét về mặt này thì sự chuyển nghĩa của máy cũng giống như sự chuyển nghĩa của cơ 機, 机 trong tiếng Hán như đã giảng rõ trong Từ hải, bản tu đính 1989 (Thượng Hải từ thư xuất bản xã, in lần thứ tư, 1997, tr. 1.408, nghĩa 1), nghĩa là trong tiếng Hán, cơ cũng có nghĩa gốc là cái lẫy nỏ, rồi mới có nghĩa phái sinh là máy móc như hiện nay.

Tóm lại, máy có nghĩa gốc là cái chốt và do có nghĩa này nên nó mới đi chung với móc để tạo ra từ tổ danh từ đẳng lập máy móc vì móc cũng là một thứ chốt. Ngày nay, khi nói đến móc, người ta thường nghĩ đến loại chốt có một đầu uốn cong như lưỡi câu nhưng xét theo từ nguyên thì móc thoạt kỳ thủy chẳng qua chỉ là một cái mấu mà thôi.

Móc và mấu là hai cách phát âm của chữ 目 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là mục, có nghĩa là con mắt, cơ quan của thị giác, rồi nghĩa phái sinh là cái mấu tựa hình con mắt lồi lên trên thân cành một số loài cây (thí dụ: mắt tre, mắt mía, v.v.) như đã giảng trong Từ hải, bản cũ (nghĩa 7) hoặc Hán ngữ đại từ điển (Thành Đô, 1993, nghĩa 17).

Móc là âm Hán Việt xưa của chữ 目 mà âm Hán Việt hiện đại là mục, giống hệt như móc trong chăn móc là âm Hán Việt xưa của chữ 牧 mà âm Hán Việt hiện đại cũng là mục, có nghĩa là chăn nuôi (thí dụ: mục súc, mục đồng, v.v.), như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 346. Thoạt kỳ thủy, móc chỉ là cái mấu rồi về sau mới có nghĩa phái sinh bằng hoán dụ là cọng kim loại có mấu cong để treo, để mắc đồ vật (cho khỏi tuột ra) hoặc để khều, để móc đồ vật (từ trên cao xuống hoặc từ chỗ hẹp, chỗ sâu ra phía ngoài). Nghĩa phái sinh này nay đã trở thành thông dụng và mặc nhiên được xem là nghĩa gốc của từ móc còn cái nghĩa gốc đích thực của nó thì đã bị phế bỏ vì một sự phân công ngữ nghĩa như sẽ trình bày dưới đây.

Liên quan đến chữ 目 thì móc là âm Hán Việt từ cuối đời Đông Hán trở về trước, mục là âm Hán Việt đời Đường còn mấu thì lại là âm Hán Việt từ đời Minh trở đi, tương ứng với mù của âm Bắc Kinh hiện nay. Khi mấu mới xuất hiện thì nó có thể là đồng nghĩa tuyệt đối với móc nhưng dần dần thì đã xảy ra một sự phân công ngữ nghĩa: mấu dùng để chỉ cái chỗ gồ lên trên bề mặt của một vật (thí dụ: mấu tre, mấu đòn gánh, v.v.) còn móc thì dùng để chỉ cái vật nhỏ có một đầu cong để treo hoặc để khều, để kéo, v.v.. Mấu còn có một biến thể ngữ âm là mứu trong từ tổ cố định mắc mứu (có người hoặc địa phương phát âm thành mắc míu), có nghĩa là bị vướng víu ở một khâu nào đó trong suy nghĩ hoặc trong công việc. Mắc mứu (míu) chẳng qua chỉ là “mắc mấu” hiểu theo nghĩa bóng mà thôi. Tóm lại, móc trong máy móc không phải là một yếu tố láy, trước đây gọi là tiếng đệm, mà là một từ có nghĩa hẳn hoi và đang còn thông dụng. Chẳng qua vì không còn biết đến nghĩa gốc của từ máy nên người ta mới ngỡ rằng móc trong máy móc cũng là một yếu tố vô nghĩa chứ không ngờ rằng tổ hợp này thực chất là một từ tổ danh từ đẳng lập chính danh.

§ 636. Kiến thức ngày nay, số 347, ngày 1-4-2000

ĐỘC GIẢ: Phần mở đầu nêu lên ý nghĩa khái quát của một bài hát nói gọi là mưỡu. Xin cho biết đâu là nguồn gốc của từ này.

AN CHI: Mưỡu là một từ gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 秒) mà âm Hán Việt chính thống phải là viễu vì thuộc thanh mẫu vi 微 nhưng có người đọc thành diễu, còn âm xưa của nó lại là miễu vì nó vốn thuộc thanh mẫu minh 明. Miễu (viễu, diễu) là ngọn cây, rồi ngọn, rồi phần mở đầu và đây chính là nghĩa của từ mưỡu. Mưỡu là một âm Hán Việt rất xưa của chữ 秒 còn may mắn tồn tại với một công dụng rất hạn chế. Về mối quan hệ ươu ~ iêu giữa mưỡu và miễu, người ta còn có một bằng chứng rất thuyết phục khác. Đó là từ hươu trong thành ngữ tán hươu tán vượn vốn chẳng phải là một danh từ chỉ con vật bà con với con nai vì đó là một từ gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 囂 mà âm Hán Việt hiện đại là hiêu, có nghĩa là la lối ồn ào. Chẳng qua vì người ta không còn thấy được cái nghĩa gốc của từ hươu nữa nên mới “xe duyên” nó với con vượn trong thành ngữ đã nói. Cũng y hệt như vì không biết được lai nguyên của từ phe là affaire của tiếng Pháp nên người ta mới “xe duyên” nó với từ phẩy trong lối nói có tính chất khẩu ngữ hiện đại đi phe đi phẩy; thậm chí có người biết rồi mà vẫn nói áp -phe áp -phẩy cho thêm phần… “hoạt kê”.

Tóm lại, mưỡu ~ miễu cũng y hệt như hươu ~ hiêu và mưỡu vốn có nghĩa gốc là ngọn cây rồi mới có nghĩa phái sinh là phần đầu (cũng có khi là phần cuối vì chữ 秒 còn có nghĩa là phần cuối nữa) của một bài hát nói như ông đã nêu.

§ 637. Kiến thức ngày nay, số 347, ngày 1-4-2000

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết sách giáo khoa của nước ngoài dạy học sinh đếm năm và tính thế kỷ như thế nào?

AN CHI: Chúng tôi không có vinh dự được đọc sách giáo khoa của nhiều nước vì khả năng và điều kiện của cá nhân đều hạn chế. Nhưng thiết nghĩ rằng nội dung mà người ta dạy cho học sinh hẳn không thay đổi từ nước này sang nước khác nếu chỉ thống nhất lấy lịch hiện hành là Công lịch để tính.

Ở đây chỉ xin giới thiệu nội dung hữu quan trong sách giáo khoa Sử – Địa (Histoire, Géographie) của Pháp, lớp đệ lục (6è) theo hệ thống giáo dục của Pháp, của một nhóm giáo sư do Hachette (Education) xuất bản năm 1994. Xin dịch mấy đoạn quan trọng như sau:

“Thế kỷ thứ I sau Ki-Tô bắt đầu từ năm 1. Năm 2 là năm thứ 2 của thế kỷ này, v.v.. Vậy năm thứ 100 sẽ là năm 100. Thế kỷ thứ II bắt đầu từ ngày 1 tháng Giêng năm 101 và chấm dứt ngày 31 tháng Chạp (12) năm 200, v.v.. Đối với các thế kỷ trước Ki-Tô, người ta đếm bằng cách tiến dần đến năm 1 trước Ki-Tô. Thế kỷ II trước Ki-Tô bắt đầu từ năm -200 và cáo chung vào cuối năm -101. Thế kỷ thứ I trước Ki-Tô bắt đầu từ năm -100 và chấm dứt vào năm -1”. (Sđd, tr. 10)

“Các em đã thấy rằng thế kỷ thứ I trước Ki-Tô bắt đầu từ năm -100 và chấm dứt vào cuối năm -1 (tức ngày 31 tháng Chạp (12) năm -1)” Đó là năm cuối cùng trước năm sinh của Đấng Ki-Tô.

Ngày hôm sau của ngày 31 tháng Chạp năm -1 là ngày 1 tháng Giêng năm +1. Thế là (theo cách tính này thì – AC) không có năm 0”. (Sđd, tr. 11)

“Năm 2000 là năm cuối cùng của thế kỷ XX hay năm đầu tiên của thế kỷ XXI?

Một thế kỷ có 100 năm. Thế kỷ thứ I sau Ki-Tô bắt đầu từ ngày 1 tháng Giêng năm 1 và chấm dứt vào cuối năm thứ 100, vào ngày 31 tháng Chạp (12) năm 100.

Vậy thế kỷ thứ II bắt đầu từ ngày 1 tháng Giêng năm 101 và chấm dứt vào cuối năm 200 và cứ như thế mà tính tiếp.

Vậy thì thế kỷ XX bắt đầu từ ngày 1 tháng Giêng năm 1901 và sẽ chấm dứt vào ngày 31 tháng Chạp (12) năm 2000. Do đó phải chờ đến ngày 1 tháng Giêng năm 2001 thì mới bước sang thế kỷ XXI”. (Sđd, tr. 11)

• J.C = Jésus – Christ = Kitô. Người Pháp chỉ nói “trước Ki-Tô” hoặc “trước kỷ nguyên Ki-Tô” và “sau Ki-Tô” hoặc “của kỷ nguyên Ki-Tô” chứ không bao giờ nói “sau kỷ nguyên Ki-Tô”.

§ 638. Kiến thức ngày nay, số 348, ngày 10-4-2000

ĐỘC GIẢ: Đọc nguyên văn bài Tiết phụ ngâm của Trương Tịch trên Kiến thức ngày nay, số 342, tôi thấy có một vài chữ khang khác với bài mà tôi được biết.

Câu 5: Thiếp tại cao lâu liên uyển khởi (tại thay vì gia).

Câu 6: Lang quân chấp kích Minh Quang lý (lang quân thay vì lương nhân).

Câu 8: Sự phu thệ nghĩa đồng sinh tử (nghĩa thay vì nghĩ).

Tôi xin có nhận xét về người vợ và người đàn ông đã tặng ngọc trong bài thơ này. Một người đàn ông biết một người đàn bà (người yêu cũ?) đã có chồng rồi mà vẫn tặng ngọc cho người ta thì liệu có còn được xem là “dụng tâm như nhật nguyệt” hay không? Một người đàn bà đã có chồng mà khi được người đàn ông khác tặng ngọc lại “hệ tại hồng la nhu”, rồi khi trả ngọc thì “song lệ thuỳ” và “hận bất tương phùng vị giá thì” thì còn có thể được gọi là “tiết phụ” nữa hay không?

Trên đây là một vài ý nghĩ riêng tư; mong được nghe ý kiến của các bậc cao nhân.

AN CHI: Trong khi chờ đợi ý kiến của các bậc thức giả, chúng tôi xin trả lời ông trong khuôn khổ của “Chuyện Đông chuyện Tây” như sau.

Chúng tôi rất tiếc là ông đã không cho biết xuất xứ của văn bản mà ông đã thuộc. Những chữ bị đổi khác đã làm mất vẻ trau chuốt của nguyên tác. Còn nguyên văn bài “Tiết phụ ngâm” của Trương Tịch mà chúng tôi đã ghi lại theo quyển Đường thi của Trần Trọng Kim (Tân Việt, Sài Gòn, 1950) thì lại rất đúng với câu, chữ của chính tác giả (trừ chữ đầu của câu cuối – không liên quan đến ba trường hợp mà ông đã nêu). Vì câu hỏi của ông, chúng tôi đã đối chiếu với Toàn Đường thi do Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã in lại lần thứ 14 năm 1996 theo Ngự định toàn Đường thi, sưu tập và san định theo lệnh của hoàng đế Khang Hy nhà Thanh, do chính Khang Hy đề tựa ngày 16 tháng 4 năm Khang Hy thứ 46 (1707), thì nguyên văn, kể cả nhan đề như sau:

Tiếtphụ ngâm, ký Đông Bình Lý tư không Sư Đạo

Quân tri thiếp hữu phu

Tặng thiếp song minh chu

Cảm quân triền miên ý

Hệ tại hồng la nhu

Thiếp gia cao lâu liên uyển khỉ

Lương nhân chấp kích Minh Quang lý

Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt

Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử

Hoàn quân minh chu song lệ thuỳ

Hà bất tương phùng vị giá thì.

Cứ như trên thì văn bản mà Trần Trọng Kim đã ghi lại -cũng là văn bản được nhiều người thuộc – căn bản đúng với văn bản trong Toàn Đường thi. Duy có chữ đầu của câu cuối thì Trần Trọng Kim chép “hận” mà theo Toàn Đường thi thì lại là “hà” (= sao?). Trung Quốc lịch đại danh thi phân loại đại điển do Hồ Quang Chu và Chu Mãn Giang chủ biên, quyển 4 (Quảng Tây Nhân dân xuất bản xã, 1992, tr. 511 – 512) tuy chép chữ đầu câu cuối là “hận” nhưng có ghi chú là có bản chép “hà”. Ở đây chúng tôi chép theo văn bản của Toàn Đường thi vì chúng tôi cho rằng chữ “hà” mới đúng là chữ của Trương Tịch.

Trong Đường thi, Trần Trọng Kim đã có mấy dòng chú thích về bài “Tiết phụ ngâm” như sau: “Lý Sư-cổ làm nguyên suý ở trấn Vận, đưa lụa và ngọc sang mời Trương Tịch về giúp mình. Trương Tịch làm bài thơ này để từ tạ, không nhận”. (tr. 121)

Lời chú thích của Trần Trọng Kim chỉ giúp người đọc biết rằng Trương Tịch đã mượn lời của người tiết phụ để từ chối sự mời mọc của Lý Sư Đạo (tác giả ghi là Lý Sư Cổ) chứ chưa cho thấy rõ được nguyên nhân khiến Trương Tịch phải thoái thác. Số là vào thời trung kỳ của nhà Đường, nhiều quan đứng đầu các phiên trấn lăm le cát cứ nên thường lôi kéo các văn sĩ và quan lại ở trung ương về phía mình để làm suy yếu chính quyền trung ương. Trương Tịch là người trung thành với triều đình và kiên quyết ủng hộ sự thống nhất quốc gia. Vì thế nên ông mới khéo léo trả lời Lý Sư Đạo bằng bài thơ “Tiết phụ ngâm” trong đó “quân” chính là viên quan phiên trấn họ Lý còn “thiếp” thì chính là tác giả. Vậy, theo dụng ý của tác giả, ở đây thực tế đã không có chuyện tình xưa nghĩa cũ hoặc chuyện nàng tiết phụ ngoại tình trong tư tưởng. Dĩ nhiên người đọc có thể cảm thụ bài thơ theo khía cạnh đó; nhưng vì đây không phải là dụng ý ban đầu của tác giả nên chúng tôi xin phép không bàn đến. Vị giáo sư trường Petrus Ký mà ông Trần Thiện Liêm đã nhắc đến trong câu hỏi trên Kiến thức ngày nay, số 342 có lẽ cũng vì muốn khai thác cái dụng ý ban đầu của Trương Tịch để phê phán họ Tôn nên mới liên hệ đến bài “Tiết phụ ngâm” khi giảng về hai bài “Tôn phu nhân qui Thục” của Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị mà thôi.

§ 639. Kiến thức ngày nay, số 348, ngày 10-4-2000)

ĐỘC GIẢ: Cả mô là đồ làm biếng: “cả mô” là gì; “mô” là gì và đâu là nguồn gốc của từ này?

AN CHI: Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994) đã giảng như sau:

“Cả mô” (Phó từ) Dồn nhiều thứ, nhiều việc lại làm một lần, quá sức mình”. (tr. 118)

Còn Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của thì giảng như sau:

“Cả mô là đồ làm biếng”. Mô là mô lưng, cũng như nói lớn lưng là đồ làm biếng. Thường nói về sự gánh vác, sợ mất công, dầu không kham cũng muốn làm lấy rồi, lấy được trong một đôi lần”. (tập I, tr. 88)

“Cả mô/Làm cả mô”. Chính nghĩa là cả nây, cả mỡ. Làm lụng, bưng xách, khiêng gánh nhiều món trong một lần”. (tập 2, tr. 39)

Cứ như trên thì Huình-Tịnh Paulus Của cho rằng mô ở đây là “mô lưng” và cả mô có nghĩa là “cả nây”, “cả mỡ”. Nhưng nếu đúng như thế thì cái nghĩa đó lại chẳng có liên quan gì đến cái ý “sợ mất công, dầu không kham cũng muốn làm lấy rồi, lấy được trong một đôi lần” hoặc “làm lụng, bưng xách, khiêng gánh nhiều món trong một lần”.

Thực ra, mô ở đây có nghĩa gốc là cái ụ đất, cái đống đất nhỏ, cái gò đất nhỏ, rồi nghĩa rộng là đống, là mớ. Ngay cả từ đống trong đống rơm, đống rác, đống lửa, v.v. cũng có nghĩa gốc là cái gò đất như vẫn còn thấy trong từ tổ danh từ đẳng lập gò đống mà Nguyễn Du đã dùng trong câu Kiều thứ 49:

Ngổn ngang gò đống kéo lên.

Vậy cả mô có nghĩa là cả đống, cả mớ chứ không phải “cả nây”, “cả mỡ”. Vì vậy nên làm cả mô mới có nghĩa là “làm lụng, bưng xách, khiêng gánh nhiều môn trong một lần” như chính Huình-Tịnh Paulus Của đã giảng. Chính cái nghĩa đó sẽ góp phần làm rõ ngụ ý của câu “Cả mô là đồ làm biếng”: vì làm biếng nên mới dồn “cả đống”, “cả mớ” đồ đạc hoặc công việc lại mà làm “đại” một lần cho chóng xong thay vì phải chia ra thành nhiều lần để bảo đảm an toàn hoặc để tránh đổ bể, hư hỏng.

Mô là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 堥 mà âm Hán Việt hiện đại là mâu, có nghĩa là cái gò nhỏ. Chữ 堥 còn có một âm Hán Việt xưa hơn nữa là mu (So sánh cù xưa hơn cầu, Kiến thức ngày nay, số 346) và đây chính là chữ mu trong mu rùa (của phương ngữ Nam Bộ) vì cái mu chẳng qua cũng chỉ là một cái “gò” hiểu theo ẩn dụ mà thôi.

§ 640. Kiến thức ngày nay, số 348, ngày 10-4-2000

ĐỘC GIẢ: Từ lâu tôi vẫn nghe nói “Chim kêu vượn hót” nhưng khi tôi dùng thành ngữ này thì một vài bạn gái của tôi lại cười và cho rằng phải nói “Chim kêu vượn hú” mới đúng. Vậy xin cho biết nếu nói “vượn hót” thì có sai hay không.

AN CHI: Tự vị Annam Latinh của Pigneaux de Béhaine (1772 – 1773) đã ghi nhận từ tổ vượn hót cách đây ngót 230 năm. Trong Truyện Kiều, để tả tiếng đàn của Kiều khi nàng phải mua vui cho tiệc mừng công của Hồ Tôn Hiến, ở câu 2571, Nguyễn Du cũng đã dùng từ tổ này mà viết:

Ve ngâm vượn hót nào tầy.

Tản Đà, trong bài “Cảm thu, tiễn thu” cũng lại dùng từ tổ đó mà viết:

Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm.

Vậy nói “vượn hót” thì không có gì sai.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3