Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2: Câu hỏi 561 - 585

§ 561. Kiến thức ngày nay, số 314, ngày 1-5-1999

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 309, ông có bàn về hai tiếng “ngầu pín” trong tiết mục sân khấu “Ông Thủ Thiệm” của soạn giả Trường Giang. Tôi đã đọc đi đọc lại câu trả lời của ông và xin viết về ông mấy ý nhỏ gọi là…

Theo thiển ý, đó là cảnh tên gia nhân đóng vai hề để chọc cười. Ông Lý trưởng thuộc lớp giàu bông bí, có giàu mà không có sang, có bắt chước mà không có hiểu biết. Ông đua đòi học làm sang, ăn ngầu pín để trợ lực. Ông ăn để bà khen… giỏi! Tác giả dựng lên cảnh tréo ngoe. Ngầu pín là… của bò đực mà ông lý vì mới học làm sang nên cứ ngỡ đó là… của heo đực. Lý trưởng đã để lộ cái sang học đòi vì không có được cái sang chánh hiệu con nai chà. Còn bà lý? Nồi nào vung ấy. Mà còn hơn ông lý một mức nên mới sai đi mua heo cái về để lấy… ngầu pín.

Soạn giả đã cố ý dựng cảnh và tả người như thế để tùy ý khán giả suy gẫm chứ có lẽ nào Trường Giang lại không biết… ngầu pín là cái gì!

AN CHI: Chúng tôi cũng nghĩ… giống như ông. Vì vậy nên trên Kiến thức ngày nay, số 309 chúng tôi mới viết: “Còn Trường Giang có dụng ý gì khi đưa ra chi tiết đó hoặc tác giả thực sự không biết ngầu pín là cái gì mà cứ nói… bạt mạng thì chúng tôi phải dè dặt mà nói rằng mình không dám khẳng định”. Khi chúng tôi nói đến dụng ý của soạn giả Trường Giang là chúng tôi cũng nghĩ giống như ông vậy. Sở dĩ chúng tôi không dám khẳng định là vì thực tế chúng tôi đã không xem tiết mục sân khấu đó và vì chúng tôi muốn dè dặt tới mức tối đa.

§ 562. Kiến thức ngày nay, số 314, ngày 1-5-1999

ĐỘC GIẢ: Học giả Hoàng Xuân Hãn đọc chữ thứ 4 câu thứ 628 của Truyện Kiều là “trụi” (Mày râu nhẵn trụi, áo quần bảnh bao) thay vì “nhụi” (Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao) như nhiều nhà khác đã phiên âm. Tôi cho rằng cụ Hãn có lý vì làm sao “nhụi” (phụ âm đầu nh-) lại có thể ghi bằng chữ đội 隊 (có phụ âm đầu đ-)?

AN CHI: Hàng loạt chữ Nôm ghi phụ âm đầu nh- bằng những yếu tố Hán Việt có phụ âm đầu đ-: – (sao) nhãng * ghi bằng chữ đãng 蕩; – (chế) nhạo ghi thẳng bằng chữ đạo 道; – (dai) nhẳng * ghi bằng chữ đẳng 等; – (nhỏ) nhoi ghi thẳng bằng chữ đôi 堆; – (đau) nhói ghi thẳng bằng chữ đối 對; v.v.. Vậy hoàn toàn không có gì bất thường nếu (nhẵn) nhụi được ghi thẳng bằng chữ đội 隊. Huống chi, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 265 (Chuyện Đông chuyện Tây), “nhẵn trụi làm sao có thể đối với bảnh bao cho xứng lứa vừa đôi được?” (vì đó không phải là từ láy âm). Huống chi, nếu tay “giám sinh” họ Mã mà “mày râu nhẵn trụi” như ái nam ái nữ thì làm sao cho ra vẻ đấng tu mi để bịp thiên hạ mà “mua ngọc đến Lam Kiều”?*

§ 563. Kiến thức ngày nay, số 315, ngày 10-5-1999

ĐỘC GIẢ: Rốt cuộc thì khởi đầu cho thế kỷ XXI và thiên niên kỷ III là năm 2000 hay 2001?

AN CHI: Chúng tôi đã khẳng định tại Chuyện Đông chuyện Tây rằng năm 2000 không thể thuộc về thế kỷ XXI và thiên niên kỷ III được vì nếu xử lý như thế thì 20 thế kỷ, tức 2 thiên niên kỷ, vừa qua của Công nguyên chỉ có 1999 năm mà thôi.*

Gần đây, trong bài “Năm 2000 là năm đầu của thế kỷ XXI hay năm cuối thế kỷ XX?”, đăng trên Thế giới mới, số 326 (83-1999), tác giả GS. Phạm Viết Trinh, Chủ tịch Hội Thiên văn học Việt Nam, cũng đã khẳng định rõ ràng như sau:

“Một thế kỷ có 100 năm. Thế kỷ thứ nhất gồm 100 năm, ngay sau thời điểm gốc (từ năm thứ nhất đến năm thứ 100). Năm này là năm 1999 theo công lịch (là lịch ta đang dùng; 1900 là tròn 19 thế kỷ; 1999 là năm thứ 99 của thế kỷ XX). Như vậy năm cuối của thế kỷ XX là năm 2000, tính theo công lịch là lịch hiện đang được sử dụng chính thức ở nước ta (và cả các nước trên toàn thế giới)”. (Bđd, tr. 47).

Mới đây, dưới nhan đề “Năm 2001 mở đầu thế kỷ 21”, báo Tuổi trẻ ngày 22-4-1999 cũng đã cho biết như sau:

“Thế kỷ mới chỉ bắt đầu từ lúc 0 giờ ngày 1-1-2001, không đúng như nhiều cơ quan thông tin đại chúng thường nêu năm 2000 sẽ mở đầu thế kỷ 21. Đó là nội dung trả lời của Ban Lịch nhà nước (thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia) đối với công văn hỏa tốc của Ban Khoa giáo trung ương yêu cầu khẳng định thời khắc bước vào thiên niên kỷ mới. Được biết vào giữa tháng 1-1999, Bộ Khoa học – Công nghệ và Môi trường cũng đã tổ chức một cuộc họp để khẳng định năm 2001 mới là thời điểm bắt đầu thế kỷ 21”.

Lời khẳng định của các cơ quan chức năng trên đây ở Việt Nam cũng nhất trí với lời tuyên bố của các chuyên gia ở Đài thiên văn Greenwich (Anh), rằng thiên niên kỷ mới sẽ bắt đầu vào ngày 1-1-2001 (còn năm 2000 tất nhiên chỉ là năm cuối của thiên niên kỷ II mà thôi), như chúng tôi cũng đã thuật lại trên Kiến thức ngày nay, số 237.

Trong lời “Nhắn tin” trên Kiến thức ngày nay, số 281, chúng tôi có viết như sau: “Các tổ chức và các chính phủ có quyền chọn năm 2000 làm năm đầu của thế kỷ XXI và của thiên niên kỷ III vì những sự tiện lợi nhất định. Chỉ xin lưu ý rằng theo cách tính này thì năm tương truyền Chúa Jesus ra đời không còn phải là năm 1 nữa mà là năm -1 vì nếu không làm như vậy thì hai thiên niên kỷ đầu tiên chỉ có 1999 năm mà thôi”. Theo đó, năm 2 của Công nguyên sẽ trở thành năm 1, năm 2000 thành 1999, và 2001 thành 2000, nghĩa là theo đó, mở đầu cho thế kỷ XXI và thiên niên kỷ III cũng vẫn là năm 2001 của lịch “cũ” mà thôi.

Tóm lại, 2000 là năm cuối của thế kỷ XX và thiên niên kỷ II; 2001 mới là năm mở đầu cho thế kỷ XXI và thiên niên kỷ III.

§ 564. Kiến thức ngày nay, số 315, ngày 10-5-1999

ĐỘC GIẢ: Trên Sài Gòn giải phóng thứ bảy số 423 (20-31999), một độc giả có đề nghị ông Hoàng Anh tiếp tục có ý kiến về cụm từ “sau Công nguyên”. Ông Hoàng Anh đã trả lời như sau: “Hẳn bạn đọc còn nhớ chuyện Tô Đông Pha (1037 -1101) chê bai câu thơ Minh nguyệt sơn đầu khiếu/Hoàng khuyển ngọa hoa tâm của Vương An Thạch là “không giống ai” vì trăng sáng làm sao lại hót trên đầu núi, chó vàng làm sao lại nằm trong hoa được. Mãi về sau, Tô Đông Pha mới biết: minh nguyệt là tên một loài chim, hoàng khuyển là tên một loài sâu. Một người học rộng, biết nhiều, mới 22 tuổi đã đỗ tiến sĩ như họ Tô mà còn “hố” như thế, huống hồ chúng ta. Vì nghĩ rằng biển học mênh mông, không bờ, không bến, nên chúng tôi chỉ muốn cùng nhau tìm hiểu, chứ không có ý tranh luận”.

Xin hỏi: Ông An Chi đã đọc câu trả lời trên đây của ông Hoàng Anh chưa và ông có ý kiến gì về câu trả lời đó?

AN CHI: Xin chân thành cám ơn ông đã có nhã ý ghi lại cho chúng tôi nguyên văn câu trả lời của ông Hoàng Anh. Giai thoại về Tô Đông Pha và Vương An Thạch, mà ông Hoàng Anh đã đưa ra, hoàn toàn không thích hợp để ví với sự trao đổi ý kiến đã có giữa tác giả này và chúng tôi. Theo giai thoại đó thì nghĩa của minh nguyệt và hoàng khuyển là những ẩn số mà mãi về sau chính Tô Đông Pha mới tự mình khám phá ra. Còn ông Hoàng Anh và chúng tôi thì đã chơi một ván bài lật ngửa, ý kiến của cả hai bên đều đã được bên này trình bày rõ ràng và công khai cho bên kia – và cả bạn đọc xa gần – nắm được để xem có thể chấp nhận được hay không. Có phải đến bây giờ ông Hoàng Anh vẫn giấu con bài “tẩy” của ông mà An Chi còn chưa biết đâu! Huống chi, muốn khẳng định rằng người đối thoại với mình đã có ý kiến sai thì phải chứng minh bằng lý lẽ khoa học trực tiếp có liên quan đến lĩnh vực đang bàn chứ đâu có thể nói người ta sai chỉ bằng cách kể lại một giai thoại văn chương xảy ra ở tít tận bên Tàu!

§ 565. Kiến thức ngày nay, số 315, ngày 10-5-1999

ĐỘC GIẢ: Trong một lần của cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” (tháng 3-1999) trên VTV3, ban tổ chức có ra câu hỏi: Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mấy lần dùng hai tiếng “mày ngài”? Khi giải đáp, người dẫn chương trình nói rằng Nguyễn Du đã hai lần dùng hai tiếng đó, một lần để tả Thúy Vân và một lần để tả Từ Hải. Xin cho biết có đúng hay không.

AN CHI: Cứ như ông đã nêu thì rõ ràng là câu giải đáp đã sai: Nguyễn Du không hề dùng hai tiếng “mày ngài” để tả Thúy Vân và tác giả đã dùng hai tiếng này đến ba lần chứ không phải hai, một lần để chỉ các cô gái lầu xanh trong câu 927 (Bên thì mấy ả mày ngài), hai lần để tả Từ Hải trong câu 2167 (Râu hùm, hàm én, mày ngài) và câu 2274 (Hãy còn hàm én, mày ngài như xưa). Còn để tả Thúy Vân thì Nguyễn Du đã dùng hai tiếng “nét ngài” trong câu thứ 20 (Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang).

Thực ra, ở đây lỗi là của người soạn câu hỏi và đáp án chứ người dẫn chươngtrình thì chỉ làm nhiệm vụ phát ngôn mà thôi.

§ 566. Kiến thức ngày nay, số 315, ngày 10-5-1999

ĐỘC GIẢ: Trong cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” (tối 15-4-1999): ban tổ chức có ra câu hỏi: Địa danh “Hà Nội” ra đời năm nào? Được người dẫn chương trình mời lên giải đáp, nhà sử học Lê Văn Lan có giải thích thêm rằng trong địa danh “Hà Nội” thì hà là sông còn nội là trong, rằng sở dĩ có tên như thế là vì Hà Nội nằm trong những con sông và đó là sông Hồng và sông Nhuệ. Xin cho biết có đúng hay không.

AN CHI: Nhà sử học Lê Văn Lan đã giảng sai: tỉnh Hà Nội, được thành lập năm 1831 theo một đạo dụ của vua Minh Mạng, là một tỉnh rộng gồm có 4 phủ là Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa và Lý Nhân. Phủ Lý Nhân nằm trong một phần lưu vực của sông Đáy còn sông Nhuệ thì lại nằm lọt trong lưu vực của sông Đáy và sông Hồng. Vậy làm sao có thể nói tỉnh Hà Nội thời Minh Mạng nằm bên trong sông Hồng và sông Nhuệ được?

Chúng tôi có xem một phần của cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” tối 15-4-1999 và thấy rằng cách nêu câu hỏi có những chỗ chưa ổn. Chẳng hạn, câu hỏi liên quan đến câu thứ 3 (Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản) trong bài “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu có nhắc đến câu đầu trong bài “Dịch thủy ca” của Kinh Kha. Bài này vẻn vẹn có hai câu là:

Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn.

Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn!

Đã không biết thì thôi: đã biết thì ai cũng thuộc đủ 15 tiếng của nó. Rất tiếc là khi nhắc đến câu đầu thì người soạn câu hỏi đã tước mất một tiếng “tiêu” nên chỉ còn có:

Phong tiêu hề Dịch thủy hàn,

làm cho câu thơ gần như trở thành một câu văn xuôi. Khi câu “văn xuôi” này hiện lên màn chữ thì tất nhiên người dẫn chương trình cũng theo thế mà đọc và cử tọa hình như cũng… hoàn toàn nhất trí! Lạ thay và tiếc thay cho một cách cảm thụ văn học như thế.

Hoặc một câu hỏi khác trong phần ô chữ: Ai là tác giả của vở kịch Hernani nổi tiếng, biết rằng tên của tác giả này gồm có 5 chữ cái. Đáp án: Huygô (hiện lên trên màn chữ hẳn hoi). Nội dung tất nhiên là không sai nhưng hỏi và giải đáp đều có vấn đề. Vấn đề là ở chỗ nếu có học sinh tinh nghịch mà bướng bỉnh trả lời rằng tên của tác giả là “Hugo” chỉ có 4 chữ cái mà thôi thì liệu người dẫn chương trình sẽ ứng phó ra sao? Chuyện tế nhị này phải được dành cho người ra đề – chứ không phải người dẫn chương trình – vì trong trường hợp này thì giữa người trả lời “Hugo” và người ra đáp án “Huygô”, không biết ai chính xác hơn ai!

Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là cái sai trong tên của cuộc thi: “Đường lên đỉnh Olympia” (!). Như đã nhiều lần nói tại Chuyện Đông chuyện Tây, nước Hy Lạp chẳng có ngọn núi nào tên là “Olympia” cả. Olympia là một thị trấn vùng đồng bằng, nằm trên bán đảo Peloponnesus, là nơi xưa kia cứ bốn năm một lần lại diễn ra một cuộc thi điền kinh còn nay thì đã trở thành một trung tâm du lịch. Cái sai cứ sờ sờ ra đấy mà người ta không thấy cần phải sửa, có lẽ vì nó đã trót gắn liền với tên của nhà tài trợ là đại gia “LG” chăng? Nhưng có lẽ nào cả nhà tài trợ cũng chịu mang tiếng là… trọc phú? “Life’s good”. Vâng, nhưng chỉ thực sự “good” khi nào nhà tài trợ chịu làm áp lực cho “nhà đài” phải sửa sai mà thôi!

§ 567. Kiến thức ngày nay, số 316, ngày 20-5-1999

ĐỘC GIẢ: “Lái” trong lái buôn, lái heo, mối lái có liên quan đến “lái” trong lái thuyền, lái đò hay không?

AN CHI: Theo nhà văn Nguyễn Công Hoan thì có. Nguyễn Công Hoan cho biết như sau:

“Ở phía sau thuyền có cái lái. Lái để thuyền đi cho vững, cho ngay, cho thẳng, hoặc sang bên phải, bên trái dòng sông, hoặc để sát vào bến. Cho nên cầm lái là việc hệ trọng nhất để thuyền đi được bình yên, an toàn. Bởi thế người chủ thuyền phải cầm lái để bẻ lái. Vậy trước hết, lái thuyền có nghĩa là điều khiển thuyền. Người điều khiển thuyền là người chủ thuyền, cho nên người chủ thuyền được gọi là ông lái. Tiếng lái trở thành tiếng gọi những người chủ thuyền. Cho nên những người có đò nhỏ, thuyền nan, chở và lái bằng chèo, sào, cũng được gọi là lái, như ông lái đò, bác lái thuyền v.v..

“Trước kia những người buôn to không mở cửa hiệu, mà mang hàng đi các nơi để bán, nếu hàng nhiều, đường xa, như từ tỉnh nọ đến tỉnh kia, vận tải trên đường bộ thì cồng kềnh, khó nhọc, tốn kém, nên phải vận tải trên đường thủy, bằng thuyền, hoặc buôn thật lớn, thì bằng mành. Họ thường phải có thuyền riêng để chở hàng. Nhưng nếu giao việc bẻ lái cho một anh vô trách nhiệm, thì thuyền có thể bị tai nạn. Nếu cho một anh ít tín nhiệm, thì có thể người này làm phản. Đã thông lưng và hẹn hò với bọn cướp đường, hắn lái thuyền vào bờ thì vốn liếng sạch sành sanh. Cho nên chính người chủ buôn phải cầm lái.

“Tiếng ông lái vì lẽ đó, có nghĩa luôn là ông chủ buôn: lái gạo, lái muối, v.v.. Tiếng ông lái sau có nghĩa rộng để gọi người đi buôn bằng cách di động: lái buôn. Rồi người buôn không vận tải bằng thuyền cũng được gọi là lái: lái lợn, lái gỗ, lái thuốc bắc.”*

Những lời phân tích hấp dẫn của nhà văn Nguyễn Công Hoan tưởng chừng như hợp lý nhưng sự thật thì lại không phải như thế. Lái trong cả lái thuyền, lái đò, v.v., lẫn lái buôn, lái lợn, mối lái, v.v., là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 理 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là lý, có nghĩa là điều khiển, sắp xếp, mà cũng có nghĩa là môi giới, trung gian.

Về nghĩa “môi giới”, “trung gian” của chữ 理, xin xem Từ nguyên (nghĩa 11), Từ hải bản cũ (nghĩa 7), Từ hải bản tu đính (nghĩa 8), Hán ngữ đại tự điển (nghĩa 21), v.v.. Đặc biệt với nghĩa này, Đào Duy Anh và Nguyễn Sĩ Lâm đã phiên âm của nó thành “lái” trong bản dịch Sở từ của Khuất Nguyên (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1974):

“Ngô linh Kiển Tu dĩ vi lái”.

(Câu 226 của “Ly tao”, sđd, tr. 84),

nghĩa là:

“Ta sai Kiển Tu làm mối lái”.

(Sđd, tr. 100),

và:

“Lái nhược nhi môi chuyết hề”

(Câu 251, sđd, tr. 85),

nghĩa là:

“Lái yếu mà mối vụng a”

(Sđd, tr. 101)

Chúng tôi không biết Đào Duy Anh (cùng với Nguyễn Sĩ Lâm) đã căn cứ vào đâu mà phiên âm chữ 理 trong hai câu trên đây của Sở từ thành “lái” (trong Hán Việt từ điển, ông phiên là “lý”) nhưng lái ~ lý thì lại là một mối tương ứng ngữ âm có thực. Liên quan đến mối tương ứng này, trước nhất xin lưu ý rằng chữ lý 俚 là quê mùa cũng đã được Đỗ Văn Đáp phiên thành “lái” trong Việt Hán thông thoại tự vị (Nam Định, 1933). Rồi chữ ly 釐 (1/1000 lượng) cũng nói thành “lai” (ít nhất là trong phương ngữ Nam Bộ). Và nhiều cặp tương ứng ai ~ i khác như: – chai (cứng) ~ tri 胝 (=chai); – sải (cánh, tay) – sí 翅(= cánh); – (sư) sãi ~ sĩ 士; v.v.. Đặc biệt, chính chữ lý 理 còn có một điệp thức rất cổ xưa là chải trong chải chuốt, biết rằng lý phát là chải tóc.*

Tóm lại, lý 理 đã từng được đọc thành lái và lái có nghĩa là mối mai, trung gian. Vì vậy nên tiếng Việt mới có tổ hợp đẳng lập mối lái. Và ngay ở câu 251 của Ly tao (trong Sở từ) thì Khuất Nguyên cũng đã chơi chữ bằng hai từ đồng nghĩa:

Lái nhược nhi môi chuyết hề,

như đã dẫn trên đây. Từ nghĩa “mối mai”, “trung gian”, trong tiếng Việt, lái đã có một nghĩa hẹp là làm môi giới trong việc buôn bán, rồi mới có nghĩa hiện hành là chuyên buôn một mặt hàng nhất định như trong lái heo, lái trâu, v.v.. Nghĩa là trong tiếng Việt thì lái trong lái trâu, lái heo, v.v. không bắt nguồn từ lái trong lái đò, lái thuyền như Nguyễn Công Hoan đã khẳng định mà lại trực tiếp bắt nguồn từ cái nghĩa “môi giới” của chữ 理 trong tiếng Hán. Rồi ngay cả lái trong lái đò, lái thuyền cũng bắt nguồn từ chữ 理, vì chữ này cũng còn có nghĩa là điều khiển nữa, như đã nói ở trên.

§ 568. Kiến thức ngày nay, số 316, ngày 20-5-1999

ĐỘC GIẢ: Cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” tháng thứ hai, tuần thứ hai có câu hỏi về “một tên khác” (?) của sao Thủy và về xuất xứ của cái tên đó. Một học sinh trả lời rằng đó là tên “Mercury”, bắt nguồn từ thần thoại Hy Lạp. Câu trả lời đã được người dẫn chương trình công nhận. Xin hỏi: Thần thoại Hy Lạp có tên “Mercury” hay không và có phải các hành tinh còn lại (trừ trái đất) trong hệ mặt trời đều mang tên của các vị thần Hy Lạp?

AN CHI: Mercury không phải là một tên khác của sao Thủy vì đó chính là tên của sao Thủy bằng tiếng Anh cũng như Mer Rouge không phải là một tên khác của Hồng Hải mà chính là tên của Hồng Hải bằng tiếng Pháp hoặc như ASEAN không phải là một tên khác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á mà chính là tên của Hiệp hội này bằng tiếng Anh (viết theo kiểu acronym).

Mercure (tiếng Anh: Mercury) không bắt nguồn từ thần thoại Hy Lạp mà từ thần thoại La Mã. Trừ Thiên vương tinh, các hành tinh còn lại cũng mang tên các vị thần La Mã: Kim tinh là Vénus, Hoả tinh là Mars, Mộc tinh là Jupiter, Thổ tinh là Saturne, Hải vương tinh là Neptune, Diêm vương tinh là Pluton. Tên các vị thần La Mã trên đây đã được đồng hóa với tên các vị thần Hy Lạp như sau: Mercure với Hermès, Vénus với Aphrodite, Mars với Arès, Jupiter với Zeus, Saturne với Cronos, Neptune với Poséidon và Pluton với Hadès. Còn Thiên vương tinh thì mang tên Uranus, hình thức La Tinh hóa của tiếng Hy Lạp Ouranos, tên của một vị thần Hy Lạp.

Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại là những quốc gia riêng biệt. Thần thoại La Mã cũng không đồng nhất với thần thoại Hy Lạp. Vì vậy nên không thể tùy tiện thay đổi quốc tịch của các vị thần La Mã mà bắt họ phải làm dân Hy Lạp. Mong sao cho “đường lên đỉnh Olympia” không bị mây mù che phủ để các thí sinh không phải lạc đường.

§ 569. Kiến thức ngày nay, số 316, ngày 20-5-1999

ĐỘC GIẢ: Kinh Phật thường nhắc đến cụm từ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Xin cho biết cụm từ này có ý nghĩa gì. Có phải “A di” và “Đà” là hai vị Phật? Bên Công giáo thì có mấy tiếng “A men” và “A lê lui a”. Xin cho biết xuất xứ và ý nghĩa của mấy tiếng này.

AN CHI: A Di Đà là một vị Phật (duy nhất) mà tên đầy đủ bằng tiếng Sanskrit là Amitabha Buddha. Tên này đã được người Trung Hoa phiên âm thành A mi (di) đà bà Phật đà, gọi tắt là A di đà Phật, và gọi theo đặc điểm ngữ pháp của tiếng Việt là Phật A di đà.

Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn, quyển 1, cho biết như sau:

“Đức Phật A-Di-Đà hào quang sáng suốt vô lượng, chiếu tới các cõi ở thập phương mà không bị món gì che ngăn. Vì vậy nên người ta gọi Ngài là Phật A-Di-Đà (tức là Vô-Lượng-Quang-Phật)”.

Nam mô là hình thức phiên âm của tiếng Sanskrit namas/namo (Pali namo), có nghĩa là cúi đầu làm lễ (tiếng Hán: đảnh (đỉnh) lễ). Từ này bắt nguồn từ căn tố NAM, có nghĩa gốc là nghiêng mình, cúi rạp, v.v..

Vậy “Nam mô A Di Đà Phật” có nghĩa là cúi lạy Đức Phật A di đà.

A men có nghĩa là xin được như nguyện. Danh từ thần-học và triết-học của Ban Giáo sư Đại Chủng viện Bùi Chu (Trí Đức thư xã, Hà Nội, 1953) dịch là “mong thay”. Đây là một từ bắt nguồn từ tiếng Do Thái cổ (trong nghi thức bái tụng), thông qua hình thức phiên âm Hy Lạp, rồi La Tinh.

Alleluia là hình thái phiên âm Hy Lạp và La Tinh của tiếng Do Thái cổ hallelujah, vốn là một từ dùng để tung hô Đức Jéhovah. Từ này thường thấy trong các bài Thánh vịnh (Psaumes). Danh từ thần-học và triết-học của Ban Giáo sư Đại Chủng viện Bùi Chu dịch là “hoan hô”.

§ 570. Kiến thức ngày nay, số 317, ngày 1-6-1999

ĐỘC GIẢ: “A lan nhã” là gì và có phải là một hình thức phiên âm từ tiếng Sanskrit?

AN CHI: Từ điển Phật học Việt Nam của Thích Minh Châu và Minh Chi (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991) giảng như sau:

“A lan nhã” (bắt nguồn – AC) từ chữ aranna (P.) nghĩa là ngôi rừng. Thường các chùa hay tịnh xá được dựng lên trong rừng, yên lặng, mát mẻ, an tịnh, nên A lan nhã có nghĩa là ngôi chùa, am thất dựng lên tại các chỗ tịch mịch, thanh vắng. Cũng gọi là A Lan Na. Hạnh A Lan Nhã hay hạnh A Lan Na là hạnh ưa thích sự yên lặng, thanh tịnh”.

Từ hải, bản tu đính 1989 của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, giảng rằng a lan nhã (nhược) cũng phiên thành a luyện nhã (nhược), bắt nguồn từ tiếng Sanskrit āranya, có nghĩa gốc là rừng, vốn là nơi các tỳ kheo tu tập thiền định, về sau dùng để chỉ các nhà chùa.*

Còn Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh 1992) thì giảng rằng a lan nhã thường viết a luyện nhã, cả hai đều phiên từ tiếng Sanskrit aranyaka. Rồi tại mục “A luyện nhã” thì quyển từ điển này giảng như sau: “A luyện nhã (A lan nhã) tức là bực tu hành xuất gia đi đến xứ xa, vào ngồi nơi trống không, mồ mả, đồng hoang, rừng vắng, núi cao và nơi cội cây mà thiền định phép tịch tĩnh, tu hành đúng theo phép Tỳ kheo trụ xứ. Dịch nghĩa: không nhàn, nhàn cư. Hạnh tu của vị Tỳ kheo như vậy kêu là A luyện nhã hạnh (A lan nhã hạnh)”.

Về ba nguồn trích dẫn trên đây chúng tôi xin có mấy nhận xét như sau.

1. Danh từ Pali “aranna” (ngôi rừng) mà Thích Minh Châu và Minh Chi ghi chú phải được sửa thành arañña vì đây mới là dạng chuyển tự chính xác. Đó là điểm thứ nhất. Thứ hai là a lan nhã, theo lệ thường, phải bắt nguồn từ tiếng Sanskrit araṇya, cùng nghĩa, chứ không phải từ tiếng Pali. Thứ ba, a lan na không đồng nhất với a lan nhã vì a lan na, theo chúng tôi, bắt nguồn từ tiếng Sanskrit araṇa, có nghĩa gốc là nơi ẩn náu, rồi nghĩa phái sinh là nơi yên tĩnh, vắng vẻ, tương ứng với tiếng Pali araṇa, cùng một dạng chuyển tự, có nghĩa là lặng lẽ, thư thái. Cách diễn đạt của hai tác giả tại mục từ đang xét dễ làm cho người đọc hiểu nhầm rằng a lan na và a lan nhã là hai dạng phiên âm của một từ duy nhất.

2. Từ hải ghi chú dạng Sanskrit “āranya” là thừa ký hiệu chỉ nguyên âm dài (vạch ngang ngắn trên chữ ghi nguyên âm) trên chữ “a” đầu tiên vì araṇya mới là rừng còn āraṇya thì lại là tính từ có nghĩa là thuộc về rừng, liên quan đến rừng.

3. Dạng Sanskrit “aranyaka” mà Đoàn Trung Còn ghi chú thì lại thiếu ký hiệu chỉ nguyên âm dài trên chữ “a” thứ nhất và thiếu ký hiệu chỉ phụ âm “óc” (consonne “cérébrale” – giống với dấu nặng đặt dưới chữ cái ghi phụ âm) dưới chữ “n” vì dạng chuyển tự chính xác phải là āraṇyaka, có nghĩa gốc là người ở rừng, rồi nghĩa phái sinh là người tu hành ở nơi yên tịnh, vắng vẻ. Ngoài ra, xin lưu ý rằng tiếng Sanskrit còn có một từ ghép mà danh từ araṇya (rừng) là một thành tố. Đó là araṇyaukas, có nghĩa là tu sĩ ẩn cư.

Trở lên là nhận xét về ba nguồn trích dẫn còn sau đây là mấy ý kiến nhỏ của cá nhân. Chúng tôi cho rằng, liên quan đến khái niệm “hạnh a lan nhã”, thì ba tiếng a lan nhã bắt nguồn từ tiếng Sanskrit āraṇyaka như Đoàn Trung Còn đã nêu chứ không phải từ tiếng Pali arañña (Thích Minh Châu & Minh Chi) hoặc tiếng Sanskrit aranya (Từ hải). Arañña (Pali) hoặc araṇya (Sanskrit) chỉ có nghĩa là rừng, rồi nghĩa phái sinh là chùa còn āraṇyaka mới là từ có liên quan đến sự ẩn cư, do đó, đến sự tu tập thiền định. Ngay cả trong tiếng Pali thì liên quan đến sự ẩn cư cũng là hình thái từ cụ thể araññaka (tương ứng với Sanskrit āraṇyaka) chứ không phải là arañña. Vậy xin nêu lên như trên để thỉnh giáo ở các nhà Phật học và các nhà Phạn học.

§ 571. Kiến thức ngày nay, số 317, ngày 1-6-1999

ĐỘC GIẢ: Tôi có quyển Từ điển Phật học Việt Nam của hai vị Thích Minh Châu và Minh Chi do nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 1991. Nghe nói quyển sách quý này có những chỗ sai trong việc chú thích bằng tiếng nước ngoài, nhất là tiếng Phạn mà không biết thực hư ra sao.

AN CHI: Rất đáng tiếc là quyển từ điển này quả đã có nhiều chỗ chú thích sai về tiếng Sanskrit và tiếng Pali mà sau đây là một số trường hợp:

1. A già. S. Argha. Loại nước thơm dùng trong tế đàn” (tr. 11).

Trong tiếng Sanskrit (S.), argha là giá tiền hoặc giá trị còn arghya thì mới là nước thơm dùng trong tế đàn.

2. “Ái. S. Tanha. Thương yêu, ham thích”. (tr. 24).

Tanha không phải là tiếng S. mà là tiếng Pali (P.) và đúng ra phải viết là taṇhā, tương ứng với S. tarṣa, tṛṣā hoặc triṣṇā, có nghĩa là sự thèm khát.

3. “Ba la đề mộc xoa. S. Pati-mokkha”. (tr. 52).

Pātimokkha là tiếng P. còn prati-mokṣa thì mới là tiếng S., như chính các tác giả cũng đã ghi chú đúng tại mục “Khế kinh” (tr. 335, cột 2, d. 7).

4. “Ba La Nại. S. Bénarès” (tr. 52).

Bénarès là tiếng Pháp chứ làm sao lại là tiếng S. được? S. là Vārānaṣī.

5. “Ba tuần. S. Papiyan. Ác ma, Ma vương”. (tr. 63). S. là pāpīyāṃs.

6. “Bảo tháp. S. stupa. P. Dagoba (…)” (tr. 73).

Thực ra, P. thupa mới là bảo tháp còn tiếng Anh có pagoda là chùa chứ “Dagoba” thì không biết là thứ tiếng gì. Còn S. thì là stūpa chứ không phải “stupa” vì trong stūpa thì âm tiết đầu ū là một nguyên âm dài.

7. “Bảy điều. S. Uttarasanka. Hán dịch là Thất điều y. Áo ngoài của tu sĩ làm bằng bảy mảnh vải khâu lại”. (tr. 83).

Đúng ra, S. là uttarāsańga. Về phần tiếng Việt, thất điều y mà các tác giả “chuyển Nôm” thành “bảy điều” thì… xin chịu! Bảy dải, bảy mảnh, v.v. thì còn có thể hiểu được chứ “bảy điều” thì cứ y như là của một… bộ luật hoặc một… bản hợp đồng.

8. “Bổ xứ. Bổ là bổ sung. Vị Phật trước đã nhập diệt. Vị Phật sau bổ sung vào chỗ của vị Phật trước gọi là Phật bổ xứ” (tr. 100).

Bổ không phải là “bổ sung” vì bổ xứ chẳng qua chỉ là một hình thức phiên âm của tiếng S. brṣī, mà nghĩa gốc là chỗ ngồi của tu sĩ khổ hạnh.

9. “Bốn tin, năm hạnh (…) Chân Như (S. Bhutatathata)”. (tr. 106). “Chân Như. S. Bhutatathata”. (tr. 121).

Bhutatathata là P. còn trong tiếng S. thì chân như lại là bhūtārtha.

10. “Ca lang tần già (tên một giống chim – AC). S. Karavinka” (tr. 109).

Thực ra, S. là kalaviṅka còn P. thì lại là karavīka.

11. Chân đế trong tiếng S. không phải là “paramatha” (tr. 210) mà là paramārtha.

12. “Chỉ. S. samadhi. Thiền định. Có sách dịch âm Xa ma tha” (tr. 125). “Chính thọ. S. Samadhi. Vốn thường được dịch là định, hay tam muội, hay tam ma đề (S. Samatha)” (tr. 131).

Thực ra, thiền định cả trong tiếng S. lẫn tiếng P. đều là samādhi (chứ không phải “samadhi”) còn samatha thì lại là tiếng P. , có nghĩa là tĩnh tâm. Giữa hai khái niệm, có một sự khác nhau rất xa về trình độ (samādhi cao hơn hẳn samatha) nên không thể đánh đồng hai thứ với nhau được.

13. “Danh lam. Ngôi chùa danh tiếng. Lam, Hán dịch âm từ chữ Sanscrit Asrama (dịch âm đầy đủ là Già lam)” (tr. 145). “Già lam. S. Asharam. Khu vườn ngoạn cảnh (…)” (tr. 238).

Thực ra, cả trong tiếng S. lẫn tiếng P. , ārāma (chứ không phải “asrama” hoặc “asharam”) đều có nghĩa là khu vườn, rồi ngôi chùa. Còn già lam thì chỉ là lối nói tắt của bốn tiếng tăng già lam ma, phiên âm từ tiếng S. saṃghārāma, mà nghĩa xét theo từng thành tố là khu vườn hoặc ngôi chùa (ārāma) của tăng lữ (saṃgha).

14. “Diệu pháp. S. Saddarma”. (tr. 163).

S. phải là sadharma còn P. thì lại là saddhamma.

15. “Đa văn. S. Shanada. Nghe nhiều, học rộng” (tr. 191).

Thực ra, S. là śravaṇa.

16. “Đàm hoa. Tức hoa ưu đàm (S. Adhumbara) (tr. 212).

Hoa đàm, tức hoa ưu đàm (ba la), tiếng S. là uḍumbara.

17. “Hỏa (lửa). S. Tejo” (tr. 290).

Thực ra, S. phải là tejas còn P. là teja và chỉ khi nào ghép với từ khác thì P. teja mới đổi thành tejo. Cũng xin nói thêm rằng S. tejas/P. teja có nghĩa là nhiệt, là ánh sáng; còn cái danh từ chính thức có nghĩa là lửa thì S. là agni và P. là aggi.

§ 572. Kiến thức ngày nay, số 318, ngày 10-6-1999

ĐỘC GIẢ: Tạp chí Văn học, số 4-1999, có đăng bài của ông Vũ Đức Phúc trả lời ông Nguyễn Quảng Tuân về vấn đề học giả Hoàng Xuân Hãn nghiên cứu Truyện Kiều. Trong bài này, có mấy chỗ ông Vũ Đức Phúc nhắc đến ông An Chi. Xin trích lục như sau.

1. “Ông Tuân muốn chứng tỏ ông Hãn là kẻ dối trá, dấu diếm (…) cho nên ông rất tự hào là do ông mà người đọc như ông An Chi mới sáng mắt ra, thấy rõ ông Hãn như một con bạc giữ “tẩy”, nay bị ông Tuân lật “tẩy”. Vấn đề trở nên hết sức nghiêm trọng. Đây là việc có quan hệ tới nhân cách của một nhà bác học vừa mới mất”. (Bđd, tr. 14).

2. “Còn cái câu “Tháng tròn như gửi cung mây” (câu 327) mà ông Tuân cùng cặp với ông An Chi bảo vệ, là một câu chữa liều do dốt nát, ở đây cũng là biến Nguyễn Du thành Bút Tre”. (Bđd, tr. 19). “Nhưng thà là chấp nhận câu phiên âm cầu kì của Hoàng Xuân Hãn còn hơn là đọc câu thơ Tháng tròn như gửi cung mây rất lố bịch của những kẻ làm loạn Truyện Kiều và người theo họ là ông Nguyễn Quảng Tuân” (Bđd, tr. 20).

Xin hỏi: Ông An Chi có bình luận gì về những lời lẽ trên đây của ông Vũ Đức Phúc? Xin hỏi thêm: “Những kẻ làm loạn Truyện Kiều” là những ai?

AN CHI: 1. Sự thật thì chúng tôi chỉ viết – rồi ông Nguyễn Quảng Tuân đã dẫn lại – như sau: “Sở dĩ Hoàng Xuân Hãn chưa muốn nói đó là bản (Kiều) nào có lẽ vì ông còn muốn giữ bí mật về bản Nôm “tẩy” của mình cho đến khi ông công bố bản Kiều quốc ngữ do mình phiên âm chăng?”*

Chỉ có một chữ “tẩy” của chúng tôi do ông Nguyễn Quảng Tuân dẫn lại mà đã đủ làm một cái cớ để ông Vũ Đức Phúc suy ra được cả một “con bạc giữ tẩy” rồi “bị lật tẩy”.

Ông Vũ thậm chí còn đặt cả vấn đề “nhân cách của nhà bác học vừa mới mất” nữa. Nghiêm trọng đến thế ư? Về vấn đề này, quan điểm của chúng tôi rất rõ ràng:

“Chúng tôi cho rằng chỉ không nên luận về tử giả một cách bất công, bất chính hoặc bất minh, nhất là khi luận về nhân cách của họ mà thôi. Tử giả vẫn phải vĩnh viễn chịu trách nhiệm về những gì họ đã làm lúc sinh thời (…). Học giả hoặc nhà văn, dù đã quá cố, vẫn phải vĩnh viễn chịu trách nhiệm về những gì họ đã viết. Có lẽ nào các thế hệ độc giả và học giả hậu sinh lại tuyệt đối không có quyền nhận xét và phê phán những gì mà các tử giả đã viết?”*

Vậy, nhận xét và đánh giá công việc nghiên cứu Truyện Kiều của Hoàng Xuân Hãn, như Nguyễn Quảng Tuân đã làm, là một việc hoàn toàn bình thường nên tất nhiên chẳng có ảnh hưởng gì đến hòa bình và an ninh… học thuật cả.

2. Khi viết “ông Tuân cùng cặp với ông An Chi bảo vệ câu Tháng tròn như gửi cung mây”, ông Vũ Đức Phúc đã phạm hai điều thất thố.

Thứ nhất, việc dùng hai tiếng “cùng cặp” là một lối nói không thích hợp. Cá nhân chúng tôi nhận thấy ông Vũ Đức Phúc và ông Đào Thái Tôn có những điểm giống nhau khi phê bình ông Nguyễn Quảng Tuân nhưng sự tôn trọng ngòi bút của chính mình không cho phép chúng tôi nói rằng ông Vũ đã “cùng cặp” với ông Đào vì đây là một lối nói rất sỗ sàng.

Thứ hai, cá nhân An Chi không hề bàn về câu “Tháng tròn như gửi cung mây”. No quá mất ngon, giận quá mất khôn: ông Vũ vì quá phẫn nộ nên đã kéo cả An Chi vào mà nói cho đã nư đó thôi!

3. Phàm những ai không theo lý thuyết Vũ Đức Phúc hoặc lý thuyết Hoàng Xuân Hãn mà lại đi phiên câu 327 thành “Tháng tròn như gửi cung mây” thì đều bị ông Vũ gọi là “những kẻ làm loạn Truyện Kiều” cả. Những kẻ đó là:

– Trương Vĩnh Ký, với Poème Kim Vân Kiều truyện, Sài Gòn, 1875;

– Phạm Kim Chi, với Kim Túy tình từ, Sài Gòn, 1917;

– Nguyễn Văn Vĩnh, với Kim Vân Kiều, Hà Nội, in lần thứ hai, 1912;

– Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim, với Truyện Thúy Kiều, Hà Nội, 1925, đã được Nxb. Tân Việt in lại nhiều lần tại Sài Gòn từ đầu thập kỷ 50;

– Nguyễn Can Mộng, với Truyện Kiều, Hà Nội, 1939;

– Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, với Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, Hà Nội, 1941;

– Lê Văn Hoè, với Truyện Kiều chú giải, Hà Nội, 1953;

– Nhóm nghiên cứu văn bản Truyện Kiều (Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn Đức Vân) với Truyện Kiều, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1965;

– Vũ Văn Kính & Bùi Hữu Sủng, với Đoạn trường tân thanh khảo lục, Sài Gòn, 1971;

– Chiêm Vân Thị (qua việc phiên âm của Trúc Viên Lê Mạnh Liêu) với Thúy Kiều truyện tường chú, Sài Gòn, tái bản lần thứ nhất, 1973;

– Nguyễn Thạch Giang, với Truyện Kiều, khảo đính và chú thích, Hà Nội, 1972;

– Đào Duy Anh, trong Từ điển Truyện Kiều, Hà Nội, 1974;

– Đào Duy Anh, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Công Hoan, Hoài Thanh, Tuấn Đô, với Truyện Kiều (hiệu đính), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1979;

– Phan Ngọc, với Từ điển Truyện Kiều (sửa chữa), Hà Nội, 1989;

– Phạm Đan Quế, với Truyện Kiều đối chiếu, Hà Nội, 1991;

– Vũ Ngọc Khánh, với Truyện Kiều, Hà Nội, 1999; v.v..

Tội nghiệp cho các vị trên đây, từ người quá cố cho đến người tại thế! Họ chỉ muốn “lập lại trật tự” cho Truyện Kiều chứ có ai muốn “làm loạn” nó. Huống chi, nếu họ có sai 100% thì cũng có nên chỉ vì mấy chữ trong câu 327 đó mà bảo là họ “làm loạn Truyện Kiều”? Chúng tôi thật lòng không hiểu ông Vũ Đức Phúc đã “mắng mỏ” họ như thế với tư cách gì?

§ 573. Kiến thức ngày nay, số 318, ngày 10-6-1999

ĐỘC GIẢ: Tại sao cuộc thi (trên VTV3) thì mang tên là “Đường lên đỉnh Olympia” mà bài hát của cuộc thi đó lại nói đến “đỉnh núi Olympe?”. Tôi cứ ngỡ “Olympia” và “Olympe” chỉ là một nhưng trong mục “Bạn đọc đặt câu hỏi” của báo Sài Gòn giải phóng thứ bảy số 427 (ngày 17-4-1999) thì ông Hoàng Anh lại giải đáp như sau:

“Ở Hy Lạp, có hai địa danh khác nhau: Olumpos và Olumpia. Olumpos (tiếng Anh Olympus/tiếng Pháp Olympe) là tên một dãy núi có đỉnh cao nhất Hy Lạp (2.917m) nằm ở phía Bắc nước này, giữa hai miền Macedonia/Macédoine và Thessaly/Thessalie (…). Còn Olumpia (Olympia/Olympie) là một thị trấn cổ nằm trên bán đảo Peloponnesus/Péloponnèse ở phía Nam Hy Lạp (…), cứ bốn năm một lần, người cổ Hy Lạp tổ chức các cuộc tranh tài thể thao tại Olumpia (nên những cuộc tranh tài này gọi là Olympic Games/Jeux Olympiques)… Như vậy, Olumpia (tức Olympia) ở vùng đồng bằng, không phải là đỉnh núi”. Thế này là thế nào?

AN CHI: Sự thật đúng như ông Hoàng Anh đã giải đáp. Olympia không phải là tên núi còn núi Olympe thì lại chẳng có dính dáng gì đến những đại hội thể thao mà người Hy Lạp thời cổ đại đã tổ chức bốn năm một lần. Vậy “đỉnh Olympia” thì không tồn tại còn tên núi Olympe thì lại chẳng liên quan gì đến tên của cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia”.

Chỉ xin nói thêm rằng Olympe (Hy Lạp: Olumpos) không chỉ là tên của “dãy núi có đỉnh cao nhất Hy Lạp nằm ở phía Bắc nước này giữa hai miền Macedonia/Macédoine và Thessaly/ Thessalie” – là dãy nổi tiếng nhất – như ông Hoàng Anh đã nói, mà đó còn là tên của nhiều dãy núi khác nữa:

– Olympe ở Bithunia (Bithỵnie);

– Olympe ở Galatia (Galatie);

– Olympe ở Ionia (Ionie);

– Olympe ở Lakônia (Laconie);

– Olympe ở Musia (Mysie).

Ngoài ra, có một thành thị ở vùng Lukia (Lycie) cũng mang tên là Olympe.

Tóm lại, “đỉnh Olympia” không hề tồn tại, vậy thì bao giờ các thí sinh của chúng ta mới leo lên đến “đó”?

§ 574. Kiến thức ngày nay, số 319, ngày 20-6-1999 và số 321, ngày 10-7-1999

ĐỘC GIẢ: Chúng tôi nghe nói việc chú thích tiếng Phạn trong Từ điển Phật học Hán Việt của Phân viện nghiên cứu Phật học, do Kim Cương Tử chủ biên và do nhà xuất bản Khoa học Xã hội (Hà Nội) tái bản (có sửa chữa và bổ sung) năm 1998 có một số sai sót. Để an tâm hơn, xin ông chỉ giúp cho một đôi chỗ…

AN CHI: Quyển từ điển này có nhiều sai sót trong việc chú thích “tiếng Phạn”, Tuy được tái bản có sửa chữa nhưng nó vẫn còn “chuyển tải“ nhiều sai sót đã thấy trong bản in lần đầu tiên. Chẳng những thế, có những chỗ được sửa mà vẫn chưa đúng vì lại sai một cách khác so với cái sai của lần in trước. Một điểm sai rất quan trọng nữa của các nhà biên soạn là đã đánh đồng tiếng Sanskrit (S.) với tiếng Pali (P. ) mà gọi chung là “tiếng Phạn” mặc dù đó hiển nhiên là hai ngôn ngữ riêng biệt. Cuối cùng, ngay cả trong việc lựa chọn từ của “tiếng Phạn” để ghi chú hoặc trong việc giải thích “tiếng Phạn” thì các nhà biên soạn cũng phạm sai sót.

Dưới đây xin tạm phân tích 10 trường hợp để làm dẫn chứng một cách “tổng hợp”.

1. “Cồ ma di” (…) Gomati. Dịch là Ngưu phẩn (Phân bò)”. (tr. 258).

Thực ra, cả trong tiếng S. lẫn tiếng P. , thì phân bò đều là gomaya. Còn “gomati” lại có nghĩa là tư tưởng của bò, ý nghĩ của bò (go là bò còn mati là ý nghĩ, tư tưởng).

2. “Hạc lặc na (…) Haklena (…). Lặc-na là tiếng Phạn, Hạc là tiếng Hán”. (tr. 470).

Nếu hạc là tiếng Hán còn lặc-na là tiếng Phạn thì làm thế nào mà trong tiếng Phạn “haklena” (!) lại có thể có cả âm tiết ha hoặc hak (?) để phiên âm thành “hạc” được?

3. Về mục từ “Hĩ-lật-đà” (= “Tâm, điểm trọng yếu ở giữa một vật”), các nhà biên soạn không ghi chú “tiếng Phạn” nhưng có nhận xét: “Chữ Hĩ 矣 có lẽ là do chữ Mâu 牟 chép nhầm mà thành”. (tr. 485).

Không có hình thức cụ thể của “tiếng Phạn” thì căn cứ vào đâu mà cho rằng “chữ hĩ có lẽ là do chữ mâu chép nhầm mà thành”? Còn nếu cho rằng đó là tiếng Hán, thì cả “mâu lật đà” lẫn “hĩ lật đà” đều vô nghĩa! Thực ra, hĩ lật đà là hình thức phiên âm từ tiếng S. hṛdaya, có nghĩa là tim, là tâm (điểm giữa của một vật)… và chữ hĩ 矣 là hoàn toàn chính xác chứ không phải “do chữ mâu 牟 chép nhầm mà thành”!

4. “Khuất-ma-la” (…) Cũng phiên là Khuất-mãn-la, có nghĩa là Búp sen chưa nở (…) Riêng từ phiên âm Khuất-ma-la, nguyên tiếng Phạn không rõ, có lẽ là Kuvala (?)”. (tr. 590).

Thực ra Khuất-ma-la là hình thức phiên âm từ tiếng S. kuḍmala (P. là kuḍumala), có nghĩa là đóa hoa hàm tiếu còn S. kuvala thì lại có nghĩa là hoa súng xanh.

5. “Kiện-đà” (…) Kasàya (…) Còn gọi là Càn-đà, Kiện-đạt, dịch là: màu đỏ, màu vàng, v.v., tức là màu của áo cà sa (…) Còn chỉ vật. Dịch là hương (…) Kiện-đỗ (một hình thức phiên âm khác bên cạnh “Kiện-đà” – AC) là hương.”(tr. 607).

Thực ra, cả về ngữ âm lẫn ngữ nghĩa, thì kiện đà chỉ liên quan đến S. gandha, có nghĩa là mùi hương, chứ không liên quan đến S. kaṣāya (mà từ điển đang xét ghi là “kasàya”). Tuy S. kaṣāya có nghĩa là màu đỏ hoặc màu vàng, cũng có nghĩa là áo cà sa nhưng từ này trong tiếng S. không có liên quan gì đến kiện đà, càn đà, kiện-đạt, kiện đỗ, vốn là những hình thức phiên âm từ S. gandha.

6. “Lũ-lư-bá-đà (…) Gurupa-da” và “Lũ-na-mạt-để (…) Gunamati (…) Còn gọi là Cầu-na-mạt-đế, Cù-na-mạt-để…” (tr. 647).

Trong cả Lũ lư mạt để lẫn Lũ lư bá đà, thì âm “lũ” đã được ghi bằng chữ Hán 窭. Chữ này có hai âm: cũ (cục vũ thiết) và lâu (la hầu thiết) như đã cho trong Từ hải hoặc Từ nguyên. Vậy để phiên âm tiết đầu tiên của hai từ Gurupada và Gunamati, nó phải được đọc là “cũ” chứ không phải “lâu”, càng không phải là “lũ”. Và Gurupada (chứ không phải “Gurupa-da” là Cũ lư bá đà còn Guṇamati (chứ không phải “Gunamati”) là Cũ na mạt để.

7. “Quân đồ (…) Kunda. Nghĩa là chiếc lò lửa”. (tr. 1046).

Thực ra, S. kuṇḍa mới là “chiếc lò lửa” còn kunda thì lại là tên của một giống hoa nhài.

8. “Tất-bát-la quật (…) Vaibhàra. Hang Tất-bát-la (…) Còn gọi là Ti-bát-la quật, Tân-bát-la quật. Vì trên hang có nhiều cây Tất-bát-la cho nên đặt tên như vậy.” (tr. 1168).

Tất-bát-la, Tì-bát-la hoặc Tân-bát-la thì phải là S. pippala chứ không thể là “Vaibhàra”.

9. “Ưu-ba-nan-đà (…) Upadesa (…) Ưu-ba-nan-đà dịch là Đại Hỉ, hoặc Trung Hỉ.” (tr. 1491).

Ưu ba nan đà là hình thức phiên âm của S. Upananda chứ không phải của “upadesa”. Nanda là niềm hoan hỉ; vì thế Ưu ba nan đà mới là “Đại Hỉ” hoặc “Trung Hỉ”.

10. “Vi trần (…) Anu-rája (…) Sắc thể cực nhỏ không thể phân chia được là cực vi (Paramanu). Lớn hơn vi trần 7 lần là Kim trần (…)” (tr. 1507).

Thực ra thì S. rāja (mà sách ghi “rája”) có nghĩa là vua còn raja thì mới là bụi, mà tiếng Hán là “trần”. Còn “vi” là nhỏ cũng không phải dùng để dịch anu (đây là phó từ, hoặc giới từ, tùy trường hợp) mà để dịch aṇu vì đây mới là tính từ có nghĩa là nhỏ, mịn, nhuyễn… Vậy vi trần dùng để dịch S. aṇuraja chứ không phải “anurāja” (mà sách đó ghi là “anu-rája”). “Cực vi” cũng không phải là “paramanu” mà lại là paramāṇu, có nghĩa là vật thể cực nhỏ, là nguyên tử (parama = đến cực điểm + aṇu = nhỏ).

Trở lên là 10 trường hợp mà chúng tôi đã phân tích để làm dẫn chứng một cách “tổng hợp”. Sau đây là một số dẫn chứng cho những chỗ sai về mặt chuyển tự vẫn còn tồn tại trong lần tái bản (theo thứ tự: chỗ sai của cả hai lần in, tên của mục từ hữu quan trong ngoặc đơn, hình thức chuyển tự chính xác sau dấu hai chấm):

1. atata (Át-triết-tra): aṭaṭa.

2. nuddha (Bà-đà): baddha.

3. anguli-màlya (Ban túc vương): aṅguli-malya.

4. ichantika (Báng pháp xiển-đề): icchantika.

5. kundika (Bảo bình): kuṇḍika.

6. prasàkhà (Bát-la-xa-khư): praśākhā.

7. saramana (Bần đạo): śramaṇa.

8. garuda (Ca-lâu-la): garuḍa.

9. dukkhssant (Khổ tế): duḥkhānta.

10. kinaras (Khẩn-na-la): kiṃnara.

Còn bây giờ là một số chỗ sai về mặt chuyển tự đã sửa nhưng vẫn còn sai mà lại khác với cái sai lần trước (theo thứ tự: chỗ sai cũ, chỗ sai mới sau dấu ≠, tên mục từ hữu quan trong ngoặc đơn, hình thức chuyển tự chính xác sau dấu hai chấm):

1. prainà ≠ prajnà (Ba-nhã): prajñā;

2. baudha ≠ bauddha (Bà-đà): bandha;

3. bhagavàn ≠ bahagavàn (Bà-già-phạm): bhagavant;

4. nandavardhama ≠ nandavard-hama (Bà-đát-na): nandavardhana;

5. pàncàlacanda ≠ pàncàla-canla (Bát-già-la-kiền-đồ): pāñcālacaṇḍa;

6. prajana-badhisattva ≠ prajna-bodhis-attva (Bát nhã Bồ tát): prajñā-bodhisattva;

7. kumbira ≠ kumbìra (Câu-tì-la): kumbhīra;

8. yajnadatta ≠ yajndatta (Diễn-nhã): yajñādatta;

9. mahàvainocana ≠ mahàvaiocana (Đại Nhật Như Lai): mahāvairocana;

10. tula ≠ tulà (Đâu la): tūla v.v..

Nói chung việc chuyển tự ở nhiều chỗ đã có những nhầm lẫn sau đây: 1. Còn lẫn lộn nguyên âm dài với nguyên âm ngắn; 2. ṛ bị ghi thành r; 3. ṭ, ḍ, ṇ bị ghi thành t, d, n; 4. ṅ bị ghi thành n; 5. ñ cũng bị ghi thành n; 6. ś và ṣ bị ghi thành s; 7. ḥ bị ghi thành h; 8. ṃ bị ghi thành m; 9. ś bị ghi thành s’ là một cách ghi hoàn toàn xa lạ; 10. đặc biệt là dấu nối bị đặt không đúng vị trí ở nhiều trường hợp nên đã tách các thành tố hoàn chỉnh của từ ghép thành những phần vụn vặt, khó hiểu hoặc vô nghĩa.

Những chỗ sai trên đây hẳn cũng có một phần là do ấn loát nhưng dù là do nguyên nhân nào thì cũng không thể tồn tại một cách “đại trà” trong Từ điển Phật học Hán Việt, ấn hành trong hoàn cảnh mà những quyển có trước “rõ ràng chưa làm thỏa mãn nhu cầu đi sâu tìm hiểu giáo lý Phật giáo của nhiều người”, như lời khẳng định của ông Hà Văn Tấn (“Mấy dòng nói đầu”, tr. 8).

Cuối cùng xin nói về việc “nhập một” tiếng S. với tiếng P. Mặc dù có quan hệ “thân tộc” nhưng S. và P. hiển nhiên là hai ngôn ngữ riêng biệt. S. là ngôn ngữ của kinh Phật Đại thừa còn P. thì lại là ngôn ngữ của kinh Phật Tiểu thừa. Trước kia người ta chỉ dùng từ “Phạn” (mà âm gốc chính xác là “phạm”) để chỉ tiếng S. nhưng sau này vì có người cũng muốn dùng nó để chỉ cả tiếng P. nên để cho rạch ròi, người ta đã gọi S. là tiếng Bắc Phạn còn P. là tiếng Nam Phạn. Còn thông thường nếu chỉ dùng từ “Phạn” một cách đơn độc là có ý chỉ riêng tiếng S., và chỉ riêng thứ tiếng này mà thôi. Từ điển Phật học Hán Việt, khi thì ghi chú riêng S., khi thì ghi chú cả S. lẫn P. , lúc lại chỉ ghi chú riêng P. mà thôi (nhưng đều cho rằng đó là “tiếng Phạn”) nên người đọc khó mà khẳng định trong từng trường hợp thì đó là thứ tiếng nào. Thí dụ: tại mục “Bát tha”, từ điển chỉ chú “pattha”, là tiếng P. (S. là prastha); còn tại mục “Bát phạt đa” thì lại chỉ chú “parvata”, là tiếng S. (P. thì lại là pabbata); v.v.. Một sự mập mờ như thế là điều tối kỵ trong từ điển.

Từ điển Phật học Hán Việt còn có thể được nhận xét ở những khía cạnh khác nữa nhưng ở đây chúng tôi chỉ lạm bàn về khía cạnh quý ông đã hỏi mà thôi.

§ 575. Kiến thức ngày nay, số 319, ngày 20-6-1999

ĐỘC GIẢ: Trong cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” mới đây, liên quan đến bài thơ “Cảm hoài” của Đặng Dung, câu “Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma”, thí sinh đã được hỏi Đặng Dung mài gươm bằng gì. Người thì trả lời là bằng nước, kẻ thì trả lời là bằng ý chí… Người dẫn chương trình giải đáp: Đặng Dung mài gươm bằng ánh trăng. Có thật như thế hay không?

AN CHI: Đó quả là một lối cảm thụ thi ca độc đáo và… táo bạo. Chỉ tiếc là nó lại không dính dáng gì đến ngôn từ cụ thể trong câu thơ của Đặng Dung.

Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma

mà đảo lại cho đúng và cho rõ trật tự cú pháp bình thường thì là:

Kỷ độ/đái nguyệt/ma Long Tuyền,

nghĩa là:

Bao phen đội trăng mài gươm báu.

Kỷ độ là bao phen. Đái nguyệt là đội trăng; ý nói dưới ánh trăng (cũng như đái nhật là đội mặt trời, ý nói dưới ánh nắng). Ma là mài. Long Tuyền là một lối dụng điển để chỉ gươm báu. Ma Long Tuyền là mài gươm báu. Vậy việc Đặng Dung mài gươm bằng ánh trăng chỉ là một cách hiểu không thích đáng của người soạn đáp án mà thôi!

§ 576. Kiến thức ngày nay, số 320, ngày 1-7-1999

Bổ sung câu trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 315 liên quan đến bài “Dịch thủy ca” của Kinh Kha.

Về bài “Dịch thủy ca” của Kinh Kha, trên số 315, chúng tôi đã viết như sau:

“Bài này vỏn vẹn có hai câu là:

Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn,

Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn!

Đã không biết thì thôi, đã biết thì ai cũng thuộc đủ 15 tiếng của nó”.

Mới đây, trên báo Thanh niên, số 95 (14-6-1999), trong bài “Chuyện thơ từ cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia”, sau khi trích đoạn trên đây của chúng tôi, tác giả Tiêu Lang đã viết tiếp như sau:

“Bài Dịch thủy ca không chỉ “vẻn vẹn” có 2 câu, 15 chữ. Gần đây khi viết cuốn biên khảo về Tần Thủy Hoàng, nhà văn trẻ Trung Quốc Văn Trung Văn đã đưa ra toàn bài 8 câu (…) Gần đây, bài Dịch thủy ca do Văn TrungVăn công bố cũng được nhà biên khảo Ngô Nguyên Phi giới thiệu trong tập Khảo cứu về thời đại Xuân Thu chiến quốc do Nhà xuất bản Trẻ phát hành”.

Tác giả Tiêu Lang đã “cải chính” như trên nhưng rất tiếc là không biết nhà văn Văn Trung Văn của Trung Quốc đã lấy “toàn bài 8 câu” kia từ nguồn xuất xứ nào vì xưa nay người ta chỉ truyền tụng và ghi chép có 2 câu mà thôi. Trước khi viết câu trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 315, chúng tôi đã tra cứu lại trong Trung Quốc lịch đại danh thi phân loại đại điển do Hồ Quang Chu và Chu Mãn Giang chủ biên, quyển 3, do Quảng Tây Nhân dân xuất bản xã ấn hành năm 1992 (tr. 218) thì rõ ràng là bài này chỉ có 2 câu. Chỉ hai câu thôi nhưng vẫn cứ là “thiên cổ tuyệt xướng”, như các nhà biên soạn đã khẳng định. Hơn 2.200 năm nay nó đã được truyền tụng như thế, nay Văn Trung Văn đưa ra văn bản 8 câu thì quả là đáng ngờ. Rất may mắn là chính tác giả Tiêu Lang cũng đã có viết thêm như sau:

“Xưa nay, người sau làm thơ rồi gán cho người trước hoặc đem thơ của người này làm thơ người khác là chuyện thường xảy ra (…). Việc nhà văn Trung Quốc Văn Trung Văn công bố bài Dịch thủy ca không thấy có một cứ liệu nào cho biết đó là của Kinh Kha hay là do ai đó vì cao hứng mà làm thêm?”

Vì chính ông Tiêu Lang cũng đã nói như thế nên ta cũng chẳng cần bận tâm đến “toàn bài 8 câu” mà ông đã nhắc đến.

§ 577. Kiến thức ngày nay, số 320, ngày 1-7-1999

ĐỘC GIẢ: Kiến thức ngày nay, số 316 (20-5-1999), Chuyện Đông chuyện Tây có cải chính lại cách phiên âm của chữ trạc là rửa thành trạo là chèo. Tôi tra ở tự điển Văn Tân thì thấy chữ 濯 chỉ có một âm là “trạc” và một nghĩa là rửa còn chữ trạo là chèo thì có hai cách viết: 棹 hoặc 櫂. Vậy nếu muốn nói “rửa” thì chữ 濯 (trạc) ở đó là đúng. Còn nếu muốn nói “chèo” thì phải viết chữ 櫂 (trạo).

AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 316, chúng tôi đã viết rõ ràng như sau: “Hai vị dịch giả cho rằng chữ 濯 ở đây đọc theo âm “trạc” nên mới dịch thành “rửa”. Thực ra, chữ này còn có một âm nữa là “trạo” và với âm này thì nó có nghĩa là “chèo (thuyền)” như đã được giảng rõ trong Từ hải hoặc Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993). Vậy chữ 濯 có hai âm là trạc và trạo. Với âm trạc, nó có nghĩa là rửa còn với âm trạo thì nó có nghĩa là chèo và dùng thay cho chữ 櫂, như đã cho trong hai quyển từ điển nói trên. Từ điển Văn Tân không ghi âm trạo cho chữ 濯 thì cũng là chuyện bình thường vì làm sao nó đầy đủ bằng những quyển từ điển (đơn ngữ) tường giải bằng chữ Hán! Nhưng Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng do nhà Khai Trí (Sài Gòn) ấn hành cũng đầy đủ hơn từ điển của Văn Tân và Nguyễn Quốc Hùng cũng đã ghi nhận âm “trạo” cho chữ 濯 rồi giảng là “Mái chèo – Chèo thuyền”. Vậy phải tùy văn cảnh mà đọc chữ đang xét thành trạc hay thành trạo chứ trạc không phải là âm duy nhất của nó.

§ 578. Kiến thức ngày nay, số 321, ngày 10-7-1999

ĐỘC GIẢ: Bãi tha ma: ma là ma quỉ còn tha là gì? Có phải tha là lôi đi (như: mèo tha chuột) và tha ma là đem thây ma (ra bãi chôn)?

AN CHI: Đó chỉ là một cách hiểu theo kiểu từ nguyên dân gian. Còn từ nguyên đích thực của từ tha ma thì là tiếng Sanskrit thông qua tiếng Hán. Bãi tha ma, tiếng Sanskrit là śmaśāna; từ này đã được các nhà phiên dịch kinh Phật từ tiếng Sanskrit sang tiếng Hán phiên âm thành “thâm ma xá na” (深 魔舍那). Hình thức phiên âm (đọc theo âm Hán Việt) này đã đến với dân chúng chắc là thông qua các nhà sư và các thầy cúng. Trong khi phát âm, thì â của thâm đã bị đồng hóa theo a của ma, xá và na nên hình thức gốc đã trở thành tham ma xá na, sau rút gọn thành tham ma và cuối cùng do sự “gặp nhau” giữa -m cuối của tham và m- đầu của ma nên đã xảy ra dị hóa mà trở thành tha ma như hiện nay.

Vậy, tha ma là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn từ mấy tiếng thâm ma xá na còn thâm ma xá na của tiếng Hán thì lại bắt nguồn từ tiếng Sanskrit śmaśāna.

§ 579. Kiến thức ngày nay, số 321, ngày 10-7-1999

ĐỘC GIẢ: Bài “Cùng chung văn tự” của Léon Vandermeersch do Nguyễn Nam dịch, in trong phần phụ lục quyển Những vấn đề cơ bản của chữ Hán của Lê Đình Khẩn do Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1997 có đoạn sau đây: “Có thể một số chữ hình vẽ đã trở thành những từ của ngôn ngữ văn tự lại không có từ tương ứng trong ngôn ngữ nói. Để đặt tên cho chúng phải dùng ẩn dụ. Do không đủ khả năng chứng thực chắc chắn phương cách mà những dấu ấn của nó đã bị vùi sâu dưới bao lớp ẩn dụ đến không còn xác định được nữa, sau đây là một giả định. Một trong những cách viết là khổ (malheur) là chữ hình vẽ trên xương dùng trong bốc thuật giáp cốt. Nó chuyên môn đến nỗi khó tìm được một từ tương ứng trong ngôn ngữ nói, nơi sự bất hạnh hẳn được biểu đạt bằng những từ thông thường hơn. Thế mà phát âm của nó trong tiếng Hán cổ lại hoàn toàn đồng âm dị nghĩa với phát âm của cách viết hổ. Có thể nghĩ rằng các thầy bói sau khi chế tác trong ngôn ngữ thuật toán bí truyền của họ một ký hiệu của sự bất hạnh đặc biệt, đã chỉ định ẩn dụ dấu hiệu này bằng tên của con hổ – một biểu tượng cực kỳ khủng khiếp. Cái tên đó được dùng để phát âm cho cách viết đang bàn” (Sđd, tr. 155 – 156). Mặc dù tác giả đã nói trên đây chỉ là một giả định, nhưng tôi vẫn đề nghị cho biết điều “giả định” này có chút cơ sở thực tế nào không.

AN CHI: Rất tiếc rằng thí dụ mà Vandermeersch đã đưa ra lại không đúng với thực tế của tiếng Hán và chữ Hán vì hổ 虎 và khổ 苦 vốn là hai từ thực sự riêng biệt, ngay cả trong tiếng Hán cổ đại. Về mặt văn tự, trong đó có cả mặt văn tự của riêng giáp cốt học thì hai chữ hổ và khổ không có liên quan gì với nhau. Về âm cổ đại thì ngữ âm học lịch sử cũng đã tái lập cho hai chữ đó những phụ âm đầu khác nhau chứ không phải chúng “hoàn toàn đồng âm” như Vandermeersch đã khẳng định. Chẳng hạn, âm cổ đại của chữ hổ 虎 đã được B. Karkgren tái lập là *χο mà của khổ 苦 thì lại là *kʾο.*

Còn S.A. Starostin thì đã tái lập âm của hổ 虎 trong Kinh Thi là hlāʔ mà của khổ 苦 thì lại là khāɁ*. Tóm lại, dù sự tái lập có khác nhau về chi tiết ở những nhà Hán ngữ học khác nhau thì xu hướng chung vẫn là xếp hổ và khổ vào những thanh mẫu (phụ âm đầu) cổ đại khác nhau. Về mặt ngữ nghĩa thì khổ (malheur) cũng không bắt nguồn từ hổ (= cọp), “một biểu tượng cực kỳ khủng khiếp: vì trong thực tế thì khổ – malheur chẳng qua cũng chỉ hiển nhiên là một nghĩa phái sinh của khổ – amertume (vị đắng) mà thôi.

Tóm lại Vandermeersch đã đưa ra một thí dụ quá yếu để minh họa cho một luận điểm quá quan trọng nên có lẽ sức thuyết phục của luận điểm đó cũng bị hạn chế chăng?

§ 580. Kiến thức ngày nay, số 322, ngày 20-7-1999

ĐỘC GIẢ: Truyện Kiều do Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải đã giảng hai tiếng “ba cây” trong câu 1426 (Ba cây chập lại một cành mẫu đơn) như sau: “Ba cây, do chữ tam mộc: ba thứ hình cụ bằng gỗ thời xưa là nữu (cái khóa tay), già (cái gông cổ), giới (cái cùm chân). Ở đây, ba cây chỉ hình phạt nói chung, chứ không nhất thiết phải có cả gông cổ, khóa tay, cùm chân, vì Thúy Kiều chỉ bị phạt trượng. Nhân chữ ba cây cho nên ở dưới nói một cành mẫu đơn để ví Thúy Kiều”*. Ở đây, Thúy Kiều bị phạt trượng (đánh bằng roi). Người ta bắt Kiều nằm sấp, dang hai tay ra hai bên, mỗi bên đóng một cây cọc xuống đất rồi lấy dây buộc lại chỗ cổ tay. Hai chân cột làm một và cũng đóng một cây cọc rồi lấy dây buộc lại. Thế là “ba cây”. Xong rồi lấy roi quất vào mông. Như vậy mới gọi là “ba cây” (cọc) chập lại, một cành mẫu đơn (Kiều).

AN CHI: Chúng tôi xin lưu ý rằng Nguyễn Du đã “kể” Truyện Kiều rất sát với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyên bản tiếng Hán này đã kể về cách xử sự của quan tri phủ như sau:

“Tri phủ cố ý thử thách:

– Nhà họ Thúc không cần đến chị, tất nhiên trả chị về nhà đĩ. Nếu chị không tuân, bản chức tất nhiên phải dùng hết phép trừng trị!

Thúy Kiều nói:

– Bẩm quan! Tôi xin quyết chịu chết dưới hình pháp, chứ không muốn trở lại làm đĩ.

Tri phủ hối người đem ra một chiếc gông và nói:

– Đánh đòn thì ta hãy tha cho, nhưng phải mang gông đi rao một tháng, sau đó mới quyết định cho chị trở về nhà đĩ.

Thúy Kiều nói:

– Xin tuân lệnh của quan lớn.

Lập tức đóng gông vào cổ”.*

Thế là theo nguyên truyện thì Kiều không hề bị đánh đòn mà lại bị đóng gông. Chính vì thế nên mới còn có đoạn sau đây:

“Thúc Sinh nói:

– Bẩm! Nàng không chỉ hiểu biết nhiều mà còn rất thông chữ nghĩa. Xin quan lớn mở đường tha cho!

Tri phủ nói:

– Mã Kiều đã thông chữ nghĩa, sao không lấy “chiếc gông” làm đầu đề vịnh thử một bài (…) Vậy chị cũng vịnh ngay một bài tức sự, nếu nghe được ta sẽ tha cho”. (Sđd, tr. 201 – 202).

Trở lên là nguyên truyện. Còn trong Truyện Kiều thì thế nào? Thì Thúy Kiều cũng bị đóng gông. Câu 1426 (Ba cây chập lại một cành mẫu đơn) chính là dùng để tả sự việc này. Ba cây là cái gông, như Chiêm Vân Thị đã giảng:

“Ba cây tức là cái gông. Sách Hán thư: Phạm Bàng đẳng giai tam mộc nang đầu”, (nghĩa là) Lũ ngươi Phạm Bàng đều bị cái “ba-cây” (tam mộc) đeo vào đầu”.*

Vương Vân Ngũ đại từ điển, chữ 1010, cũng giảng tam mộc (ba cây) là một thứ hình cụ đời xưa, dùng ba miếng gỗ làm thành (“Cổ đại đích hình cụ, dụng tam điều mộc tố thành”). Đây không phải là cái gì khác mà chính là cái gông. Vậy, mặc dù hai tiếng tam mộc có dùng để chỉ cái gông, cái khóa tay và cái cùm chân (như Nguyễn Thạch Giang và nhiều nhà chú giải khác đã giảng) nhưng đó là “ba cây” khác còn “ba cây” ở đây thì lại chỉ là riêng cái gông mà thôi. Ba cây chập lại tức là các phần của cái gông chập lại mà đóng vào cổ Kiều (một cành mẫu đơn). Cái gông phải tròng vào cổ Kiều rồi thì nhân vật “mặt sắt đen sì” mới

Cười rằng: “Đã thế thì nên

Mộc già hãy thử một thiên trình nghề!”.

(Câu 1451 – 1452).

Nghĩa là quan tri phủ bảo Kiều vịnh cái gông (mộc già) ngay trên cổ mình. Nếu nó đang nằm trong kho hoặc ở nhà sau của phủ đường thì quan bảo nàng vịnh nó mà làm gì. Đó chính là mối quan hệ luận lý nội tại chặt chẽ giữa câu 1426 (Ba cây chập lại một cành mẫu đơn) với câu 1452 (Mộc già hãy thử một thiên trình nghề). Và cũng chính vì cái gông đang tròng ở cổ Kiều nên trong nguyên truyện, thơ vịnh của nàng mới có những câu như:

Ngã dữ mộc vi cừu

Hỉ khuyên sáo trung đắc xuất đầu

Giao nhân cưỡng hạng, tái bất hứa phóng ca hầu

nghĩa là:

Ta với gỗ (mộc = gỗ, ám chỉ mộc già = cái gông) là thù.

Mừng rằng trong vòng khung còn được ló đầu

Khiến người cứng họng, giọng hát nghẹn trong yết hầu.

Vậy rõ ràng là Kiều không hề bị phạt trượng như Nguyễn Thạch Giang hoặc Nhóm nghiên cứu văn bản Truyện Kiều 1965 đã giảng, cũng chẳng phải bị ba hình phạt “tổng hợp” (khóa tay, gông cổ và cùm chân) như Đào Duy Anh đã giảng*. Và cũng không phải Kiều đã bị bắt nằm sấp xuống đất, mỗi tay buộc vào một cái cọc, còn hai chân thì buộc chung vào một cái cọc khác… Nàng chỉ bị đóng gông vào cổ rồi được tháo gông để… lên xe hoa trở về nhà cùng với chàng Thúc si tình mà thôi.

§ 581. Kiến thức ngày nay, số 322, ngày 20-7-1999

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 304, ông có viết rằng câu “Cáo chết ba năm quay đầu về núi” bắt nguồn ở thành ngữ tiếng Hán quy chính thú khâu (trở về đúng hướng núi), thường nói tắt thành thú khâu 首丘 (= hướng về phía gò, phía núi)”. Nếu là chữ 首 như ông đã viết thì phải là “thủ khâu” = đầu (thủ) quay về phía gò (khâu), chứ sao lại đọc thành “thú khâu”?

AN CHI: Chính Đào Duy Anh vàNguyễn Sĩ Lâm cũng phiên thành “thủ khâu” như ông đã gợi ý. Trong Sở từ (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1974), phần V (Cửu chương), bài “Ai Sính” (chữ “Sính” đúng âm phải là Dĩnh), câu 496 đã được hai dịch giả phiên là:

Hồ tử tất thủ khâu (Sđd, tr. 161) và dịch là:

Chồn chết ắt quay đầu về núi (Sđd, tr. 190).

Nhưng chữ 首 có hai âm: thủ và thú, như đã cho trong Từ nguyên, Từ hải và nhiều quyển từ điển khác. Đặc biệt là Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993), tại chữ 首, với âm thú, nghĩa 3 (= hướng về phía), đã cho nhiều thí dụ, trong đó có cả thí dụ lấy từ bài “Ai Dĩnh” trong Sở từ:

“Điểu phi phản cố hương hề

Hồ tử tất thú khâu”.

Vậy trong trường hợp mà chúng tôi đã nêu trên Kiến thức ngày nay, số 304, chữ 首 phải đọc là thú chứ không phải “thủ”.

§ 582. Kiến thức ngày nay, số 323, ngày 1-8-1999

ĐỘC GIẢ: Tôi là khán giả thường xuyên của chương trình “Đường lên đỉnh Olympia”. Nói chung, chương trình này hay, bổ ích và hấp dẫn. Nhưng tôi có thắc mắc ở mấy chữ “đỉnh Olympia”. Theo tôi biết thì:

– Olympia là tên của một đồng bằng ở vùng Elis cổ, phía Tây Peloponnesus, là nơi diễn ra những kỳ Olympic cổ đại.

– Olympus là tên ngọn núi ở Hy Lạp nằm giữa Thessaly và Macedonia, cao 2.920 mét.

Thoạt đầu, tôi nghĩ có thể người đặt tên cho chương trình này muốn hiểu theo nghĩa bóng của chữ “Olympia” (nơi diễn ra các kỳ Olympic cổ đại) nhưng dùng chữ “đỉnh” thì không ổn. Rồi trong một chương trình gần đây thì lại có hẳn một câu hỏi mà lời giải đáp là “Đỉnh Olympia cao 2885 mét”. Vậy theo các nhà tổ chức chương trình này thì có hẳn một ngọn núi tên là “Olympia”!

Kính nhờ cho biết ý kiến vì theo tôi thì phải sửa thành “Đường lên đỉnh Olympus” mới đúng.

AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 318, chúng tôi đã có trả lời rõ ràng như sau:

“Olympia không phải là tên núi còn núi Olympe (mà bạn ghi theo tiếng Anh là Olympus) thì lại chẳng có dính dáng gì đến những đại hội thể thao mà người Hy Lạp thời cổ đại đã tổ chức bốn năm một lần. Vậy “đỉnh Olympia” thì không tồn tại còn tên núi Olympe thì lại chẳng liên quan gì đến tên của cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia”.”

Như bạn đã nói, Olympus là tên núi (nằm giữa Thessaly và Macedonia). Đây là tên mà tiếng Anh đã mượn từ nguyên dạng tiếng La Tinh (do tiếng Hy Lạp Olumpos). Tiếng Pháp là Olympe còn tiếng Nga là Olimp. Theo truyền thuyết thì núi Olympus là chỗ ở của các thần trong thần thoại Hy Lạp. Còn Olympia là tên mà tiếng Anh đã mượn từ nguyên dạng tiếng La Tinh (do tiếng Hy Lạp Olumpia) để chỉ một thành thị của Hy Lạp nằm trên bán đảo Peloponnesus. Đây là nơi mà người Hy Lạp thời cổ đại đã tổ chức bốn năm một lần những cuộc tranh tài thể thao gồm nhiều môn trong đó có cả chạy đua, đua ngựa và đua xe ngựa.

Sự thật là như thế nhưng các buổi thi của VTV3 lại có lời giáo đầu rằng “Đỉnh Olympia cao vời vợi…” Đặc sắc hơn nữa là lời giải đáp mà bạn đã ghi nhận, nói rõ ràng rằng “đỉnh Olympia cao 2885 mét” (Thật ra thì núi Olympus cao 2971m)!

Nhưng cũng không thể đổi tên cuộc thi thành “Đường lên đỉnh Olympus” như bạn đã gợi ý được vì các nhà tổ chức muốn ví các buổi thi của họ với những cuộc tranh tài Olympic (Đó là những cuộc thi Olympic về trí tuệ) còn núi Olympus thì chỉ là cõi non Bồng nước Nhược của các thần trong thần thoại Hy Lạp mà thôi. Nên chăng đổi thành “Đường đến đích Olympia”? Dù sao, đây cũng chỉ là ngu ý còn đổi hay không và/hoặc đổi như thế nào thì lại là quyền của các nhà tổ chức. Vậy chúng ta… hãy đợi đấy! Có điều là nếu cứ để nguyên xi “đỉnh Olympia” thì hơi bất tiện cho địa lý Hy Lạp và địa lý thế giới. Mà đổi thế nào được vì chẳng lẽ các nhà tổ chức, và cả nhà tài trợ là đại gia LG, đều tự nhận là mình ngu dốt?

§ 583. Kiến thức ngày nay, số 323, ngày 1-8-1999

ĐỘC GIẢ: Bìa 1 tạp chí Kiến thức ngày nay, số 318 có in hình một phần của bức tượng kiệt tác “Proserpine bị bắt đi”. Xin cho biết Proserpine là ai và ai đã bắt Proserpine.

AN CHI: Proserpine là tên phiên theo tiếng La Tinh (Proserpina) của Perséphone (do tiếng Hy Lạp Persephonê) trong thần thoại Hy Lạp. Perséphone là con gái của Déméter (mà người La Mã gọi là Cérès).

Một hôm Proserpine đi hái hoa cùng các tùy nữ. Bị vẻ đẹp của những đóa thủy tiên lộng lẫy lôi cuốn, nàng rời khỏi đám thiếu nữ càng lúc càng xa mà không hay. Xuất hiện từ một miệng hố toang hoác trên cỗ xe do những con ngựa đen nhánh kéo tới, Pluton (Diêm vương trong thần thoại Hy Lạp) đã nắm lấy cổ tay rồi tóm lấy Proserpine mà đem nàng xuống Diêm phủ. Proserpine khóc nức nở, tiếng khóc của nàng vang đến tận những đỉnh núi cao và đến tận đáy biển sâu rồi vọng lại khiến Déméter nghe thấy. Bà mẹ đã bay lượn trên khắp mặt đất và mặt biển để tìm con gái nhưng vô ích. Chẳng có ai dám báo tin dữ đó cho bà. Déméter cứ lang thang lơ lửng như thế suốt chín ngày đêm, không ăn không uống. Cuối cùng bà đã đến được mặt trời và chính mặt trời báo cho bà biết Proserpine đang ở dưới Diêm phủ.

Đau xót tột độ, Déméter rời khỏi núi Olympe (Olympus) để sống trà trộn trong dân gian mà đi tìm con gái. Nhờ bà khéo cải trang nên chẳng ai nhận ra bà. Déméter tới thành phố Eleusis trong hình dáng của một bà vú già. Bà ngồi trên một tảng đá bên đường, gần bên một cái giếng. Bốn chị em gái xinh xắn, trẻ trung đi lấy nước đã nhìn thấy bà và cảm thấy thương hại nên lân la đến hỏi thăm. Déméter trả lời rằng mình chạy trốn một bọn cướp vì chúng định bán bà làm nô lệ còn bà thì không quen biết ai trong thành phố nên cũng chẳng biết nhờ vả ai. Các cô gái nói rằng bà sẽ được gia đình các cô đón tiếp nồng hậu và cả thành phố Eleusis cũng thế nhưng các cô muốn đón bà về chính nhà mình. Bà lão đồng ý và mẹ của các cô là Métanire cũng đồng ý nhận bà đến ở. Khi Déméter bước vào nhà thì Métanire bỗng cảm thấy vừa kính trọng vừa sợ hãi.

Déméter chăm sóc đứa con trai của Métanire tên là Démophoon. Đứa bé lớn lên như một vị thần trẻ vì hàng ngày Déméter đều xức nước cam lồ cho nó và đặt nó vào bếp lò để “luyện” cho nó một tuổi trẻ vĩnh cửu. Nhưng có một hôm Métanire đã phát giác và đã kinh hoàng vì thấy Déméter đặt đứa con trai của mình vào lửa. Déméter giận dữ và quăng đứa bé xuống đất.

Từ đó Déméter mới tiết lộ lai lịch của mình. Bà hiện ra với tất cả vẻ đẹp vốn có và một mùi hương thơm ngát lan toả ra chung quanh. Ngôi nhà sáng rực lên vì hào quang của bà. Bà cho mọi người biết bà chính là Déméter và bảo rằng nếu muốn được hưởng lại ân huệ của bà (Déméter là Nữ thần của sự trù phú) thì phải xây cho bà một đền thờ tại một vùng phụ cận của thành phố Eleusis. Métanire kể lại chuyện với chồng là Céléos. Ông bèn tập hợp dân chúng lại để thông báo ý muốn của vị Nữ thần. Thế là tất cả đều bắt tay vào việc và chẳng bao lâu thì ngôi đền đã xây xong. Déméter đến ngự tại đó, cách ly với các thần khác trên núi Olympe mà vẫn không nguôi nhớ thương đứa con gái đã mất tích.

Trên mặt đất, năm đó là một năm thật khủng khiếp cho loài người. Không một hạt giống nào nẩy mầm. Người ta sắp chết đói hết. Thần Zeus thấy cần phải can thiệp. Zeus lần lượt phái hết vị thần này đến vị thần khác xuống để xoa dịu sự tức giận của Déméter nhưng đều vô ích. Chừng nào chưa tìm lại được con gái, Déméter sẽ không làm cho trái đất sinh sản. Zeus hiểu ra rằng em trai của mình (Pluton là em trai của Zeus) phải nhượng bộ nên đã phái con trai là Hermès (tức Mercure) đi gặp Diêm vương để yêu cầu trả Proserpine về cho Déméter. Khi Hermès đến nơi thì Pluton biết rằng không thể nào không nghe theo lời của Zeus nên đã trả Proserpine về trên mặt đất. Có điều là Pluton đã cho nàng ăn một hạt thạch lựu: hạt thạch lựu này sẽ làm cho Proserpine có ngày cũng trở về với Pluton.

Pluton sửa soạn cỗ xe bằng vàng của mình cho Hermès cầm cương và những con ngựa đen nhánh đã đưa Proserpine về thẳng đền thờ Déméter. Nhanh như chớp, Déméter lao về phía con gái. Hai mẹ con ôm chặt nhau mà hàn huyên suốt cả ngày. Déméter khóc ròng khi nghe đến chuyện hạt thạch lựu vì biết không thể giữ được con gái thường xuyên bên cạnh mình. Vì vậy bà vẫn chưa muốn đem lại ân huệ cho loài người.

Lần này Zeus đã phải thỉnh cầu chính mẹ mình là Rhéa xuống núi để khuyên Déméter trở về “sơn đàng” Olympe và đem lại cuộc sống cho con người. Déméter không còn từ chối được nữa mặc dù vẫn còn ấm ức vì đành phải để cho con gái yêu trở xuống Diêm phủ với Pluton bốn tháng trong một năm. Déméter bắt đầu làm cho đồng ruộng xanh tốt lại. Các vườn cây lại trĩu quả và mặt đất thì đầy lá và hoa. Bà đến thăm các vương tôn công tử của thành phố Eleusis rồi chọn một người trong số đó là Triptolème làm sứ giả của mình bên cạnh loài người để dạy cho họ cách gieo trồng lúa mì. Người ta gọi Déméter là Nữ thần tốt bụng.*

§ 584. Kiến thức ngày nay, số 323, ngày 1-8-1999

ĐỘC GIẢ: Bốn tiếng “ba xí ba tú” bắt nguồn từ đâu?

AN CHI: Tầm nguyên tự-điển Việt Nam của Lê Ngọc Trụ cho rằng đó là do mấy tiếng “parci partout” (?) Còn chúng tôi thì cho rằng đó là do tính từ bất biến passe-partout, có nghĩa là tầm thường, vô vị. Mot passe-partout là lời nói vô vị, nhạt nhẽo, v.v..

§ 585. Kiến thức ngày nay, số 324, ngày 10-8-1999

ĐỘC GIẢ: Trong bài Tìm “một nhành mai”trong thơ Mãn Giác đăng trên tạp chí Nghiên cứu Phật học số 1-1999 (Xuân Kỷ Mão), tác giả Trần Văn Mỹ có trích dẫn bài viết của Hữu Ngọc nhan đề Từ cây “Nhất chi mai” mà hiểu rõ một câu thơ đời Lý, đăng trên tạp chí Hán Nôm số 2 năm 1993. Sau đây là toàn bộ đoạn trích dẫn đó:

“Đầu tháng 5-1992, tôi về thăm thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Đạo hữu Diệu Hòa dẫn tôi đi thăm nhiều ngôi chùa cổ, lần lượt giới thiệu các loại hoa và dừng lại khá lâu ở bồn hoa có khóm Nhất chi mai đang trổ bông. Lần đầu tiên tôi được ngắm nhìn khóm hoa lạ này. Hỏi kỹ người hướng dẫn, sau đó hỏi kỹ thêm Hòa thượng trụ trì chùa Phổ Minh thì tôi được biết rõ hơn: Nhất chi mai là cây có hoa chủ yếu được trồng giữa sân chùa, trước Phật đường, coi như một cây cảnh đẹp và quý. Nhiều sân chùa ở Rạch Giá đều có bồn Nhất chi mai. Nhất chi mai có lá nhỏ và độ cao vừa phải (độ trên 1 mét), đặc biệt Nhất chi mai trổ hoa quanh năm. Phải chăng Nhất chi mai là biểu tượng cho sức sống vĩnh hằng trước cửa Phật vốn từ bi mà rất hồn nhiên? Đang suy nghĩ miên man, tôi chợt tỉnh và trí nhớ dẫn tôi về với hai câu kết bài Cáo tật thị chúng (Cáo bệnh bảo mọi người) của Mãn Giác:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Các bản dịch đều viết: Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết. Đêm qua, sân trước, một cành mai.

Tôi ngờ ngợ về lời dịch: “Nhất chi mai” là một cành mai. Lời dịch này rõ ràng chưa đúng bởi vì theo cấu trúc ngữ pháp tiếng Hán nếu muốn nói một bông mai thì tiếng Hán diễn đạt “nhất mai hoa” và muốn nói một cành mai thì tiếng Hán diễn đạt là “nhất mai chi”. Có người cho là dịch liều, dịch lấy được nhưng chúng tôi thì nghĩ rằng: có lẽ do thiếu kiến thức, không biết Nhất chi mai là một cây hoa thường được trồng trước sân chùa. Có thể dịch câu cuối như thế này chăng: Đêm qua, sân trước nhất chi mai (đơm hoa)”.

Xin hỏi: Có phải dịch mấy tiếng “nhất chi mai” trong câu thơ của Mãn Giác thành “một cành mai” là “dịch liều”, “dịch lấy được” hoặc “do thiếu kiến thức” hay không? Và “nhất chi mai” trong câu thơ đó có phải là tên một loài hoa hay không?

AN CHI: Thực ra, dịch nhất chi mai thành một cành mai là đã dịch đúng. Chính Hữu Ngọc đã hiểu nhầm cấu trúc ngữ pháp của tiếng Hán nên mới viết rằng “nếu muốn nói một cành mai thì tiếng Hán diễn đạt là nhất mai chi”. Mặc dù trong tiếng Hán “cành mai” là mai chi, nhưng hễ đã muốn đếm thì phải nói nhất chi mai hoặc mai nhất chi để chỉ “một cành mai” chứ không bao giờ nói được “nhất mai chi”. Toàn Đường thi đại từ điển do Trương Địch Hoa chủ biên (Sơn Tây Nhân dân xuất bản xã, 1992, quyển 1, tr. 12 – 13) đã ghi nhận một loạt cấu trúc với từ tổ nhất chi như: nhất chi đan quế, nhất chi nguyệt quế, nhất chi tiên quế, nhất chi hoa (= nhất đóa hoa), nhất chi hồng (= nhất đóa hồng hoa), nhất chi mai, v.v. (mà trên Kiến thức ngày nay, số 214, chúng tôi cũng có trích một phần để chứng minh rằng nhất chi, ngoài cái nghĩa là một cành, lại còn có nghĩa là một đóa, một bông nữa). Không ai nói “nhất đan quế chi”, “nhất nguyệt quế chi”… “nhất mai chi” cả vì đó không phải là tiếng Hán.

Huống chi, nếu hiểu nhất chi mai trong câu thơ của Mãn Giác là tên một loại cây cảnh thì ý thơ không thể thông được:

Thứ nhất, cây “nhất chi mai” của Hữu Ngọc có đặc điểm là “trổ hoa quanh năm” nên đó không thể là cây mai của Mãn Giác được. Cây mai mà vị thiền sư của chúng ta muốn nói đến là loại mai chỉ trổ hoa vào mùa xuân mà thôi. Có thế thì Mãn Giác mới viết được

“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.

để nói lên một sự “đi chệch” quy luật của tự nhiên: cứ ngỡ xuân tàn hoa rụng hết, không ngờ đêm qua trước sân vẫn có một nhành mai còn trổ hoa. Nếu cây mai trong thơ của Mãn Giác mà trổ hoa quanh năm thì e là sẽ… hết chuyện chăng?

Thứ hai, cấu trúc nhất chi mai chỉ có thể có một trong hai nghĩa sau đây:

– Một cành mai (giống như tam thất mã là ba con ngựa; nhất bản thư là một quyển sách; kỷ điều tuyến là mấy sợi dây; v.v.).

– Mai một cành (giống như tam giác hình là “hình ba góc”; lục huyền cầm là “đàn sáu dây”; ngũ ngôn thi là thơ năm tiếng;…).

Hữu Ngọc đã phủ nhận cách hiểu theo nghĩa trước; vậy chỉ còn lại cách hiểu theo nghĩa sau. Nhưng có thứ mai nào lại là “mai một cành”, nghĩa là bất cứ cây mai nào thuộc giống này cũng đều chỉ có một cành mà thôi? Hay là Hữu Ngọc lại còn có một cách hiểu nào khác nữa?

Tóm lại, cách dịch nhất chi mai thành “một cành mai” là hoàn toàn chính xác. Chỉ có cách hiểu của Hữu Ngọc mới sai mà thôi!

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3