Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2: Câu hỏi 612 - 627

§ 612. Kiến thức ngày nay, số 335, ngày 1-12-1999

ĐỘC GIẢ: Rất tiếc là đã mấy lần tôi gửi thư đến Chuyện Đông chuyện Tây mà câu hỏi của tôi vẫn không được trả lời. Tôi bắt đầu nghi ngờ về sự “uyên bác” của chuyên mục này. Tôi đã hỏi về một địa danh thuộc vùng biển phía Bắc tỉnh Khánh Hòa mà một số tờ báo viết là Vân Phong nhưng một số tờ khác thì lại viết Văn Phong. Vậy đây là Văn Phong hay Vân Phong và do đâu mà có tên này?

AN CHI: Về địa danh mà bà hỏi, chúng tôi đã có trả lời cho ông Võ Túc (14 Hoa Lư, Nha Trang) trên Kiến thức ngày nay, số 286 (10-7-1998). Bà đã rất có lý khi nghi ngờ về sự “uyên bác” của Chuyện Đông chuyện Tây: chúng tôi vốn là người “càng học thì lại càng thấy mình biết quá ít”, đúng như ông Cao Xuân Hạo đã viết trong “Lời tựa” của Chuyện Đông chuyện Tây, tập 1, do Nhà xuất bản Trẻ và Kiến thức ngày nay in thành sách năm 1997.

Lần này, chúng tôi xin nói lại rồi nói thêm một chút vì không chỉ riêng bà mà nhiều bạn đọc khác, nhất là một số bạn đọc ở vùng cực Nam Trung Bộ, cũng quan tâm đến vấn đề, đặc biệt là vì một số phương tiện thông tin đại chúng rồi cả một số văn bản chính thức (chẳng hạn Tập bản đồ Việt Nam, hành chính và hình thể của Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước, Hà Nội, 1986, tr. 16 – 17) cũng viết sai địa danh đang xét.

Địa danh này là Vân Phong 雲峰, có nghĩa là “Đỉnh Mây”, chứ không phải “Văn Phong”. Có lẽ khi tự động đổi “Vân” thành “Văn”, người ta đã tưởng tượng rằng “văn” ở đây là “văn vẻ” còn “phong” là “phong nhã” chăng? Thời nay, người ta dễ dàng nhầm lẫn chữ “ớ đội nón” (â) thành chữ “á mặt trăng” (ă) nên mới có chuyện “Vân Phong” bị trẹo thành “Văn Phong” chứ thời xưa, khi chữ Hán còn thịnh hành, thì chữ vân 雲 khó mà bị nhầm thành chữ văn 文 được. Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn đã nhất loạt chép là “Vân Phong”: hòn Vân Phong, vũng Vân Phong, tấn Vân Phong nhỏ, tấn Vân Phong lớn.*

Địa danh Vân Phong bắt nguồn từ cái tên dân dã của núi Hòn Khói, là một ngọn núi “cao 115m ở phía Đông vũng Hòn Khói, phía Nam tỉnh Khánh Hoà”*. Theo Đại Nam nhất thống chí, thì vào năm Minh Mạng thứ 6, Hòn Khói được đổi tên thành Hòn Vân Phong*. Việc đổi tên ở đây rõ ràng có liên quan đến ý nghĩa của tên cũ. Chúng tôi muốn nói đến danh từ “khói”. Từ này đã được “chuyển” sang tên mới bằng chữ “vân” 雲 là mây. Mây và khói là “bà con” với nhau (người ta vẫn nói đi mây về gió để ám chỉ việc thả hồn theo khói của ả phù dung); vậy chẳng có gì lạ nếu dùng “vân” để vừa “dịch” vừa giữ lại cái bóng dáng của từ “khói”. Còn phong 峰 là đỉnh. Vậy Vân Phong, “Đỉnh Mây”, chính là hai tiếng dùng để chỉ núi Hòn Khói. Theo Đinh Xuân Vịnh (sđd) thì Vân Phong còn có tên là Yên Cương. Tác giả không ghi chú chữ Hán nhưng chúng tôi vẫn muốn căn cứ theo nghĩa mà suy ra rằng Yên Cương chẳng qua cũng chỉ là “Núi Khói” (yên = khói, cương = sống núi, sườn núi) và đây là một cách dịch hai tiếng “Hòn Khói” thành từ Hán Việt. Nhưng đây không phải là một cái tên chính thức vì tên chính thức lại là “Vân Phong”, ban bố vào năm Minh Mạng thứ 6.

Tóm lại, địa danh mà bà hỏi là Vân Phong chứ không phải “Văn Phong”. Ai đó có thể có can đảm làm ngơ trước việc tự mình đã đổi tên núi Olympus (Olympe) của Hy Lạp thành Olympia (Olympie) một cách thông minh chứ chúng ta có lẽ nào cứ làm ngơ mà để cho hai tiếng Vân Phong bị bóp méo thành “Văn Phong”?

§ 613. Kiến thức ngày nay, số 336, ngày 10-12-1999

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Về chữ Annam và Annamite” đăng trên tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống số 49, tác giả Đào Văn Phái có viết như sau:

“Đến khi thực dân Pháp đô hộ nước ta (…) chúng gọi dân ta là Annamite. Cách gọi này đầy vẻ khinh miệt, để gọi người một nước, (trong tiếng Pháp), người ta thường thêm một trong những hậu tố (suffixes) ais, ois, ien, ain… vào tên của nước ấy. Những suffixes kể trên đều có ý nghĩa trung tính (chỉ “người dân ở”, habitant), không trọng mà cũng chẳng khinh. Ví dụ, Pháp = France – Français; Trung Quốc = Chine – Chinois; Ấn Độ = Inde – Indien; Mỹ = Amérique – Américain.

Riêng An Nam thì thực dân Pháp “dành” cho hậu tố ite. Ite có nghĩa là bệnh hoạn, ốm yếu. Ví dụ: – bronche là cuống phổi, bronchite là đau cuống phổi; – méninge là màng não, méningite là đau màng não; larynx là thanh quản, laryngite là viêm thanh quản; (…).

Cùng nghĩa đó, Annamite phải hiểu là người An Nam ốm yếu, bệnh hoạn”, (Bđd, tr. 11)

Tôi rất phân vân về cách phân tích trên đây của tác giả Đào Văn Phái.

AN CHI: Tác giả Đào Văn Phái phân tích như trên thì oan cho thực dân Pháp mà đau cho dân Việt Nam vì chính tác giả đã nhận như thế chứ thực dân Pháp thì lại không hề làm như tác giả đã khẳng định.

Tiếng Pháp có đến ba hậu tố -ite (xin gọi là -ite1, -ite2 và -ite3), hoàn toàn đồng âm (homonyme) và đồng dạng chính tả (homographe) với nhau.

• -ite1 mà Đào Văn Phái dịch là “bệnh hoạn, ốm yếu” thực ra lại có ý nghĩa cụ thể là “viêm nhiễm” (chứ không phải “bệnh hoạn, ốm yếu” một cách chung chung). Hậu tố này bắt nguồn từ hậu tố -itis của tiếng Hy Lạp, dùng để tạo ra danh từ giống cái (trong tiếng Pháp) chỉ hiện tượng viêm nhiễm của một bộ phận nhất định trong cơ thể con người. Vậy dịch cho thật chính xác thì bronchite là viêm cuống phổi (chứ không phải “đau cuống phổi”), méningite là viêm màng não (chứ không phải “đau màng não”), conjonctivite là viêm kết mạc (chứ không phải “đau mắt” vì “đau mắt” cũng có lắm thứ mà riêng với thân từ ophtalm- thì đã có: ophtalmie là viêm mắt, ophtalmodynie là chứng nhức mắt, ophtalmomalacie là chứng nhuyễn mắt, ophtalmoplégie là chứng liệt mắt), v.v.. Đó là nói về phần ngữ nghĩa. Còn về cấu tạo thì thân từ đi chung với hậu tố -ite 1 phải có gốc Hy Lạp (là chủ yếu) hoặc La Tinh (mà phần nhiều cũng có nguồn gốc Hy Lạp). Thí dụ: arthrite (viêm khớp), có thân từ là arthr-, do Hy Lạp arthron là khớp xương; néphrite (viêm thận) có thân từ là néphr-, do Hy Lạp nephros là thận; méningite (viêm màng não) có thân từ là méning-, do La Tinh meninga là màng não mà từ La Tinh này lại bắt nguồn từ Hy Lạp mêniggos, cùng nghĩa; bronchite (viêm phế quản) có thân từ là bronch- do La Tinh bronchia < Hy Lạp brogkhia, có nghĩa là khí quản, v.v..

Cứ như trên thì việc gán ghép từ Annamite với hậu tố -ite1 là hoàn toàn lạc lõng. Huống chi, nếu hậu tố ở đây có đúng là -ite1 thì annamite cũng chỉ có thể tàm tạm có nghĩa là “viêm nhiễm” (kiểu) An Nam (!)” mà thôi chứ dứt khoát không thể là “người An Nam ốm yếu, bệnh hoạn” như tác giả Đào Văn Phái đã giảng được. Báo chí tiếng Pháp trước đây vẫn truyền tụng rằng tại các tô giới ở Thượng Hải, người ta từng cho treo trong công viên những tấm bảng “Interdit aux chiens et aux Chinois” (Cấm chó và Chệch) nhưng từ Chinois (người Trung Quốc) vẫn mang hậu tố -ois (mà Đào Văn Phái đã liệt kê) chứ thực dân Pháp đâu có gọi người Trung Quốc là “Chinite”! Còn ngay tại Việt Nam thì dân Nam Kỳ và dân Bắc Kỳ vẫn được thực dân Pháp gọi là Cochinchinois và Tonkinois chứ có bị gọi là “Cochinchinite” và “Tonkinite” đâu!

• -ite2 bắt nguồn từ hậu tố itês của tiếng Hy Lạp và dùng để cấu tạo các thuật ngữ khoáng vật học (như: dolomite, hématite, v.v.); hóa thạch học (như: ammonite, trilobite v.v.); v.v..

• -ite3: Đây mới chánh cống là hậu tố của Annamite – bắt nguồn từ hậu tố -ita trong tiếng La Tinh của Giáo hội (Thiên Chúa). Hậu tố này được ghép vào sau địa danh để chỉ người ở vùng/xứ mang địa danh đó, hoặc vào sau nhân danh để chỉ người theo xu hướng của người mang nhân danh đó. Thí dụ: Sodoma (tiếng La Tinh), là tên một thị trấn của Palestine (xưa). Địa danh này được ghép với hậu tố -ita thành Sodomita là danh từ dùng để chỉ người Sodoma. Sodoma chuyển sang tiếng Pháp thành Sodome và Sodomita thành Sodomite trong đó -ita đã trở thành -ite (Bây giờ Sodomite trong tiếng Pháp đã chuyển nghĩa theo hoán dụ thành sodomite để chỉ kẻ kê giao, tức kẻ giao hợp vào đường hậu môn nhưng đây là một chuyện hoàn toàn khác). Israel (tiếng La Tinh) là tên nước Israel. Địa danh này được ghép với hậu tố -ita thành Israelita là danh từ dùng để chỉ người Israel. Israel (La Tinh) chuyển sang tiếng Pháp thành Israel còn Israelita thành Israélite trong đó -ita đã trở thành -ite. Barnaba (tiếng La Tinh) là tên của Thánh Barnabé. Nhân danh Barnaba được ghép với hậu tố -ita thành Barnabita để chỉ tu sĩ theo dòng Thánh Barnabé. Banaba chuyển sang tiếng Pháp thành Barnabé còn Barnabita thành barnabite trong đó -ita đã trở thành -ite v.v. và v.v..

Danh từ Annamite đã được tạo ra theo những cái mẫu trên đây, nghĩa là trong danh từ này thì hậu tố chính là -ite3 có nghĩa là dân của xứ..,. người thuộc phái… chứ không phải -ite1 có nghĩa là viêm nhiễm (càng không phải là “bệnh hoạn, ốm yếu”).

Thực ra, tiếng Pháp có đến ba tính từ phái sinh từ địa danh Annam là annamite (thường thấy nhất vì là hình thái duy nhất hiện dụng và phổ biến), annamique và annamitique. Annamique được thấy trong quyển Notice sur la langue annamique của L. de Rosny (Paris, 1855) còn annamitique thì được thấy trong Chaîne (hoặc Cordillère) annamitique, có nghĩa là dãy núi Trung Kỳ, tức dãy Trường Sơn. Annamite tương ứng với La Tinh Annamita, annamique với La Tinh annamicus còn annamitique thì với La Tinh annamiticus mà hình thái giống trung số ít (annamiticum) còn có thể được thấy trong tên quyển từ điển quen thuộc của A. de Rhodes: Dictionarium Annamiticum – Lusitanum et Latinum, tức Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh xuất bản tại Roma năm 1651. Nhưng xin lưu ý rằng trong Cordillère annamitique thì annamitique có nghĩa là thuộc về Trung Kỳ (của Việt Nam) còn trong Dictionarium Annamiticum – Lusitanum et Latinum thì Annamiticum lại có nghĩa là thuộc về (toàn bộ) nước An Nam (mà bấy giờ là Đại Việt).

Cứ như trên thì việc tạo ra danh từ Annamite, rồi tính từ annamite (do từ trước chuyển loại mà thành) đã tuân theo những quy tắc cấu tạo từ rành mạch và chặt chẽ của tiếng Pháp. Vì vậy việc phân tích cấu tạo và ý nghĩa của nó cũng phải căn cứ vào những quy tắc chặt chẽ và rành mạch đó chứ không thể làm một cách tùy tiện hoặc tùy hứng như đã thấy.

§ 614. Kiến thức ngày nay, số 336, ngày 10-12-1999

ĐỘC GIẢ: Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994) giảng “rắn mắt” là “nghịch ngợm, táy máy, đùa nghịch”. Xin hỏi: con rắn và con mắt thì có liên quan gì đến tính nghịch ngợm? Có lẽ “rắn mặt” trong khẩu ngữ của tiếng Việt phổ thông mới đúng là hình thức gốc chăng?

AN CHI: Rắn ở đây không phải là một danh từ chỉ động vật mà là một vị từ chỉ tính chất có nghĩa gốc là “có khả năng chịu đựng tác dụng của lực cơ học mà không bị biến dạng, không bị mất tính toàn khối” (Từ điển tiếng Việt 1992). Mắt ở đây cũng không phải là một bộ phận trên thân thể con người vì đã được hiểu theo nghĩa phái sinh bằng ẩn dụ là “chỗ lồi lõm giống hình con mắt, mang chồi ở thân một số cây” (Sđd), thí dụ như mắt tre, mắt mía v.v.. Rắn mắt là một từ tổ vị từ có cấu trúc cú pháp giống như chắc hạt, mỏng vỏ và có nghĩa gốc là (thân cây) có mắt chắc (nên khó bẻ, khó uốn) rồi từ đó mới có nghĩa phái sinh bằng ẩn dụ là “nghịch ngợm, táy máy, đùa nghịch” (hàm ý là khó uốn nắn, khó dạy bảo), như đã giảng trong Từ điển phương ngữ Nam Bộ.

Chính “rắn mắt”, theo chúng tôi, mới là hình thức gốc còn “rắn mặt” lại là một biến thể hậu kỳ do từ nguyên dân gian mà ra. “Rắn mặt” được Từ điển tiếng Việt 1992 giảng là “(trẻ con) không chịu nghe theo những lời dạy dỗ, bất chấp cả sự răn đe, bướng bỉnh, khó bảo”. Đây chính là cái nghĩa phái sinh của từ tổ “rắn mắt” (khó uốn nắn, khó dạy bảo) như đã nói ở trên. Chẳng qua, người ta cũng không hiểu tại sao “mắt”, với nghĩa gốc, lại có thể đi chung với “rắn” nên mới biến “rắn mắt” thành “rắn mặt” theo những cái mẫu như: đẹp mặt, xấu mặt, ngượng mặt v.v. mà thôi.

§ 615. Kiến thức ngày nay, số 337, ngày 20-12-1999

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 333, khi phản bác PTS. Lê Trung Hoa, ông có viết rằng “nhà từ nguyên học thời nay không nên gởi gắm lòng tin tuyệt đối của mình vào những người thợ nhà in ở La Mã đã sống cách đây 350 năm” vì “những người này đã xếp sai phần tiếng An Nam (trong Từ điển Việt-Bồ-La của A. de Rhodes – Nguyên Minh nói rõ) đến hàng trăm chỗ mà A. de Rhodes còn kịp nhặt ra và nêu lên trong bảng Cải chính nhữngchỗ sai về tiếng An Nam trong từ điển nhưng vẫn còn để lọt lưới rất nhiều chữ khác”. Ông lại còn viết thêm rằng “chính cách ghi nhận và cách giải thích của A. de Rhodes ở nhiều chỗ cũng có vấn đề”.

Vậy xin ông nêu thêm một số chỗ in sai mà A. de Rhodes đã để lọt lưới, và nhất là nêu lên một số chỗ có vấn đề trong cách ghi nhận và cách giải thích của chính A. de Rhodes.

AN CHI: Về những chỗ in sai trong từ điển của A. de Rhodes, chúng tôi xin nhấn mạnh rằng đó không chỉ là những cái sai về tiếng Việt mà còn là những cái sai về cả tiếng Bồ và tiếng La nữa. Sau đây là một ít chỗ lọt lưới về tiếng Việt – chỉ là một ít vì không thể nêu hết – mà chúng tôi xin nêu thêm theo đề nghị của ông:

– Tại cột 2, mục “ai, vua hán ai đế” chữ “đế” đã bị in thành “đé”.

– Tại cột 3, mục “ẵm, ẵm con” chữ “ẵm” đã bị in thành “ảm”.

– Tại cột 5, mục “an, nghệ an”, chữ “nghệ” đã bị in thành “nghê”.

– Tại cột 7, mục “ăn năn tội” chữ “năn” đã bị in thành “nan”; – mục “ăn tlộm” chữ “tlộm” (trộm) đã bị in thành “tlôm”, – mục “ăn cắp” chữ “cắp” đã bị in thành “cáp” (còn tại cột 88, nó đã bị in một lần thành “căp”, không dấu, một lần thành “cắp” là dạng phản ánh đúng âm của từ hữu quan); – mục “ăn, cưa ăn gỗ” chữ “ăn” thứ nhất đã bị in thành “an”, chữ “gỗ” đã bị in thành “gổ”; – mục “ấn”, chữ “ấn” trong “ấn nhà Chúa” đã bị in thành “ân”.

– Tại cột 8, mục “áng, áng hội” chữ “áng” thứ hai đã bị in thành “ang”.

– Tại cột 9, mục “ảnh phép” chữ “ảnh” đã bị in thành “anh”.

– Tại cột 11, mục “áo săng” (vải phủ quan tài) chữ “săng” đã bị in thành “sang”.

– Tại cột 12, mục “ấp (..) mẹ ấp con” chữ “ấp” thứ nhất đã bị in thành “ap” còn chữ “ấp” thứ hai thì bị in thành “âp”;- mục “á phiện” bị in thành “ap hiên”.

V.v. và v.v..

Mới điểm sơ sơ có 12 cột (Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh, phần chính văn, có tất cả 900 cột) mà đã thấy hơn một chục chỗ lọt lưới rồi. Nếu người ta nhẹ dạ mà gởi gắm lòng tin tuyệt đối của mình vào “tay nghề” của thợ nhà in ở La Mã hồi giữa thế kỷ XVII để làm ngữ âm học lịch sử về tiếng Việt thì chẳng hóa ra sẽ gay go lắm ru?

Trở lên là một ít chỗ sai về tiếng Việt mà chúng tôi xin tạm nêu thêm theo đề nghị của ông. Còn bây giờ xin nhân tiện nêu hầu ông hai chỗ sai lộ liễu về tiếng La Tinh: ngay tại trang nhãn, trong khi xếp chữ cho tên của quyển từ điển (là Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum…) thì thợ nhà in đã hào phóng xài đến ba chữ “n” nên Annamiticum đã bị in thành “Annnamiticum” mà A. de Rhodes cũng đã rộng lượng bỏ qua. Rồi sau đó 7 trang (quyển từ điển này không được đánh số trang, chỉ có đánh số cột ở phần chính văn), mở đầu cho phần chính văn, chữ “Dictionarium” đã bị in thành “Dictionariun” (thay vì chữ “m” ở cuối, thì lại là chữ “n”) nhưng cũng không thấy A. de Rhodes có ý kiến gì trong “Bảng đính chính những chỗ sai về tiếng La Tinh”.

Bây giờ xin nói về một vài chỗ có vấn đề của chính A. de Rhodes.

– Tại cột 33, có mục từ “bêo” (bêu) và từ này đã được dịch sang tiếng Bồ thành “espétar” và tiếng La thành “configo”, đều có nghĩa là cắm (cọc), xiên (như trong xiên thịt, xiên chả), đóng (đinh). Những lời dịch trên đây chứng tỏ A. de Rhodes đã không hiểu đúng và hiểu hết cái nghĩa của từ bêu vì chỉ biết đến nó thông qua từ tổ bêu đầu – mà cũng không hiểu đúng hẳn -; từ tổ này có nghĩa là phơi bày cái đầu đã bị chặt khỏi thân thể của kẻ tử tội bằng cách cắm nó vào một cái cọc đặt ở nơi công cộng để răn đe kẻ khác. Vậy cái nghĩa chính của bêu là phơi bày, phô ra cho người khác thấy rõ còn những espétar (Bồ) và configo (La) thì thật sự chẳng có liên quan gì đến nghĩa của nó cả. Cái nghĩa chính của từ bêu vẫn được thấy và được chứng thực qua các từ tổ như bêu nắng, bêu riếu (cũng viết diếu), bêu xấu, v.v.. Vậy dịch bêo (bêu) thành espétar (Bồ) và configo (La) là đã dịch sai. Người cả tin rất có thể sẽ theo đó mà nói “bêu đinh” thay cho đóng đinh, “bêu chả” thay cho xiên chả, “bêu lao” “bêu lê” thay cho đâm lao, đâm lê, v.v. chăng?

– Tại cột 250, có mục từ “eo, bàu eo” (“bàu” ở đây chính là “bầu” trong “bầu bí”). Mục từ này được dịch sang tiếng Bồ thành “abobra (sic) com cabeça” và sang tiếng La thành “cucurbita capitata”, đều có nghĩa là (trái) bầu có đầu. Dĩ nhiên chẳng phải trong tiếng Việt thì “(trái) bầu có đầu” mới là một cách diễn đạt khó hiểu mà ngay cả trong tiếng Bồ Đào Nha thì “abobora com cabeça” và trong tiếng La Tinh thì “cucurbita capitata” cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Vậy thế nào là “bầu eo”? Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức đã giảng một cách rành mạch và rõ ràng rằng bầu eo là “bầu có eo ở đoạn trên, phân trái bầu làm hai, phần trên ốm như cổ ve chai, phần dưới phình to thật tròn”. Có đối chiếu với lời giảng của Lê Văn Đức thì mới rõ được cái đầu mà A. de Rhodes muốn nói đến chính là cái “phần dưới phình to thật tròn”, đối với cái “cổ ve chai” mà Lê Văn Đức muốn nói đến vậy. Lời giảng của A. de Rhodes rõ là tối nghĩa. Đến như cách chuyển ngữ của nhóm phiên dịch Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính thì lại sai hẳn so với hình dáng đích thực của trái bầu eo: Nhóm này đã dịch “abobora com cabeça” (Bồ) và “cucurbita capitata” (La) thành “quả bầu tròn như đầu người” (Xem bản dịch do Nxb. Khoa học Xã hội ấn hành năm 1991). Các vị đã cắt mất cái “cổ ve chai” của trái bầu eo mà biến nó thành một thứ quả tròn vo như quả “túc cầu”!

– Tại cột 733, 734, có mục từ “thái, cả”. Trong mục từ này, hai chữ “lão thái” (Long Thái) được dịch sang tiếng Bồ thành “dragão grande” và sang tiếng La thành “magnus drace (sic)”*, đều có nghĩa là rồng to. A. de Rhodes còn ghi rõ thêm rằng đó là “tên một ông vua của vương quốc gọi là Cao Bằng”. Long Thái là niên hiệu của Mạc Kính Khoan (1623 – 1638) khi con cháu nhà Mạc đã chạy lên Cao Bằng, đúng như A. de Rhodes đã chú. Nhưng “long thái” thì lại không thể là “rồng to” được vì ai có biết chút đỉnh tiếng Hán cũng đều có thể thấy ngay được rằng nếu là “rồng to” thì niên hiệu đó đã phải là “Thái Long”. Lý do: trong tiếng Hán, định ngữ luôn luôn đứng trước bị định ngữ chứ không thể ngược lại.

Trở lên là mấy chỗ có vấn đề trong cách giảng của A. de Rhodes mà chúng tôi xin tạm nêu lên hầu ông, nhưng vấn đề nổi cộm hẳn, theo chúng tôi, thì lại chính là ở chỗ cái cách thẩm nhận ngữ âm của tác giả chưa nhuần nhuyễn đến mức có thể giúp cho tác giả phân biệt được một cách thật rạch ròi nguyên âm chính của các âm tiết, dẫn đến sự lẫn lộn giữa a và ă, giữa ă và â, giữa o và ô, v.v., cũng như sự lẫn lộn về thanh điệu ở nhiều chỗ, đặc biệt là giữa hỏi và ngã (đương nhiên là phải loại trừ những chỗ in sai). Điều này buộc người sử dụng quyển từ điển của A. de Rhodes phải hết sức thận trọng và luôn luôn thẩm định từng mục từ trong công trình quý báu của vị giáo sĩ chứ không thể nhất nhất tin theo một cách dễ dãi hoặc bất cẩn. Điều nguy hiểm cần được đặc biệt nhấn mạnh là, như đã nói, A. de Rhodes còn để lọt lưới rất nhiều lỗi ấn loát nên sẽ rất đáng tiếc nếu người ta lại ngỡ rằng cái sai trong ấn loát là cái đúng trong sự thẩm âm của chính A. de Rhodes. Một sự ngộ nhận như thế sẽ đưa người ta đi chệch rất xa cái trạng thái ngữ âm của tiếng Việt hồi giữa thế kỷ XVII.

Tóm lại, nếu nó chưa được hiệu đính một cách thật sự kỹ lưỡng và triệt để, thì Dictionarium Annamiticum, Lusitanum et Latinum của A. de Rhodes dứt khoát không thể là một quyển sách công cụ thực sự đáng tin tưởng để có thể viện dẫn cho mọi trường hợp cần thiết.

§ 616. Kiến thức ngày nay, số 337, ngày 20-12-1999

ĐỘC GIẢ: Ở Kiến thức ngày nay, số 334, trong câu trả lời về việc Nguyễn Du đã 10 lần dùng hai tiếng “Trăm năm”, ông đã đưa ra bài Tập Kiều của Phạm Đan Quế nhưng tôi thấy có chỗ không ổn. Nếu câu 1 là “Trăm năm trong cõi người ta” thì câu tiếp theo phải là “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” chứ sao lại là “Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”?

AN CHI: Có lẽ ông đã hiểu nhầm hai tiếng “tập Kiều” chăng? Tập Kiều là “lựa chọn một số câu Kiều ở những chỗ khác nhau (nghĩa là không nhất thiết đi liền với nhau – AC) trong 3.254 câu của Truyện Kiều, nối vần lại được với nhau để tạo thành một bài thơ mới, có ý nghĩa, theo một chủ đề nhất định”*. Vậy bài Tập Kiều của Phạm Đan Quế hoàn toàn hợp cách.

§ 617. Kiến thức ngày nay, số 338, ngày 1-1 -2000

ĐỘC GIẢ: Nhân vật nào trong lịch sử của Trung Quốc cổ đại đã được Đức Khổng Tử xem là rồng?

AN CHI: Đó là Lão Tử (580 – 500 tr. CN). Sử ký của Tư Mã Thiên, truyện Lão Tử, đã chép như sau:

“Khổng Tử ra đi (sau khi gặp Lão Tử – AC), bảo học trò:

– Con chim, ta biết nó biết bay; con cá, ta biết nó biết lội; con thú, ta biết nó biết chạy. Đối với loài chạy thì ta có thể dùng lưới để săn; đối với loài lội thì ta có thể dùng câu để bắt; đối với loài bay thì ta có thể dùng tên để bắn; đến như con rồng cưỡi mây cưỡi gió lên trời, ta không sao biết được! Hôm nay gặp Lão Tử, ông ta có lẽ là con rồng chăng?”.*

Rất tiếc là Dictionnaire des symboles của Jean Chevalier và Alain Gheerbrant (édition revue et augmentée, Robert Laffont, Paris, 1992) lại chép rằng người đó là Trang Tử. Bản dịch sang tiếng Việt (nhan đề “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới” do Nxb. Đà Nẵng và Trường viết văn Nguyễn Du ấn hành năm 1997) đã in nguyên văn như sau:

“Khổng Tử đã thấy Trang Tử chính là hiện thân của rồng”, (Mục “Rồng”, tr. 781, cột 1).

Nhưng làm thế nào mà Khổng Tử có thể “thấy” được Trang Tử? Khổng Tử (551 – 497 tr. CN) sanh trước Trang Tử (khoảng 369 – 286 tr. CN) hơn 180 năm và mất trước Trang Tử đến hơn 210 năm thì làm thế nào mà ai lại có thể “thấy” ai?

Tuy nhiên chúng tôi cũng phải dè đặt mà nói rằng không biết trên đây là cái sai từ gốc của hai tác giả Jean Chevalier và Alain Gheerbrant hay là sự nhầm lẫn từ phía dịch giả.

§ 618. Kiến thức ngày nay, số 338, ngày 1-1 -2000

ĐỘC GIẢ: Cùng là danh từ brontosaure của Pháp hoặc brontosaur của Anh mà có người dịch là thằn lằn sấm, có người lại dịch là lôi long; cùng là danh từ dinosaure của Pháp hoặc dinosaur của Anh mà có người dịch là thằn lằn kinh khủng, có người lại dịch là khủng long; v.v.. Vậy yếu tố -saure của Pháp hoặc -saur của Anh bắt nguồn từ đâu mà người thì dịch thành “thằn lằn”, người lại dịch thành “rồng” (long)? Yếu tố gốc đó có nghĩa là gì? Giữa hai cách dịch, cách nào hay hơn?

AN CHI: Yếu tố -saure của tiếng Pháp hoặc -saur của tiếng Anh bắt nguồn từ danh từ saurus của tiếng La Tinh, có nghĩa là con thằn lằn (mà phương ngữ Nam Bộ gọi là con rắn mối). Vậy cách dịch brontosaure (Pháp) hoặc brontosaur (Anh) thành “thằn lằn sấm” (Hy Lạp brontê = sấm) và dinosaure (Pháp) hoặc dinosaur (Anh) thành “thằn lằn kinh khủng” (Hy Lạp deinos = kinh khủng), v.v. vẫn đúng với cấu trúc ngữ pháp – ngữ nghĩa của các danh từ đang xét. Nhưng vì ở đây danh từ saurus được mở rộng nghĩa theo ẩn dụ để chỉ loài bò sát nói chung – mà “thằn lằn” thì chưa được “mở” theo cách đó – nên cách dịch -saure/-saur thành “thằn lằn” có vẻ như không được thích hợp, nhất là có cấu trúc như “thằn lằn kinh khủng” lại là một tổ hợp không lấy gì làm “chặt” nên e không thích hợp với đặc điểm của thuật ngữ chăng.

Người Trung Quốc dịch -saure/-saur < saurus mà nghĩa gốc là “thằn lằn” thành “long” 龙 (龍) mà nghĩa gốc là “rồng”; do đó tương ứng với “thằn lằn sấm” là lôi long còn với “thằn lằn kinh khủng” là khủng long. Chúng tôi không rõ động cơ nào đã khiến người Trung Quốc hiện đại lại dịch như thế nhưng người Trung Quốc cổ đại thì đã từng gọi con thằn lằn là “long”, nghĩa là con rồng. Ít nhất thì điều này cũng đã được ghi nhận trong một thiên nghiên cứu đặc sắc của Vương Lập Thuyên, nhan đề “Long thần chi mê” (Bí ẩn của thần Rồng), đăng trên Trung Quốc văn hóa (số 5, 12-1991, tr. 99, mục 9). Liên quan đến tên gọi này, sách Quốc ngữ, phần “Trịnh ngữ” có chép truyền thuyết lý thú sau đây.

Vào cuối đời nhà Hạ, có hai con rồng (“hữu nhị long”) giáng xuống cung điện vua Hạ, tự xưng là hóa thân của vua và hoàng hậu nước Bao, công khai giao phối trước mặt mọi người, niêm dịch chảy ra lênh láng. Vua Hạ lập tức sai người nhanh chóng thu vén niêm dịch đựng vào trong hộp rồi đậy kín. Tám trăm năm sau, Chu Lệ Vương mở hộp ra thì niêm dịch dồn lại thành một con huyền nguyên, tức con thằn lằn màu đen. Con vật này hất đầu nó vào bụng một nàng cung nữ, làm cho nàng thụ thai và sinh được một đứa con gái. Đứa con gái này về sau đã trở thành phi của Chu U Vương. Đó chính là nàng Bao Tự.

Trở lại vấn đề, xin nhấn mạnh rằng danh từ “long” trong truyền thuyết này không chỉ con rồng, mà chỉ con thằn lằn. Có lẽ do mối “lương duyên” xa xưa giữa “rồng” và “thằn lằn” mà người Trung Quốc ngày nay mới dùng “long” (rồng) để dịch yếu tố -saure/-saur < saurus (= thằn lằn) chăng? Lại trở lại với tiếng Việt thì giữa cách gọi “lôi long”, “khủng long” với cách gọi “thằn lằn sấm”, “thằn lằn kinh khủng” – cách gọi sau có thể thấy được trong Từ điển Pháp Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam do Lê Khả Kế làm tổng biên tập và do ACCT (Pháp) ấn hành năm 1981 – thì rõ ràng cách gọi trước xứng đáng trở thành thuật ngữ còn cái cách gọi kiểu như “thằn lằn kinh khủng” thì nghe quả thật là… đáng sợ!

§ 619. Kiến thức ngày nay, số 338, ngày 1-1-2000

ĐỘC GIẢ: Tại sao lại nói “thượng vàng hạ cám” mà không nói khác đi, chẳng hạn như “thượng vàng hạ cát” hoặc “thượng vàng hạ thau” (xin liên tưởng đến cách nói “vàng thau lẫn lộn”) v.v.?

AN CHI: Trong một bức thư trao đổi ý kiến với chúng tôi về nhiều vấn đề, tình cờ ông Nguyễn Văn Hiến (219/52 Trần Văn Đang, Phường 11, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh) có bàn đến câu “thượng vàng hạ cám” và đã có cho một lời giảng ngắn gọn mà xác đáng về thành ngữ này. Chúng tôi xin mạn phép chép ra nguyên văn như sau:

“Nếu còn trên sàng thì là vàng, nhưng nếu cần sửa sang cho đẹp mà phải dùng nhiều thủ thuật, khiến các hạt nhỏ li ti rơi xuống dưới sàng, thì đây là cám. Nhưng phần đông lại hiểu câu “thượng vàng hạ cám” đại khái là “có nhiều hàng hóa tốt xấu đủ hạng và giá cả cao thấp nhiều thang bậc, từ xấu nhất đến tốt nhất” mà quên hẳn hay không để ý đến nghĩa gốc của nó”.

Xin ghi ra như trên để ông và bạn đọc tham khảo và xin trân trọng cám ơn ông Nguyễn Văn Hiến.

§ 620. Kiến thức ngày nay, số 341, ngày 1-2-2000

ĐỘC GIẢ: Tại sao năm Thìn lại là năm con rồng (chứ không phải là con gì khác)?

AN CHI: Trong quyển Thương long đằng không, thuộc “Trung Quốc sinh tiếu văn hóa tùng thư” do Xã hội khoa học văn hiến xuất bản xã ấn hành tại Bắc Kinh tháng 12-1998, Hà Tinh Lượng 何星亮 đã điểm lại nhiều cách giải thích khác nhau về nghĩa cổ (đã mất) của chữ “thìn” nhưng lại không khẳng định một nghĩa nào, đặc biệt là cả tác giả này lẫn những tác giả được trích dẫn đều không nêu lên mối quan hệ giữa nghĩa của chữ thìn 辰 với khái niệm “rồng” (tại sao chi Thìn lại là con rồng?). Còn cá nhân chúng tôi thì cho rằng sở dĩ “thìn” liên quan đến “rồng” là do mối quan hệ kép sau đây:

1. Thìn chính là một giống rồng:

2. Thìn còn là sấm mà con rồng thì lại chính là thần Sấm.

Trước khi đi vào hai điểm cụ thể trên đây, chúng tôi phải nói rõ rằng rồng ở đây thực chất là con cá sấu. Xin xem bài “Con rồng chẳng qua là con cá sấu “lên đời”” của Huệ Thiên đăng trên Kiến thức ngày nay, số 340 (Xuân Canh Thìn). Vậy từ đây trở xuống, khi nói đến long/rồng thì chỉ là nói đến con cá sấu chứ không phải con vật tượng trưng cho uy quyền của các vị hoàng đế.

Bây giờ xin đi vào điểm thứ nhất. Trong Giáp cốt văn tự nghiên cứu, Quách Mạt Nhược đã thừa nhận rằng chữ thìn 辰 và chữ thận 蜃 vốn là một nhưng ông lại giảng rằng đây là một thứ nông cụ. Chúng tôi không tin ở cách giải thích của nhà bác học họ Quách mà chỉ tin ở lời giảng truyền thống cho rằng thận 蜃 là con thuồng luồng (Xem, chẳng hạn, Khang Hy tự điển, Từ nguyên, Từ hải, v.v.). Nghĩa này của chữ thận 蜃 cũng là nghĩa đã mất của chữ thìn 辰 (chữ này hiện nay chủ yếu dùng để ghi và gọi tên của chi thứ năm trong 12 địa chi). Vậy thìn là thuồng luồng mà thuồng luồng là một giống cá sấu. Thật vậy, trong Cổ sử Việt Nam (Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 1955), Đào Duy Anh đã viết “Người mình gọi con crocodile (một giống cá sấu nhỏ – AC) là thuồng luồng mà sách chữ Hán của ta cũng gọi là giao long. Về sau trong các sông ở Bắc nước ta, giống crocodile thành hiếm, thỉnh thoảng thấy một con, người ta cũng gọi là thuồng luồng, nhưng người thường không biết hình dạng nó thế nào nên tưởng tượng nó là một giống thủy quái hình dạng như rắn” (Sđd, tr. 26). Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967) cũng giảng thuồng luồng là “cá sấu” (nghĩa 2), bên cạnh nghĩa 1 là “loài vật dữ ở dưới nước, hình rắn, hay hại người”.

Tóm lại, thìn 辰 và thận 蜃 chỉ là những biến thể ngữ âm và biến thể tự dạng của nhau mà thôi và đều có nghĩa là:

con thuồng luồng = con cá sấu = con rồng.

Vậy, sở dĩ năm Thìn là năm con rồng là vì Thìn có nghĩa gốc (đã mất) là rồng. Đó là điểm thứ nhất. Thứ hai là vì chữ thìn còn có một nghĩa cổ (đã mất) nữa là sấm mà con rồng thì lại chính là thần Sấm. Về nghĩa này, Thuyết văn giải tự của Hứa Thận đã giảng như sau:

“Thìn 辰 là sấm vậy. Tháng ba, khí dương chuyển động, sấm vang sét giật, là lúc dân cày cấy vậy, muôn vật đều sinh sôi”.

Đó là nói về chữ thìn 辰 với nghĩa là sấm. Còn về chuyện con rồng là thần Sấm thì Vương Lập Thuyên đã bàn rất kỹ trong một thiên nghiên cứu nhan đề “Long thần chi mê” (Bí ẩn của thần Rồng) đăng trên TrungQuốc văn hóa (số 5, tháng 12-1991, tr. 89 – 104). Sau đây xin trích nêu một số dẫn chứng.

Sơn hải kinh, chương “Hải nội Đông Kinh” chép: “Trong đầm Sấm có thần Sấm, mình rồng mà đầu người, vỗ bụng (thành tiếng sấm)”. Cùng một sự việc, Sử ký, “Ngũ đế bản kỷ”, chép hơi khác: “Đầm Sấm có thần Sấm, đầu rồng mép người, vỗ bụng mình thì thành tiếng sấm”. Khác nhau về chi tiết nhưng thống nhất ở một điểm: thần Sấm hình rồng. “Thuyết quái truyện” (Kinh Dịch) giải thích: “Chấn là sấm, là rồng”. Sở dĩ có lời giảng như thế là vì rồng chính là thần Sấm. Người xưa vẽ hình để chỉ rõ rồng là thần Sấm bằng hai cách. Một là vẽ rồng há to mõm mà gào rống (là cách rất thường thấy). Hai là vẽ hình mình rồng phát ra lửa. Nước Trạch đời Chu dùng phù tiết khắc hình rồng, thân mình phát ra lửa, biểu minh rồng là thần Sấm ở trong đầm.

Trên đây là một số trong những chứng lý mà Vương Lập Thuyên đã nêu ra còn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của Jean Chevalier và Alin Gheerbrant (bản dịch do Nxb. Đà Nẵng ấn hành năm 1997) thì đã viết tại mục “Rồng” như sau:

“… rồng lại được gắn liền nhiều nhất với việc sinh ra mưa và sấm…”, “Sấm không thể tách rời khỏi mưa, mối liên hệ của nó với rồng gắn với khái niệm về bản thể tích cực, sáng tạo; Hoàng Đế là rồng, cũng là thần Sấm…” Sấm ra, tức là Dương lên, là triều dâng của sự sống, của cây cối, của sự đổi mới theo chu kỳ, được biểu thị bằng sự xuất hiện của rồng (…)” (Sđd, tr. 781).

Vậy, rõ ràng là trong tâm thức xa xưa của người Trung Hoa thì hiện tượng sấm có liên quan đến hoạt động của con rồng.

Tóm lại, từ tất cả những điều đã phân tích trên đây, chúng ta có thể kết luận rằng sở dĩ chi Thìn ứng với con rồng là vì thìn chính là rồng và vì thìn còn có nghĩa là sấm mà con rồng thì lại được tín ngưỡng dân gian Trung Hoa xem là thần Sấm.

§ 621. Kiến thức ngày nay, số 341, ngày 1-2-2000

ĐỘC GIẢ: Có phải chữ long 龍 là chữ tượng hình con rồng hay không?

AN CHI: Chữ long 龍 không tượng hình con rồng mà lại tượng hình con cá sấu vì cái nghĩa nguyên thủy của nó chính là cá sấu và vì, như đã nói, con rồng chẳng qua là con cá sấu “lên đời” mà thôi.

Ở câu 620, chúng tôi đã dẫn chứng để khẳng định rằng thuồng luồng là một giống cá sấu mà luồng thì lại là âm xưa của chính chữ long 龍. Vậy, long 龍 = (thuồng) luồng = cá sấu.

Người xưa đã đặt ra rất nhiều dị thể của chữ long 龍; những chữ này đã phản ánh một cách sinh động ngoại hình và đặc tính của con cá sấu. Ở đây chỉ xin nêu một số chữ tiêu biểu:

1. là chữ giáp cốt đời Thương.

2. là chữ trên minh văn đầu đời Chu.

(trong hai chữ trên đây, là cái mõm há to, là cái bụng còn là cái lưng và cái đuôi).

3. là chữ thời Xuân Thu.

4. là chữ trên ấn chương thời Chiến Quốc.

5. là chữ tiểu triện đời Tần. Sau khi định hình thì chữ này đã lưu hành trên hai ngàn năm nay (bây giờ là dưới dạng 龍).

6. là chữ giáp cốt đời Thương.

Trong năm chữ trên đây thì chữ 1 và chữ 2 là những chữ xưa nhất tượng hình con cá sấu một cách không thể chối cãi được. Vương Lập Thuyên (trong bài đã dẫn ở câu trên) có làm một sự so sánh như sau:

Ha là hình vẽ con cá sấu, Hb là chữ “long” và Hc là hoa văn hình cá sấu. Sự so sánh này cho thấy chữ “long” (Hb) chính là tượng hình con cá sấu (Ha) và có nhiều nét chung với hoa văn hình “rồng”(Hc). Đồng thời nó cũng cho thấy rằng chữ 1 và chữ 2 trên đây chính và chỉ là những kiểu Hb có cải biến và dựng theo chiều thẳng đứng để tạo thuận lợi cho sự khắc chữ mà thôi. Trong cả hai chữ đó thì là cái mõm há to mà nhiều nhà văn tự học khác đã giảng thành cái mào (!) hoặc cái sừng của con rồng, thậm chí có người còn giải thích rằng đó là chi tiết tượng trưng cho vương quyền nữa! Phần chính là cái bụng nhưng một s ố người lại giảng thành cái đầu của con rồng với cái mõm há to! Về sau người ta lại thấy có những chữ giản thể, chẳng hạn như (chữ 6), cũng là chữ giáp cốt đời Thương, trong đó chỉ còn có cái bụng (bị lược mất một nét thành ) và cái đuôi còn cái mõm thì đã tuyệt tích (Vương Lập Thuyên cho rằng chữ 6 là chữ “long” thuộc một hệ khác chứ không phải là giản thể của chữ 1 và chữ 2). Nhìn vào chữ 6 này chẳng ai còn có thể dễ dàng thấy rằng đó là hình của con cá sấu. Và vì thoát ly hẳn cái nguyên mẫu của chữ “long” là con cá sấu nên người ta càng dễ thêu dệt nên nhiều lời miêu tả hoang đường về chữ “long” vì cứ nghĩ rằng đó là một chữ tượng hình con “rồng: con vật huyền thoại xưa nay chưa có ai được nhìn thấy.

§ 622. Kiến thức ngày nay, số 342, ngày 10-2-2000

ĐỘC GIẢ: Nhân xem lại bộ phim truyền hình Tam quốc diễn nghĩa trên VTV1, đoạn “Tôn phu nhân quy Hán”, chúng tôi nhớ lại ngày xưa khi học về thơ Đường, giáo sư Nho ở trường Petrus Ký có giảng một bài nói về việc hai ông Tôn Thất Thuyết và Tôn Thọ Tường có hai bài thơ Đường luật gởi cho nhau rất hay với đề tài “Tôn phu nhân quy Hớn”. Chúng tôi rất tiếc không còn nhớ đầu đuôi câu chuyện giữa hai ông ấy và những bài dịch trước đây mà chỉ còn nhớ mang máng một câu hay một ý dưới đây:

Quân tặng thiếp đôi minh châu.

Xin vui lòng đăng lại nguyên văn hai bài thơ trên của hai ông Thuyết và Tường cùng hai bài dịch và tên của dịch giả.

AN CHI: Hai bài thơ mà ông nói đến là của Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị (chứ không phải Tôn Thất Thuyết), đều có nhan đề là Tôn phu nhân quy Thục (Thục là tên đất, Hán/Hớn là tên triều đại), đều làm bằng quốc âm. Tôn Thọ Tường làm bài thơ Tôn phu nhân quy Thục để thanh minh về việc mình ra hợp tác với Pháp còn Phan Văn Trị thì họa vần bài thơ ấy để bài bác sự ngụy biện của họ Tôn. Sau đây là bài của Tôn Thọ Tường:

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,

Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông.

Lìa Ngô bịn rịn chòm râu bạc,

Về Hán trau tria mảnh má hồng.

Son phấn thà đem giày gió bụi,

Đá vàng chi để thẹn non sông?

Ai về nhắn với Châu Công Cẩn,

Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.

Phan Văn Trị đã họa lại như sau:

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng,

Mặt ngã trời chiều biệt cõi Đông.

Khói toả trời Ngô in sắc trắng,

Duyên về đất Thục đượm màu hồng.

Hai vai tơ tóc bền trời đất,

Một gánh cang thường nặng núi sông.

Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết,

Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng?

Văn bản của cả hai bài đều có một số chỗ chép khác nhau. Ở đây chúng tôi đã căn cứ vào luật thơ và tứ thơ mà chọn những chữ chúng tôi cho là thích hợp hơn cả.

Còn ý “quân tặng thiếp đôi minh châu” thì lại thuộc về thơ của Trương Tịch (đời Đường) trong bài Tiết phụ ngâm mà sau đây là nguyên văn:

Quân tri thiếp hữu phu,

Tặng thiếp song minh chu (châu).

Cảm quân triền miên ý,

Hệ tại hồng la nhu.

Thiếp gia cao lâu liên uyên khỉ (khởi),

Lương nhân chấp kích Minh Quang lý.

Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt,

Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử.

Hoàn quân minh châu song lệ thuỳ,

Hận bất tương phùng vị giá thì

Trần Trọng Kim đã dịch thành thơ lục bát như sau:

Chàng hay thiếp có chồng rồi,

Còn đem cho thiếp một đôi ngọc lành.

Cảm lòng quyến luyến khôn đành,

Thiếp đeo vào áo lót mình màu sen.

Vườn kia nhà thiếp kề bên,

Lang quân chấp kích trong đền Minh Quang.

Biết chàng bụng sáng như gương,

Thờ chồng thề quyết đá vàng chẳng sai.

Gạt châu, trả ngọc chàng thôi,

Tiếc không gặp gỡ đương thời còn son.*

§ 623. Kiến thức ngày nay, số 342, ngày 10-2-2000

ĐỘC GIẢ: Xin nhắc lại câu chuyện sửa thơ giữa Tô Đông Pha và Vương An Thạch (ai sửa thơ ai?). Chuyện này có thật hay không?

AN CHI: Chuyện rằng Vương An Thạch có hai câu thơ:

“Minh nguyệt sơn đầu khiếu

Hoàng khuyển ngọa hoa tâm”

nghĩa là

“Chim minh nguyệt hót trên đỉnh núi

Sâu hoàng khuyển nằm ở giữa hoa”

Vì không biết rằng minh nguyệt là tên một giống chim (nghĩ rằng đây là trăng sáng) còn hoàng khuyển là tên một loài sâu (nghĩ rằng đây là chó vàng) nên Tô Đông Pha đã sửa hai câu trên thành:

“Minh nguyệt sơn đầu chiếu

Hoàng khuyển ngọa hoa âm”.

nghĩa là

“Trăng sáng chiếu trên đầu núi

Chó vàng nằm dưới bóng hoa”.

Về sau, khi khám phá ra nghĩa thổ ngữ của mấy tiếng “minh nguyệt” và “hoàng khuyển”, Tô Đông Pha mới biết là mình đã sửa sai. Tất nhiên đây chỉ là giai thoại mà giai thoại thì có thể… bịa. Và đây tất nhiên là do phe bênh Vương bỏ Tô bịa ra. Ngược lại, phe ưa Tô ghét Vương cũng có “chuyện” của mình. Rằng một hôm họ Vương và họ Tô tình cờ gặp nhau trong một gian phòng mà một bức tường đã nghiêng về phía Đông. Vương An Thạch bèn ứng khẩu:

Thử tường Đông pha tà hĩ!

nghĩa là

“Bức tường này nghiêng về phía Đông đây!”

Đông pha là “sườn phía Đông” nhưng cũng là hiệu của họ Tô. Tô Đông Pha lập tức đáp lại:

Thị trí an thạch quá dã!

nghĩa là

“Ấy là do đặt đá móng sai vậy!

An Thạch là tên của họ Vương nhưng Tô Đông Pha “tạm mượn” để gọi đá móng của bức tường và để ám chỉ việc Vương An Thạch được đặt vào một vị trí mà phái thân họ Tô cho là quá tầm cỡ. Câu đối lại của họ Tô còn có nghĩa là (bức tường nghiêng về phía Đông đó) chỉ làm để cho riêng Vương An Thạch đi qua mà thôi.

Chuyện này thấy chép trong Trung Quốc thật dụng đối liên đại toàn của Lương Thạch và Lương Đống do Thượng Hải Văn hóa xuất bản xã ấn hành năm 1998 (tr. 74).

§ 624. Kiến thức ngày nay, số 342, ngày 10-2-2000

ĐỘC GIẢ: Nhiều báo viết khác nhau về nơi Chúa Jésus giáng sinh. Kiến thức ngày nay, số 337, trang 56, viết “Bethlehem”. Thế giới mới, số 367, trang 22, cũng viết như thế. Nhưng báo Quốc tế, số 51, trang 15, lại viết “Bethleem” và trong toàn bài chữ này được nhắc đến 5 lần. Một ông bạn tôi nói: “Phải là Bethléem, có accent aigu (’) trên chữ “e” thứ nhất sau chữ “l”. Còn Bethlehem là một thành phố của nước Mỹ. Chúa không giáng sinh ở đấy”.

Vậy Chúa giáng sinh ở đâu? Nguyên ngữ (phiên theo chữ cái La Tinh) của địa danh thiêng liêng ấy viết như thế nào? Và có một thành phố mang tên như thế hay không?

AN CHI: Nơi Chúa giáng sinh, tiếng Pháp là Bethléem còn tiếng Anh là Bethlehem. Nhưng ở Mỹ cũng có một thành phố mang tên là Bethlehem mà tiếng Pháp cũng chuyển tự đúng nguyên dạng từ tiếng Anh. Vậy trong tiếng Pháp, Bethlehem chỉ là tên của một thành phố ở nước Mỹ còn trong tiếng Anh thì đó có thể là tên của thành phố này hoặc của nơi Chúa giáng sinh. Quyển từ điển từ nguyên tiếng Anh của Eric Partridge, nhan đề Origins (Routledge & Kegan Paul, London, 1961) đã cho dạng tiếng Do Thái chuyển tự La Tinh của địa danh đó là Béth-lehem.

Sở dĩ cách ghi trong tiếng Việt không thống nhất là vì có tác giả lấy tiếng Pháp làm gốc nhưng tác giả khác thì lại lấy tiếng Anh làm gốc.

§ 625. Kiến thức ngày nay, số 342, ngày 10-2-2000

ĐỘC GIẢ: “Hợp long” có thể nào có nghĩa là “nối nhịp” hay không mà trong dịp nối nhịp cầu Mỹ Thuận người ta lại dùng hai tiếng đó? Nếu có, xin cho biết quyển từ điển nào của Trung Quốc đã ghi nhận nghĩa này?

AN CHI: Hiện đại Hán ngữ từ điển của Phòng biên tập từ điển thuộc Sở nghiên cứu ngôn ngữ của Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (Bắc Kinh, 1992) đã giảng hai tiếng hợp long (hé lóng) như sau: “Tu trúc đê bá hoặc kiều lương tùng lưỡng đoan thi công, tối hậu tại trung gian tiếp hợp, khiếu tố hợp long”, nghĩa là “đắp đê hoặc làm cầu, thi công từ hai đầu rồi cuối cùng nối lại ở giữa gọi là hợp long”. Vậy hợp long cũng có nghĩa là nối nhịp. Nối nhịp có sắc thái trung hòa còn hợp long lại có sắc thái trang trọng nên xem ra có vẻ như cũng thích hợp để nói về kỳ công của tập thể những người đã tạo nên công trình thế kỷ (XX) là cầu Mỹ Thuận chăng?

§ 626. Kiến thức ngày nay, số 343, ngày 20-2-2000

ĐỘC GIẢ: Trên tạp chí Ngôn ngữ số 9-1999, bài “Xác định nguồn gốc một số từ” (tr. 17 – 21), có bàn về nguồn gốc của hai tiếng “ba hoa” đã bàn đến trên Kiến thức ngày nay, số 246 (20-5-1997). Xin cho biết nhận xét của ông, và nếu có thể, thì về cả những trường hợp còn lại nữa.

AN CHI: 1. Bài viết đó khẳng định rằng ba hoa là do tiếng Pháp bavard mà ra nhưng theo chúng tôi ý kiến này không đúng ở những điểm sau.

1.1. Nói rằng hai tiếng ba hoa “hoàn toàn không xuất hiện trong các từ điển từ thế kỷ XVII đến 1950” nên “khả năng mượn từ tiếng Pháp là rất rõ”. Ý người viết muốn nói rằng vì nó không được ghi nhận trong những quyển từ điển thuộc giai đoạn đã nêu nên nó chưa ra đời trong giai đoạn đó. Tác giả bài viết đã nhầm. Sự có mặt của một từ trong từ điển chứng tỏ nó có tồn tại nhưng sự vắng mặt của nó (trong từ điển) thì lại không thể chứng tỏ rằng nó chưa ra đời. Huống chi, ý kiến của tác giả bài viết đó chỉ có thể đúng khi nào ông chứng minh được rằng từ 1950 trở đi thì mọi từ ngữ tân tạo của tiếng Việt đều bắt nguồn từ tiếng Pháp.

1.2. Tác giả đã viết: “Về ngữ âm, v > hw đã có ít nhất ba trường hợp: (đậu) haricot vert > (đậu) hoe, valise > hoa li, cravate > cà-ra-hoát. Mối quan hệ v – hw giữa tiếng Việt và tiếng Hán Việt đã có rất nhiều tiền lệ: vàng – hoàng, (tai) vạ -hoạ, và – hòa, vẽ – (hội) họa, vẹn – hoàn (toàn). Do đó bavard chuyển thành ba hoa là theo quy luật biến đổi ngữ âm”. (Bđd, tr. 18). Ở đây tác giả bài viết lại nhầm lẫn.

1.2.1. Ông đã phân biệt “tiếng Việt” với “tiếng Hán Việt” trong khi mọi tiếng Hán Việt đều là tiếng Việt, y hệt như mọi từ Pháp gốc La Tinh đều là tiếng Pháp (chứ không còn là tiếng La Tinh nữa!).

1.2.2. Ông đã nhầm khi đưa ra ba trường hợp: (đậu) “hoe”, “hoa” li và cà-ra-“hoát”. Về trường hợp thứ nhất, người Nam Bộ chỉ nói đậu oe còn người Bắc Bộ thì nói đậu cô ve, không ai phát âm tiếng sau cùng thành [hwɛ¹]. Về trường hợp thứ hai thì ngay ở Nam Bộ, mặc dù vẫn có người nói oa-li [wa¹ li¹] nhưng phần đông, kể cả người bình dân, lại nói va li [va¹ li¹]. Thậm chí, trước đây một số ít người còn muốn “chuẩn hóa” âm [v] theo kiểu Nam Bộ mà phát âm thành bya li [bja¹ li¹]. Còn người Bắc Bộ thì chỉ phát âm thành [va¹ li¹] mà thôi. Không có ai nói [hwa¹ li¹]. Về trường hợp thứ ba thì người Bắc phát âm thành ca-vát hoặc cà-vạt, ở trong Nam, người có học thì phát âm thành cà byạc [ka²bjak⁶] (nếu không muốn phát âm thành cravate y như trong tiếng Pháp) còn người bình dân thì nói cà-ra/la-oách chứ tuyệt đối không có ai phát âm tiếng sau cùng thành [hwat⁵]. Vậy “hoe”, “hoa” “hoát” ở đây chỉ là những dạng chính tả hoàn toàn giả tạo (chữ “h” ở đây cũng giống như chữ h muet, “h câm” trong tiếng Pháp (còn [hwɛ¹], [hwa¹], [hwat⁵] thì chỉ là những âm ảo do chính tác giả bài viết đó đưa ra mà thôi. Âm [v] của tiếng Pháp không cho ra [hw] trong tiếng Việt và điều này thì tuyệt đối.

1.2.3. Tác giả bài viết đã đem mối tương ứng ngữ âm Việt – Hán ra mà áp đặt cho mối tương ứng ngữ âm Việt – Pháp. Đây là một việc chỉ có thể làm để bịa giai thoại cho vui chứ không thể là chuyện từ nguyên học nghiêm túc. Huống chi, xuất phát điểm và kết quả của hai mối quan hệ do ông đưa ra lại hoàn toàn đối nghịch với nhau. Trong mối quan hệ Việt -Pháp thì đó là:

[hw] (Việt) < [v] (Pháp)

còn trong mối quan hệ Việt – Hán thì đó lại là:

[v] (Việt) < [hw] (Hán).

Nhà từ nguyên học nghiêm túc phải đi vào lịch sử của từng mối quan hệ ngữ âm cụ thể chứ không thể chơi trò ảo thuật bằng những chữ cái.

1.3. Tóm lại, tất cả những lý lẽ mà tác giả bài viết đưa ra để chống đỡ cho ý kiến về gốc Pháp của hai tiếng ba hoa đều không thể đứng được. Còn hai tiếng này do đâu mà ra thì chúng tôi đã chứng minh trên Kiến thức ngày nay, số 246.

2. Bây giờ xin nói về nguồn gốc của hai từ che và chè mà tác giả bài viết đã đưa ra. Ông viết: “Ở nông thôn, lò ép mía được gọi là lò che; và dụng cụ ép mía thô sơ, dùng sức kéo làm cho hai trục lớn quay tròn cán mía vào giữa gọi là che (…) Trong khi ép và nấu nước mía, người ta thường uống một thứ nước gọi là nước chè (…) Che và chè ở trên, theo chúng tôi nghĩ, là âm cổ của từ Hán Việt giá 蔗 có nghĩa là mía” (Bđd, tr. 17).

Rất tiếc rằng ông lại không cho biết tại làm sao, “theo ông nghĩ”, một từ có nghĩa là mía, từ che, không phải là tên của chính cây mía mà lại là tên của cái dụng cụ dùng để ép mía. Còn sự thực thì che chẳng qua là âm xưa của trá 榨 vì trá mới chính là cái dụng cụ làm bằng trục dùng để ép lấy nước. Đó là nói về mặt ngữ nghĩa, còn về mặt ngữ âm thì che ~ trá là một cặp tương ứng rất đẹp về mọi mặt. Về nguyên âm (-e ~ -a) và về thanh điệu (thanh 1, không dấu ~ thanh 5, dấu sắc) thì chính tác giả bài viết đã chứng minh giúp chúng tôi trong bài đã dẫn, còn về phụ âm đầu (ch- ~ tr-) thì người ta cũng có hàng loạt dẫn chứng: – (ăn) chay ~ trai (giới); – chém ~ trảm; – chén ~ trản; – chìm ~ trầm; v.v.. Vậy che ở đây không phải là âm xưa của giá 蔗 là cây mía mà của trá 榨 là cái trục dùng để ép (mía). Đến như chè trong nước chè thì đây là âm cổ của trà 茶 như mọi người vẫn hiểu một cách hoàn toàn chính xác từ xưa đến nay và như chính tác giả bài viết cũng đã “lỡ tay” viết (“chè – trà”) tại dòng 21, trang 17 của bài đã dẫn chứ làm gì có chuyện chè mà lại là âm cổ của giá có nghĩa là mía. Và “nước chè (mía)” của ông chẳng qua chỉ là một ẩn dụ (do màu nước mía tựa như màu nước chè) từ “nước chè trà” của mọi người mà thôi.

3. Cuối cùng, xin nói về từ tổ dây cót, được tác giả bài viết xếp vào loại “mà Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê gọi là từ kép điệp ý và Nguyễn Tài Cẩn gọi là từ láy nghĩa” (Bđd, tr. 18), tức là kiểu từ tổ gần đây được gọi một cách khá thống nhất là “từ ghép đẳng lập”. Từ tổ đẳng lập này, theo ông, gồm có một từ “thuần Việt” là dây và một từ gốc Ấn Âu là cót, bắt nguồn từ tiếng Pháp corde (Bđd, tr. 20, chth. 3). Ở đây tác giả có hai cái sai.

Thứ nhất là, trong tiếng Pháp, một sợi dây dùng để thắt cổ có thể gọi là corde chứ sợi dây cót thì lại là spiral hoặc ressort. Cót là một từ Việt gốc Bồ Đào Nha, bắt nguồn ở danh từ corda, có nghĩa là… dây cót, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 110. Chuyện này có liên quan đến lịch sử vì người Bồ Đào Nha hẳn là những người đầu tiên đã đem cái đồng hồ chạy bằng dây cót vào nước Đại Việt.

Thứ hai là từ tổ đẳng lập chỉ có thể kết hợp với danh từ đơn vị (mà cho đến nay nhiều người vẫn cứ còn thích gọi là “loại từ”) chỉ tập hợp (như: đống, mớ, đám, v.v.) chứ không kết hợp được với danh từ đơn vị chỉ cá thể (như: cái, bức, sợi, v.v.). Có thể nói: tốp lính tráng, mớ trầu cau, đống quần áo, chồng sách báo, v.v. chứ không thể nói: thằng lính tráng, lá trầu cau, cái quần áo, quyển sách báo, v.v.. Nhưng nói sợi dây cót thì được. Đây là căn cứ chắc chắn để khẳng định rằng dây cót không phải là một từ tổ đẳng lập vì đó là một từ tổ chính phụ y hệt như dây chằng, dây chun (thun), dây cương, dây tóc, v.v..

Tóm lại, dây cót không phải là một từ tổ đẳng lập mà cót cũng chẳng phải là một từ gốc Pháp như tác giả bài viết đã nói.

§ 627. Kiến thức ngày nay, số 343, ngày 20-2-2000

ĐỘC GIẢ: Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994) có ghi nhận thành ngữ “sụm bà chè” và giảng là “tàn, bại, gục”. Xin cho biết “bà chè” là gì hoặc là ai.

AN CHI: Hình thức gốc của lối nói này là sụm bánh chè. Bánh chè là chỗ xương tròn, dẹt ở đầu gối còn sụm bánh chè là một lối nói bằng hoán dụ mang sắc thái đùa cợt, có nghĩa là sụm đầu gối, nghĩa là quỵ xuống. Thành ngữ ba tiếng này có trọng âm [101] (số [0] chỉ tiếng khinh âm, còn số [1] chỉ tiếng có trọng âm). Trong ba tiếng đó thì bánh là tiếng khinh âm nên dễ bị biến âm mà trở thành “bà”. Do đó mà trong khẩu ngữ ở Nam Bộ, sụm bánh chè mới trở thành sụm bà chè như đã được ghi nhận trong quyển từ điển mà ông đã dẫn.

Vì sao nên dùng dương lịch, Nxb. Phổ thông, 1977, tr. 92 – 93.

Xin xem: Mathews’ Chinese-English Dictionary, Harvard University Press, 1960, pp. 1063 – 1064, ch. 7166, 29.

Kiến thức ngày nay, số 212.

Xem Malet et Isaac, Histoire contemporaine

Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Phan Quang, Nguyễn Cảnh Minh, Lịch sử Việt Nam (1427 – 1858), quyển 2, tập 1, Hà Nội, 1971, tr. 200.

Sđd, tr. 201.

Sđd, tr. 201.

Sđd, tr. 203.

Sđd, tr. 203.

Nguyễn Hồng Mao, “Bước đầu tìm hiểu thương nghiệp thế kỷ X”, trong Viện Sử học, Thế kỷ X – Những vấn đề lịch sử, Hà Nội, 1984, tr. 79.

Xem chẳng hạn, N. Steinberg, Grammaire française, I, Léningrad, 1972, p. 41.

Kiến thức ngày nay, số 200, tr. 15.

Xem Việt-nam tự-điển của Lê Văn Đức.

Mỹ thuật thời nay, Xuân Tân Mùi, tr. 152 – 155.

Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên, in lần thứ nhất năm 1967, cũng đã ghi chữ đang xét bằng dấu hỏi.

Dân tộc học, số 1, 1975, tr. 36 – 45.

Chúng tôi còn phân vân vì chữ cu ở đây có thể liên quan đến cu trong ngựa cu.

Chúng tôi đã có nói đến trường hợp này tại Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 111, tr. 32, và Kiến thức ngày nay, số 134, tr. 89.

Về cương vị ngôn ngữ học của “tiếng”, Ngôn ngữ, số 2, 1985, tr. 27 – 28.

Lịch sử Việt Nam, tập 1, Đại học & Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983, tr. 119.

Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Văn học dân gian Việt Nam, tập I, Hà Nội, 1972, tr. 240 – 241.

Dẫn theo Khổng Diễn, “Những tàn dư của sinh hoạt kinh tế sơ khai và tín ngưỡng nông nghiệp ở Vĩnh Phú”, Dân tộc học, số 1, 1975, tr. 42, chth. 1.

Dẫn theo Nguyễn Hữu Thu, “Hội hát “Chèo tàu” phải chăng là ngày hội truyền thống kỷ niệm hai Bà Trưng”, Dân tộc học, số 2, 1978, tr. 87.

Dẫn theo Nguyễn Hữu Thu, “Tiếng hát của một dòng sông”, Dân tộc học, số 4, 1974, tr. 74.

Dẫn theo Nguyễn Huy Hồng, Nghệ thuật múa rối Việt Nam, Hà Nội, 1974, tr. 109.

Dẫn theo Đỗ Văn Ninh và Trần Lê Sáng, “Một tài liệu nguyên bản về hát Rô mới tìm thấy”, Dân tộc học, số 1, 1974, tr. 89.

Dẫn theo Huỳnh Ngọc Trảng, “Giới thiệu hát sắc bùa ở Bến Tre”, Dân tộc học, số 1, 1981, tr. 58.

Dẫn theo Nguyễn Lộc, “Hát xoan Vĩnh Phú”, Dân tộc học, số 3, 1974, tr. 87.

Dẫn theo Nguyễn Khắc Xương, “Vài nét về hát xoan và phong tục ở Vĩnh Phú”, Dân tộc học, số 2, 1973, tr. 99.

Việt-Nam thi-văn giảng-luận, tập II, Tân Việt, in lần thứ hai, không ghi năm, tr. 236.

“Gác mái ngư ông về… đâu?”, Kiến thức ngày nay, số 201, tr. 34.

Ngất ngưỡng một Nguyễn Tuân, Thế giới mới, số 28, 1992, tr. 56 – 57.

Xin xem thêm Kiến thức ngày nay, số 177, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 55.

Ngôn ngữ, số 2, 1972, tr. 66.

Xem bản do Vương Lộc giới thiệu và chú giải, Hà Nội – Đà Nẵng, 1995.

Xem các từ: bé, bẻ, mẹ, nghe, xé, the, chè, sẽ lần lượt ở các trang 115, 143, 150, 157, 158, 166, 169, 183.

Góp ý với ông Đào-duy-Anh về vấn đề Loa-thành, Nghiên cứu lịch sử, số 86, 5-1966, tr. 43 – 44.

Dẫn theo Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ, Ra khơi, Sài Gòn, 1972, tr. 57 – 63.

Từ cứ liệu địa danh ngôn ngữ có từ “kẻ”, suy nghĩ về không gian cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Nghiên cứu lịch sử, số 2, 1983, tr. 38 – 39.

Ghi theo Hoàng Tích Lăng, Việt âm vận vựng, Hong Kong, 1973, tr. 31 và 39.

Xin xem L. Hjelmslev, Le langage, les Editions de Minuit, Paris, 1966, p. 90.

Ngôn ngữ, số 2,1994, tr. 1-7.

“Vài nét về tình hình văn bản thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm”, trong: Nguyễn Bỉnh Khiêm – danh nhân văn hóa, Hà Nội, 1991, tr. 219.

“Ông Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm”, trong: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hải Phòng, 1991, tr. 217.

“Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối cảnh văn hóa Việt Nam thế kỷ XVI”, trong Nguyễn Bỉnh Khiêm – danh nhân văn hóa, Hà Nội, 1991, tr. 56.

“Mấy vấn đề suy tưởng ngang qua sự nghiệp Trạng Trình”, trong: Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm, 1991, tr. 133.

“Tài thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm”, sđd, tr. 155.

“Trạng Trình và sấm Trạng Trình”, sđd, tr. 171.

Xin xem, chẳng hạn, Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển của Cao Thụ Phiên.

Xem Khang Hy tự điển.

Dẫn theo: Lý Phất Nhất, Thập Nhị Bản Nạp chí, Chính Trung thư cục, Đài Bắc, sơ bản, 1955, tr. 90 – 91.

Xem Histoire du Laos, P. U. F, Paris, 1974, p. 36.

Xem Les peuples de la péninsule indochinoise, Paris, 1962, p. 133.

Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập I, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, tr. 186.

Sđd, tr. 127 – 128.

Sđd, tr. 235.

Chúng tôi sử dụng bản của Yên Sơn xuất bản xã, Bắc Kinh, 1995.

Bản in lần thứ 3 của Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, 1949, tr. 182.

Dẫn theo: Hoàng Dũng, Các tổ hợp phụ âm tắc bên trong tiếng Việt, luận án Phó tiến sĩ khoa học ngữ văn, bản đánh máy, Hà Nội, 1992, tr. 40.

Xem Truyện Kiều, khảo đính và chú giải, Nxb. Khoa học Xã hội, 1995, tr. 91.

Truyện Kiều, khảo đính và chú thích, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1972, tr. 375, c. 439.

Truyện Thúy Kiều, Nxb. Tân Việt, in lần thứ tám, Sài Gòn, tr. 79, chth. 4, 5.

“Đỉnh giáp non thần” cần được hiểu khác, Nguồn sáng, 13/9703, tr. 18.

Xem Kiến thức ngày nay, số 195, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 49.

Sđd, tập I, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, tr. 13.

Nguyễn Đình Đầu, “Địa lý lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh”, sđd, tr. 127 – 128.

Sđd, tr. 235.

Xem Khang Hy tự điển.

Kiến thức ngày nay, số 81, tr. 3 – 9

Kiến thức ngày nay, số 81, tr. 9.

Thử bàn về ý nghĩa một số thuật ngữ biểu thị hình thái kinh tế – xã hội cổ truyền người Thái và Tày, Dân tộc học, số 3, 1983, tr. 61.

Về khả năng này của tiếng Mường, xin xem: Nguyễn Văn Tài, Góp thêm tài liệu cho việc đoán định thời điểm chia tách của hai ngôn ngữ Việt và Mường, Dân tộc học, số 3, 1978, tr. 23 – 28.

Xem Người Mường ở Hòa Bình, Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội, 1996, tr. 74.

Xem chẳng hạn: Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 1995, tr. 217.

Xin xem lại Kiến thức ngày nay, số 186.

Xin xem lại Kiến thức ngày nay, số 186.

Xin xem: Phan Khôi, Chương Dân thi thoại, Nxb. Đà Nẵng, 1996, tr. 106 – 107.

Về âm Quảng Đông, xin xem, chẳng hạn, Hoàng Tích Lăng, Việt âm vận vựng, Hong Kong, 1973, tr. 14.

Xin xem, chẳng hạn, Thẩm Phú Tiến, Vựng âm bửu giám, Đài Nam, 1965.

Bản dịch của Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân, Nxb. Hải Phòng, 1994, tr. 333.

Xem Dictionnaire classique de la langue chinoise của F. S. Couvreur.

Xem các nghĩa 2, 3 và 4 trong Hán ngữ đại tự điển, Thành Đô, 1993, tr. 367.

Dẫn theo Nguyễn Lập Sơn – Dư Phát Linh, Tục ngữ Hoa – Việt, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993, tr. 62.

Cơ sở ngữ văn Hán Nôm, tập I, Nxb. Giáo dục, 1984, Lời nói đầu, tr. 3.

Bàn về câu đối của nữ sĩ họ Đoàn, Kiến thức ngày nay, số 77, Xuân Nhâm Thân, tr. 130.

Trên Kiến thức ngày nay, số 247, chúng tôi có so sánh cấu trúc vang bóng với cấu trúc nổi tiếng nhưng đó chỉ là nói về mặt cú pháp.

Xem BKVH, số 8, tr. 94.

BKVH, số 9,1991,tr. 93 – 94.

Xem “Trở lại nhân vật Ngải Trương”, Văn nghệ, phụ san 1-1991.

Xin xem: Ban Cố, Hán thư, Trung châu cổ tịch xuất bản xã, Trịnh Châu, 1996, từ quyển 31 đến quyển 100.

BKVH, số 8, tr. 94.

Ngôn ngữ, số 3, 1993, tr. 49 – 54.

Đỗ Bang – Nguyễn Minh Tường, Chân dung các vua Nguyễn, tập I, Huế, 1996, tr. 166 – 168.

Tạp chí Cộng sản, 9-1995, tr. 23.

Nho giáo, quyển thượng, Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 1971, tr. 10.

Xem “Góp thêm lời về bộ phim Tể tướng Lưu gù”, Tài hoa trẻ, số 29, tr. 34.

Quốc văn cụ thể, in lần thứ hai, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, không ghi năm, tr. 98 – 99.

Bản dịch của Cao Huy Giu, tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967, tr. 63.

Tầm-nguyên tự-điển Việt-Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 406 và 408.

Xem Khang Hy tự điển.

Xin xem: Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1979, chương thứ bảy, tiết II, mục C, tr. 233 -237).

Xem Thuý-Kiều truyện tường chú, Chiêm Vân Thị chú đính, Trúc Viên Lê Mạnh Liêu phiên dịch và phụ chú, quyển thượng, tái bản lần thứ nhất, Sài Gòn, 1973, tr. 82 – 83, chth. 19.

Truyện Kiều, khảo đính và chú thích, Nxb. Đại học & Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1972, tr. 394, số 78.

Truyện Kiều – khảo đính và chú giải, Nxb. Khoa học Xã hội, 1995, tr. 57.

Truyện Thúy Kiều – hiệu khảo, Nxb. Văn hóa Thông tin, 1995, tr. 58, chth. 2.

Xem “Nỗi đau của những câu thơ qua một chữ trong Truyện Kiều”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 10 (24)-1997, tr. 12 – 13.

“Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, một học giả lớn của Việt Nam”, Khoa học Xã hội, số 28, quý II-1996, tr. 174.

Xem “Một vài nhận xét về việc nghiên cứu Truyện Kiều của cố học giả Hoàng Xuân Hãn”, tạp chí Văn học, số 6-1997, tr. 13.

“Trả lời ông Đào Thái Tôn…”, Văn nghệ, Hà Nội, số 38, 20-9-1997, tr. 5.

Bản dịch của Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân, tr. 75.

Xin xem, chẳng hạn, Trần Khuê, “Về thái độ chính trị của Nguyễn Du đối với các triều Lê, Tây Sơn và Nguyễn Gia Long”, Nghiên cứu và tranh luận, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996, tr. 97 – 129.

Thuý-Kiều truyện tường chú, quyển thượng, tái bản lần thứ nhất, Sài Gòn, 1973, tr. 136, chth. 8.

Xem bản dịch của Nguyễn Đình Đầu, Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận, Nxb. Trẻ, 1997, tr. 25.

Xem Trương Vĩnh Ký, sđd, tr. 81.

Xem Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 1995, tr. 63.

Hồng Đức quốc âm thi tập, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1982, tr. 218 – 219.

Xem Đào Thái Tôn, sđd, tr. 57 – 72.

Xem Đỗ Tất Lợi, “Cây mơ, cây mai dưới con mắt người làm công tác khoa học”, báo Nhân dân ngày 22-2-1983 và Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Khoa học & Kỹ thuật, Hà Nội, 1986, tr. 706.

Về cái nghĩa “bông”, “đóa” của từ chi, xin xem Kiến thức ngày nay, số 214, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 52 – 53.

“Đêm qua sân trước nở cành mai”, Kiến thức ngày nay, số Xuân Quý Dậu, tr. 100.

Sài Gòn năm xưa, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1991, tr. 214.

Kiến thức ngày nay, số 125, 01-12-1993, tr. 94 hoặc Chuyện Đông chuyện Tây, Nxb. Trẻ & Kiến thức ngày nay, 1997, tr. 91 – 92.

“Những đường phố đổi tên nhiều nhất”, Thanh niên, số 202, 19-12-1997, tr. 5.

“Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng”, Ngôn ngữ, số 2, 1985, tr. 52.

Lit de Procuste (chiếc giường của Procuste): Trong thần thoại Hy Lạp, Procuste là một tên cướp chuyên bắt giữ khách qua đường. Nạn nhân sẽ bị đặt nằm lên chiếc giường sắt của hắn. Người nào có chân dài quá thì hắn cắt bớt, có chân ngắn quá thì hắn kéo cho dài ra.

Chauvinisme: chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.

Thế giới mới, số 273, tr. 72.

Bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm, dẫn theo Phạm Đan Quế, Truyện Kiều đối chiếu, Nxb. Hà Nội, 1991, tr. 112 – Cũng có thể xem: Truyện Kim Vân Kiều, Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân dịch, Nxb. Hải Phòng, 1994, tr. 74.

“Một vài nhận xét về việc tu sửa quyển Từ điển Truyện Kiều”, Tổ quốc, số 11, 1986, tr. 46.

Sài Gòn năm xưa, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1991, tr. 177 – 178.

Bản dịch của Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân, Nxb. Hải Phòng, tr. 82.

Xin xem Thế giới mới, số 270, tr. 49.

Xin xem: Raymond Bloch, Les origines de Rome, Paris, 1971, p. 14.

Xin xem, chẳng hạn: N. Steinberg, Grammaire française, I, Leningrad, 1972, p. 18.

Xin xem bản dịch của Phạm Trọng Điềm, tập III, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1992, tr. 101, 104 và 111.

Histoire du Cambodge, Paris, 1961, p. 27.

Xin xem Les peuples de la péninsule indochinoise, Paris, 1962, p. 95.

Từ điển Truyện Kiều, Hà Nội, 1974, tr. 104.

Truyện Kiều, khảo đính và chú giải, Nxb. Khoa học Xã hội, 1995, tr. 80.

“Xem lại quan hệ giữa tiếng Việt và ngành Thái qua một số tộc từ”, Ngôn ngữ, số 3 (108), 1998, tr. 43.

Xin xem, chẳng hạn Larousse/3 volumes en couleurs, vol.2, p. 659, hoặc E. Royston Pike, Dictionnaire des religions, Paris, 1954, p. 176.

Le calendrier, Paris, 1970, pp. 49 – 50.

Xem Giai thoại làng Nho của Lãng Nhân.

Dẫn theo Thúy Kiều truyện tường chú của Chiêm Vân Thị do Trúc Viên Lê Mạnh Liêu phiên dịch và phụ chú, quyển hạ, Sài Gòn, 1974, tr. 41 – 42, chth. 12.

Dẫn theo Phạm Đan Quế, Truyện Kiều đối chiếu, Nxb. Hà Nội, 1991, tr. 261.

Thanh Tâm Tài Nhân, Truyện Kim Vân Kiều, Nxb. Hải Phòng, 1994, tr. 202.

Dẫn theo: Peter M. Bergman, The Concise Dictionary of 26 Languages, New York and Toronto, 1968, p. 61.

Kiến thức ngày nay, số 290, tr. 57 – 58.

Kiến thức ngày nay, số 293, tr. 47 – 48.

Xin xem bản dịch: Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973, tr. 63.

Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1989.

Kiến thức ngày nay, số 98, tr. 28

Kiến thức ngày nay, số 98, tr. 28

Bản dịch của Cao Huy Giu, tập II, Hà Nội, 1967, tr. 200.

“Công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và tính chất của nó”, Nghiên cứu lịch sử, số 5 (300), 1998, tr. 61.

Xem “Quanh nguồn tư liệu có liên quan đến bài Ngôn hoài của Không Lộ thiền sư”, Tạp chí Văn học, số 12, 1996, tr. 28 – 37.

Dẫn theo Nguyễn Khắc Phi, bđd, tr. 29.

Kiến thức ngày nay, số 147, tr. 12.

Kiến thức ngày nay, số 166, tr. 46.

Thơ quốc âm Nguyễn Trãi, Nxb. Giáo dục, 1994, tr. 31 – 32.

Nguyễn Trãi et son recueil de poèmes en langue nationale, Editions du CNRS, Paris, 1987, p. 49.

Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 169, tr. 661, chth. 1.

Kiến thức ngày nay, số 143, tr. 70.

Việt-Pháp bang-giao sử-lược, Huế, 1950, tr. 239 – 240.

Tạp chí Hán Nôm, số 1(2)1987, tr. 34.

Theo Thơ Đường, Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr. 221.

Theo Thơ Đường, Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr. 225 – 226.

Xem Dictionnaire des proverbes của Maloux.

Matthieu, 9:16,17 – Theo bản (dịch) nhuận chánh của Hội Ghi-đê-on Quốc tế, 1965.

Grammata Serica Recensa, Stockholm, 1964, p. 1, n. 2.

Xin xem ấn bản của Quốc dân xuất bản xã, Đài Bắc, 1959, tr. 64.

Xem Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974.

Hà Quang Năng, “Lại nói về hai chữ nét ngài trong Truyện Kiều”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 5(19)-1997, tr. 22.

Xin xem thêm ở Chuyện Đông chuyện Tây của Kiến thức ngày nay, số 302, câu trả lời cho ông Tùng Thiện.

Xin xem Kiến thức ngày nay, số 219, 222, 226, 231, 237.

“Chữ và nghĩa”, Ngôn ngữ, số 1, tháng 6-1969, tr. 87 – 88.

Về mối quan hệ l- ~ ch-, xin xem Kiến thức ngày nay, số 309, Chuyện Đông chuyện Tây, câu trả lời cho ông Trần Thanh Sĩ.

Xem ấn bản năm 1997 của Thượng Hải từ thư xuất bản xã, tr. 478, cột 3.

Kiến thức ngày nay, số 265, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 50.

Kiến thức ngày nay, số 143, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 69.

Grammata Serica Recensa, Stockholm, 1964, ser.57, b-e; ser.49, u.

Rekonstruktsiya drevnekitayskoy fonoiogitcheskoy sistemư, Moskva, 1989, tr. 562.

Ấn bản của Nxb. Đại học & Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, in lần thứ sáu, 1986, tr. 125.

Bản dịch của Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân, Nxb. Hải Phòng, 1994, tr. 200 – 201.

Thuý-Kiều truyện tường chú, quyển hạ, Lê Mạnh Liêu phiên dịch và phụ chú, Sài Gòn, tái bản lần thứ nhất, 1974, tr. 39, chth. 5.

Từ điển Truyện Kiều, Hà Nội, 1974.

Kể theo: Edith Hamilton, La mythologie, trad. de l’ anglais par Abeth de Beughem, Marabout Université, 1962.

“Học giả Hoàng Xuân Hãn nói về Truyện Kiều”, Hoa Lục Bình sao thích theo tài liệu của Hội Cam Tuyền, tạp chí Văn học, số 3, 1997, tr. 15.

Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1969, tr. 42.

“Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 189 – 190, chth. 36.

Theo Thơ Đường, Tản Đà dịch, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr. 70.

“Nguồn gốc các từ thằn lằn, bồ nhìn”, Ngôn ngữ & Đời sống, 12-1997, tr. 26.

Xem Nguyễn Ngọc Hải, Từ điển 270 con vật, Hà Nội, 1993, tr. 155.

Xem Viện nghiên cứu Hán Nôm, Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, Hà Nội, 1981, tr. 404.

Hà Văn Thư – Lã Văn Lô, Văn hóa Tày Nùng, Hà Nội, 1984, tr. 12 – 13.

“Truyền thuyết dân gian và địa danh”, tạp chí Văn học, 9-1999, tr. 44.

Phạm Đan Quế, Tập Kiều, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr. 236.

Xem Bản dịch của Phạm Trọng Điềm, tập 3, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1992, tr. 101, 104, 111.

Đinh Xuân Vịnh, Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb. Lao động, 1996, tr. 253.

Xem bản dịch đã dẫn, tr. 101.

Đúng ra phải là draco.

Phạm Đan Quế, sđd trên Kiến thức ngày nay, số 334, tr. 7.

Bản dịch của Nhữ Thành, in lần thứ tư, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1988, tr. 330 – 31.

Đường thi, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, 1950, tr. 121.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3