Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2: Câu hỏi 586 - 611
§ 586. Kiến thức ngày nay, số 325, ngày 20-8-1999
ĐỘC GIẢ: Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 319 có nói đến lời giải đáp liên quan đến câu thơ “Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma” của Đặng Dung mà người dẫn chương trình cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” cho là “… mài gươm bằng ánh trăng”. Mới đây, báo Giáo dục & Thời đại số 59 ra ngày thứ sáu 23-7-1999 có đăng bài của tác giả Đỗ Kim Hồi nhan đề “Về chuyện mài gươm báu trong câu thơ của Đặng Dung”. Tôi không biết ai đúng ai sai!
AN CHI: Chúng tôi rất cảm phục khi đọc bài của tác giả Đỗ Kim Hồi vì đây là một bài viết đầy tình, đầy lý. Sau đây là những ý kiến mà chúng tôi muốn phát biểu thêm nhân câu hỏi của ông.
1. Ông Đỗ Kim Hồi cho biết rằng mình không hề nói “mài bằng ánh trăng” mà nói “mài vào ánh trăng” còn chúng tôi thì lại căn cứ vào lời của bạn đọc THK (“mài bằng ánh trăng”) vì cá nhân mình không được xem buổi phát hình đó. Chúng tôi thành thật xin lỗi người soạn câu hỏi vì chúng tôi đã nghe theo bạn đọc mà thay chữ vào của tác giả bằng chữ “bằng”.
2. Ông Đỗ Kim Hồi viết tiếp: “Chỉ cần đỡ hấp tấp, đỡ chủ quan để bỏ công thêm một chút thôi, cũng có thể thấy ngay được rằng cách cảm nhận ấy (“mài gươm vào ánh trăng”) ít nhất cũng đã được nói ra một lần trước chúng tôi, trong một cuốn sách hoàn toàn không phải khó tìm. Xin hãy lật giở cuốn sách giáo khoa Văn học 10 (do Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn). Ta sẽ dễ dàng đọc thấy ngay lời chú giải về câu thơ ta đang bàn tới. “Câu 8: ý nói đã bao lần đem gươm báu… ra mài vào ánh trăng”. Người làm sách còn cẩn thận giảng thêm: “ánh trăng giãi lên hòn đá mài, gươm mài lên đá như mài lên ánh trăng”.
Ông Đỗ Kim Hồi đã viết như trên còn chúng tôi thì cho rằng “ánh trăng giãi lên hòn đá mài, gươm mài lên đá như mài lên ánh trăng” chỉ là phần mà người bình văn phân tích theo cách cảm thụ tinh tế mà hợp lý chứ không phải là cái nghĩa trực tiếp của câu “Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma”. Chính vì thế mà người biên soạn quyển Văn học 10 trên đây mới dùng hai chữ “ý nói” chứ còn phần “nghĩa là” của câu đó thì vẫn cứ là “Bao phen đội trăng mài gươm báu” mà thôi. Xét theo cái nghĩa này thì câu hỏi “Đặng Dung mài gươm bằng gì (hoặc vào gì)?” phải được trả lời là… “mài vào đá (hoặc bằng đá)” vì với câu trả lời “mài vào ánh trăng” thì cách đặt câu hỏi như đã thấy là hoàn toàn không thích hợp. Cũng như đối với câu “Rường cao rút ngược dây oan” trong Truyện Kiều thì không thể hỏi Vương ông và Vương Quan bị trói bằng gì mà lại trả lời rằng họ bị trói “bằng sợi dây oan nghiệt” vì thực ra thì họ chỉ bị trói bằng… thừng mà thôi. Đối với câu “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” của Nguyễn Trãi mà đặt câu hỏi “Nguyễn Trãi uống gì?” thì chỉ có thể trả lời rằng ông đang hớp trà hoặc nhấp rượu chứ ai lại trả lời rằng ông đang “uống trăng”!
Tóm lại chúng tôi muốn nói rằng cách đặt câu hỏi và cách trả lời liên quan đến câu thơ của Đặng Dung trên VTV3 là không thích hợp chứ không phản đối cách hiểu của người biên soạn quyển Văn học 10 vì thực ra cá nhân chúng tôi… cũng hiểu như thế. Chẳng qua do khuôn khổ hạn chế nên trên Kiến thức ngày nay, số 319, chúng tôi phải trả lời một cách quá ngắn ngủi mà thôi.
3. Ông Đỗ Kim Hồi viết: “Từ khi chuẩn bị câu hỏi, chúng tôi đã tìm đến bản chép Cảm hoài của Dương Quảng Hàm trong cuốn sách giáo khoa Việt Nam văn học sử yếu vô cùng quen thuộc. Chúng tôi gặp ở đây chữ đái (ý ông muốn nói đến chữ 帶 – AC). Chữ này, theo Đào Duy Anh, có nghĩa là đeo lấy, còn theo Nguyễn Lân, có nghĩa là mang lấy vào mình (như đái tật là mang bệnh), không hề mang nghĩa đội.
“Như vậy, muốn quả quyết đái nguyệt là đội trăng thì trước hết phải chứng minh rằng Dương Quảng Hàm đã sai lầm. Chúng tôi tự thấy không có khả năng làm điều đó. Còn nếu vẫn coi nhà sư phạm lớn họ Dương ấy đúng thì hiểu đái nguyệt ma là mang ánh trăng, đem ánh trăng để mài vào, là mài xiết vào bóng trăng có lẽ còn tự nhiên, gần gũi hơn là mài dưới bóng trăng, kiểu như nguyệt hạ độc chúc (một mình uống rượu dưới trăng); sau chữ nguyệt còn có thêm chữ hạ”.
Chúng tôi thấy giải thích nghĩa từ đái 帶 như thế e rằng không ổn vì mấy lý do sau đây.
3.1. Thơ văn Lý – Trần, tập III, của Viện văn học do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 1978 đã ghi chữ thứ 5 của câu thứ 8 trong bài thơ Cảm hoài là đái 戴, có nghĩa là đội. Và cả câu
“Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma”
đã được các nhà biên soạn sách này dịch là:
Luống tiếc bao phen mài gươm Long Tuyền dưới bóng trăng.
Còn Phan Võ (được trích trong sách này) thì đã dịch thành thơ là:
Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy.
(Xin xem tại tr. 518)
Vậy đái nguyệt 戴月 là một từ tổ cố định từ lâu đã được dùng theo ước lệ để diễn cái ý dưới ánh trăng, như nhiều người vẫn hiểu một cách bình thường, trong đó có cả Phan Võ và các nhà biên soạn Thơ văn Lý – Trần, tập III.
3.2. Hoàn toàn đúng như ông Đỗ Kim Hồi đã khẳng định, chữ đái 帶 “không hề mang nghĩa đội” mà chỉ có nghĩa là đeo, mang như đã được giảng trong nhiều quyển từ điển và như vẫn được hiểu từ xưa đến nay. Nhưng cũng chính vì cái nghĩa đó của nó mà chữ đái 帶 của Dương Quảng Hàm ở đây mới hoàn toàn lạc lõng. Thật vậy, với cái nghĩa “đeo lấy, mang lấy vào mình” của chữ này thì người ta chỉ có thể nói đái kiếm, đái cung (nghĩa là đeo gươm, đeo cung) v.v. chứ có ai lại nói đái nguyệt (nghĩa là đeo trăng, mang trăng vào người)! Còn như nói rằng đái nguyệt ma là “mang ánh trăng, đem ánh trăng để mài vào” thì cũng vô lý không kém vì ánh trăng bàng bạc khắp không gian nên biết làm thế nào mà mang nó, mà đem nó từ chỗ này tới chỗ khác?
4. Sau khi nhắc lại lời dịch thành thơ của Phan Kế Bính (“Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày”), ông Đỗ Kim Hồi đã viết tiếp: “Nếu đừng vì thiên kiến mà cố tình ép uổng ngôn từ thì cho mài bóng nguyệt là mài vào trăng, mài lên trăng còn thỏa đáng hơn là mài dưới ánh trăng hoặc dưới vầng trăng. Chúng ta đều biết ông cử Phan Kế Bính vừa là người viết văn hay, vừa là tác giả cuốn Việt-Hán văn khảo, một công trình mà những ai dù chỉ muốn mon men học hỏi một chút cổ văn cũng không thể không tìm được. Chúngtôi không tin một người như thế lại có thể hiểu lầm thi tứ hoặc sơ suất về mặt dụng ngôn”.
Chúng tôi rất nhất trí với lời đánh giá trên đây của ông Đỗ Kim Hồi về Phan Kế Bính. Chỉ xin nhấn mạnh rằng bóng nguyệt chính là hai tiếng mà Phan Kế Bính đã dùng để dịch hai tiếng đái nguyệt mà nghĩa đen là đội trăng. Chẳng qua là do sự hạn chế về số tiếng nên dịch giả đã không thể thêm từ “dưới” vào để viết thành “dưới bóng nguyệt” đó mà thôi. Ít nhất trong trường hợp này, cách hiểu của chúng tôi cũng có giá trị ngang với cách hiểu của ông Đỗ Kim Hồi vì gươm mài bóng nguyệt rõ ràng là một cấu trúc lưỡng nghĩa (ambiguous).
Vì vậy chúng tôi vẫn xin giữ nguyên lập luận của mình trên Kiến thức ngày nay, số 319.
§ 587. Kiến thức ngày nay, số 325, ngày 20-8-1999
ĐỘC GIẢ: Câu trả lời về Proserpine trên Kiến thức ngày nay, số 323 có nói rằng Diêm vương trong thần thoại Hy Lạp là Pluton. Nhưng quyển Thần thoại Hy Lạp, tập 1, của Nguyễn Văn Khỏa (Nxb. Đại học & Trung học chuyên nghiệp, 1983) lại nói rằng đó là Hadès còn Pluton thì thuộc thần thoại La Mã (tr. 112, chth. 1). Vậy đâu là sự thực?
AN CHI: Trong thần thoại Hy Lạp thì Diêm vương là Pluton (tiếng Hy lạp: Ploutôn), cũng còn gọi là Hadès (tiếng Hy Lạp: Aidês). Trong quyển La mythologie (đã nói đến trên số 323), Edith Hamilton đã viết như sau:
“Dưới ảnh hưởng đầy uy lực của nghệ thuật và văn học Hy Lạp, các vị thần La Mã xa xưa đã bị đồng hóa với các vị thần Hy Lạp tương ứng rồi chẳng mấy chốc thì bị lẫn lộn hẳn với các vị thần này”. (Sđd, tr. 41).
Nhưng Apollon và Pluton trong thần thoại La Mã – Edith Hamilton cho biết tiếp – lại là hai vị thần mang tên bằng tiếng Hy Lạp vì đó là những nhân vật mà người La Mã đã… mượn của người Hy Lạp.
Edith Hamilton là một trong những tác giả nổi tiếng trong việc nghiên cứu về Hy Lạp và La Mã cổ đại. Bà đã được phong làm công dân danh dự của thành phố Athènes, thủ đô của Hy Lạp. Quyển La mythologie của bà đã được đánh giá rất cao và sự tích Proserpine trên Kiến thức ngày nay, số 323 đã được kể theo quyển sách này của bà.
§ 588. Kiến thức ngày nay, số 325, ngày 20-8-1999
ĐỘC GIẢ: Quyển Hán Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn, mục chữ C, trang 153, có câu “Cửu Như = chín lời chúc trong Kinh Thi là:
1. Như Sơn;
2. Như Phụ;
3. Như Lăng;
4. Như Xuyên chi phương chi;
5. Như Cương;
6. Như Nguyệt chi hằng;
7. Như Nam sơn chi thọ;
8. Như Tùng Bá chi mậu”.
Lời chúc thứ 9 không có trong sách. Vậy xin bổ sung lời chúc này (cả chữ lẫn nghĩa).
AN CHI: Đó là: Như Nhật chi thăng 如日之升 (như mặt trời lên). Lời chúc này đứng hàng thứ 7 sau “Như Nguyệt chi hằng”.
§ 589. Kiến thức ngày nay, số 326, ngày 1-9-1999
ĐỘC GIẢ: Bản Kiều Nôm xưa nhất còn lưu giữ được đến ngày nay là bản nào? Xin cho biết sơ lược diện mạo và nội dung của bản đó.
AN CHI: Bản Kiều bằng chữ Nôm do nhà Liễu Văn Đường khắc in năm Tự Đức thứ 24 (1871) là bản xưa nhất còn lưu giữ được cho đến nay tại Thư viện Liên trường Đại học Ngôn ngữ Đông phương (Bibliothèque interuniversitaire des Langues Orientales) ở Paris (Pháp).
Trong chuyến đi Pháp hồi tháng 8-1998, ông Nguyễn Quảng Tuân đã tìm đọc được bản này tại thư viện nói trên. Sau đây là lời thuật và nhận xét của ông trong bài “Một vài nhận xét về bản Kiều Nôm cổ Liễu Văn đường 1871”, đăng trên tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ Thừa Thiên -Huế, số 1-1999. Về hình thức trình bày, ông Nguyễn Quảng Tuân viết:
“Toàn bản có 68 tờ (136 trang) khổ 12⨯17cm không kể tờ đầu coi như tờ bìa. Tờ bìa này trang trước ghi:
“Tự Đức nhị thập tứ niên trọng xuân tân san.
Kim Vân Kiều tân truyện
Tiên Điền Lễ tham Nguyễn hầu soạn.
Liễu Văn Đường tàng bản”.
“Trang sau khắc hai chữ “Thi vân” với bài thơ đề từ bằng chữ Hán và ở cuối hàng có ghi: “Lương Đường Phạm tiên sinh soạn”.
“Mỗi trang sách khắc 12 hàng dọc, gồm 24 câu, in mực màu xanh đậm, chia làm hai phần, phần trên ghi các câu lục, phần dưới ghi các câu bát, không có chú thích gì thêm.
“Trang cuối (68b) chỉ có 14 câu. Như vậy, tổng số câu toàn truyện là (24⨯135) + 14 = 3254 câu.
“Chữ khắc không được đẹp và có một số chữ khắc sai. Lại có 8 chữ bỏ không khắc nên khi in chỉ thấy ô vuông xanh đậm mà thôi. Riêng ở trang 5a của quyển này có một chỗ giấy mỏng quá bị thủng làm mất cả một câu”. (Bđd, tr. 133 – 134)
Về nội dung, ông Nguyễn Quảng Tuân cho biết bản này có những điểm đáng chú ý sau đây:
1. Có những chữ bị khắc ngược thứ tự.
2. Có những chữ bị chép sai và khắc sai.
3. Có những chữ bị chép sai không hợp với nghĩa của câu thơ.
4. Có những chữ Nôm viết không đúng.
5. Có những chữ khác với các bản quốc ngữ.
Về điểm 1, ông có nêu những thí dụ sau:
Câu 717 là:
Cớ chi ngồi nhẫn canh tàn.
Lẽ ra phải là “… ngồi nhẫn tàn canh” thì chữ “canh” mới vần được với chữ “tình” của câu 718 là “Nỗi riêng còn mắc với tình chi đây”.
Câu 1008 là:
Đá vàng chi nỡ ép nài mây mưa.
Lẽ ra phải là “… ép nài mưa mây” thì chữ “mây” mới vần được với chữ “đây” của câu 1009 là “Lỡ chân trót đã vào đây”.
Về điểm 2, ông đã nêu những thí dụ sau:
Câu 1276 là:
Kỳ Tâm họ Thúc cũng dòng thư hương.
Lẽ ra phải là “… cũng nòi thư hương” thì chữ “nòi” mới vần được với chữ “người” của câu 1275 là “Khách du bỗng có một người”.
Câu 2952 là:
Hai nhà cùng thuận một ngày phó quan.
Lẽ ra phải là “… cùng thuận một đàng…” thì chữ “đàng” mới vần được với chữ “vàng” của câu 2951 là “Sắm sanh xe ngựa vội vàng”.
Câu 2973 là:
Cơ duyên đâu bỗng lạ thay.
Lẽ ra phải là “… lạ sao” thì chữ “sao” mới vần được với chữ “vào” của câu 2974 là “Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi”.
Về điểm 3, ông đã nêu những thí dụ sau.
Câu 168 là:
Khách đà xuống ngựa người còn ghé theo.
Thực ra đây là lúc Kim Trọng từ giã ba chị em Kiều rồi lên ngựa đi về nên lẽ ra câu 168 phải là:
Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo.
Câu 190 là:
Nhạc vàng lãng đãng như gần như xa.
Ông Nguyễn Quảng Tuân phân tích rằng đây là lúc Kiều mộng thấy Đạm Tiên bước lãng đãng, chập chờn như một bóng ma nên câu 190 lẽ ra phải là:
Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
(Sen vàng chỉ gót chân người đẹp).
Câu 1919 là:
Đưa chàng đến trước Phật đường.
Câu này nói đến việc đưa Kiều ra Quan Âm các nên chữ “chàng” ở đây hoàn toàn không thích hợp. Lẽ ra phải là:
Đưa nàng đến trước Phật đường.
Về điểm 4, ông đưa ra mấy thí dụ sau.
Chữ thuyền trong câu “Thuyền trà cạn nước hồng mai” (câu 1991, được viết là 船. Ông Nguyễn Quảng Tuân cho rằng chữ này phải được viết là 禪 (thiền = liên quan đến nhà chùa) vì thuyền trà tức thiền trà là chén trà của nhà chùa. Riêng về trường hợp này, trên một kỳ Kiến thức ngày nay, chúng tôi cho rằng chữ 船 (thuyền) là đúng vì trà thuyền trong tiếng Hán có nghĩa là cái dĩa (soucoupe) để đựng, để đỡ cái chén trà ở bên trên. Nguyễn Du đã đảo trà thuyền thành thuyền trà cũng như ông đã đảo nguyệt cầm thành cầm nguyệt, danh thiếp thành thiếp danh (câu 2177)…Chúng tôi cho rằng đây là trường hợp dị bản chứ không hẳn là chữ Nôm viết không đúng.
Chữ thứ 4 trong câu “Dễ đem gan óc đền nghì trời mây” (câu 2426) lẽ ra là 腛 (óc) đã bị viết sai thành * (ốc).
Về điểm 5, ông đã nêu nhiều thí dụ mà sau đây là một số trường hợp (LVĐ là bản Liễu Văn Đường còn QN là các bản quốc ngữ):
Câu 27: LVĐ là “Tiết vừa con én đưa thoi” còn QN là “Ngày xuân con én đưa thoi”.
Câu 169: LVĐ là “Dưới khe nước chảy trong veo” còn QN là “Dưới cầu nước chảy trong veo”.
Câu 917: LVĐ là “Lầu thu từng biếc chen hồng” còn QN là “Rừng thu từng biếc chen hồng”.
Câu 2118: LVĐ là “Phải cung rày đã sợ làn mây cong” còn QN là “Phải cung rày đã sợ làn cây cong”.
Trở lên là một số nhận xét của Nguyễn Quảng Tuân về nội dung bản Liễu Văn Đường 1871. Sau khi từ Pháp về, ông đã nhận được từ một người bạn bên Pháp một bản photocopy toàn bộ bản Kiều Liễu Văn Đường này. Một tin mừng quan trọng nữa là ông Đào Thái Tôn ở Hà Nội cũng đã nhận được một bản chụp bản Kiều Liễu Văn Đường này và có thông báo sẽ công bố nó bằng phương pháp in chụp hiện đại để cống hiến cho giới nghiên cứu và độc giả yêu thích Truyện Kiều.
§ 590. Kiến thức ngày nay, số 326, ngày 1-9-1999
ĐỘC GIẢ: Tước hiệu của Đức Thánh Trần là:
Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Bình Bắc Đại nguyên soái Long công Thịnh đức vĩ liệt hồng huân Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn.
Thế mà trong các bài của An Chi và một số tác giả khác, khi thì viết Trần Hưng Đạo, lúc thì viết Hưng Đạo Vương. Theo thiển ý, tước Đại vương chỉ dành riêng cho vài vị anh hùng có chiến công oanh liệt. Viết “Trần Hưng Đạo” hay “Hưng Đạo Vương” là một thiếu sót lớn. Tôi tự hỏi hay là các ông có cách viết “giản dị” mới. Tôi xin đề nghị viết: Trần Quốc Tuấn, Hưng Đạo đại vương. Rất mong ông An Chi trả lời sớm trên Chuyện Đông chuyện Tây.
AN CHI: Chúng tôi rất tán thành ý kiến của ông vì đó là lời góp ý nghiêm túc và chính xác. Tuy nhiên, cách viết của chúng tôi thì lại chẳng mới mẻ gì vì chẳng qua chúng tôi cũng đi theo… vết xe cũ của người trước. Bằng chứng là tại Mỹ Tho, Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều nơi khác đã có những con đường hoặc ngôi trường mang tên “Trần Hưng Đạo”. Còn Trần Trọng Kim, trong Việt-nam sử-lược, ngay tại mục “Trần Hưng-Đạo-vương mất” thì vẫn gọi Đức thánh Trần là “Hưng-Đạo-vương” mặc dù sử gia của chúng ta cũng đã ghi nhận tại mục này rằng “Hưng-đạo-vương (…) được phong làm: “Thái-sư, Thượng-phụ, Thượng quốc-công, Bình-bắc đại nguyên-suý, Hưng-đạo đại vương”. Nhiều nhà viết sử khác cũng đã gọi như Trần Trọng Kim.
§ 591. Kiến thức ngày nay, số 327, ngày 10-9-1999
ĐỘC GIẢ: Cu tí, cu tỉ, cu tị, cu tì ơi: tỉ, tị, tì là những “khúc biến tấu” của chữ tí nhưng chính chữ tí thì do đâu mà ra?
AN CHI: Tí là âm Hán Việt xưa, rất xưa, của chữ 子 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là tử, có nghĩa là con hoặc con trai, nhưng ngày xửa, ngày xưa, rất xưa, thì còn có cả cái nghĩa là con… gái nữa. Bằng chứng hiển nhiên cho mối tương ứng ngữ âm tí~ tử liên quan đến chữ 子 là chữ này còn được dùng theo lối giả tá để ghi âm cho tên của chi đầu tiên trong 12 địa chi: chi này tên là Tí, như ai nấy đều biết.
Xin nói thêm rằng theo chúng tôi, đĩ trong cái đĩ (đối với thằng cu) chính là một điệp thức (doublet) rất xưa của tí 子, khi mà chữ này còn có cả cái nghĩa là con gái và khi mà âm đầu của nó hãy còn là một phụ âm hữu thanh, biết rằng từ vựng của tiếng Việt hiện đại là cái kho hãy còn “tàng trữ” rất nhiều âm xưa và nghĩa xưa của tiếng Hán. Đĩ trong đĩ điếm chẳng qua chỉ là đĩ trong cái đĩ dùng theo nghĩa phái sinh mà thôi chứ chẳng có liên quan gì đến kỹ 妓 trong kỹ nữ như Lê Ngọc Trụ đã nêu trong Tầm nguyên tự-điển Việt-Nam (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993) cả.
§ 592. Kiến thức ngày nay, số 328, ngày 20-9-1999
ĐỘC GIẢ: Tiếng Anh có lối nói lái như tiếng Việt hay không? Nếu có thì đâu là chỗ giống nhau và/hoặc khác nhau giữa hai bên?
AN CHI: Cái tương đương với lối nói lái của tiếng Việt thì tiếng Anh gọi là spoonerism. Danh từ này được xem là phái sinh từ họ (kiểu danh từ riêng + ism) của William Archibald Spooner (1844 – 1930); từng là hiệu trưởng của New College (Oxford), người được xem là tác giả của nhiều câu nói có liên quan đến hiện tượng spoonerism.
Chẳng hạn, khi quở trách một sinh viên, thay vì nói “You have missed my history lecture” (Anh đã không nắm được bài giảng của tôi về môn lịch sử) thì ông lại nói “You have hissed my mystery lecture” (Anh đã huýt sáo chê bài giảng khó hiểu của tôi). Và ông đã nói “You have tasted the whole worm” (Anh đã nếm trọn con sâu) thay vì nói “You have wasted the whole term” (Anh đã bỏ lỡ cả khóa học). Spooner cũng được xem là người đã nói câu: “Work is the curse of the drinking classes” (Lao động là tai ương của các giai cấp nhậu nhẹt) thay vì “Drink is the curse of the working classes” (Thói nhậu nhẹt là tai ương của các giai cấp cần lao).
Trong các thí dụ trên, “missed (…) history” đã bị nói lái thành “hissed (…) mystery”, “wasted (…) term” thành “tasted (…) worm” và “drink (…) working” thành “work (…) drinking”.
Nói chung, ngữ học xem hiện tượng spoonerism trước hết là những nhầm lẫn trong lời nói (speech errors), là những trường hợp nhịu lưỡi (slips ofthe tongue) rồi sau đó mới là những cách chơi chữ (mà cũng rất hãn hữu). Có lẽ chính vì thế mà Từ điển Anh Việt của Viện Ngôn ngữ học do Lê Khả Kế, Đặng Chấn Liêu và Bùi Ý hiệu đính (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975) mới dịch spoonerism là “sự nói ngọng” còn Từ điển Anh-Việt của nhóm Hồ Hải Thụy (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993) thì dịch là “nói nhịu”. Trong The Encyclopedia of Languages and Linguistics do R. E. Asher làm tổng biên tập (10 vols., Pergamon Press, 1994), danh từ spoonerism đã không được ghi thành một từ mục riêng mà chỉ được nhắc đến và nhận xét tại ba mục “Speech Errors”, “Speech Play” (vol.8) và “Verbal Dyspraxia” (vol.9). Trong công trình đồ sộ này, tác giả của mục “Speech Errors” (Những lầm lẫn trong lời nói) là H. L. Petrie đã khẳng định rằng những câu nói trên kia của W. A. Spooner là những sự nhầm lẫn. Tác giả của mục “Speech Play” (tạm dịch là “Chơi chữ”) là M. L. Apte cũng không cho rằng đó là những trường hợp mà Spooner đã cố ý chơi chữ. Còn tác giả của mục “Verbal Dyspraxia” (tạm dịch là “tật khó khăn trong việc thực hiện lời nói”) là M. Edwards thì đương nhiên đã xem là Spooner bị mắc tật “nói nhịu”.
Với tính cách là một cái tật, lối nói lái thỉnh thoảng vẫn được bắt gặp trong lời nói của người Việt Nam, kể cả ở một vài phát thanh viên truyền thanh hoặc truyền hình. Chẳng hạn, thay vì đọc “nuôi được hai con trâu”, phát thanh viên đã đọc thành “nuôi được hai câu..” (câu tron – con trâu), thay vì đọc “đã sáng tác bài ca ấy” thì lại đọc thành “đã sáng tác bà…” (bà cai – bài ca) v.v.. Rất may là thường thường người ta đã kịp thời sửa ngay khi còn chưa đọc đến tiếng sau (của phần bị nói lái). Tất nhiên đây chỉ mới là những biểu hiện còn nhẹ nhàng của “tật” nói lái mà nhiều người có thể mắc phải vài (hoặc nhiều) lần trong đời.
Riêng trong tiếng Việt thì, tạm gác khía cạnh “tật” sang một bên, cách nói lái là một hình thức chơi chữ tế nhị và sâu sắc mà người ta có thể thực hiện được một cách rộng rãi và dễ dàng hơn là trong bất cứ thứ tiếng châu Âu quen thuộc nào. Những giai thoại văn chương liên quan đến cách nói lái còn truyền tụng cho đến nay là một minh chứng mà nhiều người đã biết. Cuộc thi nói lái trên tạp chí Thế giới mới dạo nào là một minh chứng sinh động khác. Còn những chuyện nói lái về sinh hoạt xã hội thời nay thì hầu như không mấy ai không biết: video (vi đê ô) – vô đi ê; SIDA – xa đi; đấu tranh – tránh đâu; đầu tiên – tiền đâu; thi đua – thua đi; hiện đại – hại điện v.v.. Về mặt này thì tiếng Anh không bao giờ bắt kịp được tiếng Việt vì mỗi bên thuộc một loại hình ngôn ngữ riêng biệt. Lối nói lái, với tính cách là một kiểu chơi chữ, chỉ thực sự thích hợp với kiểu ngôn ngữ đơn lập điển hình như tiếng Việt mà thôi. Dĩ nhiên là không nhờ thế mà tiếng Việt lại ưu việt hơn tiếng Anh còn người Anh thì cũng không có nhu cầu và thói quen chơi chữ bằng spoonerism một cách rộng rãi như người Việt Nam đối với cách nói lái.
Cuối cùng, xin nói rằng, với tính cách là một trò chơi – chứ không phải là chơi chữ kiểu văn chương, trí tuệ – thì hiện tượng Pig Latin của trẻ con nói tiếng Anh lại rất giống với hiện tượng lái tộ, lái dĩa – cũng chủ yếu là trò chơi trẻ con – trong tiếng Việt. Với kiểu lái tộ, thì một câu như “Nó không biết điều đó” sẽ là “Nố tọ khô tộng bố tiệt đồ tiệu đố tọ” (mỗi tiếng trong câu đều được nói lái với chữ tộ). Còn với kiểu lái dĩa thì câu đó sẽ là “Nía dõ khia dỗng bĩa diết đìa diễu đía dõ” (mỗi tiếng trong câu đều được nói lái với chữ dĩa). Với hiện tượng Pig Latin thì phụ âm đầu của mỗi từ được tách khỏi phần vần để đưa ra phía sau rồi thêm ay [ej] vào. Do đó, một câu như “He does not know it” (nó không biết điều đó) sẽ trở thành “Ehay oesday otnay owknay itay” trong kiểu Pig Latin (mỗi tiếng trong câu đều được nói lái với chữ ay). Rõ ràng là Pig Latin trong tiếng Anh rất giống với lái tộ và lái dĩa trong tiếng Việt. Khác nhau chỉ là ở chỗ với lái tộ và lái dĩa thì kết quả lái là tiếng trước (“nố tọ” lái lại thành “nó tộ”; “khô tộng” lái lại thành “không tộ”; v.v…) còn với Pig Latin thì kết quả lại là tiếng sau (“ehay” lái lại thành “ay-he”, “oesday” lái lại thành “ay-does” v.v.).
§ 593. Kiến thức ngày nay, số 328, ngày 20-9-1999
ĐỘC GIẢ: Nhân vật Lâm Công Tuyển (1824 – 1883), sau khi đỗ đạt và ra làm quan, đã được vua Tự Đức ban cho tên mà chữ Hán viết là 宏. Trong Việt-Nam sử lược (ấn bản năm 1949 của Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, tr. 534), sử gia Trần Trọng Kim đã đọc tên của nhân vật lịch sử này là Lâm Hoằng và ghi kèm theo chữ Hán là 林宏. Xin cho biết tại sao chữ 宏 lại đọc là “Hoằng”?
AN CHI: Âm chính xác của chữ 宏 là “hoành” như đã cho trong tất cả các quyển từ điển tiếng Hán từ Quảng vận cho đến Khang Hy tự điển, Từ nguyên, Từ hải, Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển, Hán ngữ đại tự điển, v.v.. Việt-Hán thông thoại tự vị của Đỗ Văn Đáp, Hán-Việt từ-điển của Đào Duy Anh, Hán-Việt tự-điển của Thiều Chửu, Hán-Việt tân từ-điển của Nguyễn Quốc Hùng, v.v. cũng đều ghi âm của nó là “hoành”.
Vậy “hoằng” là một âm đọc sai của chữ 宏. Bên Trung Hoa, vì kỵ húy của vua Hoằng Lịch nhà Thanh nên mới thay chữ 弘 (hoằng) bằng chữ 宏 (hoành) chứ ta thì chẳng có lý do gì mà kỵ húy theo Tàu cả.
§ 594. Kiến thức ngày nay, số 328, ngày 20-9-1999
ĐỘC GIẢ: Trang 15 tạp chí Xưa & Nay, số 60, tháng 2-1999 (Tết Kỷ Mão) có đôi câu đối sau đây:
Xưa dùi mài kinh sử luôn nhớ gia phong thi lễ.
Nay mải miết học hành chẳng quên trọng đạo tôn sư.
Xin cho biết “đối” như thế có ổn hay không.
AN CHI: Dùi mài đối với mải miết thì không chỉnh vì mải miết có hình thức láy còn dùi mài thì không. Kinh sử là một từ tổ danh từ nên không thể đối với học hành là một từ tổ vị từ. Gia phong cũng là một từ tổ danh từ nên không thể đối với từ tổ vị từ trọng đạo. Từ tổ danh từ thi lễ cũng không đối được với từ tổ động từ tôn sư. Tóm lại, đó không phải là hai câu đối.
§ 595. Kiến thức ngày nay, số 329, ngày 1-10-1999
ĐỘC GIẢ: Sinh thời, học giả Hoàng Xuân Hãn từng nói đến dự định công bố bản Kiều do ông khảo dị và phiên âm. Xin cho biết sơ lược cách làm của học giả Hoàng Xuân Hãn. Nay học giả đã qua đời, vậy việc công bố bản Kiều đó có được thực hiện hay không?
AN CHI: Về quyển Kiều do mình khảo dị và phiên âm thì chính Hoàng Xuân Hãn đã giới thiệu như sau:
“Công việc của tôi làm, hầu hết là công việc kế toán. Tôi lấy tám bản Kiều đời Tự Đức, là đời xưa, tôi so sánh từng chữ một. Trong một chữ ấy, tám cuốn ấy viết như sau hay là khác nhau thì khác như thế nào? Nếu in những cuốn ấy ra thì cũng là một cuốn lớn rồi. Tôi nghĩ rằng cũng không cần làm những cuốn như thế. Chỉ làm cái kết quả mà tôi đã xét đoán ấy. In ra thì cũng thành cái bản Kiều tôi gọi là bản Kiều Tầm Nguyên, tìm cái gốc. Rồi những chữ mà nó khác bây giờ thì tôi sẽ chú thích rằng tôi lấy ở đâu, hay là vì cái chữ Nôm tôi đọc là thế nào, hoặc chữ Nôm tôi đoán là thế nào. Thì cũng chỉ như những bản Kiều khác, chứ không có gì khác lắm”.*
Vậy, như chính Hoàng Xuân Hãn đã khẳng định, quyển Kiều của ông “cũng chỉ như những bản Kiều khác, chứ không có gì khác lắm”. Nhưng có một điều làm chúng tôi băn khoăn: cái mà ông gọi là “tám bản Kiều đời Tự Đức” lại bao gồm cả những bản sau đời Tự Đức. Quả có như thế, vì con rể của học giả Hoàng Xuân Hãn là ông Nghiêm Xuân Hải đã cho biết rõ ràng như sau:
“Bát Kiều là 8 bản mà HXH dùng để hiệu đính, (…):
1. Bản nôm Duy Minh Thị 1872, hiện nay có trong thư viện HXHãn (…).
2. Bản quốc ngữ Trương Vĩnh Ký 1875, thư viện có bản in lần thứ ba năm 1911.
3. Bản nôm Kiều Oánh Mậu 1902, thư viện có bản mà HXH nhờ Hoàng Xuân Vịnh sao lại.
4. Bản quốc ngữ Phạm Kim Chi 1917 (…), có bản in năm 1975.
5. Bản Huế (nôm) (microfilm của EFEO, bản sao của thư viện có chép tên tác giả Nguyễn Du và tên hai người bình luận là Vũ Trinh và Nguyễn Lượng).
6. Bản nôm Liễu Văn Đường 1871, có ở INALCO, code (sic) VN.IV.468 Liễu Văn Đường mà chưa xin được. Bản này chắc có ở Việt Nam vì đã được ông Nguyễn Thạch Giang nghiên cứu và giới thiệu trong sách “Truyện Kiều”. Nhà Xuất bản Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội (1976).
7. Bản Nôm Thịnh Mỹ Đường 1879 hiện có trong thư viện.
8. Bản Thịnh Văn Đường 1882. Bản chót này chúng tôi chưa tìm ra”.
Trở lên là nguyên văn của ông Nghiêm Xuân Hải trong bài “Di sản Hoàng Xuân Hãn” (bản thảo tạm thời), viết dưới danh nghĩa của Hội văn hóa giáo dục Cam Tuyền để phân phát cho một số người. Cứ theo lời của ông Hải mà nhận xét thì các bản số 2, số 3, số 4 đâu phải là những bản đời Tự Đức. Bản số 2 in năm 1911, theo lời ông Nguyễn Quảng Tuân (trao đổi riêng), có hơn 100 chỗ sai so với bản in lần đầu tiên năm 1875, niên hiệu Tự Đức thứ 28. Huống chi đây chỉ là một bản phiên âm quốc ngữ. Đặc biệt, về bản số 8 thì ông Nghiêm Xuân Hải đã viết rõ ràng như sau:
“Xin ai có biết bản in tốt hơn những bản trên đây, và nhất là bản Thịnh Văn Đường 1882 (HXH có được đọc ở nhà cụ Hoàng Huấn Trung trước chiến tranh, nay may ra các hậu duệ còn giữ được) thì chỉ giúp”.
Hoàng Xuân Hãn chỉ mới đọc được bản số 8 tại nhà ông Hoàng Huấn Trung thì làm sao có thể khảo dị được mà đưa vào “Bát Kiều”? Đồng thời, cũng theo lời ông Nghiêm Xuân Hải, bản số 6 nằm ngay trong thư viện INALCO ở bên Pháp mà Hoàng Xuân Hãn cũng không có vì chưa xin được. Đây là một chuyện lạ vì hiện nay, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 326, tại Việt Nam, ông Nguyễn Quảng Tuân và ông Đào Thái Tôn đều đã có mỗi người một bản photocopy. Ngay cả bản Kiều Oánh Mậu, tuy đã có trong thư viện Hoàng Xuân Hãn nhưng cũng chỉ là “nhờ Hoàng Xuân Vịnh sao lại”, vậy liệu có tuyệt đối tránh được việc chép sai, chép nhầm hay không?
Từ những điều trên đây, có thể nhận xét rằng công việc khảo dị và phiên âm Truyện Kiều của Hoàng Xuân Hãn hãy còn dở dang. Mà chính Hoàng Xuân Hãn cũng đã nói:
“Như quyển Kiều của tôi, nó 50 năm rồi, nó cứ nằm thế, không có khi nào có một thời gian khá dài để viết ra thành quyển sách cả. Những cái tôi đã viết về Kiều bây giờ tôi đọc cũng không được nữa. Mực nó đã nhờn đi, nhiều khi đã 40, 50 năm rồi, mờ đi cả rồi, mắt lại kém nữa. Vì thế tôi cũng muốn làm sao, ít nữa in ra cái cơ bản để cho người khác tiếp tục”. (Hoa Lục Bình, Bđd, tr. 15).
Vậy không biết quyển Kiều tầm nguyên của Hoàng Xuân Hãn mà ông Nghiêm Xuân Hải đang vận động tài chính để lo liệu việc ấn loát là “cái cơ bản” hay cái đã hoàn chỉnh? Ông Hải có cho biết rằng “Theo ý của bác (Hoàng Xuân Hãn – AC), GS. Nguyễn Huệ Chi ở Viện văn học Việt Nam 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội, đã nhận biên tập xuất bản sách Kiều Tầm Nguyên thành tập II trong ba tập góp thành bộ Nguyễn Du Toàn Tập”. Vậy hẳn tập II của bộ Nguyễn Du toàn tập này chỉ là “cái cơ bản” mà Hoàng Xuân Hãn đã nói đến chăng?
§ 596. Kiến thức ngày nay, số 329, ngày -10-1999
ĐỘC GIẢ: Về nghĩa thì niên là năm nhưng về nguồn gốc thì năm có phải là do niên mà ra hay không?
AN CHI: Năm (trong quanh năm suốt tháng) đúng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở chữ 秊, nay viết thành 年, mà âm Hán Việt hiện đại là niên, có nghĩa là… năm. Trong Đồng nguyên tự điển (Bắc Kinh, 1997), Vương Lực đã chứng minh bằng nhiều cứ liệu cụ thể rằng niên 年 và nhẫm 稔 (cũng có nghĩa là năm) là hai từ cùng gốc (đồng nguyên). Vậy phụ âm cuối -m của năm chính là cái gạch nối giữa -n cuối của niên với -m cuối của nhẫm. Và năm rõ ràng là có quan hệ về nguồn gốc với niên.
§ 597. Kiến thức ngày nay, số 330, ngày 10-10-1999
ĐỘC GIẢ: Có phải tên cây đàn dương cầm trong tiếng Anh và tiếng Pháp đều bắt nguồn từ tiếng Ý piano có nghĩa là bằng phẳng hay không? Trên thế giới, còn có những ngôn ngữ quen thuộc nào cũng mượn danh từ này của tiếng Ý?
AN CHI: Danh từ piano trong tiếng Anh không bắt nguồn từ tiếng Ý mà lại được mượn trực tiếp từ tiếng Pháp. Chỉ có danh từ piano trong tiếng Pháp mới là mượn thẳng từ tiếng Ý pianoforte hoặc fortepiano (đây mới đúng là tên cây đàn dương cầm trong tiếng Ý) mà ban đầu người Pháp cũng giữ đầy đủ nguyên dạng như đã được ghi nhận trong Dictionnaire général de la langue française của Adolphe Hatzfeld và Arsène Darmesteter (Delagrave, 1964, tome second): “(Piano là) lối nói rút gọn từ piano-forte hoặc forte-piano, mượn từ tiếng Ý pianoforte hoặc fortepiano, cùng nghĩa. Từ điển của Viện Hàn lâm còn ghi nhận piano-forte và forte-piano, nay không còn lưu hành nữa”.
Trong tiếng Ý, piano bắt nguồn từ tiếng La Tinh planis có nghĩa gốc là bằng phẳng rồi mới có nghĩa phái sinh (trong tiếng Ý) là nhẹ nhàng, thong thả, như cũng thấy được qua câu tục ngữ:
“Chi va piano va sano; chi va sano va lontano”, nghĩa là “Ai đi thong thả thì đi an toàn; ai đi an toàn thì đi được xa”.
Về sau, từ piano đã được ghép với từ phản nghĩa forte (mạnh mẽ) mà tạo thành danh từ pianoforte (hoặc fortepiano) để chỉ cây đàn dương cầm mà từ lâu tiếng Việt cũng đã gọi là piano (đọc theo âm tiếng Pháp [pjano] chứ không phải âm tiếng Anh [piænəʊ].
Các ngôn ngữ Rôman khác – tiếng Pháp và tiếng Ý cũng là những ngôn ngữ Rôman – như tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Romania (Rumani) cũng dùng từ piano. Các ngôn ngữ Germanic thì chia làm hai nhóm: – tiếng Đức gọi cây đàn piano là Klavier; rồi tiếng Đan Mạch cũng theo đó mà gọi là Klaver; còn tiếng Hà Lan, tiếng Thụy Điển và tiếng Na Uy thì gọi là piano (như tiếng Anh, cũng là một ngôn ngữ Germanic). Các ngôn ngữ Slav cũng chia làm hai nhóm: tiếng Czech (Tiệp) và tiếng Serb-Croat ở Nam Tư thì gọi theo tiếng Đức thành Klavir còn tiếng Nga thì gọi là pianino và tiếng Ba Lan là fortepian.
Tiếng Nhật cũng gọi là piano. Tiếng Hán hiện đại (tiếng phổ thông) thì gọi cây đàn piano là cương cầm (gāngqín) 鋼 琴 còn dương cầm (yángqín) 洋 琴 hoặc 揚 琴 thì lại dùng để chỉ cây đàn hạc (harpe).
§ 598. Kiến thức ngày nay, số 330, ngày 10-10-1999
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Bố và Vua” (Ngôn ngữ & Đời sống, số 9-1999), tác giả Dương Xuân Đống đã cho rằng “Từ xa xưa, bố đã xuất hiện và còn lại đến ngày nay trong cụm từ bô lão và các biến thể của nó như pò trong ngôn ngữ Tày – Thái, pô trong các ngôn ngữ Chăm, Tây Nguyên, bọ trong phương ngữ Nghệ Tĩnh”. Tác giả còn nói thêm rằng “Trong các ngôn ngữ Chăm, Tây Nguyên, pô vừa có nghĩa là bố lại vừa có nghĩa là thầy”. Xin cho biết các ý kiến trên đây có xác đáng hay không.
AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 170, chúng tôi đã chứng minh rằng bố là một từ Việt gốc Hán có một biến thể ngữ âm là bô trong bô lão (chứ không phải là một từ “thuần Việt”) nên xin không nhắc lại tỉ mỉ ở đây. Còn bọ trong tiếng Nghệ Tĩnh là một điệp thức của bố đồng thời là một hình thái cổ xưa hơn cả bố.
Nó xuất hiện lúc mà nguyên âm chính của chữ phụ 父 còn là nguyên âm rộng o [ɔ] chứ chưa “thu hẹp” thành nguyên âm vừa ô [o] như trong bố, càng chưa “thu hẹp” đến mức của nguyên âm hẹp u [u] như trong phụ. Nói cách khác, nó xuất hiện lúc mà nguyên âm chính của chữ bố 布, mà chữ phụ 父 là thanh phù (xin xem lại số 170), hãy còn là o [ɔ] như được xác nhận bằng nguyên âm chính của từ vỏ (lớp bọc ngoài), là một điệp thức cổ xưa của bố 布, mà “vải” chẳng qua chỉ là một nghĩa phái sinh từ cái nghĩa gốc là “vỏ”.
Từ có nghĩa là “bố” và từ có nghĩa là “mẹ” trong các ngôn ngữ Tày- Thái, chẳng hạn pỏ (bố) và mẻ (mẹ) trong tiếng Tày, chẳng qua cũng chỉ là những từ gốc Hán và bắt nguồn ở các từ phụ 父 và mẫu 母 của tiếng Hán mà thôi. Từ có nghĩa là cha trong các ngôn ngữ này cũng xưa tương đương với từ bọ trong tiếng Nghệ Tĩnh còn từ có nghĩa là mẹ trong các ngôn ngữ đó cũng xưa tương đương với chính từ mẹ trong tiếng Việt vì đều bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 母 (mẫu) khi mà nguyên âm chính của chữ này hãy còn là một nguyên âm hàng trước, hoặc nếu có là nguyên âm hàng sau thì cũng là một nguyên âm không tròn môi. Trần Đệ, đời Thanh, cho rằng âm thượng cổ của chữ 母 đọc như chữ mễ 米 còn Vương Lực thì cho rằng âm thượng cổ của nó thuộc vận chi 支 (nên rất gần với e ở trong mẹ).
Có ý kiến cho rằng trong tiếng Việt, bố, mẹ, ba, má là những từ gốc Nam Á vì điều này còn có thể thấy được qua tiếng Bru với hai từ mpơaq (cha) và mpiq (mẹ). Ý kiến này không thỏa đáng vì những lý do sau đây:
– Nếu quả tiếng Việt là một ngôn ngữ Nam Á thì mối liên quan giữa nó với tiếng Bru cũng không có tính chất trực hệ; vì vậy nên không thể áp dụng phương pháp so sánh một cách phiêu lưu chỉ vì một sự giống nhau ở bề ngoài. Tiếng Anh và tiếng Iran cũng là bà con với nhau đấy nhưng tính từ bad của tiếng Anh và tính từ bad của tiếng Iran, đều có nghĩa là xấu, thì lại chẳng có họ hàng gì với nhau vì đó chỉ là một sự trùng hợp hoàn toàn ngẫu nhiên.
– Tiếng Bru đã mượn quá nhiều từ của tiếng Việt qua nhiều giai đoạn từ cổ đại cho đến hiện đại – và nhiều khi đã Bru hóa chúng một cách rất… Bru – cho nên sự giống nhau giữa nhiều cặp từ của hai bên không phải lúc nào cũng biểu hiện một mối quan hệ có tính chất cội nguồn chung. Xin nhớ đến cái thí dụ đã trở thành cổ điển liên quan đến danh từ có nghĩa là sự trừng phạt trong nhiều ngôn ngữ Ấn Âu (Hy Lạp poinê, La Tinh poena, Ireland cổ pian, Gall poen, Cổ thượng Đức pina, Đức hiện đại pein, Anh cổ pin, Anh hiện đại pine, pain, Pháp peine, v.v.) mà A. Meillet đã nêu lên trong Introduction à l’étude comparative des langues indo-européennes. Các từ đó không bắt nguồn từ một nguồn gốc Ấn Âu chung vì sự giống nhau ở bề ngoài của chúng chỉ là kết quả của sự vay mượn.
– Hai từ ba, má, vốn rất mới trong tiếng Việt, chỉ là những đơn vị “tân tuyển” của tiếng Đàng Trong (xin xem lại số 170), cho đến nay cũng chưa lọt được vào từ vựng chung của ngôn ngữ toàn dân. Vì vậy chúng không thể nào có quan hệ cội nguồn chung với hai từ đã nêu của tiếng Bru.
– Đều là mp(…)q cả nhưng tại sao mp(…)q ở trong mpơaq thì ứng với b- (trong bố hoặc ba) còn mp(…)q ở trong mpiq thì lại ứng với m- (trong mẹ hoặc má)? Không có cách gì để giải thích sự chệch choạc đó về mặt âm lý.
Tóm lại, theo chúng tôi, bố, mẹ, ba, má đều không phải là những từ gốc Nam Á. Còn từ pô trong tiếng Chăm và một số ngôn ngữ khác ở Tây Nguyên thì lại không có nghĩa là cha mà cũng chẳng có nghĩa là thầy. Nó chỉ có nghĩa là “ngài”, nghĩa là một từ dùng để tôn xưng mà thôi. Tiếng Tagalog ở Philippines cũng có một từ giống hệt như thế, mà lại còn dùng để chỉ cả phái đẹp nữa, như đã được ghi nhận trong từ điển, chẳng hạn trong English – Tagalog and Tagalog – English Dictionary của Maria Odulio de Guzman (Manila, 1966): “Pô – Particle used in respectful address like Sir or Madam”. (Tiểu từ dùng trong lời xưng hô tôn kính giống như Ngài hoặc Phu nhân). Một từ chẳng những không có nghĩa là cha, mà lại còn dùng để nói với cả phụ nữ nữa, thì làm sao có thể đem ra để so sánh với bố! Huống chi, nó lại bắt nguồn từ tiếng Sanskrit pa, có nghĩa gốc là người che chở, chăn dắt?
§ 599. Kiến thức ngày nay, số 330, ngày 10-10-1999
ĐỘC GIẢ: Chuyện Đông chuyện Tây (Kiến thức ngày nay, số 153) có nói đến hai tiếng bốc phệ. Vậy bốc phệ là gì?
AN CHI: Về hai tiếng bốc phệ, trong quyển Kinh Dịch và cấu hình tư tưởng Trung Quốc, viết chung với Dương Ngọc Dũng (Nxb. Khoa học Xã hội, 1999). Lê Anh Minh đã cho biết như sau:
“Trong hai chữ bốc phệ, bốc 卜 tức là phép bói rùa (bói giáp cốt) và phệ 筮 là phép bói bằng cỏ thi.
(…) Cách bói bằng mai rùa và xương thú được gọi là bốc 卜. Chữ bốc gồm một nét dọc (tung) và một nét ngang (hoành), tượng trưng nét nứt trên mai rùa sau khi bị hơ nóng (…) Cổ nhân muốn dự đoán công việc tốt xấu ra sao, đa số thường nung nóng mai rùa để tìm vết nứt mà đoán” (tr. 576 – 577).
“Bói Dịch gọi là phệ 筮, là phép bói của đời Chu mà công cụ để bói là cỏ thi và Kinh Dịch (…) Chữ phệ trên là bộ trúc 竹, ngụ ý là cọng cỏ thi, dưới là chữ vu 巫 (đồng cốt, phù thủy). Chữ vu gồm chữ công 工 và hai chữ nhân 人, tượng trưng hai người đang nhảy múa cầu cơ” (tr. 591). “Ngoài chữ phệ, người ta còn dùng chữ thi 蓍 (cỏ thi) với ý nghĩa là phép bói bằng cỏ thi. Phép bói cỏ thi được dùng thay thế hoặc bổ sung cho phép bói giáp cốt (gọi là quy phệ hiệp tòng)” (tr. 593).
§ 600. Kiến thức ngày nay, số 331, ngày 20-10-1999
ĐỘC GIẢ: Tạp chí Xưa & Nay, số 67 (9-1999) mục “Dạo quanh làng báo”, có trích mẩu tin sau đây từ báo Tiền phong ngày 19-8-1999:
“Các nhà khảo cổ Italy vừa phát hiện ra bốn nhà hầm, trong đó một số vật liệu xây dựng nên chúng có niên đại từ thế kỷ 9 trước công nguyên. Khám phá này đã khẳng định: Rome có tuổi già hơn 1 thế kỷ so với tuổi mà các nhà sử học công bố từ trước đó. Bốn nhà hầm vừa tìm thấy là một phần kiến trúc của một giáo đường thuộc đế chế Julius Cæsar – người sáng lập ra nhà nước La Mã vào năm 509 trước công nguyên. Công trình này được xây dựng nhờ “chiến lợi phẩm” mà Cæsar thu được sau khi chinh phục xứ Gaule”. (Bđd, tr. 40).
Xin hỏi: Cæsar có phải là người đã sáng lập ra nhà nước và đế chế La Mã vào năm 509 trước Công nguyên hay không?
AN CHI: Năm 509 tr. CN là niên điểm chấm dứt thời đại truyền thuyết (giai đoạn các vị “vua”: 753 – 509) và đánh dấu sự ra đời của nền Cộng hòa (509 – 27) trong lịch sử của La Mã. Đế chế La Mã chỉ thành lập từ năm 27 tr. CN, sau niên đại mà mẩu tin trên đã nêu đến 482 năm và sau khi xứ Gaule hoàn toàn bị Cæsar chinh phục (51 tr. CN) đến 24 năm. Cæsar chết năm 44 tr. CN, trước khi đế chế La Mã ra đời đến 17 năm nên không thể là người sáng lập ra Đế chế La Mã. Ông ta chưa bao giờ là hoàng đế, như cũng đã nói tại mục này trên Kiến thức ngày nay, số 153. Đây chỉ là hư danh, hư vị mà một số người đã ban cho ông ta một cách “tài tử” chứ dân La Mã và dân Ý thì chưa bao giờ làm như thế. Giáo đường đã nói, nếu được xây dựng “nhờ chiến lợi phẩm mà Cæsar thu được sau khi chinh phục xứ Gaule”, chỉ có thể ra đời sau năm 51 tr. CN mà thôi, nghĩa là hơn 450 năm sau niên đại mà mẩu tin trên đã đưa ra.
Tóm lại, vì Cæsar chưa bao giờ là hoàng đế nên chẳng làm gì có “đế chế Julius Cæsar” còn Đế chế La Mã thì đến năm 27 tr. CN mới được thiết lập chứ không phải là năm 509 (tr. CN). Cuối cùng Julius Cæsar (101 – 44 tr. CN) cũng không phải là người sáng lập nhà nước La Mã vì từ lâu trước khi cả Cæsar lẫn Đế chế La Mã ra đời thì La Mã đã là một nhà nước.
§ 601. Kiến thức ngày nay, số 331, ngày 20-10-1999
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Địa danh Bà Rịa” (in trong Nam Bộ xưa & nay, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh – Tạp chí Xưa & Nay, in tái bản lần thứ nhất, 1999), tác giả Nguyễn Đình Thống có trích dẫn một đoạn trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức do Tu Trai Nguyễn Tạo dịch (Nha Văn hóa, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1972) như sau:
“Tân Đường thư nói: Bà Lỵ ở ngay phía đông nam Chiêm Thành, từ Giao Châu đi ghe theo biển, trải qua các nước Xích Thổ, Đan Đan rồi đến Đại địa châu- Đà mã(cũng gọi là Mã Lễ…).
Nhưng cũng đoạn trên đây mà bản Gia Định thành thông chí do Đỗ Mộng Khương và Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính và chú thích (Nxb. Giáo dục, 1998) thì lại dịch như sau:
“Khảo sách Tân Đường thư nói: “Nước Bà Lỵ ở thẳng phía đông nam Chiêm Thành, từ cửa biển Giao Châu vượt biển trải qua các nước Xích Thổ, Đan Đan mới đến. Đất ấy có bãi rộng, nhiều ngựa, cũng gọi tên là Mã Lễ”.
Bản trước thì dịch thành “Đại địa châu – Đà mã” (coi như đây là một địa danh ghép) còn bản sau lại dịch thành “Đất ấy có bãi rộng, nhiều ngựa” (coi như đây là những đặc điểm của nước Bà Lỵ). Vậy bản nào dịch đúng?
AN CHI: Đoạn trên đây là do Trịnh Hoài Đức dẫn từ sách Tân Đường thư của Âu Dương Tu và các đồng tác giả. Nguyên văn chữ Hán (chép tay) của nó đã được in kèm theo bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo (bản trước) cũng như bản dịch do Đào Duy Anh hiệu đính (bản sau). Bản sau đã ghi đoạn này như sau:
“Bà Lỵ quốc trực (bản trước chép “tại”) Chiêm Thành Đông Nam tự Giao Châu phiếm (bản trước chép “hàng”) hải lịch Xích Thổ Đan Đan chư quốc nãi chí địa đại châu đa mã diệc viết Mã Lễ”.
Chúng tôi cho rằng đoạn này có thể được hiểu theo một trong hai cách sau đây (sự khác nhau giữa “trực” và “tại”, giữa “phiếm” và “lịch” không làm thay đổi nội dung căn bản của nó nên chúng tôi xin lấy lời ghi của bản sau cho tiện):
1. Chữ “mã” sau chữ “đa” có thể là một chữ bị chép thừa và đoạn này có thể được ngắt để hiểu như sau:
“Bà Lỵ quốc trực Chiêm Thành Đông Nam; tự Giao Châu phiếm hải, lịch Xích Thổ Đan Đan chư quốc nãi chí. Địa đại châu đa, diệc viết Mã Lễ”, nghĩa là “Nước Bà Lỵ đối diện với phía Đông Nam Chiêm Thành từ Giao Châu vượt biển, qua các nước Xích Thổ, Đan Đan mới đến. (Nước Bà Lỵ) đất rộng đảo nhiều, cũng gọi là Mã Lễ”.
2. Chữ “mã” 馬 (ngựa) sau chữ “đa” bị chép nhầm từ chữ đảo 島 và đoạn trên đây có thể được ngắt như sau:
“Bà Lỵ quốc trực Chiêm Thành Đông Nam; tự Giao Châu phiếm hải, lịch Xích Thổ, Đan Đan chư quốc nãi chí địa. Đại châu đa đảo, diệc viết Mã Lễ” nghĩa là “Nước Bà Lỵ đối diện với phía Đông Nam Chiêm Thành, từ Giao Châu vượt biển, qua các nước Xích Thổ, Đan Đan mới đến đất liền (của nước ấy), (Nước Bà Lỵ) đảo lớn, cù lao nhiều, cũng gọi là Mã Lễ”.
Châu cũng có nghĩa là đảo nên chúng tôi tạm dịch “đại châu đa đảo” thành “đảo lớn, cù lao nhiều” nhưng xin nhận xét rằng cấu trúc đại châu đa đảo có phần non tay vì không cân đối: chữ đa trực tiếp liên quan đến “Bà Lỵ quốc” về mặt cú pháp nhưng chữ đại thì không vì nó chỉ liên quan đến chữ “châu” mà thôi. Còn sở dĩ chúng tôi cho rằng chữ đảo 島 bị nhầm thành chữ mã 馬 là vì hai chữ có tự dạng na ná với nhau đồng thời “nhiều ngựa” không phải là một đặc điểm của nước/vùng Bà Lỵ (Mã Lễ), là một nước/vùng thuộc Indonesia hoặc Malaysia ngày nay.
Bản trước dịch mấy chữ hữu quan thành địa danh “Đại địa châu – Đà Mã” (chữ “đà” có lẽ là lỗi ấn loát: đúng ra là đa) thì rõ ràng là không ổn. Nhưng bản sau dịch thành “(Đất ấy) có bãi rộng, nhiều ngựa” thì nghe cũng “lạ tai” vì: – như đã nói, “nhiều ngựa” không phải là đặc điểm của nước/vùng được nói đến; – đoạn văn đang xét chỉ nói về địa thế của nước Bà Lỵ mà thôi cho nên xen cả “đặc sản” vào thì e là lạc lõng chăng?
Trở lên là ý kiến của cá nhân, xin nêu lên để chất chính cùng các bậc thức giả và các nhà nghiên cứu.
§ 602. Kiến thức ngày nay, số 331, ngày 20-10-1999
ĐỘC GIẢ: Bao Công có làm thơ hay không? Nếu có, xin giới thiệu một đôi bài.
AN CHI: Theo bài “Bài thơ duy nhất còn lại của Bao Công” của Nguyễn Khắc Phi, đăng trên Văn nghệ, số 25 (1953), năm 1997 (in lại trong: Nguyễn Khắc Phi, Thơ văn cổ Trung Hoa -mảnh đất quen mà lạ, Nxb. Giáo dục, 1998) thì Bao Công chỉ còn để lại có một bài thơ duy nhất là Thư Đoan Châu quận trai bích (Đề lên tường thư trai ở quận Đoan Châu).
Nguyên văn như sau:
Thanh tâm vi trị bản
Trực đạo thị thân mưu
Tú cán chung thành đống
Tinh cương bất tác câu
Thương sung thử tước hỉ
Thảo tận thố hồ sầu
Sử sách hữu di huấn
Vô di lai giả tu
Nguyễn Khắc Phi dịch nghĩa như sau:
Lòng trong sạch là cái gốc của việc trị nước,
Đạo ngay thẳng là điều mưu cầu của việc tu thân.
Thân cây đẹp tốt rốt cuộc sẽ thành rường cột,
Gang thuần chất không thể uốn thành móc cong.
Kho đầy hẳn lũ chuột và sẻ vui mừng,
Cỏ hết thì bọn thỏ và chồn rầu rĩ.
Sử sách có lời di huấn:
Chớ để lại điều xấu hổ cho con cháu mai sau!
Nguyễn Khắc Phi đã tạm dịch thành thơ như sau:
Thanh liêm: gốc “trị quốc”
Cương trực: “tu thân” cầu.
Cây thẳng ắt làm cột,
Thép ròng chẳng uốn câu.
Kho đầy : chuột, sẻ khoái,
Cỏ hết: thỏ, chồn sầu.
Sử sách nêu di huấn:
Chớ để nhục về sau.
(Sđd, tr. 247 – 248)
§ 603. Kiến thức ngày nay, số 332, ngày 1-11 -1999
ĐỘC GIẢ: Việt sử diễn âm do Nguyễn Tá Nhí sưu tầm, giới thiệu và biên dịch (Nxb. Văn hóa Thông tin, HàNội, 1997) có đoạn như sau:
Thái Tổ xưa cùng Ai Lao
Một lòng kết hiếu nào tường hiềm đâu.
Phải thằng quản tượng ngày sau
Là Lê Văn Luật trốn vào nước Ai
Tôi gian đời nó hôm mai
Ai Lao mới có lòng rày sinh nghi.
(câu 1929 – 1934)
Đoạn này thuật rằng do tên quản tượng Lê Văn Luật phản bội mà làm hỏng mối giao hảo sẵn có giữa Lê Lợi với Lào (Ai Lao). Xin cho biết lời tường thuật này có đúng với sự thật lịch sử hay không. Trong một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây (Kiến thức ngày nay, số 261), ông An Chi có khẳng định rằng Nguyễn Tá Nhí đã phiên âm sai tên họ của nhân vật đang xét từ Lò Văn Lụt (Lọt) thành “Lê Văn Luật” và rằng nhân vật này thuộc dân tộc Thái. Vậy xin hãy chứng minh.
AN CHI: Trong câu 1932, chữ “Lê” dứt khoát là một chữ phiên âm sai. Nếu đúng là họ “Lê” thì chữ đó phải được viết là 黎 như trong bao nhiêu trường hợp khác, chẳng hạn trong các câu 1897 – 1899:
Đội ơn thân thuộc mọi người
Lê Lợi, Lê Lý, Lê Ngân, Lê Hào
Cùng là Lê Thạch, Lê Kiêu…
Đằng này lại là chữ 路 mà âm Hán Việt là lộ nên chúng tôi mới cho rằng nó dùng để ghi âm Lò, là họ của người Thái như sẽ chứng minh ở phần sau. Vì vần -uât không phù hợp với hệ thống âm vị của tiếng Thái nên chúng tôi đã đọc chữ 律 thành Lụt (hoặc Lọt) và cả tên họ của nhân vật đang xét là Lò Văn Lụt (Lọt).
Sự việc liên quan đến Lò Văn Lụt (Lọt) mà Việt sử diễn âm thuật lại đã được xác nhận trong Lam Sơn thực lục (do Văn Tân dịch và chú thích) như sau:
“Trước vua vẫn giao hảo với Ai-lao, không có điều gì hiềm khích. Có tên ngụy quan Lộ Văn Luật (Văn Tân phiên chữ 路 thành “Lộ” và 律 thành “Luật” – AC) trốn sang nước họ, du thuyết để làm kế phản gián. Do đó, Ai-lao hiềm khích với vua. Bấy giờ vua đang cầm cự với giặc Ngô (giặc Minh – AC), được thua chưa quyết. Đến khi giặc thua phải lui, thì Ai-lao đem vài vạn quân và một trăm thớt voi thình lình đến doanh trại ta, vờ là giúp ta, nói phao là cùng ta hợp sức đánh giặc. Vua thực bụng tin người, không ngờ việc gì. Nào ngờ nó mặt người dạ thú, nghe kế gian của Lộ Văn Luật, ban đêm đánh úp doanh trại ta. Vua thân đốc chiến từ giờ tý đến giờ mão. Binh sĩ đều tranh nhau xông tới, cả phá được giặc, chém được hơn vạn đầu, bắt được 14 thớt voi, quân tư khí giới kể hàng vạn”.*
Đoạn tiếp theo (câu 1935 – 1946) của Việt sử diễn âm cũng đã chép sự việc trên đây một cách khá thống nhất:
“Vua cùng giặc Minh tương trì
Chưa ai thua được biết thì nhường ai.
Ngày sau thấy binh Ai Lao
Ba muôn quân đến ngựa hầu trăm dư.
Giả rằng đến đầu bấy chừ
Thái Tổ lòng thực chẳng ngờ mỗ tin.
Nào hay lòng nó tà gian
Nửa đêm liền đến bừa tràn cướp doanh.
Thái Tổ khi ấy liều mình
Từ tý chí ngọ Lao binh tồi tàn
Chém được quân nó ba vàn
Tượng thì mười bốn, một ngàn quân nhu”.
Sự việc nói chung rất thống nhất, chỉ khác về chi tiết, chẳng hạn LSTL chép quân ta chém được hơn một vạn đầu giặc thì VSDA chép ba vạn, LSTL chép từ giờ Tý đến giờ Mão thì VSDA chép từ giờ Tý đến giờ Ngọ…
Sở dĩ chúng tôi cho rằng Lò Văn Lụt (Lọt) là người Thái là vì những lý do sau đây:
– Như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 261, cuộc kháng chiến của Lê Lợi chống quân Minh không chỉ quy tụ có người Kinh mà thôi. Sử vẫn chép rằng thủ lĩnh người Thái là Xa Khả Sâm đã đem nghĩa quân của mình gia nhập đạo quân kháng chiến của Lê Lợi. Đoạn trích dẫn sau đây cũng là bằng chứng về sự có mặt của người thuộc các dân tộc khác, đặc biệt là người Thái:
“Sử Việt chép các đội quân áo đỏ ở miền núi từ Thái Nguyên qua Hưng Hóa giúp Lê Lợi rất nhiều trong việc chống quân Minh. Sở dĩ gọi là quân áo đỏ vì khi ra trận các tướng đều mặc áo đỏ. Theo chúng tôi quân áo đỏ chính là binh lính người Thái, Tày. Các mo then, chức dịch quanh chúa thường mặc áo đỏ. Thời chiến, họ trở thành các tướng lĩnh cầm quân. Vậy ở đây, dân mặc áo đỏ nên hiểu là dân miền núi thuộc vùng tây bắc Việt Nam, bao gồm người Thái, Xá và có thể cả người Mường nữa”.*
– Người Kinh không có họ Lộ. Trong Họ và tên người Việt Nam (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992), Lê Trung Hoa có ghi nhận họ “Lộ” trong phần họ của người Kinh (Việt) nhưng không biết tác giả đã căn cứ vào đâu. Hay là Lê Trung Hoa cũng chỉ căn cứ vào họ của nhân vật “Lộ Văn Luật” được chép trong Lam Sơn thực lục mà ghi nhận rằng người Việt (Kinh) có họ “Lộ”? Nhưng nếu có một họ Lộ thì đây cũng là họ của những người Thái họ Lò đã Kinh hóa rồi chính cái họ Lò ghi bằng chữ 路 cũng bị Kinh hóa nên mới được đọc theo âm Hán Việt thành “Lộ” chứ, theo chúng tôi, đó cũng không phải là một họ gốc của người Kinh. Vậy chữ 路 trong Lam Sơn thực lục đã được dùng để ghi họ Lò và Lò là một họ của người Thái.
– Việc Lò Văn Lụt (Lọt) “trốn sang Ai Lao du thuyết để làm kế phản gián” thực chất có thể không phải là việc làm phản (về sau) mà, ngay từ đầu, Lò Văn Lụt (Lọt) đã được người Lào cài vào lực lượng nghĩa quân của Lê Lợi (nhân có nhiều người Thái tham gia để nắm tình hình rồi trở về báo cho người Lào biết. Hoặc có thể đây là sự phối hợp giữa quân Minh với người Lào cũng nên. Tóm lại, “sự kiện Lò Văn Lụt (Lọt)” sẽ dễ giải thích hơn nhiều nếu nhân vật này là một người Thái chứ không phải là một người Kinh (Việt).
§ 604. Kiến thức ngày nay, số 332, ngày 1-11 -1999
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết tên của cây “ngô” (bắp) bắt nguồn từ đâu.
AN CHI: Trong bài “Cây lúa bắp hay lúa ngô” (Tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ Thừa Thiên – Huế, số Xuân Kỷ Mão), Tố Am Nguyễn Toại đã cho biết như sau:
“Lê Quý Đôn, trong Vân Đài loại ngữ, chép về cây lúa ngô: “Hồi đầu đời Khang Hi (1662 – 1723), Trần Thế Vinh, người huyện Tiên Phong (Sơn Tây, phủ Quảng Oai) sang sứ nhà Thanh, mới lấy được giống lúa Ngô đem về nước; suốt cả hạt Sơn Tây, nhờ có lúa Ngô thay cho cơm gạo”. Nhưng có một thuyết khác, truyền khẩu, cho rằng đem giống lúa ấy về nước ta là công của Phùng Khắc Khoan. Ta biết rằng Phùng Khắc Khoan (1527 – 1613) quê làng Phùng Xá (tên Nôm là làng Bùng), huyện Thạch Thất cũng thuộc Sơn Tây, cứ tục truyền là anh em cùng mẹ khác cha với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khắc Khoan có công với triều Lê trung hưng trong việc ngoại giao với nước Minh, khi ấy dân nước ta vẫn gọi là nước Ngô. Đi sứ sang nước Minh năm Quang Hưng thứ 20 (Đinh Dậu, 1597), Khắc Khoan đòi cho được vua Vạn Lịch nhà Minh phong vua nước ta là An Nam Quốc vương, thay cho chức An Nam Đô Thống sứ ty đã phong lần trước. Khắc Khoan lại trổ tài văn chương, dâng vua Minh 36 bài thơ mừng ngày tết nguyên đán, vua Minh thưởng cho đỗ Trạng Nguyên, nên về nước được gọi là Trạng Bùng, thật ra thì chỉ đỗ Hoàng Giáp khoa thi năm Canh Thìn (1580) thôi. Đi sứ về, Khắc Khoan mang theo được ít hột lúa làm giống, cho đem trồng, lúa chưa có tên nhưng vì đem từ nước Ngô về, nên gọi là lúa ngô”. (Bđd, tr. 102 – 103).
Cây lúa ngô, ngày nay thường nói tắt thành cây ngô.
§ 605. Kiến thức ngày nay, số 332, ngày 1-11 -1999
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguyên văn bài “Ô dạ đề” của Lý Bạch và bản dịch của Tản Đà.
AN CHI: Sau đây là nguyên văn của bài “Ô dạ đề”:
Hoàng vân thành biên ô dục thê,
Quy phi “á á” chi thượng đề.
Cơ trung chức cẩm Tần Xuyên nữ,
Bích sa như yên cách song ngữ.
Đình thoa trường nhiên tư viễn nhân,
Độc túc cô phònglệ như vũ.
Tản Đà dịch như sau:
Quạ kêu đêm
Mây vàng tiếng quạ bên thành,
Nó bay tìm ngủ trên cành nó kêu.
Tần Xuyên cô gái buồng thêu,
Song sa khói toả như khêu chuyện ngoài.
Dừng thoi buồn bã nhớ ai.
Phòng không gối chiếc, giọt dài tuôn mưa.*
§ 606. Kiến thức ngày nay, số 333, ngày 10-11-1999
ĐỘC GIẢ: Các từ rắn, trăn và thằn lằn có liên quan với nhau về nguồn gốc hay không? Phải chăng thằn lằn là một từ láy?
AN CHI: Cách đây đúng nửa thế kỷ, trong Chữ và vần Việt khoa học (1949), cải bản năm 1959 và in chung với quyển Ngôn-ngữ-học Việt-Nam của mình, Nguyễn Bạt Tụy đã cho rằng rắn, trăn và thằn lằn có cùng một nguồn gốc Khmer là tlan. Theo tác giả này, quá trình phân hóa diễn ra như sau:
– Âm đầu của tổ hợp phụ âm tl là t đã âm tiết hóa, nguyên âm a mang thanh huyền và âm cuối n đã “hóa chặt” (tác giả muốn chỉ hiện tượng a trở thành ă) mà cho thằn lằn.
– Âm sau của tổ hợp phụ âm tl là l đã trở thành âm rung đầu lưỡi (l trở thành r) và đã “hóa chặt” mà cho trăn.
– Âm đầu của tổ hợp phụ âm tr là t rụng đi và a có thanh sắc mà cho rắn. (Xem sđd, tr. 102).
Chúng tôi nghĩ khác và cho rằng sự việc bắt đầu bằng một từ của tiếng Hán ghi bằng chữ 鱗 mà âm Hán Việt hiện đại là lân, có nghĩa là: – vảy của loài cá hoặc loài bò sát; – loài cá, loài rồng rắn. Cái nghĩa sau cùng này là một nghĩa phái sinh bằng hoán dụ mà Từ hải đã cho rồi minh họa một cách rõ ràng bằng một thí dụ trích từ thiên “Nguyệt lệnh” của sách Lễ ký: “(Mạnh xuân chi nguyệt) Kỳ trùng lân” với lời chú của Trịnh Huyền: “Lân là giống rồng rắn” (Lân, long xà chi thuộc).
Vậy lân là rắn và rắn là một âm rất cổ xưa của chữ 鱗; âm này được “đặc dụng” trong tiếng Việt để chỉ khái niệm mà tiếng Hán vẫn diễn đạt bằng từ xà 蛇. Đó là nói về nghĩa còn về quan hệ ngữ âm thì rắn ~ lân là một hiện tượng hoàn toàn bình thường.
Trước hết, về vần (ăn ~ ân) thì rắn ~ lân cũng giống như: – chắn/chặn ~ trấn (= đè xuống, đóng giữ); – hằn (trong thù hằn) ~ hận (= oán giận); – mắn (trong mau mắn, may mắn) ~ mẫn (= mau lẹ). v.v..
Về phụ âm đầu (r ~l) thì rắn ~ lân cũng giống như: – ràn (trong ràn trâu) ~ lạn 欄 (=chuồng trâu, ngựa); – rạn (trong rạn nứt) ~ lạn 爛 (= mục nát); – rạp (trong nằm rạp) ~ lạp 拉 (bẻ gãy) v.v..
Tóm lại, rắn trong rắn rết là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 鱗 mà âm Hán Việt hiện đại là lân, có nghĩa là vảy, rồi nghĩa phái sinh là rắn. Và “rắn” là một cái nghĩa rất cổ xưa của chữ lân, vẫn còn tồn tại dưới hình thức của một từ riêng biệt trong tiếng Việt cho đến ngày nay.
Trăn, theo chúng tôi, cũng là một từ có liên quan với lân về mặt từ nguyên vì đây là một điệp thức của rắn. Mối quan hệ ăn ~ ân đã được chứng minh còn mối quan hệ về phụ âm đầu (tr ~ l) giữa trăn và lân cũng là một hiện tượng thực sự bình thường vì người ta cũng có một loạt chứng cứ: – trộm (trong trộm phép) ~ lạm (trong lạm phép); – trau (trong trau chuốt) và lau (trong lau chùi) ~ lâu 鏤 (= chạm trổ); – trèm (trong lửa trèm) ~ lạm 爁 (= lửa cháy lan ra); – trêu (trong trêu cợt) ~ liêu 嫽 (= đùa cợt) v.v..
Vậy trăn ~ lân là một hiện tượng bình thường và với trăn thì người ta có thể suy ra rằng phần âm đầu cổ xưa của chữ 鱗 là một tổ hợp phụ âm mà âm thứ nhất là một phụ âm tắc, tổ hợp đó có thể là *[tr], nay đã biến thành [t], thể hiện trong tiếng Việt hiện đại và trên chữ quốc ngữ bằng tr. Giữa rắn và trăn [tlăn] thì từ sau có nguồn gốc cổ xưa hơn vì nó trực tiếp bắt nguồn ở từ *[trăn]; từ này về sau một mặt đã rụng [t] để cho ra rắn (mà r bấy giờ hãy còn đích thực là [r]), mặt khác lại mất [r] để cho ra tắn (= rắn) như vẫn còn lưu giữ được ở một số thổ ngữ Bắc Trung Bộ. Vậy *[trăn] là hình thái Việt Mường nguyên sơ (proto Việt Mường) gốc Hán đã cho ra trăn [tlăn], rắn, cả thằn lằn nữa (sẽ nói sau), trong tiếng Việt và tlăn (= trăn), sănh (= rắn) trong tiếng Mường (mà ở đây chúng tôi không ghi dấu chỉ thanh điệu). Trăn, tiếng Khmer là thlăn và đây là một trường hợp mà chúng tôi cho rằng ngôn ngữ này đã mượn từ tiếng Mường chứ trăn [tăn] (Việt), tlăn (Mường) và thlăn (Khmer) không phải là những từ có một cội nguồn Nam Á chung vì tất cả đều trực tiếp hoặc gián tiếp bắt nguồn ở từ/chữ 鱗 mà âm Hán Việt hiện đại là lân.
Về từ nguyên của thằn lằn, PTS. Lê Trung Hoa đã có một cách giải thích độc đáo và thú vị, xin ghi lại nguyên văn như sau:
“Trong Từ điển Việt-Bồ-La (1651) của A. de Rhodes không có từ thằn lằn mà chỉ có từ lần lần và từ cùng nghĩa thần lần, tức con thằn lằn. Như vậy, theo tôi, từ gốc của thần lần là lần lần và lần lần chính là cách di chuyển chậm chạp của con vật này khi nó bò trên vách. Sau đó, tiếng lần thứ nhất đã bị dị hóa thành thần, tương tự: lù lù thành thù lù. Còn hai âm chính â và ă đều là nguyên âm hàng sau không tròn môi nên dễ chuyển đổi lẫn nhau và đã có nhiều tiền lệ: nầy – này, ngằn ấy – ngần ấy, chận lại – chặn lại, trằm trồ – trầm trồ…
Tóm lại: lần lần → thần lần → thằn lằn”.*
Cách giải thích độc đáo và thú vị trên đây của ông Lê Trung Hoa không khỏi làm cho người đọc phải băn khoăn vì mấy lý do:
– Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh (Việt-Bồ-La) của A. de Rhodes lấy tiếng Việt của xứ Đông Kinh, tức tiếng Đàng Ngoài, làm cơ sở. Vậy con vật mà A. de Rhodes muốn nói đến là con thằn lằn của tiếng Đàng Ngoài, nay là tiếng Miền Bắc còn ông Lê Trung Hoa thì lại lấy đó làm con thằn lằn trong tiếng nói của Nam Bộ ngày nay, tức là vùng đất ở phía Nam của Đàng Trong thời xưa. Con thằn lằn của A. de Rhodes là con rắn mối của tiếng Nam Bộ, mà tiếng Hán gọi là tích dịch hoặc tứ cước xà. Còn con thằn lằn của ông Lê Trung Hoa thì lại là con thạch sùng trong tiếng Miền Bắc, mà tiếng Hán gọi là bích hổ hoặc thủ cung. Vậy ông Lê Trung Hoa đã không gặp được A. de Rhodes và ông đã nhầm lẫn ngay từ cách đặt vấn đề.
– Ông Lê Trung Hoa nói rằng “lần lần chính là cách di chuyển chậm chạp của con vật này khi nó bò trên vách”. Nhưng “con vật này” của A. de Rhodes lại sống ngoài bờ bụi chứ không phải trên tường nhà, đồng thời đó cũng không phải là một con vật “di chuyển chậm chạp” vì nó “có khả năng di chuyển rất nhanh”*. Mà ngay cả “con vật này” của ông Lê Trung Hoa cũng đâu có chậm chạp. Chỉ cần quan sát trên tường nhà thì sẽ thấy nó “tăng tốc” như thế nào khi nó tranh mồi với con khác hoặc khi con đực và con cái đuổi nhau để làm chuyện… yêu đương. Huống chi “di chuyển chậm chạp” cũng chẳng phải là chuyện riêng của “con vật này”, dù là con của A. de Rhodes hay con của Lê Trung Hoa vì nhiều giống động vật khác cũng làm như thế khi không cần đến “tốc độ”. Vậy “lần lần” là tên chung của mọi giống vật chăng?
– Mục từ “lần lần” của A. de Rhodes, trong đó có cả hình thái thần lần (?) – thực ra bản in năm 1651 tại Roma đã ghi là “thâu lần” – là một mục từ cần được thẩm định lại. Xin lưu ý rằng quyển từ điển này còn có mục từ “thần lăn”, được giảng là “một thứ cá có hình con thằn lằn”. Chúng tôi lạm phép nghĩ rằng trong từ điển của A. de Rhodes, “thâu lần” và “thần lần” chẳng qua chỉ là những cặp song tiết đồng âm tuyệt đối đã bị in sai mà thôi. Nhà từ nguyên học thời nay không nên gởi gắm lòng tin tuyệt đối của mình vào những người thợ nhà in ở La Mã đã sống cách đây ngót 350 năm. Nhữngngười này đã xếp sai phần tiếng An Nam đến hàng trăm chỗ mà A. de Rhodes còn kịp nhặt ra và nêu lên trong bảng “Cải chính những chỗ sai về tiếng An Nam trong từ điển” nhưng vẫn còn để lọt lưới rất nhiều chữ khác, trong đó hẳn phải có các chữ “thâu lần”, “thần lăn” và có thể là cả “lần lần” nữa. Huống chi, chính cách ghi nhận và cách giải thích của chính A. de Rhodes ở nhiều chỗ cũng có vấn đề.
Tóm lại, hai tiếng “lần lần” của ông Lê Trung Hoa không thể là nguyên từ (étymon) của thằn lằn được. Thằn lằn, theo chúng tôi, chẳng qua là hình thái song tiết hóa của *[trăn], âm Hán Việt cổ xưa của chữ 鱗, trong đó [t] đã âm tiết hóa theo khuôn vần -ăn đồng thời trở thành [t’] còn [r] thì trở thành [l]. Vì vậy, đó cũng không phải là một đơn vị được tạo ra theo “phương thức láy” như một số người đã quan niệm. Hiện tượng “láy” ở đây chẳng qua chỉ là chuyện hình thức ngữ âm thuần tuý mà thôi.
§ 607. Kiến thức ngày nay, số 333, ngày 10-11-1999
ĐỘC GIẢ: Trong “bố cái” thì “bố” là cha còn “cái” là mẹ. Vậy trong “con cái” thì “cái” có phải là mẹ hay không?
AN CHI: Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh của A. de Rhodes in tại Roma năm 1651 có giải thích từ tổ con cái như sau. Tại mục “cái”, từ tổ này được giảng là “con trai và con gái”, rồi tại mục “con”, từ tổ đó cũng được giảng một cách thống nhất là “con trai và con gái”. Chính danh từ con đơn độc cũng đã được A. de Rhodes giảng là con trai. Vậy nếu A. de Rhodes hoàn toàn đúng thì trong từ tổ con cái, con có nghĩa là con trai và cái có nghĩa là con gái. Dù A. de Rhodes có không đúng đi chăng nữa thì, theo chúng tôi, cái trong con cái cũng không thể là mẹ được. Xin tạm trả lời vắn tắt như trên để chờ lời giải đáp thỏa đáng của các bậc thức giả.
§ 608. Kiến thức ngày nay, số 334, ngày 20-11-1999
ĐỘC GIẢ: Móng Cái có nghĩa là gì và có phải là một địa danh bằng tiếng Việt hay không?
AN CHI: Chúng tôi cho rằng Móng Cái là hai âm tiết vô nghĩa vì đó chỉ là kết quả gián tiếp của một cách phiên âm từ hai tiếng Quảng Đông Moòng Cái, ghi bằng hai chữ Hán 芒 街 mà âm Hán Việt là Mang Nhai.
Móng Cái (Mang Nhai) nằm trong phạm vi tỉnh Quảng Ninh hiện nay mà Quảng Ninh là vùng tập trung nhiều địa danh “Hán Hoa”, đúng như nhận xét của tác giả Nguyễn Văn Âu trong Địa danh Việt Nam (Nxb. Giáo dục, 1993, tr. 35 – 36). Tại vùng đất nằm hai bên biên giới Việt Trung, địa danh song tiết (hoặc ba âm tiết) mà âm tiết thứ hai (hoặc thứ ba) là nhai 街 (= đường, phố) là do người Trung Hoa đặt ra. Mang Nhai 芒街 chính là một địa danh do người Trung Hoa đặt ra để gọi một địa phương của nước ta vào một thời điểm khó xác định nhưng chắc chắn phải là sau cuộc xâm lược của Triệu Đà rồi tiếp theo là sự đô hộ của nhà Hán. Còn bên Trung Quốc thì ở Quảng Tây, đặc biệt là ở Vân Nam, có rất nhiều địa danh mà âm tiết thứ hai (hoặc thứ ba) là Nhai.
Chẳng hạn, ở phần cực Tây tỉnh Quảng Tây giáp với Quý Châu (ở phía Bắc) và Vân Nam (ở phía Nam), có các địa danh Ngưu Nhai (Phố Trâu), Dương Nhai (Phố Dê), Miêu Nhai (Phố Mèo); ở phần cực Đông tỉnh Vân Nam giáp với Quảng Tây có các địa danh Tân Nhai (Phố Mới), Mã Nhai (Phố Ngựa), Cẩu Nhai (Phố Chó), Lão Nhai (Phố Cũ), Tây Tửu Nhai (Phố Rượu phía Tây), Kê Nhai (Phố Gà), Trư Nhai (Phố Lợn), v.v.; xa hơn về phía Tây, có Xà Nhai (Phố Rắn), v.v.; ở phía Bắc giáp Tứ Xuyên cũng có Ngưu Nhai (Phố Trâu), v.v.; ở phần cực Đông Nam của tỉnh Tứ Xuyên giáp với Vân Nam có Quả Nhai (Phố Trái Cây), v.v..
Trở lên là nói về yếu tố nhai. Còn mang 芒 là một yếu tố mà người Hán dùng để phiên âm từ “mường” của các ngôn ngữ Tày – Thái. Chẳng hạn, ở biên giới phía Tây tỉnh Vân Nam giáp với Myanmar, có địa danh Mang Bính 芒 丙; phía Bắc của Mang Bính và sâu vào nội địa Trung Quốc một chút, có địa danh Mang Khoan 芒 寛. Cũng tại Vân Nam, ở châu tự trị Đức Hoành, còn có địa danh Mang Thị 芒市. Mang Bính là Mường Bánh (?), Mang Khoan là Mường Khoan còn Mang Thị là Chợ Mường. Chẳng những dùng chữ mang 芒 để ghi âm “mường” trong địa danh mà hiện nay người Trung Quốc còn dùng cả chữ này để ghi tên gọi dân tộc Mường ở Việt Nam nữa. Rồi ngay người Việt Nam cũng dùng chữ mang 芒 để phiên âm âm tiết “Mường” trong các địa danh: 芒* là Mường Mỏ,芒掴 là Mường Quắc,芒笘 là Mường Xóm*
Cứ như trên thì Mang Nhai là Đường Mường. Mường là một từ của các ngôn ngữ Tày – Thái có nghĩa là lĩnh vực, vùng đất, đất nước, đơn vị cư trú rộng hoặc hẹp mà trung tâm là chiềng. Vậy Mang Nhai có lẽ vốn là tên của một con đường hai bên có tổ chức buôn bán, họp chợ, con đường này chạy xuyên qua một mường xưa mà trung tâm là Móng Cái ngày nay. Về sau người ta đã lấy tên của con đường làm tên vùng. Đây là mường của những người nói ngôn ngữ Tày Nùng mà hậu duệ chính là người Tày, người Nùng ở Việt Nam và người Nùng ở Trung Quốc hiện nay. Điều này có thể được chứng minh bằng sự phân bố địa danh. Tại phía Bắc của Móng Cái, ở bên kia biên giới Việt Trung, trong phạm vi hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây (tỉnh này nay đã trở thành Khu tự trị của dân tộc Choang), có nhiều địa danh bắt đầu bằng yếu tố “nà” mà Hán tự ghi bằng chữ 那. Tại Việt Nam, xa hoặc gần Móng Cái, cũng có những địa danh như thế. Nà là một danh từ Tày – Thái có nghĩa là ruộng và những địa danh bắt đầu bằng yếu tố “nà” là địa danh đặc trưng của những người nói ngôn ngữ Tày – Thái, ở đây là người Tày và người Nùng.
Người ta có thể phản bác mà nói rằng danh từ “mường” chỉ thấy rõ nét ở người Lào, rồi người Thái ở Vân Nam, người Thái ở Thái Lan, người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, thậm chí còn thấy ở cả vùng phía Đông của Myanmar giáp giới với Vân Nam (Trung Quốc) chứ không thấy ở người Tày và người Nùng. Thực ra, danh từ đó vẫn còn thấp thoáng trong văn hóa và tín ngưỡng của những người này mà lời trích dẫn sau đây là một bằng chứng hiển nhiên. Theo quan niệm của người Tày, người Nùng thì:
“Trời đất chia làm ba mường: mường trời là thế giới thần tiên, mường người là mặt đất, mường âm là mường những người sống trong lòng đất, chỉ nhỏ bằng chiếc bình vôi (…)”*.
Lời dẫn trên đây chứng tỏ rằng “mường” là một khái niệm đã ăn sâu vào tâm thức của người Tày, người Nùng từ rất lâu đời mặc dù trong ngôn ngữ hàng ngày của họ thì từ “mường” không còn thông dụng nữa. Vậy chẳng có gì lạ nếu trên địa bàn cư trú rộng lớn của họ xưa kia đã từng có vùng được họ gọi là mường. Móng Cái có thể đã là một vùng như thế.
Khi người Hán xâm chiếm rồi đô hộ vùng này, họ đã đặt tên cho con đường quan trọng chạy qua trung tâm của nó là “đường Mường”, ghi bằng hai chữ Hán 芒街 mà âm Hán Việt là Mang Nhai. “Mang Nhai” về sau trở thành tên của một vùng mà tiếng Quảng Đông phát âm (từ hai chữ 芒街) thành Moòng Cái. Người Việt đã theo âm Quảng Đông mà phát âm thành Mòng Cái. Hai tiếng này về sau đã bị Pháp hóa trên văn bản thành Mong Cai rồi người Việt Nam mới đánh dấu giọng trở lại mà đọc thành Móng Cái như hiện nay (trước đây nhiều người còn đọc thành Mong Cái).
Vậy địa danh Móng Cái đã diễn tiến từ Mong Cai (Pháp) < Mòng Cái (Việt) < Moòng Cái (Quảng Đông) mà Hán tự là 芒街, đọc theo âm Hán Việt là Mang Nhai. Nhưng có ý kiến cho rằng Mang Nhai mới là hình thức gốc (“Mang Nhai trở thành Móng Cái”), chẳng hạn ý kiến của Thái Hoàng. Tác giả này đã viết như sau:
“Nơi buôn bán trên bến dưới thuyền này (Móng Cái – AC) được gọi là phố Thác Mang sau được dịch ra tên chữ Hán Việt là Mang Nhai. Người gốc Hoa ở địa phương đọc theo âm Quảng Đông là Móng Cái, sau này khi người Pháp lập bản đồ đã ghi lại địa danh này và ta quen gọi là Móng Cái. Địa danh này nói lên đặc điểm địa lý ở đây. Phố nằm cạnh dòng sông trước kia chảy giữa hai triền đồi hẹp thành thác gọi là thác Mang, thành tên phố Thác Mang, rồi Mang Nhai trở thành Móng Cái”.*
Thực ra, như chính Thái Hoàng đã viết ở một phần trên, Thác Mang chẳng qua là Thác Mang Nhai nói tắt. Mà thác Mang Nhai thì lại chính là thác Móng Cái chứ không phải là gì khác. Chẳng qua vì tên đó được ghi bằng hai chữ 芒街 nên người ta mới “bác học hóa” nó bằng âm Nho mà đọc thành (thác) “Mang Nhai” đó thôi. Người ta có thể phản bác rằng nếu đã là “bác học” thì tại sao mấy tiếng Thác Mang, nói tắt từ Thác Mang Nhai, lại có thể đi vào ca dao địa phương, chẳng hạn:
Ai sinh ra phố Thác Mang
Ra huyện ra xã ra làng hỡi anh?
Xin trả lời rằng hình thái “bác học” vẫn có thể thay thế hình thái “dân gian” nguyên sơ rồi tiếm vị luôn một cách rất “tự nhiên”. Ngay tại Thành phố Hồ Chí Minh, người ta cũng có một thí dụ rất sinh động về lối “đảo chính” này. Đó là địa danh Đakao mà âm gốc chính xác (100%) là Đất Hộ. Nó đã bị Pháp hóa thành Dakao, rồi “tái Việt hóa” kiểu không giống ai thành Đakao và Đakao bây giờ (11-1999) đã nghiễm nhiên trở thành tên của một đơn vị hành chính: phường Đakao thuộc Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Cách đây nửa thế kỷ, người ta còn gọi cái chợ của phường Đakao là chợ Đất Hộ. Bây giờ thì hai tiếng “Đất Hộ” đã tuyệt tích giang hồ. Từ người đạp xích lô cho đến ông chủ tịch phường, ai cũng gọi đó là “chợ Đakao”. Rất may mắn là Móng Cái vẫn còn tồn tại bên cạnh Mang Nhai và càng may mắn hơn là chưa có ai thay tên cái thị trấn Móng Cái bằng hai tiếng “Mang Nhai”. Mang Nhai, Thác Mang Nhai chẳng qua chỉ là những cái tên hậu khởi từ cái tên tiên phát là Mòng Cái > Móng Cái mà thôi.
§ 609. Kiến thức ngày nay, số 334, ngày 20-11-1999
ĐỘC GIẢ: Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng hai tiếng “trăm năm” bao nhiêu lần?
AN CHI: Phạm Đan Quế cho biết là có 10 lần và sau đây là bài tập Kiều của tác giả này với 10 lần đó:
Trăm năm trong cõi người ta (c.1)
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Đã nguyền hai chữ đồng tâm
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai (c.556)
Trót vì cầm đã bén dây
Chẳng trăm năm cũng một ngày nước non (c.1964)
Trăm năm tính cuộc vuông tròn (c.1331)
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng mới hay (c.452)
Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Tiết trăm năm nỡ một ngày bỏ đi (c.510)
Chở che đùm bọc thiếu gì
Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay (c.3186)
Rằng: Trăm năm cũng từ đây (c.355)
Của tin gọi một chút này làm ghi
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không (c.182)
Lỡ làng nước đục bụi trong
Trăm năm giữ một tấm lòng với ai (c.880)
Một nhà phúc lộc gồm hai
Nghìn năm dằng dặc quan giai bốn lần.*
§ 610. Kiến thức ngày nay, số 335, ngày 1-12-1999
ĐỘC GIẢ: Một vài tác giả, là nhà văn, nhà báo có uy tín, có nhắc đến chuyện nhà xuất bản Larousse thu hồi từ điển của mình chỉ vì một chữ in sai. Chuyện này có thật hay không?
AN CHI: Giai thoại trên đây có đúng với sự thật hay không thì chúng tôi không được biết. Điều mà chúng tôi biết được một cách chắc chắn là từ điển Larousse, từ loại nhỏ cho đến loại lớn, vẫn có những chỗ in sai, thậm chí biên tập hoặc biên soạn sai. Sau đây là mấy dẫn chứng thấy được một cách hoàn toàn tình cờ trong quá trình tra cứu.
Nouveau Petit Larousse en couleurs 1969, tại mục “Alaska” đã khẳng định rằng vùng đất này trở thành một bang của Mỹ từ năm 1958, trong khi thực tế thì việc này lại xảy ra năm 1959. Không biết lỗi này là của khâu ấn loát hay thuộc về tác giả của mục từ.
Larousse trois volumes en couleurs (1966), trong hình vẽ minh họa cho mục từ “estomac” (dạ dày), đã in sai chữ “rate” (lá lách) thành “rale”. Cũng bộ từ điển này, tại mục từ “lithographie” (kỹ thuật in litô), ở cuối phần “Encyclopédie”, đã in thiếu chữ “h” sau chữ “t” nên “lithographie” trở thành “litographie”. Hai trường hợp này thì chắc chắn là lỗi ấn loát.
Còn quyển 10 (ấn hành năm 1963) của bộ từ điển đồ sộ Grand Larousse encyclopédique en 10 volumes thì đã có một cái lỗi tày đình về phía biên tập. Lỗi đó là tại mục từ “Vô Nguyen-Giap”(Võ Nguyên Giáp) ở trang 894, thay vì in ảnh ông Võ Nguyên Giáp thì nhà biên tập đã cho in ảnh ông Phạm Văn Đồng với dòng chữ thuyết minh rành rọt ngay bên dưới: “général Vô Nguyen-Giap”, nghĩa là “tướng Võ Nguyên Giáp” (Xin xem ảnh chụp mục từ này in kèm theo đây). Quyển 10 của Grand Larousse encyclopédique rất xứng đáng được thu hồi vì cái lỗi này. Mặc dù hơn 3 thập kỷ đã trôi qua nhưng nếu bây giờ mà nhà Larousse vui lòng công bố tin thu hồi nó thì vẫn còn kịp đấy.
Trên đây là một vài lỗi của Larousse mà chúng tôi đã hân hạnh gặp phải một cách hoàn toàn tình cờ. Nếu “cất công” dò tìm thì may ra còn có thể thấy thêm được một ít nữa chăng?
§ 611. Kiến thức ngày nay, số 335, ngày 1-12-1999
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 156, trả lời về tên gọi của chi thứ 4 trong 12 địa chi là Mẹo (cũng đọc Mão), ông An Chi đã viết: “Tiếng Hán có thành ngữ tuẩn đầu mão nhãn (chữ tuẩn thường bị đọc thành duẫn) có nghĩa là mộng và lỗ mộng”. Nhưng Hán Việt tự điển của Thiều Chửu lại ghi âm chữ 筍 là duẩn (với dấu hỏi) chứ không phải “duẫn” (với dấu ngã” như ông An Chi đã viết. Vậy xin cho biết chữ 筍 đọc là duẫn hay duẩn?
AN CHI: Thực ra, Hán tự có đến hai chữ để ghi từ tuẩn có nghĩa là măng: 笋 và 筍 mà chữ thứ hai là chữ gốc (bổn tự). Cả hai chữ đều chỉ có một âm chính thống duy nhất là “tuẩn”, tất cả các tự thư đều thống nhất ghi nhận rằng chúng thuộc thanh mẫu tâm 心, đồng thời cũng chỉ có một cách đọc duy nhất mà thôi. Vậy “duẫn” là một cách đọc lệch theo thanh mẫu dụ 喻.
Nhưng nếu đã trót lệch từ thanh mẫu tâm (phụ âm đầu t) sang thanh mẫu dụ (phụ âm đầu [z] ghi bằng chữ quốc ngữ d) thì phải viết và đọc theo thanh điệu 3 thành duẫn (với dấu ngã) chứ không thể theo thanh điệu 4 thành “duẩn” (với dấu hỏi) được. Lý do: ngữ âm học lịch sử đã khẳng định rằng tất cả các âm tiết Hán Việt bắt đầu bằng phụ âm nói trên chỉ có thể có thanh điệu 3 mà thôi: dã, dĩ, diễm, diễn, dĩnh, dũ, dũng, dữ, dưỡng.
Thực ra, không riêng gì Thiều Chửu mới ghi âm “duẩn” cho chữ 筍 trong Hán-Việt tự-điển mà cả Đỗ Văn Đáp, chẳng hạn, cũng ghi như thế trong Việt-Hán thông-thoại-tự-vị. Nhưng đây là một âm không đúng. Vậy xin viết và đọc đúng là “duẫn” như đã ghi trong Hán-Việt từ-điển của Đào Duy Anh, Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng, Việt-ngữ chánh-tả-tự-vị của Lê Ngọc Trụ, v.v.. Xin nhấn mạnh rằng đây không phải là trường hợp một chữ Hán có hai âm, đọc theo âm nào cũng được mà là trường hợp giữa hai âm song hành, chỉ có một âm là đúng với qui luật diễn biến ngữ âm của tiếng Hán mà thôi.