Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2: Câu hỏi 535 - 560
§ 535. Kiến thức ngày nay, số 303, ngày 1-1-1999
ĐỘC GIẢ: Câu cuối cùng trong bài thơ “Ngôn hoài” của Không Lộ thiền sư là: “Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư”. Tại sao tiếng kêu không làm cho “ấm” thái hư mà lại làm cho nó lạnh? Trên số 213, ông có nói đến tác giả Lý Ngao mà Hà Văn Tấn đã đọc sai thành “Lý Tường” nhưng hình như có một số người không đọc “ngao” mà lại đọc thành cao. Vậy đó là Lý Tường, Lý Ngao hay Lý Cao? Chữ dư ở câu thứ hai trong bài thơ của Không Lộ có nghĩa là gì?
AN CHI: Sở dĩ tác giả nói hàn (lạnh) mà không nói “ôn” (ấm) là vì, theo chúng tôi, chữ “ôn” sẽ phá vỡ cái thế tương phản trong cách cấu tứ của câu thơ. Ở đây, hư không phải là một khái niệm mang tính chất âm của Dịch lý, đối lập với thực là một khái niệm mang tính chất dương. Trong câu thơ đang xét thì chữ hư gắn chặt với chữ thái thành thái hư để chỉ bầu trời, để chỉ trời, tương đương với kiền là một quẻ trong bát quái, cũng chỉ trời và cũng là một khái niệm mang tính chất dương, đối lập với khôn, chỉ đất và là một khái niệm mang tính chất âm. Vì thái hư là một khái niệm mang tính chất dương nên tương ứng với tính chất dương về mặt “nhiệt độ” thì thái hư phải nóng chứ không “lạnh”. Vậy nếu thiền sư Không Lộ có “trường tiếu nhất thanh” mà thổi thêm vào đó một làn hơi “ấm” thì cũng chỉ là nhỏ thêm một giọt nước cỏn con vào đại dương bao la mà thôi. Chính chữ hàn mới gây bất ngờ vì nó là cái chữ không được chờ đợi. Thái hư “vốn” nóng mà cái tiếng thét kéo dài và vang rền của vị thiền sư đã làm cho nó “trở” lạnh thì cái ma lực của tiếng thét đó phải khủng khiếp đến mức nào! Ý nghĩa của chữ hàn, theo chúng tôi, chính là ở chỗ đó.
Về tên của vị thứ sử đã làm bài thơ tặng thiền sư Duy Nghiễm (bên Trung Hoa), thì chúng tôi đã chứng minh rằng đó là Lý Ngao chứ không phải “Lý Tường” như Hà Văn Tấn đã đọc sai. Nguyễn Khắc Phi, với những cứ liệu phong phú, cũng đã khẳng định rằng đó rõ ràng không phải là Lý Tường mặc dù ông đọc chữ ngao bằng âm cao*. Thế nhưng lại có ý kiến muốn “dung hòa” hai cách đọc, chẳng hạn của Nguyễn Phạm Hùng, cho rằng “Lý Tường còn gọi là Lý Cao”*. Điều này vô lý vì nó đã lấy cái âm bị đọc sai làm tên chính của đương sự trong khi chính cái tên chính thức thì lại bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Xin liên hệ với một trường hợp khác để chứng minh cho sự vô lý đó. Trong bài “Về năm sinh và ngày mất của giáo sĩ A. Đắc Lộ” đăng trên báo Công giáo và Dân tộc, số 798 ra ngày 17-3-1991, tác giả Đình Khải đã nhiều lần viết tên của L. Cadière thành “Louis Cadière” (tr. 15). Nhưng Cadière tên là Léopold chứ đâu phải “Louis”. Nếu xử lý kiểu Nguyễn Phạm Hùng, người ta ắt phải cải chính rằng “Louis Cadière còn gọi là Léopold”.
Nhưng nhiều người đã đọc chữ ngao thành chữ cao như Nguyễn Khắc Phi đã thông báo (Bđd, tr. 28 – 29). Tuy thế, chính ông cũng đã viết một cách dè dặt rằng “đương nhiên, Cao hay Ngao vẫn có thể là đề tài để các nhà Hán học và ngữ âm học tiếp tục bàn luận” (Bđd, tr. 28).
Chúng tôi cho rằng trong trường hợp mà âm Hán Việt của một chữ Hán chưa được khẳng định một cách nhất trí thì cái chỗ dựa đáng tin cậy nhất vẫn luôn luôn là hình thức phiên thiết được cho trong tự thư và vận thư. Như đã có lần nói tại Chuyện Đông chuyện Tây, trong nhiều trường hợp, người phiên âm chỉ dựa vào mặt chữ để suy ra âm chứ không cần tra cứu trong thư tịch. Họ cho rằng âm của một chữ, nếu đây là một hình thanh tự, đã được cho bằng thanh phù của nó rồi nên âm của thanh phù cũng là âm của chữ đang xét. Đây là một sự ngộ nhận rất nguy hiểm. Thậm chí có khi chỉ đơn giản vì chuyện “tác đánh tộ, ngộ đánh quá,” mà người ta đã thay đổi hẳn âm của một chữ. Đã thế, có khi người thứ hai lại theo người đầu tiên, người thứ ba lại theo người thứ hai, rồi cứ tiếp tục như thế mà tạo ra một “đa số” làm chỗ dựa giả tạo cho sự khẳng định cái âm không đúng kia. Cao (hoàn) bị đọc thành “dịch (hoàn)” là một trường hợp điển hình mà chúng tôi đã nói đến trên Kiến thức ngày nay, số 114. Chữ 翶 bị đọc thành “cao”, theo chúng tôi, cũng là một kết quả của khuynh hướng trên đây.
Thiết âm của chữ đó thật ra là “nga lao thiết, âm ngao, hào vận” (Từ nguyên và Từ hải đều cho như thế). Vậy nó phải được đọc là ngao. Phụ âm đầu ng- của nó còn được khẳng định bằng một điệp thức (doublet) có phụ âm đầu là nh-. Đó là chữ nhào trong nhào lộn: nhào là một biến thể ngữ âm, còn ngao là âm nay của chữ đang xét. Thanh điệu 2 (dấu huyền) chứng tỏ rằng nhào xưa hơn ngao, cũng giống như:
– làn (sóng) xưa hơn (ba) lan; (hỏa) lò xưa hơn (hỏa) lô; mồ (mả) xưa hơn mộ (chí); (nghèo) nàn xưa hơn (nguy) nan; v.v..
Còn về mối quan hệ ng ~ nh thì ngao ~ nhào cũng giống như:
-ngạc (nhiên) ~ (ngơ) ngác ~ (nhớn) nhác; ngành (nghề) ~ nhành (lúa); ngạo (đời) ~ (chế) nhạo; ngao 嗷 (tiếng nhiều người kêu ca) ~ nhao (nhao); ngân 齦 (nhe răng) ~ nhăn (răng); (hiệu) nghiệm ~ (mầu) nhiệm; v.v..
Vậy ngao ~ nhào là một hiện tượng hoàn toàn bình thường và tên của vị thứ sử Lãng Châu ở đây là Lý Ngao chứ không phải “Lý Cao”.
Bây giờ xin nói về chữ dư ở cuối câu thứ hai (Dã tình chung nhật lạc vô dư) trong bài “Ngôn hoài”. Trong Thơ văn Lý – Trần, tập I (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997), câu này được dịch xuôi là “Tình quê suốt ngày vui không chán” và dịch thành thơ là “Tình quê lai láng chẳng hề vơi” (tr. 385). Với Nguyễn Đình Chú thì đó là một “nỗi vui trần thế suốt ngày không dứt”*. Với Nguyễn Minh Hào thì đó là “niềm vui tình quê đậm đà đạo vị suốt ngày không thấy thừa, thấy chán”*. Cứ như trên thì các tác giả này cho rằng chữ dư có nghĩa là thừa. Chúng tôi không hiểu như thế.
Theo chúng tôi, ở đây nó có nghĩa là nhàn rỗi, như trong dư hạ, dư nhàn (hai cặp từ này đều đồng nghĩa với nhàn hạ). Với nghĩa này, tác giả đã chơi chữ một cách dí dỏm: ta đây suốt ngày bận bịu với niềm vui của thú ẩn dật thì làm gì có thì giờ rỗi rãi mà dành cho việc khác nữa.
Trở lên là phần trả lời ba câu hỏi mà quý vị đã nêu lên. Về một số chữ khác trong bài của Không Lộ lẫn bài của Lý Ngao, cũng như về câu hỏi đâu là văn bản tối ưu cho bài “Ngôn hoài”, chúng tôi xin phép hẹn đến một dịp khác.
§ 536. Kiến thức ngày nay, số 303, ngày 1-1 -1999
ĐỘC GIẢ: Trang 36 quyển Địa danh ở Thành phố Hồ Chí Minh của Lê Trung Hoa (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991) có đoạn sau đây:
“Địa danh vay mượn
a. Địa danh gốc Hán: ấp Trung, ấp Hậu,…
b. Địa danh gốc Khơ-me: xóm Bưng, sông Xoài Rạp, bót Tầm Vông,…
c. Địa danh gốc Pháp: cầu Bót, chợ Ga, chợ Nancy, đường Yersin, khu La Cai,…”
Xin cho biết trên đây có phải thực sự là những địa danh vay mượn hay không. Và từng loại có phải là địa danh gốc Hán, gốc Khơ-me, gốc Pháp?
AN CHI: Ông Lê Trung Hoa đã nhầm: trong các thí dụ trên đây, có đến 6 là những địa danh Việt Nam chánh tông. Loại a là những địa danh Việt Nam được đặt bằng các yếu tố Hán Việt; loại b (trừ Xoài Rạp) là những địa danh Việt Nam được đặt bằng những từ Việt gốc Khmer còn loại c (trừ Nancy, La-cai và Yersin) là những địa danh Việt Nam được đặt bằng các từ Việt gốc Pháp. Đó là những từ gốc Hán, gốc Khmer hoặc gốc Pháp đã nhập tịch nên đều mang “ngữ tịch” Việt Nam cả. Chúng đều hành chức y hệt như những từ Việt khác. Ông Lê Trung Hoa đã không phân biệt được những địa danh gốc Khmer chánh cống mà người Việt Nam đã phiên âm sang tiếng Việt (như: Xoài Rạp) với những địa danh do chính người Việt Nam đặt bằng các từ Việt gốc Khmer. Đó là hai loại rất khác nhau nên không thể gộp chung để xử lý như nhau được. Còn hai địa danh Nancy và La-cai thì cũng đã Việt hóa 100% về mặt phát âm rồi. Ông Lê Trung Hoa ghi “Nancy” nhưng người Việt Nam (tuyệt đại đa số) thì cứ phát âm thành “Năng-xi” chứ đâu phải [nãsi] y chang như người Pháp. Đến như La-cai thì chính ông cũng đã ghi nó bằng hình thức Việt hóa rồi vì tuyệt đại đa số đâu có biết nó vốn là Lacaze, lại càng không phát âm thành [lakaz]. Còn Yersin là một địa danh bằng tiếng Pháp hẳn hoi chứ đâu phải là “gốc Pháp”. Nó đã được Việt hóa 100% đâu mà nói là “gốc Pháp”?
§ 537. Kiến thức ngày nay, số 304, ngày 10-1 -1999
ĐỘC GIẢ: Tên con “hồ ly tinh” từng mê hoặc Trụ Vương đã được Từ điển nghệ thuật hát bội Việt Nam (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998) ghi thành một mục từ là “Đắc Kỷ”. Xin cho biết hình thức chính tả này có đúng hay không.
AN CHI: Đã đành rằng ở miền Nam trước đây nhiều người vẫn viết thành “Đắc Kỷ” nhưng một quyển từ điển quan trọng về nghệ thuật hát bội, xuất bản vào thời điểm cuối thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX – khi mà yêu cầu về chuẩn chính tả càng ngày càng cao và khi mà lý thuyết ngữ học đến với số đông đã dễ dàng hơn cách đây 50 năm -, lại do một tập thể soạn giả có uy tín đảm nhiệm về nội dung, thì không thể viết như thế được.
Tên chính xác của nhân vật đang xét là Đát Kỷ, chữ Hán là 妲己. Đát là một hình thanh tự mà nghĩa phù là nữ 女 còn thanh phù là đán 旦, cũng là thanh phù của chữ đát trong bi đát mà Hán tự là 怛. Thiết âm của chữ 妲 là “đa át thiết, âm đát, hạt vận”, vì vậy nên âm cuối của nó là t chứ không thể là [k] mà hình thức văn tự là -c. Nếu có theo thói quen lâu ngày mà phát âm nguyên âm chính của nó thành a ngắn (ghi bằng chữ “ă”) thì cũng chỉ có thể viết thành Đắt chứ không phải “Đắc”. Việt-ngữ chánh-tả tự-vị của Lê Ngọc Trụ đã ghi nhận cả hai cách viết là Đát và Đắt nhưng cũng ghi đúng phụ âm cuối là -t. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của, một quyển từ điển có nhiều lỗi chính tả do cách phát âm địa phương đem lại, cũng đã ghi rất đúng âm của chữ đó là “Đát” (Xin xem ở chữ “Kỉ”, Tome I, tr. 511, cột 2).
Tóm lại, tên của con “hồ ly tinh” đó là Đát (Đắt) Kỷ chứ không phải là “Đắc Kỷ” vì đây chỉ là một cách viết sai chính tả mà thôi.
§ 538. Kiến thức ngày nay, số 304, ngày 10-1 -1999
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết cách nói nào đúng: “nộp lưu chiếu” – “nộp lưu chiểu”; “cờ bay phất phới” – “cờ bay phấp phới”; “phất phơ” – “phơ phất”; “diễn binh” – “diễu binh”; “phản ánh” – “phản ảnh”.
AN CHI: 1. “Lưu chiểu” là một cách nói trại từ hai chữ lưu chiếu 留照. Trong tự thư và vận thư, chữ chiếu chỉ có thanh khứ (dấu sắc) chứ không hề có thanh thượng (dấu hỏi). Vậy “chiểu” là một cách phát âm lệch. Ngay cả âm xưa của chữ 照 cũng thanh khứ: đó là chói (trong chói lọi, chói chang, v.v.). Vậy nói nộp lưu chiếu đúng hơn là “nộp lưu chiểu”. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta đã dùng lối nói này một cách “đại trà”: trong bất cứ quyển sách nào mới xuất bản, cũng có thể đọc thấy (ở đầu hoặc ở cuối) ba chữ “nộp lưu chiểu” (ngày… tháng… năm). Sở dĩ có tình trạng này là vì, từ lâu, chữ chiếu đã bị đọc trại thành chữ “chiểu”: trong văn hành chính thời trước, đã từng có những lối nói như “chiểu theo pháp luật”, “chiểu theo nghị định”,… “Chiểu tình” (< chiếu tình và = cứ theo tình) cũng là một lối nói khá xưa đã được ghi nhận trong Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức do nhà sách Khai Trí ấn hành năm 1970 tại Sài Gòn. Tóm lại, lưu chiếu là cách phát âm chính xác còn “lưu chiểu” là cách phát âm “đại trà” hiện nay.
2. Phấp phới chỉ là một điệp thức của phất phới, được tạo thành bởi hai áp lực: một là do -t cuối của phất bị p- đầu của phới đồng hoá; hai là do loại suy từ khuôn vần -âp như trong: lấp ló, mấp máy, nhấp nhô, thấp thoáng, v.v.. Bản thân phất phới thì là một từ tổ đẳng lập gồm có phất là âm Hán Việt hiện đại của chữ 拂, có nghĩa là phủi, lay, vẫy,… phất; còn phới là âm xưa của chữ 飄, mà âm Hán Việt hiện đại là phiêu, có nghĩa là lay động vì gió.
Trớ trêu là hình thức gốc (phất phới) hiện nay lại bị xem là ít dùng hơn hình thức phái sinh (phấp phới) (Xem chẳng hạn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên), thậm chí có quyển từ điển như Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên chỉ ghi nhận có phấp phới mà không ghi nhận phất phới. Chuyện “bất công” như thế này không chỉ có trong tiếng Việt mà trong những thứ tiếng khác cũng thế. Trong tiếng Pháp, chẳng hạn, để diễn cái ý “nối đuôi nhau”, người ta không nói à la queue du loup (đây mới là hình thức gốc) mà chỉ nói à la queue leu leu (mặc dù đây chỉ là hình thức phái sinh trẹo trọ). Trong tiếng Anh, danh từ để chỉ chú rể lẽ ra là bridegoom, nhưng chẳng những không ai nói như thế mà người ta còn cho rằng nói như thế là… ngớ ngẩn nữa. Ai ai cũng nói bridegroom mặc dù xét theo cấu tạo thì đây lại là… chú giữ ngựa của cô dâu, như đã phân tích tại Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 113.
3. Phơ phất hiện nay vẫn còn dùng như phất phơ. Phơ phất là một từ tổ đẳng lập trực tiếp bắt nguồn từ hai chữ Hán 披 拂 mà âm Hán Việt hiện đại là phi phất. Chúng ta bắt gặp hai tiếng phi phất tại chương “Thiên vận” (Sự vận chuyển của bầu trời) trong sách Nam Hoa kinh của Trang Tử, đoạn hỏi về nguồn gốc của gió: “Thục hô hấp thị, thục cư vô sự nhi phi phất thị?” (Ai thở hít mà làm ra gió, ai ở không mà lay động để làm nên gió?) Thành Huyền Anh đã giải thích rõ phi phất là lay động. Mối quan hệ phơ (phất) ~ phi (phất) cũng giống hệt như: cờ ~ kỳ; huơ ~ huy (vẫy); (làm) lơ ~ ly (tâm); ngờ ~ nghi; thơ (ca) ~ thi (ca); v.v..
4. Hình thức gốc chính là diễn binh 演兵. Sở dĩ diễn bị đọc thành diễu có lẽ là do đã đánh n thành u chăng? Hoặc cũng có thể do xu hướng “bác học” muốn đồng hóa chữ diễn với chữ diễu trong diễu võ dương oai vốn là một cách đọc trại từ chữ diệu (vì cách nói chính xác là diệu võ dương oai)?
5. Hình thức gốc chính là phản ánh 反映 có nghĩa gốc là phản chiếu trở lại. Cũng do từ nguyên dân gian mà chữ ánh đã bị đánh đồng với chữ ảnh 影 nên phản ánh mới thành ra “phản ảnh”. Ngoài cái công dụng thông thường thay cho phản ánh, động từ “phản ảnh” đã có một thời rất đắc dụng vì “chuyên dùng” để chỉ động tác báo cáo với cấp trên về hành vi của các thành viên trong tập thể, đặc biệt là các vị tổ trưởng, nhóm trưởng báo cáo với cấp trên về diễn biến và kết quả của các cuộc họp tổ, họp nhóm để bàn về những vấn đề nào đó.
§ 539. Kiến thức ngày nay, số 304, ngày 10-1 -1999
ĐỘC GIẢ: Trong buổi phát hình chiều ngày 25-11-1998 của VTV1, chương trình “Tạp chí tuổi hoa”, GS. Hoàng Văn Hành có giảng rằng đãi bôi là do “đãi môi” mà ra theo kiểu chuyển đổi từ m thành b như mồ côi, mồ hóng, mồ hôi, v.v., thành bồ côi, bồ hóng, bồ hôi, v.v.. Xin cho biết giảng như thế có đúng hay không.
AN CHI: Nếu đúng là môi trong “đãi môi” đã trở thành bôi trong đãi bôi như ông Hoàng Văn Hành đã giảng thì hẳn người ta sẽ có thể “chuyển đổi” những liếm môi, bơm môi, hôn môi, v.v., thành “liếm bôi”, “bơm bôi”, “hôn bôi”, v.v..
Ông Hoàng Văn Hành đã nhầm. Sở dĩ mồ côi, mồ hóng, mồ hôi có thể chuyển thành bồ côi, bồ hóng, bồ hôi là vì chúng thỏa mãn được hai điều kiện: một là hoặc cả hai hoặc ít nhất một trong hai tiếng tạo thành chúng phải hoàn toàn mất nghĩa; hai là tiếng có phụ âm đầu m- chuyển thành b- (hoặc ngược lại) phải là tiếng thứ nhất trong hai tiếng cấu thành chứ không thể là tiếng thứ hai. Hai tiếng đãi môi hoàn toàn không đáp ứng được hai điều kiện trên đây nên kết luận của ông Hoàng Văn Hành là một điều khẳng định vô căn cứ. Rất nhiều từ khác có bồ mở đầu như bồ câu, bồ đài, bồ liễu, v.v., có chuyển được thành “mồ câu”, “mồ đài”, “mồ liễu” đâu! Rồi những từ phiên âm như bồ đề, bồ tát, bồ tạt, v.v., cũng không thể trở thành “mồ đề”, “mồ tát”, “mồ tạt”, v.v..
Thật ra, trong đãi bôi, ít nhất người ta cũng đã có thể quy tiếng thứ nhất (đãi) vào chữ đãi 紿, có nghĩa là giả dối, gạt gẫm. Tiếng thứ hai (bôi) có thể được quy về chữ bội 背 có nghĩa là trái, là phản. Và đãi bội trở thành đãi bôi có thể là do ảnh hưởng của bãi buôi, một từ “láy” đồng nghĩa với đãi bôi, vẫn còn lưu hành trong phương ngữ Nam Bộ ngày nay. Tuy nhiên, điều này không lấy gì làm chắc chắn. Điều chắc chắn là cách giải thích của ông Hoàng Văn Hành rõ ràng là một cách giải thích không ổn.
§ 540. Kiến thức ngày nay, số 304, ngày 10-1 -1999
ĐỘC GIẢ: “Cáo chết ba năm quay đầu về núi” hay “Cóc chết ba năm quay đầu về núi”?
AN CHI: Từ điển thành ngữ Việt Nam của Viện Ngôn ngữ học do Nguyễn Như Ý chủ biên (Nxb. Văn hóa Hà Nội, 1993) có ghi nhận câu “Cóc ba năm lại quay đầu về núi” rồi dẫn cho nghĩa 1 một thí dụ trích từ báo Tiền phong ngày 1-7-1997 và nêu cho nghĩa 2 một thí dụ tự đặt ra. Nhưng câu nói dân gian chính xác lại là “Cáo chết ba năm quay đầu về núi” và đây là một văn bản có lai có lịch hẳn hoi chứ đâu có phải ai muốn đặt ra hoặc bóp méo thế nào cũng được. Câu này bắt nguồn ở thành ngữ tiếng Hán quy chính thú khâu (trở về đúng hướng núi), thường nói tắt thành thú khâu 首丘 (= hướng về phía gò, phía núi).
Quy chính thú khâu thực chất là một lối dụng điển vì thư tịch Trung Hoa xưa từng nói đến chuyện này. Thiên “Đàn Cung” trong sách Lễ ký viết: “Người đời xưa có lời nói rằng cáo chết hướng về đúng gò; ấy là nhân vậy” (Cổ chi nhân hữu ngôn viết: Hồ tử chính khâu thú; nhân dã). Bài “Ai Dĩnh” trong phần “Cửu chương” của Sở từ có câu “Cáo chết ắt quay về phía núi” (Hồ tử tất thú khâu). Truyện Khấu Vinh trong Hậu Hán thư có câu “Không bằng cái tình của con cáo chết mà (còn biết) hướng về núi” (Bất thắng hồ tử thú khâu chi tình). Thiên “Thuyết lâm” trong sách Hoài Nam Tử có câu “Chim bay về quê, thỏ chạy về hang, cáo chết hướng gò” (Điểu phi phản hương, thố tẩu quy quật, hồ tử thú khâu). Chữ nghĩa rành rành như thế thì sao lại có thể tùy tiện mà đổi cáo thành “cóc” được?
§ 541. Kiến thức ngày nay, số 305, ngày 20-1 -1999
ĐỘC GIẢ: Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, bài thơ đầu tiên là một bài thủ vĩ ngâm mà câu đầu và câu cuối là:
“Góc thành Nam lều một gian”.
Xin cho biết thành Nam là thành nào, ở đâu, có cấu trúc ra sao, và bài thơ này có thể đã được Nguyễn Trãi sáng tác trong hoàn cảnh nào.
AN CHI: Sổ tay địa danh Việt Nam của Đinh Xuân Vịnh (Nxb. Lao động, 1996) đã khẳng định rằng thành Nam là “thành do nhà Trần đắp ở phía Nam sông Cả, ở thôn Trầm Hương, huyện Tương Dương, phủ Tương Dương, tỉnh Nghệ An”. Bùi Văn Nguyên cũng khẳng định rằng thành Nam là tên gọi dân gian của thành Trà Lung ở phía Nam sông Cả*. Trong một báo cáo khoa học nhan đề “Một số tài liệu về cuộc kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi vừa mới tìm được ở Nghệ – Tĩnh” in trong Thông báo khoa học, tập I (Sử học) của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (Nxb. Giáo dục, 1963), Trần Thanh Tâm cũng đã khẳng định như thế. Tác giả này viết:
“Ở đây, (tại 4 huyện miền núi Nghệ An, đặc biệt là miền Tương-dương tức Trà-lân cũ – AC) với sự cộng tác với nhiều cụ phụ lão nhiệt tình, chúng tôi kê được hơn 32 di tích thành cổ. Trong số 32 cổ thành này, chỉ có Thành Nam ở vào giữa phủ là lớn nhất và ở vào địa thế quan trọng nhất: Thành Nam xưa là một cổ thành do nhà Trần lập nên để trấn trị hạt này và cả sau này nữa đây vẫn là nơi phủ lỵ của phủ Tương-dương cũ dùng làm nơi đày ải một số người phạm tội (Phùng Khắc Khoan bị đày đến đây vào khoảng năm 1560) (…) Lý do chúng tôi cho thành Trà-long là thành Nam như sau:
“1. Thành Nam ngày nay ở vùng trung tâm phủ Trà-long cũ, có đồng bằng rộng nhất và là một di tích ở vùng này. Trà-long tức là đất Mật-châu (hay Kiềm-châu) nhà Trần là nơi mà trước đấy hơn một thế kỷ, Trần Hiến-tông đã đóng quân và tạc bia vào đá. Theo bia này, “hoàng đế đóng ngự doanh ở cánh đồng Cự-đồn thuộc Mật-châu…” mà cánh đồng Cự-đồn chính là thung lũng thành Nam ngày nay (…)
“2. Thành Nam nằm trên ngã tư của hai thung lũng chạy từ Tây xuống Đông và từ Nam lên Bắc gần ngã ba sông Lam và sông Con. Chính đây là vị trí cơ động của hai con đường đi lên Ai-lao và con đường “Thượng Đạo” vào Nam mà các triều Lý, Trần đã dùng để hành quân vào Nam đánh Chiêm-thành hoặc Bồn-man ngày trước (…)
“3. Như trên đã nói, thành Nam rất kiên cố. Thành xây theo hình chữ A, chu vi chừng 4 cây số; phía đông bắc còn lại một thành dài trên một cây số rưỡi, chiều cao của thành có nơi đến 15 thước, chưa kể nữ thành ở trên cao gần 3 thước có trồng tre dày đặc. Trong thành, các khu trại cũng có thành nhỏ bao bọc xung quanh. Trong các tiểu thành ấy còn di tích nhiều nền trại và hầm hào khá kiên cố. Trong một tiểu thành ở trung tâm, chúng tôi tìm thấy có một hầm xây bằng một loại gạch rất lớn có lỗ thông ra ngoài dài đến 5 thước. Ngoài thành về phía tây bắc có một con đường đá rộng độ 5 thước, xếp toàn bằng đá bằng mặt chạy dài gần 40 cây số về phía tây bắc từ thành Nam qua Bù Mông Mương lên đến Hội-nguyên, Nga-my (…)
“4. Tại sao thành Trà-long ngày trước gọi là thành Nam? Vấn đề này sách Nghệ-an chí chú thích: “Vì thành ở phía Nam sông Lớn nên gọi là thành Nam”. (…) Thực tế thành Nam ở về Bắc ngạn sông Lam (…) Về tên thành Nam, có thể có hai giả thuyết: Thành Nam chính là phủ lỵ phủ Trà-long ở đất Nam-nhung nên gọi là thành Nam. Hoặc khi quân Lê Lợi chiếm được Trà-long, quân Minh gọi thành ấy là thành quân Nam, cũng như “Việt Lãm xuân thu” thường gọi căn cứ của Lê Lợi là Nam trại. Về sau, hoặc ta dùng quen theo thông tục hoặc chép lại các tài liệu nhà Minh nên tên “Thành Nam” trở thành một tên chỉ thành Trà-long ngày trước”. (Bđd, tr. 54 – 55).
Tên thành, dù là tên dân dã, đã rành mạch như thế rồi, thì không thể dịch, như Paul Schneider đã làm, rằng “Góc thành Nam lều một gian” là
“Au coin sud de la citadelle une cabane”*
mà phải dịch thành “Dans un coin de la citadelle du Sud”. Sở dĩ Schneider đã dịch như trên (cho rằng đây là góc phía Nam của thành) là vì ông tin theo lời của Trần Khắc Kiệm cho rằng Nguyễn Trãi đã làm bài thơ này khi ông bị quân Minh giam cầm tại thành Đông Quan (Xem sđd, tr. 49). Chúng tôi cho rằng lời ghi chép của Trần Khắc Kiệm cần phải được kiểm chứng một cách cẩn thận và nghiêm túc vì nó không đáng tin. Chúng tôi rất nhất trí với Đào Duy Anh khi vị học giả này cho rằng đây là bài thơ làm “trong lúc ông (Nguyễn Trãi – AC) bị ruồng bỏ sau khi bị giam vì bị nghi có liên quan với án Trần Nguyên Hãn, tuy được tha và vẫn giữ chức quan nhưng không được làm việc gì (…) Trong thơ đã có vẻ chán chường lắm, không thể là giọng thơ của một người thanh niên 30 tuổi còn đầy tráng khí (lúc bị giam lỏng ở Đông Quan) mới gặp khó khăn nhất thời. Vả chăng nếu là bị giam lỏng ở Đông-quan thì không thể có câu: Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải”.*
Thậm chí, Schneider còn đi xa hơn mà cho rằng phải chăng câu 5 (Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá) cần được hiểu là: “Hãy chờ đến khi tập hợp được các phương tiện cần thiết để phát động cuộc nổi dậy” (Sđd, tr. 51). Cuối cùng, ông cho rằng ở đây chúng ta đang đứng trước một bộ mật mã mà chúng ta không nắm được chìa khóa cho nên những ý kiến trên đây dù sao cũng chỉ là những điều giả định mà thôi (Xem sđd, tr. 51). Chúng tôi thì lạm phép cho rằng ngôn từ của Nguyễn Trãi ở đây chẳng có gì là bí mật cả vì cái bí mật chỉ nằm ở những khía cạnh còn chưa được biết rõ trong cuộc đời của tác giả mà thôi.
§ 542. Kiến thức ngày nay, số 307, ngày 20-2-1999
ĐỘC GIẢ: Trước đây, trên Kiến thức ngày nay, số 219, ông đã giải đáp về từ “Công nguyên” rồi khẳng định cách diễn đạt “sau Công nguyên” là một lối nói “vô lý” và “vô nghĩa”, rằng nói “sau Công nguyên” thì e là… không giống ai chăng? Tôi rất tán thành cách giải đáp đó. Nay tôi vừa đọc báo Sài Gòn giải phóng thứ bảy, mục “Bạn đọc đặt câu hỏi” do ông Hoàng Anh phụ trách thì thấy tác giả này lại phản bác cách giải đáp của ông mà khẳng định rằng “sau Công nguyên” là một lối nói “hoàn toàn chính xác”, rằng tuy cách nói đó “không giống” với cách nói của người Pháp nhưng nó vẫn có “lý” và có “nghĩa”. Tôi rất hoang mang.
AN CHI: Lời giải đáp của tác giả Hoàng Anh trên báo Sài Gòn giải phóng thứ bảy có những chỗ nhầm lẫn sau đây.
1. Ông Hoàng Anh viết: “Kỷ nguyên Công giáo tính từ năm 1, năm được xem là năm sinh của chúa Jésus”.
Thực ra, Công nguyên, mà tác giả đã suy diễn thành “kỷ nguyên Công giáo”, tuyệt nhiên không có liên quan đến năm ra đời của bất cứ tôn giáo nào, càng không phải là của Công giáo vì nó chỉ liên quan đến sự ra đời của một nhân vật là Chúa Jesus (như chính tác giả đã khẳng định), tức Đấng Ky Tô, mà tiếng Pháp và tiếng Anh là Christ. Do đó, kỷ nguyên mà tác giả Hoàng Anh muốn nói đến chính là kỷ nguyên Ky Tô, tiếng Pháp là ère chrétienne còn tiếng Anh là Christian Era. Ban Giáo sư Đại chủng viện Bùi Chu cũng đã sai khi dịch ère chrétienne thành “kỷ nguyên Ky Tô giáo” trong Danh-từ Thần-học và Triết-học (Trí-Đức thư-xã, Hà Nội, 1953). Tuy các từ chrétien (Pháp) và Christian (Anh) có nghĩa hiện hành là “liên quan đến Ky Tô giáo” nhưng đây chỉ là nghĩa phái sinh từ cái nghĩa gốc không được nhắc đến trong các quyển từ điển mà thôi. Nghĩa gốc đó là: liên quan đến Ky Tô (Christ). Xin nhớ rằng chrétien và Christian đều bắt nguồn từ tính từ tiếng La Tinh christianus; tính từ này về phần nó lại phái sinh từ Christus (= Christ = Ky Tô). Chính vì thế mà mặc dù từ ngữ cứ là ère chrétienne và Christian Era nhưng không có bất cứ quyển từ điển nào lại giảng rằng đó là kỷ nguyên tính từ năm ra đời của Ky Tô giáo cả. Tất cả đều giảng rằng đó là kỷ nguyên tính từ năm Ky Tô giáng sinh. Huống chi năm 1 (của) Công nguyên không phải là năm ra đời của Ky Tô giáo vì tôn giáo này chỉ xuất hiện từ giữa thế kỷ I của Công nguyên, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 219.
Vậy kỷ nguyên đang xét là kỷ nguyên Ky Tô chứ không phải là “kỷ nguyên Ky Tô giáo”, càng không phải là “kỷ nguyên Công giáo”. Khi gọi kỷ nguyên này là “kỷ nguyên Công giáo”, tác giả Hoàng Anh còn phạm một sai lầm rất đáng tiếc về mặt tôn giáo nữa. Kỷ nguyên Ky Tô là một khái niệm chung trong tâm thức của toàn bộ các tín đồ Ky Tô giáo (Chrétiens) trên toàn thế giới, bất kể họ là tín đồ Công giáo (Catholiques), tín đồ đạo Tin lành (Protestants) hay tín đồ Chính giáo (Orthodoxes). Nay ông Hoàng Anh gọi đó là “kỷ nguyên Công giáo” thì liệu các tín đồ đạo Tin lành và các tín đồ Chính giáo sẽ suy nghĩ ra sao? Cũng rất có thể ông đã dựa vào một quyển từ điển nào đó để gọi như thế cho chắc ăn? Chẳng hạn Từ điển Pháp – Việt của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam do Lê Khả Kế làm tổng biên tập (Agence de Coopération Culturelle et Technique, 1981) cũng đã đối dịch – tất nhiên là dịch sai – ère chrétienne là “kỷ nguyên Công giáo”. Nhưng như có lần đã nói tại Chuyện Đông chuyện Tây, “người ta chỉ nên theo cái đúng của từ điển chứ không thể theo cái sai của nó được, vì chẳng có ai dám quả quyết rằng đã là từ điển thì không bao giờ sai”*. Và trên đây không phải là cái sai duy nhất của quyển từ điển đó. Ở đây, chỉ xin nêu thêm một thí dụ có liên quan đến tôn giáo mà thôi: “Catholicisme: đạo Thiên Chúa”. Đến thập kỷ 1980 mà chưa phân biệt được Công giáo (Catholicisme) với đạo Thiên Chúa (Christianisme) thì…
2. Ông Hoàng Anh viết: “Từ kỷ nguyên còn một nghĩa thứ hai: “Kỷ nguyên là năm bắt đầu định dùng một thứ lịch nào” (Hoàng Xuân Hãn, Đồ biểu đối chiếu lịch xưa và Công lịch, Tập san Sử-Địa (Sài Gòn), số 17 – 18, quý 1 và 2-1970, tr. 199). Các từ điển lớn của thế giới đều ghi nhận nghĩa này.
Ví dụ: Ère = point de départ d’une chronologie particulière (Từ điển Petit Robert, 1970, tr. 611; Từ điển Petit Larousse illustré, 1993, tr. 402); Era = an event or date that marks the beginning of a new or important period in the history of something (Từ điển Webster, 1996, tr. 460) v.v..”.
Sự viện dẫn trên đây của ông Hoàng Anh kể ra đã là công phu. Chỉ tiếc có một điều là cái nghĩa trong các từ điển lớn của thế giới mà tác giả đã dẫn ra thì chỉ là của riêng danh từ ère trong tiếng Pháp và era trong tiếng Anh. Cũng thế, cái nghĩa mà Hoàng Xuân Hãn đã nêu rồi tác giả đã dẫn chỉ là riêng của danh từ kỷ nguyên trong tiếng Hán mà thôi. Danh từ kỷ nguyên trong tiếng Việt toàn dân hiện đại không nhất thiết phải có mà cũng chưa bao giờ có cái nghĩa đó của tiếng Pháp “ère”, tiếng Anh “era” và tiếng Hán “kỷ nguyên”. Nó chỉ có nghĩa là “một chuỗi dài năm tháng mở đầu bằng một sự kiện được lựa chọn theo quy ước”, như chúng tôi đã nêu trên Kiến thức ngày nay, số 219 mà thôi. Chính nghĩa này và cũng chỉ có nghĩa này mới được ghi nhận trong hai quyển từ điển thuộc loại thông dụng nhất hiện nay là Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Hà Nội, 1967) và Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên. Xin nhấn mạnh rằng không phải bất cứ từ Hán nào khi đi vào tiếng Việt cũng đều mang theo cái nghĩa hoặc tất cả các nghĩa mà nó vốn có trong tiếng Hán. Đây là một sự thật mà người ta đã phát hiện từ lâu. Cũng như có phải bất cứ danh từ khoa học nào do Hoàng Xuân Hãn đề xướng đều dễ dàng được chấp nhận rồi trở thành thông dụng đâu!
Tóm lại, cái nghĩa mà ông Hoàng Anh đã dựa vào Hoàng Xuân Hãn và các quyển từ điển lớn của thế giới để gán cho danh từ kỷ nguyên trong tiếng Việt toàn dân hiện đại chỉ là một nghĩa ảo. Huống chi, nếu đây là có một cái nghĩa thực đi nữa thì cái “kỷ nguyên” được nói đến cũng hoàn toàn không phải là năm ra đời của “Công giáo”! Vì vậy nên lời giảng dành cho từ Công nguyên trong Từ điển bách khoa Việt Nam và Từ điển Hoàng Phê – mà ông Hoàng Anh cho là “hoàn toàn chính xác” – vẫn cứ là những lời giảng sai hiển nhiên.
Xin nói kỹ thêm rằng trớ trêu có một điều là trong tiếng Hán hiện đại, nơi mà danh từ kỷ nguyên hẳn hoi đang còn có cái nghĩa đặc biệt mà ông Hoàng Anh đã dẫn từ Hoàng Xuân Hãn (“năm bắt đầu định [không phải là “định” vì đã là thiệt thọ – AC] dùng một thứ lịch nào”), thì người ta cũng chẳng bao giờ nói và viết “Công nguyên hậu” cả. Để chỉ “năm X trước Công nguyên”, người ta viết “Công nguyên tiền X niên”; còn để chỉ “năm Y (của) Công nguyên” – mà ông Hoàng Anh chủ trương là có thể diễn đạt thành “năm Y sau Công nguyên”! – thì người ta chỉ nói “Công nguyên Y niên” mà thôi chứ tuyệt đối không viết “Công nguyên hậu (!) Y niên.” Chữ sau (= hậu) ở đây xem ra không phải là một chữ may mắn!
3. Ông Hoàng Anh viết: “Kỷ nguyên Công giáo gọi gọn lại là Công nguyên”.
Ở đây, tác giả cũng nhầm nốt. Trước hết, như đã nói, kỷ nguyên đang xét không phải là “kỷ nguyên Công giáo”(!). Thứ đến – và đây là điều chủ yếu – Công nguyên chẳng qua là một từ Hán Việt mượn “nguyên khối” trong đó công có nghĩa là “phổ biến trên quốc tế, trên thế giới”. Hiện đại Hán ngữ từ điển của Phòng biên tập từ điển thuộc Sở nghiên cứu ngôn ngữ của Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (Bắc Kinh, 1992) đã giảng: – gōng 公 (công) là thuộc về quốc tế (“thuộc vu quốc tế gian đích”); – gōng lì 公历 (công lịch) là lịch pháp thông dụng trên thế giới hiện nay (“hiện tại thế giới thông dụng đích lịch pháp”); gōngyuán 公元 (công nguyên) là kỷ nguyên công lịch quốc tế thông dụng (“quốc tế thông dụng đích công lịch đích kỷ nguyên”). Chữ nghĩa đã rành mạch như thế thì làm sao có thể nói rằng Công nguyên là “kỷ nguyên Công giáo gọi gọn lại” được?
Trở lên là những điểm sai căn bản trong lập luận của ông Hoàng Anh. Vì những điểm sai đó mà lập luận này không thể đứng vững được. Rốt cuộc, chúng tôi vẫn giữ nguyên lời khẳng định của mình, rằng “sau Công nguyên” là một lối nói vô lý và vô nghĩa.
§ 543. Kiến thức ngày nay, số 307, ngày 20-2-1999
ĐỘC GIẢ: “Hoa đàm đuốc tuệ”: hoa đàm là hoa gì?
AN CHI: Hoa đàm ở đây là hoa ưu đàm, mà tên đầy đủ là ưu đàm ba la hoặc ưu bát la, phiên âm từ tiếng Sanskrit udumbara. Tương truyền hoa này mấy ngàn năm mới nở một lần, nhằm đúng dịp có một vị Phật ra đời; vì vậy mà còn gọi là linh thụy hoa.
§ 544. Kiến thức ngày nay, số 307, ngày 20-2-1999
ĐỘC GIẢ: “Huyên thiên”, “huyên thuyên” và “luyên thuyên”: từ nào đúng nhất?
AN CHI: Từ điển từ láy tiếng Việt do Hoàng Văn Hành chủ biên (Hà Nội, 1994) chỉ ghi nhận “luyên thuyên” mà không có “huyên thuyên” (còn “huyên thiên” không được xem là từ láy). Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên chỉ ghi nhận “huyên thiên” và “huyên thuyên” nhưng chỉ chính thức giảng từ thứ hai mà thôi. Còn Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên thì chỉ ghi nhận có “huyên thiên” (mà không có hai từ kia).
Huyên thiên là hình thức gốc – nên tất nhiên là đúng nhất – mà nhiều người vẫn còn nhận ra gốc Hán và cái nghĩa gốc đích thực của nó chẳng qua là “rùm trời” (Cười nói huyên thiên = cười nói rùm trời). Do xu hướng “láy hóa” nên huyên thiên mới trở thành huyên thuyên còn luyên thuyên chẳng qua chỉ là một biến thể khẩu ngữ thô thiển của huyên thuyên mà thôi.
§ 545. Kiến thức ngày nay, số 308, ngày 1-3-1999
Bổ sung cho các câu trả lời về mấy chữ xích địa (Kiến thức ngày nay, số 284, 293) và thung thanh (Kiến thức ngày nay, số 293, 299, 303)
AN CHI: Chúng tôi đã đọc bài “Về hai câu đối đang thảo luận” đăng tại trang 24 – 26 của Kiến thức ngày nay, số 306 (Xuân Kỷ Mão). Xin có mấy ý kiến bổ sung cho Chuyện Đông chuyện Tây như sau:
Tác giả viết: “Về trường hợp xích địa (tấc đất)”, cụ Lãng Nhân cho là chỉ nấm mồ của Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, tôi cho là có lý. Câu đối do đó có ý vị bi phẫn, bi tráng. Nếu là xích (đỏ), trơ đất đỏ thì đất Hà Thành cũng nào có đỏ đâu, mà giảng là trơ lại đất trơ trọi, hoang vắng thì hơi gượng ép” (tr. 25 – 26).
Muốn biết đất Hà Thành lúc bấy giờ có đỏ, có trơ trọi, có hoang vắng hay không, tưởng phải đọc lại phần lịch sử có liên quan đến giai đoạn và sự việc đó. Và sau đây là những gì mà Phan Khoang đã viết:
“Quân Pháp cho ba chiếc pháo-hạm từ sông bắn lên thành kịch-liệt và cho súng đại-bác bắn cửa đông, cửa bắc, đốt cháy nhiều nơi. Bên ta, trên các bờ thành, mấy trăm khẩu thần-công nhất tề bắn ra. Nhưng súng Pháp bắn dữ-dội quá, trong thành kho thuốc súng phát hoả. Quân ta ra mấy cửa thành khác chạy trốn (…) Chiếm thành rồi, từ ngày mồng tám đến ngày mười ba, người Pháp tiếp-tục phá-hủy hết bờ thành, cửa thành và vứt hết súng đại-bác của ta xuống rãnh”.*
Một cảnh tượng như thế mà lại không trơ trọi, hoang vắng? Trước một cảnh tượng như thế mà nói trơ trọi, hoang vắng thì lại là “hơi gượng ép”? Và một cảnh tượng như thế thì không “bi phẫn”, “bi tráng” mà phải là nấm mồ của Hoàng Diệu (hoặc Nguyễn Tri Phương) thì mới “bi tráng”, “bi phẫn”? Quả tình chúng tôi chưa dám tin rằng cách hiểu của mình lại không đúng với hàm ý mà bậc đại khoa Vũ Phạm Hàm muốn diễn đạt. Nhưng trên đây dù sao cũng chỉ mới là một tầng nghĩa của ngôn từ mà thôi. Còn một tầng nữa sát với cái nghĩa thông thường nhất của chữ xích là “đỏ” mà ai ai cũng biết. Tác giả cho rằng “đất của Hà Thành cũng nào có đỏ đâu”. Vâng, đất của Hà Thành đâu có đỏ vì đó có phải là loại đất đỏ thích hợp với việc trồng cây cà phê hoặc cây cao su như ở Tây Nguyên đâu! Nhưng đất đỏ (xích địa) ở đây là một hình tượng văn học chứ có phải là những từ ngữ đơn lẻ, rời rạc, “trơ trọi” đâu mà bảo “đất của Hà Thành không đỏ”? Cứ đọc lại đoạn sử trên kia của Phan Khoang thì sẽ thấy nó có đỏ hay không. Ta và giặc giao chiến bằng đại bác của giặc từ dưới sông bắn lên và bằng hàng trăm khẩu thần công của ta từ trên thành bắn xuống. Kho thuốc súng trong thành của ta phát hoả. Vật liệu tất nhiên bốc cháy rồi rơi xuống phủ lên mặt đất, tàn lửa đỏ bay khắp nơi rồi rơi xuống phủ lên mặt đất, cỏ và các loại cây thấp trong thành bốc cháy làm cho lửa lan đầy mặt đất, v.v.. Thế mà đất không đỏ ư? Không rực lửa ư? Tưởng cũng cần nhấn mạnh rằng trong giáp cốt văn và kim văn thì tự hình của chữ xích 赤 (= đỏ) gồm có chữ đại 大 (= to) và chữ hỏa 火 (= lửa). Vậy xích có nghĩa gốc là lửa (cháy) to đấy.
Trở lên là nói về hai chữ xích địa. Còn về hai chữ thung thanh thì tác giả viết: “Hiểu “thung thanh” mới là cách hiểu thông thường. Còn hiểu “thu thanh” không phải là không hay, không sâu. “Thu thanh” không phải trong “Thu thanh phú” của Âu Dương Tu hay trong “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư thi sĩ lãng mạn. Mùa thu thuộc hành kim, là mùa ngày xưa người ta chém tử tội. Thu thuộc kim, mà kim là kim khí, là vũ khí, là chiến trận…” cho nên mới nghe “tiếng thu” tưởng đâu là tiếng buồn thương, ủy mị, sầu não, hóa ra là tiếng của chiến trận (và có thể bao gồm cả tiếng đóng cọc gỗ ngăn sông đánh chìm thuyền giặc vào đấy nữa cũng được”. (tr. 26)
Thật ra, sự uyên bác của tác giả khi ông phân tích “mùa thu thuộc hành kim” đã dẫn ông đi xa đến mức thoát ly hẳn sự thật lịch sử. Hễ nói đến trận Bạch Đằng thì không ai lại không nhớ đến những chiếc cọc của quân ta ở lòng sông này, làm cho thuyền giặc va vào, vướng vào mà lật đổ hoặc chìm đắm. Điều này đã trở thành một đặc trưng của trận Bạch Đằng. Dẫn chứng hùng hồn nhất cho đặc trưng này là đoạn trích dẫn sau đây, mà ông Nguyễn Quảng Tuân đã viết trong bài “Thu thanh hay thung thanh”:
“Hai chữ thung thanh đã được tìm thấy trong bài văn tế bằng chữ Hán thường đọc ở các đền thờ Trần Hưng Đạo ngày 28 tháng 8 Âm lịch mỗi năm:
Sinh tiền bất hủ chi tâm, giang thung thu ngật,
Tử hậu lẫm như chi khí, hạp kiếm lôi minh.
Dịch nghĩa:
Khi còn sống, trái tim bất hủ, cọc giữa dòng sừng sững dưới trời thu.
Lúc mất rồi, lẫm liệt khí thiêng, kiếm trong tráp khua vang như sấm dậy.
Hai chữ thung thanh ấy lại được tìm thấy trong một đôi câu đối khác của ông Nguyễn Văn Bình, cử nhân.
Đằng giang vi nhị thứ chi chiến thắng trường, tang hải bất vi thung thực tích,
Vạn Lĩnh thị thiên thu chi linh ứng địa, phong lôi trường hưởng kiếm minh thanh.
Dịch nghĩa:
Đằng Giang là nơi hai lần chiến thắng, cuộc tang hải không làm mất được dấu vết của những chiếc cọc.
Vạn Lĩnh là đất nghìn thu linh ứng, gió và sấm còn vang mãi tiếng gươm.”*
Trở lên là lời của ông Nguyễn Quảng Tuân và chỉ cần căn cứ vào bấy nhiêu lời lẽ thì có thể thấy rằng thung thanh (tiếng cọc) đối với kiếm khí (hơi gươm) là hợp lý vì hoàn toàn phù hợp với sự thật lịch sử.
Tác giả có nói rằng bậc đại khoa Vũ Phạm Hàm viết thu thanh (vì mùa thu thuộc hành kim) mà không viết thung thanh là “chơi chữ trong chơi chữ” (tr. 25).
Nếu sự thật quả đúng là Vũ Phạm Hàm dùng mùa thu để chỉ “kim khí”, vũ khí “chiến trận”, v.v., thì rõ ràng là bậc đại khoa đó là chơi chữ “ngoài” chơi chữ rồi đấy. Mùa thu thuộc hành kim thì chỉ có thể dùng kim để chỉ mùa thu chứ sao lại có thể dùng “thu” để chỉ kim khí? Lý do rất đơn giản: thuộc về hành kim là đặc trưng của mùa thu chứ mùa thu có phải là đặc trưng của hành kim đâu!
Tác giả viết: “Nhưng có một điều có thể chắc: lúc cụ Thám hoa Vũ Phạm Hàm làm đôi câu đối trên và cung tiến vào đền thì các cụ Nghè, cụ Cử, cụ Tú còn đầy rẫy, người “hay chữ” còn đầy rẫy […] đời nào họ bỏ qua một cái lỗi “nghịch thường”, “dị hợm” như thế. (tr. 26). Điều này thì lại không chắc chắn vì chẳng có ai biết được “sự cố” đã xảy ra như thế nào. Ngày nay bằng A, bằng B, bằng C nở rộ như hoa mùa xuân mà vẫn có một trường đại học thuộc Thành phố Hồ Chí Minh dịch tên của mình sang tiếng Anh là “Ho Chi Minh University” chứ không dịch thành Ho Chi Minh City University. Thế nhưng cái cách dịch sai trái ấy vẫn tồn tại dài dài mà chẳng thấy ai lên tiếng. Không biết sau khi đập phá để xây lại xong thì nó sẽ mang tên như thế nào bằng tiếng Ăng-lê?
Trở lên là ý kiến mà chúng tôi muốn bổ sung cho mục Chuyện Đông chuyện Tây sau khi đọc bài đã dẫn.
§ 546. Kiến thức ngày nay, số 308, ngày 1-3-1999
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguyên bài văn “Tầm ẩn giả bất ngộ” của Giả Đảo và bản dịch bài thơ này của Tản Đà.
AN CHI: Nguyên văn bài thơ này như sau:
Tùng hạ vấn đồng tử
Ngôn sư thái dược khứ.
Chỉ tại thử sơn trung,
Vân thâm bất tri xứ.
Sau đây là bản dịch của Tản Đà:
Tìm nhà ẩn dật không gặp
Gốc thông hỏi chú học trò,
Rằng: “Thầy hái thuốc lò mò đi xa”.
Chỉ trong dãy núi đây mà
Mây che mù mịt biết là nơi nao?*
§ 547. Kiến thức ngày nay, số 309, ngày 10-3-1999
ĐỘC GIẢ: Tại sao người mình hay gọi tháng 1 là tháng Giêng và tháng 12 là tháng Chạp?
AN CHI: Tháng Giêng và tháng Chạp là những cách gọi tên tháng bắt nguồn từ tiếng Hán. Người Trung Hoa gọi tháng Giêng là Chinh nguyệt 正月 và tháng 12 là Lạp nguyệt 臘月.
Giêng là âm xưa của chữ chinh 正 mà nhiều người, kể cả từ điển gia (như Đào Duy Anh trong Hán-Việt từ-điển) đã đọc nhầm thành chính. Thực ra, chữ 正 có hai âm: với âm chính, Từ hải đã ghi cho nó tất cả là 22 nghĩa còn với âm chinh thì quyển từ điển này chỉ ghi cho nó có 2 nghĩa mà nghĩa thứ nhất là “tháng đầu của năm” (“tuế chi thủ nguyệt”). Vậy Chinh nguyệt là tháng đầu tiên của một năm. Từ hải còn ghi rõ: “Đời Hạ lấy tháng đầu của mùa xuân làm tháng đầu năm; đời Ân lấy tháng cuối của mùa đông làm tháng đầu năm (còn) đời Chu thì lấy tháng giữa của mùa đông làm tháng đầu năm”. (“Hạ dĩ mạnh xuân nguyệt vi chinh; Ân dĩ quý đông nguyệt vi chinh; Chu dĩ trọng đông nguyệt vi chinh”). Tại mục chinh sóc 正朔 (mà một số quyển từ điển phiên là chính sóc), Từ hải còn ghi rõ thêm rằng “Từ đời Hán Vũ Đế trở về sau, cho đến cuối đời Thanh, đều theo chế độ của nhà Hạ (nghĩa là lấy tháng đầu của mùa xuân làm tháng Giêng – AC)”(“Tự Hán Vũ Đế dĩ hậu, trực chí Thanh mạt, giai tùng Hạ chế”).
Sự tương ứng ngữ âm giêng ~ chinh có thể được chứng minh như sau. Trước hết, về phần vần thì giêng ~ chinh cũng giống như: – (tứ) chiếng ~ (tứ) chính 正 (= bốn phương hướng chính); – chiêng (cồng) ~ chinh 鉦; – kiêng (kỵ) ~ kinh (hãi); (cúng) kiếng ~ kính (phục); – tiếng (nói) ~ (âm) thinh (thanh); thiêng liêng ~ tinh linh 精靈; v.v.. Còn về phụ âm đầu thì giêng ~chinh cũng giống như: – giấy ~ chỉ; giây (bẩn) ~ chi 脂 (bôi trét); – (nòi) giống ~ chủng (tộc); v.v..
Tóm lại, giêng ~ chinh biểu hiện sự tương ứng giữa âm xưa và âm nay của một yếu tố Việt gốc Hán. Âm xưa đó thường được gọi là Cổ Hán Việt và riêng về chữ giêng thì có thể xem thêm ở: Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Nxb. Giáo dục, 1995, tr. 67). Vậy tháng Giêng là do Chinh nguyệt mà ra.
Còn tháng Chạp thì lại bắt nguồn từ hai chữ Lạp nguyệt. Riêng về chữ Chạp thì chúng tôi đã có nói đến trong một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây (Kiến thức ngày nay, số 295). Nhưng để cho câu trả lời này được hoàn chỉnh, chúng tôi xin nói lại rồi nói thêm đôi lời như sau. Lạp 臘 là lễ tế thần vào dịp cuối năm nên tháng cuối năm (tức tháng 12) còn được gọi là Lạp nguyệt, mà tiếng Việt là tháng Chạp. Giống như giêng là âm xưa của chinh, chạp là âm xưa của lạp và mối quan hệ phụ âm đầu ch ~ l còn được chứng minh bằng một số trường hợp khác như: – chàng (đối với nàng) ~ lang 郎 (mà âm xưa hơn là làng); – (màu) chàm ~ lam (cây chàm); – chệch (choạc) ~ lịch (lạc); v.v.. Xin nói rõ thêm là có ý kiến cho rằng hai từ lang và lam là do tiếng Hán đã mượn từ một ngôn ngữ khác ở phương Nam, có thể là của ngôn ngữ Tày – Thái. Nhưng cho dù điều này có đúng đi nữa thì chúng tôi vẫn cho rằng chàng và chàm là do tiếng Việt mượn lại của tiếng Hán sau khi tiếng Hán đã mượn hai từ này ở ngôn ngữ kia.
Tóm lại sở dĩ người mình hay gọi tháng 1 là tháng Giêng và tháng 12 là tháng Chạp là vì ta đã mượn những cách gọi tên đó từ tiếng Hán như đã chứng minh ở trên.
§ 548. Kiến thức ngày nay, số 309, ngày 10-3-1999
ĐỘC GIẢ: “Sui gia” và “thông gia” có khác nhau hay không và nếu khác thì khác nhau ở chỗ nào?
AN CHI: Về mặt ngữ nghĩa thì sui gia không khác thông gia. Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức, Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Hà Nội, 1967), Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên, Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên đều giảng sui gia là “thông gia”. Sự khác nhau giữa hai từ là ở chỗ sui gia thuộc về phương ngữ miền Nam còn thông gia thuộc về phương ngữ miền Bắc và hiện nay thì trong tiếng Việt văn học và tiếng Việt toàn dân, sui gia đã bị đẩy xuống hàng tiếng địa phương mặc dù cho đến giữa thế kỷ XVII nó vẫn còn thông dụng tại Kẻ Chợ (của nước Đại Việt), tức Hà Nội ngày nay. Bằng chứng là sui gia đã được Alexandre de Rhodes ghi nhận và giải nghĩa trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh xuất bản tại Roma năm 1651, một quyển từ điển mà phần tiếng Việt đã được chính tác giả khẳng định là “tiếng Đông Kinh”, nghĩa là tiếng Kẻ Chợ lúc bấy giờ. Theo A. de Rhodes trong quyển từ điển đó thì hình thức trau chuốt hơn sui gia lại là su gia và, cũng theo tác giả lúc bấy giờ có người còn gọi su gia/sui gia là “gùn ghè” nữa.
Nếu sự ghi nhận trên đây của A. de Rhodes là chính xác, thì ngày nay gùn ghè, với nghĩa “sui gia”, “thông gia”, đã trở thành một từ cổ. Còn Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên thì có ghi nhận gùn ghè và giảng là “mon men để ve gái”. Vậy cũng xin nêu thêm như thế để ông tiện tham khảo.
§ 549. Kiến thức ngày nay, số 309, ngày 10-3-1999
ĐỘC GIẢ: Tôi đọc Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái) của Nhà xuất bản Kim Đồng (1998). Ở tập I, hồi thứ nhất, trang 21, có tên của cụ Bình Nam thượng tướng quân Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc. Trang 22 lại ghi: “Hoàng, Hoa, Nhật là chữ Việp”. Tôi tra Hán-Việt tự-điển của Thiều Chửu không thấy có chữ “Việp” Vậy chữ “Việp” trong Hán tự viết như thế nào?
AN CHI: Chúng tôi không có bản Hoàng Lê nhất thống chí của Nhà xuất bản Kim Đồng ở trong tay. Nhưng nếu đúng như ông đã ghi, thì nói rằng “Hoàng, Hoa, Nhật là chữ Việp” (tr. 22) là hoàn toàn sai vì chữ hoàng hoàn toàn không có liên quan gì đến chữ “việp” cả. Chính bản Hoàng Lê nhất thống chí (của Ngô gia văn phái) do Nguyễn Đức Vân và Kiều Thu Hoạch dịch, do Nhà xuất bản Văn học in lần thứ năm (1997) trong “Tủ sách văn học mọi nhà”, cũng có một câu sai y hệt như thế: “Hoàng, hoa, nhật là chữ Việp”(tập I, tr. 17). Thực ra, chữ “việp” chỉ có liên quan đến chữ nhật 日 và chữ hoa 華 vì nó chỉ gồm có hai chữ này mà thôi, như chính bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Kiều Thu Hoạch đã phân tích ở cước chú số 3 của trang 17 (nhưng trong cước chú này, chữ nhật (quốc ngữ) đã bị in sai thành “nhất”). Vậy, đúng như cước chú nói trên của Nguyễn Đức Vân và Kiều Thu Hoạch, tự hình của chữ việp là 曄. Chữ này có được ghi nhận trong Hán-Việt tự-điển của Thiều Chửu nhưng sở dĩ ông không tìm thấy là vì nó nằm ở phần phụ lục của bộ hỏa 火 mà lại được phiên âm thành diệp chứ không phải việp. Nó cũng còn được viết thành như trong Việt-Hán thông thoại tự-vị của Đỗ Văn Đáp (Nam Định, 1983) hoặc như trong nhiều quyển từ điển tiếng Hán.
Âm diệp mà Thiều Chửu đã cho là chính xác nhưng âm việp cũng không sai vì đây là một âm rất xưa, khi mà chữ đang xét còn thuộc thanh mẫu vân [v] như vẫn được ghi nhận trong sách Quảng vận. Còn diệp là âm mới hơn, sau khi chữ “việp” được nhập vào thanh mẫu dụ ([z], ghi bằng chữ quốc ngữ “d”) như đã được ghi nhận trong Từ nguyên hoặc Từ hải. Trong Hán-Việt tân từ điển, Nguyễn Quốc Hùng cũng lấy âm diệp mà phiên cho chữ đang xét.
§ 550. Kiến thức ngày nay, số 309, ngày 10-3-1999
ĐỘC GIẢ: Xem tiết mục sân khấu về ông Thủ Thiệm (người An Hòa) của tác giả Trường Giang trên TV, tôi thấy có chi tiết liên quan đến “ngầu pín”. Tên gia nhân của lý trưởng nói ông lý sai bắt lợn đực nhưng bà lý đổi lại mua lợn cái vì lợn cái mới có “ngầu pín”. Liệu có ngược đời không? Tôi nhớ hồi còn thanh niên (trước 1954) mình thường hay xuống phố Huế (Hà Nội) ăn phở ngầu pín (ngầu pín = hòn d… bò) ninh nhừ trong vạc to suốt ngày (vì vậy mà chiều tối mới có). Chẳng lẽ lợn cái lại có… ngầu pín? Vậy Trường Giang đúng hay năm tháng xa xôi đã làm cho ký ức của tôi mòn mỏi nên tôi đã nhớ nhầm?
AN CHI: Ông đã không nhớ nhầm đâu. Ngầu pín là tiếng Quảng Đông: ngầu là bò còn pín là… cái đó của con đực. Thời thanh niên của mình, sau 1954, vượt tuyến ra Bắc, chúng tôi cũng có ở Hà Nội một thời gian, lúc đang học tại Trường Sư phạm Trung cấp Trung ương (Cầu Giấy), khóa 1956 – 1959. Trong thời gian đó (chưa cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế tư nhân), chúng tôi cũng hay… bát phố Hà Nội và đi… ăn hàng. Tối thứ bảy, thường hay đến khu Đinh Liệt, Hàng Giày, Hàng Buồm,… lai rai. Ở Hàng Giày, phía gần Hàng Buồm, vẫn còn có một hiệu phở ngầu pín của người Hoa. Gút lại, Hà Nội sau 1954 vẫn còn có phở ngầu pín mà chính chúng tôi cũng đã nhiều lần… thưởng thức. Và chính vì trăm lần tai nghe chưa bằng một lần mắt thấy cho nên, cùng với ông, chúng tôi xin khẳng định rằng con lợn cái không thể có… cái đó của con bò đực được.
Còn Trường Giang có dụng ý gì khi đưa ra chi tiết mà ông tường thuật, hoặc tác giả đó thực sự không hề biết ngầu pín là cái gì mà cứ nói… bạt mạng, thì chúng tôi cũng phải dè dặt mà nói rằng mình không dám khẳng định, vì chúng tôi không được xem tiết mục sân khấu mà ông đã nhắc đến.
§ 551. Kiến thức ngày nay, số 310, ngày 20-3-1999
ĐỘC GIẢ: Quà là gì và đâu là từ nguyên của từ này? Sao chữ Nôm lại phiên là 菓? Người ta thường nói “quà quê”, “quà Hà Nội”, “ăn quà”, “mua quà”, v.v.. Vậy quà là lương thực, thực phẩm hay là gì?
AN CHI: Một quyển lịch, một cặp bút Pilot, một đĩa nhạc CD, một chiếc đồng hồ, v.v., tất cả những thứ đó đều có thể trở thành những món quà.
Nhưng xét theo cái nghĩa gốc của nó thì quà lại đúng là thực phẩm như cô đã gợi ý trong câu hỏi (còn những thí dụ mà chúng tôi đã nêu ra ở trên thì lại thuộc về nghĩa phái sinh). Do mối quan hệ đó giữa hai nghĩa nên Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên mới giảng từ quà theo nội dung và thứ tự như sau: “1. Thức mua để ăn thêm, ăn chơi ngoài bữa chính (nói khái quát): Quà sáng. Hay ăn quà vặt. 2. Vật tặng, biếu để tỏ lòng quan tâm, quý mến: Quà mừng đám cưới. Quà sinh nhật cho con”.
Xét theo từ nguyên thì quà là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 餜 mà âm Hán Việt là quả (vì thiết âm của nó là “cổ hỏa thiết” như đã cho trong Tập vận), có nghĩa là “bánh” (“bỉnh dã”). Tuy sự tương ứng thanh điệu giữa quà và quả là không bình thường (bình thường là: không – sắc – hỏi và huyền – nặng – ngã) nhưng trong lĩnh vực đang bàn thì sự tương ứng về âm đầu, âm giữa (giới âm), âm chính và âm cuối mới là trọng yếu mà ở đây, giữa quà và quả thì những yếu tố này là đồng nhất. Vậy tương ứng thanh điệu giữa quà và quả không phải là một ngoại lệ không thể chấp nhận được. Huống chi ngay trong chữ Nôm, người ta cũng mượn chữ quả 菓 để ghi âm “quà”. Ngoại lệ này có thể đã phát sinh do người ta muốn tránh hiện tượng đồng âm (tuyệt đối) giữa quả 菓 (= trái cây) và quả 餜 (= bánh). Nhưng sở dĩ ở đây người ta đã không theo quy tắc tương ứng thanh điệu bình thường (biến quả thành quá hoặc qua) là vì danh từ quả (= bánh) thường kết hợp với động từ ăn mà nếu nói “ăn quá” thì sẽ đồng âm với ăn quá có nghĩa là “ăn nhiều so với mức thông thường” còn nếu nói “ăn qua” thì lại đồng âm với ăn qua có nghĩa là ăn sơ sơ… Dù thế nào mặc lòng, sự tương ứng ngữ âm và ngữ nghĩa giữa quà với quả 餜 (= bánh) cũng dứt khoát là một hiện tượng không thể không kể đến nếu muốn tìm hiểu từ nguyên của từ quà.
Nhân tiện, xin nói qua về từ cáp vì từ này vẫn kết hợp với quà thành quà cáp. Ngày nay cáp đã trở thành một từ cổ và xét theo hiện tại thì nó là một hình vị không độc lập (vì luôn luôn “đi theo” quà) như rất nhiều yếu tố khác “đồng cảnh ngộ”. Nhưng từ nguyên của nó thì hãy còn hoàn toàn rõ ràng: cáp là một hình vị Hán Việt, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ * mà âm Hán Việt xưa là… cáp còn âm Hán Việt nay lại là giáp, cũng có nghĩa là “bánh”. Chữ này cũng còn viết thành * hoặc 餄. Chính vì nó đồng nghĩa với quà (đều = bánh) nên mới đi chung với từ này để tạo ra tổ hợp đẳng lập quà cáp trong đó nó đã bị nhiều người cho là vô nghĩa.
Tóm lại, quà có nghĩa gốc là bánh và nghĩa rộng là món “ăn chơi”. Rồi vì bánh và nhiều món “ăn chơi” thường được dùng để tặng, biếu cho người khác nên quà mới có nghĩa phái sinh là “vật tặng, biếu để tỏ lòng quan tâm quí mến: như đã cho trong Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên,
Sở dĩ chữ Nôm ghi từ quà bằng chữ 菓 (là một chữ Hán có nghĩa là trái cây) trước hết là để mượn âm quả của nó mà ghi âm “quà” (chữ Hán không có âm “quà”), sau đó có thể còn là vì dù sao thì quả 菓 (=trái cây) cũng có thể diễn đạt cái ý về một thứ có thể ăn được là quà (Chú ý: tuy không có bộ thảo đầu 艹, chữ quả 果 cũng có nghĩa là trái cây và đây mới đúng là chữ “quả” nguyên thủy). Từ quà không chỉ được ghi bằng chữ Nôm mà cô đã nêu. Nó còn được ghi bằng hai chữ Nôm khác nữa là * và *. Đây là những hình thanh tự trong đó chữ qua 瓜 là thanh phù (= dấu hiệu ghi âm) và phần còn lại bên trái là nghĩa phù (= dấu hiệu chỉ nghĩa). Trong chữ trước, nghĩa phù 貝, cũng là bộ thủ “bối”, dùng để chỉ ý “của hiếm, vật quý báu: liên quan đến nghĩa phái sinh của từ quà (vật dùng để tặng, biếu). Còn trong chữ sau thì nghĩa phù 食, cũng là bộ thủ “thực”, dùng để chỉ ý “thức ăn”, liên quan đến nghĩa gốc của từ quà (bánh, món ăn chơi).
§ 552. Kiến thức ngày nay, số 310, ngày 20-3-1999
ĐỘC GIẢ: Vừa rồi, tôi có nhờ Phòng tư vấn pháp luật số 1 đường Nguyễn Du (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) dịch một văn bản tiếng Hoa sang tiếng Việt. Trong văn bản tiếng Hoa, có một tên người viết bằng chữ 玟. Khi tôi nhận bản dịch bằng tiếng Việt, thì chữ này được phiên là mai. Tôi không đồng ý với âm “mai” vì đó là chữ văn. Và tôi giải thích rằng nếu là chữ mai thì phải được viết là 玫; chữ này có âm Bắc Kinh được phiên là: mèi. Còn chữ văn được viết là 玟, phiên âm Bắc Kinh là: wén. Chữ này có nghĩa là những đường vân trên viên ngọc.
Người dịch văn bản của Văn phòng trên cho là tôi nói sai và khẳng định rằng đó là chữ mai 玫 nhưng đã bị viết sai thành 玟. Vì vậy, trong bản dịch ra tiếng Việt, Văn phòng trên vẫn giữ nguyên âm “mai” chứ không chịu sửa thành văn theo ý kiến của tôi.
Tuy nhiều quyển từ điển Hán – Việt hoặc Việt – Hán thông thường không ghi nhận chữ 玟 nhưng tôi biết chắc là chữ này có tồn tại với nghĩa mà tôi đã nêu. Vậy xin hỏi ông An Chi: Chữ 玟 có tồn tại trong Hán tự và Hán ngữ hay không? Nếu có thì nó đã được ghi nhận trong những quyển từ điển nào của Trung Quốc và Việt Nam? Âm Bắc Kinh, âm Hán Việt và nghĩa của nó như thế nào?
AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 158, nhân câu trả lời về “tràng hạt môi khôi” (Chuyện Đông chuyện Tây), chúng tôi cũng đã có bàn về hai chữ mân (hoặc văn) 玟 và mai 玫 vì hiện nay thì đây là hai chữ thực sự khác nhau mà từ điển của Trung Hoa đã phân biệt rất rõ ràng. Vì tự dạng của chúng hơi giống nhau nên chính một vài người làm từ điển Hán – Việt cũng đã nhầm lẫn.
Tại bộ ngọc 玉, Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu đã chính thức ghi nhận chữ 玟 nhưng lại phiên âm nhầm thành “mai”, rồi tại phần phụ lục của bộ đó, Thiều Chửu lại ghi nhận thêm chữ 玫 nhưng lại phiên âm sai thành “mân”. Còn Việt-Hán thông thoại tự-vị của Đỗ Văn Đáp (Nam Định, 1933) thì cũng có ghi nhận chữ 玟 nhưng lại nhầm nó với chữ 玫 nên đã ghi 玟瑰 thay vì 玫瑰 như trong các từ điển của Trung Hoa hiện nay. Riêng Hán-Việt từ-điển của Đào Duy Anh đã chính thức ghi nhận cả hai chữ và đã ghi đúng âm của chữ 玫 là mai và của chữ 玟 là mân.
Xét theo nguồn gốc của chữ thì thoạt kỳ thủy chỉ có chữ 玟 mà thôi. Trong Thuyết văn giải tự của Hứa Thận (đời Hán), chỉ có chữ 玟 mà không có chữ 玫. Cho đến sách Quảng vận (đời Tống), cũng chỉ mới có chữ trước mà chưa có chữ sau. Chúng tôi sử dụng Hiệu chính Tống bản Quảng vận là một bản Quảng vận được hiệu đính theo quyển Quảng vận hiệu khám ký của Chu Tổ Mô thì cũng chỉ thấy có chữ 玟 mà thôi. Điều này chứng tỏ rằng 玫 là một chữ hậu khởi và chữ hậu khởi này chẳng qua vốn cũng chỉ là một biến thể của chữ 玟. Chính vì vậy mà trong Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển của Cao Thụ Phiên thì thể triện của cả chữ 玟 lẫn chữ 玫 chỉ là một. Một điểm nữa cần chú ý là vào thời Quảng vận thì chữ 玟 chưa đọc thành mân vì nó còn đọc thành môi mà âm xưa hơn nữa là mai. Quảng vận chẳng những đã xếp nó vào vận bộ hôi 灰 mà còn cho rõ thiết âm của nó là “mạc bôi thiết” (= môi). Nhưng khi chữ 玫 xuất hiện rồi trở thành một chữ riêng biệt thì tình hình trở nên khác hẳn: 玟 và 玫 không chỉ là hai chữ khác nhau về tự hình, mà còn khác nhau cả về âm lẫn về nghĩa. Sự phân biệt rạch ròi này đã xảy ra nếu có muộn nhất thì cũng là vào thời của Khang Hy tự điển (hoàn thành năm 1716) vì quyển này đã ghi nhận cả hai chữ với âm và nghĩa khác nhau.
Từ đây trở đi, chữ 玫 có âm Hán Việt là môi, cũng đọc thành mai (là âm xưa hơn), âm Bắc Kinh là méi (chứ không phải mèi). Còn chữ 玟 thì có âm Hán Việt là mân (mê dần thiết) như đã cho trong Từ nguyên và Từ hải (bản cũ), âm Bắc Kinh là mín. Mín là âm Bắc Kinh truyền thống chính thức của chữ 玟, tương ứng với âm Hán Việt mân còn wén là âm Bắc Kinh mà về sau người ta đã suy ra từ chữ 文 (bên phải của chữ 王 trong chữ 玟) rồi lại dùng âm wén (văn) của chữ 玟 để diễn cái nghĩa “đường vân trên viên ngọc”. Vì wén (văn) không phải là âm truyền thống chính thức nên bản Từ hải tu đính năm 1989 do Thượng Hải từ thư xuất bản xã in lại năm 1997 – một bản Từ hải gần như hoàn toàn “lột xác” vì được bổ sung và chỉnh lý rất nhiều – cũng không ghi nhận âm đó cho chữ 玟 mà chỉ ghi nhận có âm mín, ứng với âm Hán Việt mân. Nhưng Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) thì đã theo tinh thần thực tế mà ghi cho chữ 玟 đủ hai âm: mín (Hán Việt: mân) và wén (Hán Việt: văn) và với âm sau thì cũng giảng rằng đó là “những đường vân của ngọc” (“ngọc đích văn lý”). Còn Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển thì chỉ ghi cho nó có một âm là wen nhưng lại giảng rằng đó là một thứ đá đẹp mà không hề nhắc đến nghĩa “những đường vân của ngọc” như đã giảng trong Hán ngữ đại tự điển.
§ 553. Kiến thức ngày nay, số 310, ngày 20-3-1999
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguyên văn bài tứ tuyệt của Trịnh Cốc ca ngợi thơ của Lý Bạch.
AN CHI: Nguyên văn của bài thơ như sau:
Độc Lý Bạch thi tập
Hà sự Văn tinh dữ Tửu tinh,
Nhất thời chung tại Lý tiên sinh
Cao ngâm đại tuý tam thiên thủ.
Lưu trước nhân gian bạn nguyệt minh.
Tản Đà đã dịch thành thơ lục bát như sau:
Đọc tập thơ Lý Bạch
Cớ chi sao Rượu sao Văn,
Đúc nên một Lý tiên sinh ở đời,
Ba nghìn say đọc nên bài,
Nghìn thu bạn với trăng trời sáng soi.*
§ 554. Kiến thức ngày nay, số 311, ngày 1-4-1999
ĐỘC GIẢ 1: Mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 298 có giải thích câu “Qui dort dîne”. Nhưng về xuất xứ của câu trên thì chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Thật ra ngụ ý của ba từ “qui dort dîne” đơn giản hơn nhiều. Tạp chí Sélection (Canada) cho biết ý nghĩa và xuất xứ của nó như sau: Từ thế kỷ thứ 18, tại một vùng thưa thớt dân cư của nước Pháp, vài quán trọ mở cửa để đón khách lỡ đường trú ngụ qua đêm. Nhưng có lẽ vì ít khách, chủ quán muốn thu nhiều lợi nhuận nên ra điều kiện: Ai muốn ngủ lại đêm thì phải ăn bữa tối. Và họ treo trước cửa tấm bảng mang dòng chữ “Qui dort dîne” (Ai ngủ thì phải ăn tối).
ĐỘC GIẢ 2: Tiếp theo Kiến thức ngày nay, số 305 (Chuyện Đông chuyện Tây), tôi xin trả lời rằng rất tiếc là tôi không có quyển Dictionnaire étymologique, historique des proverbes của Quitard 1842 và lần tái bản Slatkine 1968. Tôi chỉ căn cứ vào thư mục trong cuốn Dictionnaire des proverbes et dictons của Robert 1995 để nêu lên mà thôi. Tuy nhiên, về câu tục ngữ “Qui dort dîne”, tôi cũng xin nêu thêm vài ý nhỏ. Một vài cuốn từ điển của Pháp, trong đó có Robertpourtous 1995, Dictionnaire des expressions etlocutions của Alain Rey và Sophie Chantreau 1996, đều định nghĩa câu tục ngữ đó như sau: Giấc ngủ làm cho quên (hoặc cho qua) cơn đói. Còn xuất xứ của nó? E rằng phải lội ngược dòng thời gian về những thời kỳ rất xa xưa bởi một tác giả Hy Lạp là Ménandre đã viết: “Giấc ngủ nuôi dưỡng người không có cái gì để ăn”.* Nhưng để xác định thực rõ ràng là thời điểm nào thì cũng rất khó khăn (…)
AN CHI: Chúng tôi chân thành cảm ơn hai ông đã cung cấp thêm tư liệu về câu tục ngữ “Qui dort dîne” để bạn đọc tham khảo. Xin có thêm vài ý kiến như sau.
Chúng tôi không tin rằng ngụ ý và xuất xứ của câu đó lại đơn giản đến mức như đã nêu trong Sélection. Cứ theo cái cách kể trong tạp chí này thì đó chỉ là một kiểu giai thoại đặt ra bằng cách ứng dụng nghĩa của từng từ vào cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa của cả câu một cách thông minh mà thôi. Tác giả của giai thoại đó có lẽ đã quên rằng tục ngữ thường rất xưa còn cái nghĩa “ăn tối” mà tác giả này đã gán cho động từ dîner lại là một cái nghĩa hiện đại. Nghĩa xưa của động từ dîner là ăn bữa đầu tiên trong ngày, muộn lắm cũng chỉ là ăn trưa mà thôi. Nghĩa này còn được tìm thấy trong một câu tục ngữ khác:
Lever à six, dîner à neuf,
Souper à six, coucher à neuf,
Fait vivre d’ ans nonante-neuf.
(Dậy lúc sáu giờ, ăn “trưa” lúc chín giờ,
Ăn “tối” lúc sáu giờ (chiều), đi ngủ lúc chín giờ (tối)
Khiến (người ta) sống đến chín mươi chín tuổi).
Nếu nó thực sự “đơn giản” đến mức như tác giả kia đã “minh hoạ” trong Sélection thì hẳn người ta đã đỡ phải đau đầu nhức óc vì xuất xứ của nó. Vì vậy nên chúng tôi hoàn toàn không tin ở Sélection mà rất tán thành ý kiến cho rằng có lẽ phải lội ngược dòng thời gian về những thời kỳ rất xa xưa. Lời của Ménandre (sống từ giữa thế kỷ IV đến đầu thế kỷ III trước Công nguyên) quả là một chi tiết rất hấp dẫn và hợp lý theo hướng đó.
§ 555. Kiến thức ngày nay, số 311 , ngày 1-4-1999
ĐỘC GIẢ: Từ điển tầm nguyên giải nghĩa của Vũ Ngọc Khánh và Nguyễn Thị Huế (Nxb. Văn hóa dân tộc) khi giảng mấy tiếng tam cương ngũ thường đã cho rằng tam cương là “quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương” và ngũ thường là: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn. Giảng như thế e có sự trùng lặp chăng vì theo tôi được biết thì ngũ thường lại là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
AN CHI: Phần đông người Việt Nam xưa nay có lẽ cũng hiểu như bạn đã viết. Còn “vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn” thì lại là ngũ luân. Nhưng Từ nguyên có ghi nhận rằng ngũ luân cũng gọi là ngũ thường (“diệc tác ngũ thường”). Vậy lời giảng trong quyển từ điển trên cũng có căn cứ của nó. Có điều là nếu giảng khác cách hiểu thông thường của tuyệt đại đa số thì có lẽ nên có chú thích kèm theo để người đọc khỏi bỡ ngỡ, nhất là khi mà trong tên của quyển từ điển lại có cả hai chữ “tầm nguyên”.
§ 556. Kiến thức ngày nay, số 311, ngày 1-4-1999
ĐỘC GIẢ: Câu “bình cũ rượu mới” do đâu mà ra?
AN CHI: “Bình cũ rượu mới” là một câu mượn từ tiếng Hán. Tại Trung Quốc, sau cuộc Vận động Ngũ Tứ (4-5-1919), người ta đã đề xướng việc dùng bạch thoại thay cho văn ngôn trong sáng tác và nghiên cứu vì cho rằng văn ngôn và nhiều thể loại cũ không còn thích hợp để chuyển tải nội dung xã hội mới. Việc dùng văn ngôn để chuyển tải nội dung xã hội mới cũng ví như “cựu bình trang tân tửu” (bình cũ đựng rượu mới).
Vậy mấy tiếng “bình cũ rượu mới” là do tiếng Việt mượn từ tiếng Hán theo lối sao phỏng (calque). Nhưng chính câu “Cựu bình trang tân tửu” trong tiếng Hán thì lại là do người Trung Quốc mượn từ một tích trong kinh Tân ước, như đã được ghi nhận trong Từ hải, bản tu đính 1989, in lại năm 1997 tại Thượng Hải. Đó là tích nói về sự kiêng ăn mà đoạn có liên quan là như sau:
“Không ai vá miếng vải mới vào áo cũ, vì miếng vá sẽ chằng toạc áo thêm, và đàng rách lại càng xấu hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; nếu vậy thì bầu nứt, rượu chảy ra và bầu hư mất; nhưng ai nấy đều đổ rượu mới vào bầu da mới, thì cả hai đều được giữ vẹn”.*
§ 557. Kiến thức ngày nay, số 311, ngày 1-4-1999
ĐỘC GIẢ: Tôi không rõ miền Nam trước 1975 như thế nào chứ ở miền Bắc không dùng từ cam go thay cho gay go mà xưa nay tiếng ta vẫn dùng vì cam nghĩa là ngọt và go (trừ cái go dệt vải ra) là một tiếng chỉ đi với gay mới có nghĩa. Chính ở miền Nam, trong cuốn Chơi chữ xuất bản năm 1974, ở trang 346, cụ Lãng Nhân Phùng Tất Đắc cũng đã nói “cam khổ gay go” ghép thành cam go để chỉ sự khó khăn khổ sở thì không đúng vì trong cam khổ nếu khổ là đắng thì cam lại là ngọt (khổ tận đến ngày cam lai), dùng một chữ cam ắt không còn có nghĩa là khổ nữa”. Cụ Lãng Nhân đã phê phán như vậy, mà sao còn dùng, đến khi nước nhà thống nhất thì lan ra miền Bắc thành một lối nói phổ biến như hiện nay. Không hiểu cam go có phải là âm Quảng Đông của hai tiếng mà âm Bắc Kinh là gānkǔ (cam khổ) hay không. Nếu là gānkǔ thì nghĩa của nó cũng giống như nghĩa của cam khổ trong tiếng ta chứ đâu có nghĩa là gay go như chúng ta tưởng.
AN CHI: Cam go không phải âm Quảng Đông của hai chữ 甘苦 (cam khổ) mà âm Bắc Kinh là gānkǔ vì người Quảng Đông đọc hai chữ này thành cắm phủ (ph đọc như f).
Thực ra, go vốn là một yếu tố có nghĩa là khó khăn, quanh co. Với nghĩa này, nó không chỉ có mặt trong gay go, vốn là một từ tổ đẳng lập, mà còn có mặt trong go ngặt, go gấp, go khổ (đồng âm với từ tổ danh từ go khổ, dùng để chỉ một bộ phận trong khung dệt) như đã được ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của. Go trong cam go cũng chính là tiếng go này và nếu cam có nghĩa là ngọt, sướng thì go có nghĩa là khó, khổ. Có thể hiểu cam là đành lòng và cam go là cam chịu, chấp nhận khổ sở nhưng với nghĩa này thì đây lại là một cấu trúc không bình thường: bình thường thì với nghĩa “đành lòng”, cam chỉ đứng trước danh từ như cam phận, cam lòng, v.v., hoặc động từ như cam chịu chứ không phải tính từ (go vốn là một tính từ). Nhưng dù có hiểu theo nghĩa nào của từ cam thì trong phương ngữ Nam Bộ, cam go cũng đã bị dùng lệch theo cái nghĩa của riêng tiếng go để diễn đạt cái ý “gay go”, “khó khăn” mà thôi và sự dùng lệch này đã diễn ra từ lâu. Chính vì nghĩa gốc của nó đã mất mà nó lại trở nên thông dụng theo nghĩa lệch nên nhiều quyển từ điển đã chính thức ghi nhận từ cam go theo cái nghĩa lệch này, như Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên, v.v.. Nhưng, theo chúng tôi, nếu dùng gay go thay cho “cam go” (với cái nghĩa lệch đó) thì vẫn cứ là chuẩn hơn. Dù sao chúng ta cũng có thể tự an ủi rằng không chỉ riêng từ cam go trong phương ngữ Nam Bộ mới bị dùng lệch như thế mà chính từ gānkǔ (cam khổ) trong tiếng Bắc Kinh – hiện nay đã trở thành tiếng phổ thông của toàn Trung Quốc – cũng cùng chung một số phận. Hiện đại Hán ngữ từ điển của Phòng biên tập từ điển thuộc Sở nghiên cứu ngôn ngữ của Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 1992) đã ghi nhận tại nghĩa thứ hai của nó rằng hiện nay từ gānkǔ cũng bị dùng lệch theo khía cạnh “khổ” (thiên chỉ “khổ” đích nhất diện). Vị đắng (khổ) đã làm tan biến cái vị ngọt (cam) đi chăng?
§ 558. Kiến thức ngày nay, số 312, ngày 10-4-1999
ĐỘC GIẢ: Gần đây trên Kiến thức ngày nay đã có cuộc thảo luận về đôi câu đối của Thám hoa Vũ Phạm Hàm tại đền Vạn Kiếp. Thế mà vừa qua, trên số xuân Kỷ Mão, báo “Việt Nam và Đông Nam Á” của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (có địa chỉ tại số 37 Tôn Đức Thắng, Thành phố Hồ Chí Minh) có đăng bài “Giáo sư Vũ Khiêu và câu đối” (tr. 36) của tác giả Vũ Xuân Trung, người tự nhận là cháu gọi GS. Khiêu bằng ông, nói rằng Giáo sư là người có những “sáng tác tài hoa, thể thơ Đường luật, văn tế, phú và đặc biệt là câu đối”. Tác giả đó đã đưa ra độ mươi câu đối nói là của cụ Khiêu, trong đó có cả hai câu của Vũ Phạm Hàm mà quý vị đang thảo luận:
Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh.
Xin ông An Chi có mấy lời bình luận về trường hợp trên đây.
AN CHI: Cứ như ông đã kể thì rõ ràng là tác giả Vũ Xuân Trung đã gán nhầm đôi câu đối kia cho ông của mình và hẳn là GS. Vũ Khiêu cũng chẳng thấy thích thú gì về sự gán nhầm đó. Nếu GS. Vũ Khiêu có ý kiến thì Chuyện Đông chuyện Tây sẽ sẵn sàng đăng tải cho rộng đường dư luận.
§ 559. Kiến thức ngày nay, số 313, ngày 20-4-1999
Lại bổ sung cho các câu trả lời về mấy chữ “xích địa” và “thu thanh”:
0. Trên Kiến thức ngày nay, số 308, chúng tôi đã bổ sung cho các câu trả lời này sau khi đọc bài của một tác giả đăng trên Kiến thức ngày nay, số 306. Nay lại được đọc thêm bài “Bàn thêm về hai chữ xích địa, thu thanh” của tác giả đó trên Kiến thức ngày nay, số 312 nên xin mạn phép lưu ý bạn đọc về mấy điểm sau đây.
1. Về hai chữ xích địa 赤地 (đất đỏ – đất trơ trọi, đất trống trơn), để phản bác chúng tôi, tác giả đã đưa ra mấy luận cứ như sau.
1.1. Ông viết: “Nếu ta tra từ điển, chẳng hạn Từ hải thì thấy xích có nhiều nghĩa: 1. sắc đỏ nhạt (“chu sắc chi thiển dã”). Dẫn Kinh Dịch, quẻ Khốn, có lời chú: “chu thâm vu xích” (chu đỏ hơn xích), Kinh Lễ, Nguyệt lệnh “giá xích lưu, lời sớ: “sắc thiển viết xích, sắc thâm viết chu” (sắc đỏ nhạt là xích, sắc đỏ đậm là chu)”.
Tác giả viện dẫn như trên để gián tiếp nói rằng vì chữ xích 赤 chỉ màu “đỏ nhạt” nên nó không thể diễn cái ý “rực lửa” như chúng tôi đã viết trên Kiến thức ngày nay, số 308.
Rất tiếc là ông đã sử dụng Từ hải bản cũ mà bản này thì đã được Bernhard Karlgen đánh giá tổng quát như sau: “Ở một mức độ đáng kể, nó lặp lại một cách không phê phán những lời giảng về từ ngữ của nhiều nhà chú giải tiền bối mà những nhà ngữ văn xuất sắc nhất của Trung Hoa đã bác bỏ từ lâu”*. Nhược điểm quan trọng này của Từ hải bản cũ chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc hiệu đính lại nó một cách tận gốc và bổ sung nó một cách phong phú thành bản Từ hải tu đính, một công trình cấp quốc gia của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Và sau đây là nghĩa đầu tiên của chữ xích 赤 trong Từ hải, bản tu đính năm 1989, tr. 2193, cột 1: “(Xích là) màu của lửa, cũng chỉ chung màu đỏ (Hỏa đích nhan sắc, dã phiếm chỉ hồng sắc).” Không chỉ là màu của lửa, xích còn là màu của cả mặt trời nữa. Vâng, sách Thích danh của Lưu Hy, thiên thứ 14 (Thích “Thái bạch”) giảng rằng “xích (là) chói lọi vậy, (là) màu của mặt trời vậy (xích, hách dã, thái dương chi sắc dã)”.*
Về dẫn chứng của chúng tôi, tác giả đã viết: “Nói rằng xích là đỏ, rồi đưa cả giáp cốt văn, kim văn… để phân tích hình, âm, nghĩa thì thiết tưởng cũng chẳng khó gì”. Vâng, đúng là chẳng có gì khó. Khó chăng là ở chỗ biết phê phán khi trích dẫn và biết lật lại vấn đề khi cần chọn dẫn chứng vì chỉ có làm như thế thì mới thấy được rằng cái mục từ mà ông đã dẫn ở Từ hải bản cũ là một mục từ đã bị tu đính để trả lại cho chữ xích 赤 cái nghĩa đích thực của nó là “đỏ”, là “màu của lửa”, đúng như chúng tôi đã viết trên Kiến thức ngày nay, số 308.
1.2. Tác giả đã dựa vào một lời chú giải sai mà cho rằng xích địa 赤地 là “hạn hán” rồi viết tiếp: “Như vậy, chữ xích địa là “chữ liền” có trong kinh truyện, và nó có nghĩa là đại hạn. Vậy nếu đem vào câu đối trên thì hóa ra phải hiểu: thành quách ấy, giang sơn này trăm trận gió bụi còn lưu lại đại hạn (…) Vậy với nghĩa trên thì câu đối có cái ý gì hay? Hay là ông An Chi sẽ tìm ra trong Việt Pháp bang giao sử lược của ông Phan Khoang một đoạn nào đó nói là lúc đó Hà thành đại hạn, cây cỏ lúa má chết trụi hết? Giảng văn mà mượn sử một cách hồn nhiên như thế e rằng… mất văn”.
Trên đây là lời của tác giả còn chúng tôi thì xin thưa: Khi cần “hồn nhiên” để tôn trọng lịch sử thì dứt khoát phải “hồn nhiên” chứ không thể làm khác được. Nhưng An Chi sẽ không “hồn nhiên” đi tìm hạn hán của Hà thành trong sách của Phan Khoang mà làm chi vì “xích địa” không bao giờ có nghĩa là “hạn hán” cả. Đây chẳng qua chỉ là một cái nghĩa ảo do tác giả hồn nhiên “luận” ra từ một lời chú sai trong sách Hoài Nam Tử (“Xích địa, hạn dã”) mà thôi. Lời chú sai này đã được Từ hải bản cũ trích lại “nguyên xi” (không có phê phán, đúng như lời nhận xét của B. Karlgren) rồi tác giả cũng để “nguyên xi” như thế mà dịch thành “hạn hán”, lại còn “diễn” thêm thành “đại hạn”. Còn chính cái lời giảng chính thức và chính xác của Từ hải bản cũ thì ông lại lờ đi, không dịch. Lời giảng đó là: “Xích địa vị tuế hạn, địa thượng sinh trưởng chi vật giai tận dã”, nghĩa là “xích địa (ý nói) là (gặp) năm hạn hán, các vật sinh trưởng trên mặt đất đều tàn lụi cả”. Từ hải bản tu đính (tr. 2193, cột 2) cũng giảng rằng xích địa là “hạn tai, trùng tai nghiêm trọng thời, địa diện quang xích, thốn thảo bất sinh”, nghĩa là “khi có nạn hạn hán, nạn sâu bọ nặng nề thì mặt đất trơ trụi, một tấc cỏ cũng không mọc được”. Tất cả các quyển từ điển khác cũng đều giảng hai chữ “xích địa” theo nghĩa này và trong những lời giảng đó thì “nạn hạn hán”, “nạn sâu bọ” đều chỉ là cái ý phụ được nói thêm để làm rõ cái ý chính là “mặt đất trơ trụi, trống trơn”. Còn câu “Xích địa, hạn dã” trong sách Hoài Nam Tử, chiếc phao của tác giả, chẳng qua chỉ là một lời chú kiểu “ông đồ”, lấy cái phụ (hạn hán) làm cái chính rồi bỏ luôn cái chính (mặt đất trơ trụi, trống trơn) thì đâu có thể dựa dẫm vào nó mà phản bác ý kiến của người khác!
1.3. Tóm lại, những luận cứ mà tác giả đưa ra đã không giúp cho ông bác bỏ được chữ xích 赤 là đỏ, là trơ trụi. Còn về phần mình, chúng tôi chưa một lần nào đòi bỏ chữ xích 尺 là thước nhưng tác giả cứ nhắc đi nhắc lại đến ba lần rằng không thể nhất đán đục bỏ nó được!
2. Về hai chữ thung thanh/thu thanh, thì bài “Bàn thêm về câu đối của Vũ Phạm Hàm ở đền Kiếp Bạc” của Nhất Tiếu đã phản bác bài trước của tác giả (Kiến thức ngày nay, số 306). Ở đây, chúng tôi chỉ xin nói về hai điểm quan trọng trong bài sau của ông (Kiến thức ngày nay, số 312) mà thôi.
2.1. Tác giả khen hai chữ “thu thanh”, cho rằng đó là “đối âm”, rằng “nó rất hay, cũng như chữ của Nguyễn Khuyến trên kia vậy”. Rất tiếc là ông đã quên rằng chữ trên kia của Nguyễn Khuyến là những chữ tự chúng bao gồm mỗi chữ hai từ đồng âm còn chữ “thu” trong “thu thanh” thì chỉ là một từ “trơ trụi” mà thôi. Chữ của Nguyễn Khuyến đúng là chữ của bậc đại gia (từ của tác giả). Thật vậy, chữ sang theo mạch văn và luật đối, là một tính từ đối lại chan chát với chữ giàu, cũng là một tính từ cùng trường nghĩa, nhưng theo dụng ý của tác giả thì lại là một động từ có nghĩa là vượt qua một giới hạn nhất định để đến một nơi khác. Cũng thế, chữ bạc, theo mạch văn và luật đối, là một danh từ đối lại chan chát với chữ tiền, cũng là một danh từ cùng trường nghĩa, nhưng theo dụng ý của tác giả thì lại là một tính từ có nghĩa là không hậu, không chu tất. Thế mới gọi là đối âm còn chữ “thu” trong “thu thanh” tự nó đã chỉ mùa thứ ba trong năm một cách thẳng tuột, trơn tru chứ có “núp bóng” một từ đồng âm nào đâu mà gọi là đối âm? Vì vậy mà việc đặt nó ngang hàng với những chữ trên kia của đại gia Nguyễn Khuyến là một sự so sánh khập khiễng.
2.2. Để ca ngợi hai chữ “thu thanh”, tác giả lại còn có trích một đoạn khá dài từ bài “Thu thanh phú” của Âu Dương Tu do Nguyễn Hiến Lê dịch trong Cổ văn Trung Quốc (Tao Đàn, Sài Gòn, 1966). Chỉ tiếc là ông đã quên mất tư tưởng và tình cảm chủ đạo của bài phú này, mà chính Nguyễn Hiến Lê đã nêu ra như sau: “Trong số những bài (viết về mùa thu – AC) chúng tôi được đọc, bài của Âu Dương Tu (…) buồn nhất: ông tả màu sắc của thu, hình dáng của thu, cả tới cái khí, cái ý của thu để ta nhận rõ cái thê lương của tiếng thu; cuối bài ông lại liên tưởng tới kiếp người: “bách ưu cảm kỳ tâm, vạn sự lao kỳ hình” (trăm nỗi lo làm xúc động trong lòng, vạn việc đời làm lao khổ thân hình – NHL dịch), gây cho ta một mối cảm thán vô hạn. Khung cảnh ông cũng khéo lựa: một đêm tĩnh mịch, bốn bề chỉ có tiếng giun tiếng dế ri rỉ; nhờ vậy ta có cảm giác cô liêu, lạnh lẽo, giờn giợn (Những chỗ nhấn mạnh là do chúng tôi – AC)”(sđd, tr. 337).
“Tiếng thu” (“thu thanh”) thê lương, sầu thảm như thế thì thích hợp thế nào được với hào khí của vùng Lục Đầu – Vạn Kiếp, thích hợp thế nào được với uy danh và chiến công lừng lẫy của Hưng Đạo Vương? Nó chỉ thích hợp với câu đối khóc than cho tướng giặc Mông Cổ bại trận mà thôi!
2.3. Tóm lại, chúng tôi không hề nói rằng “thu thanh” không phải là chữ của Vũ Phạm Hàm. Nhưng dù đó là chữ của ai thì đặt vào câu đối thờ Trần Hưng Đạo hoặc vịnh đền thờ Trần Hưng Đạo, nó cũng hoàn toàn lạc lõng.
§ 560. Kiến thức ngày nay, số 314, ngày 1-5-1999
ĐỘC GIẢ: Trên tạp chí “Khoa học xã hội” của VTV2 (tháng 3-1999), PTS. Nguyễn Hữu Đạt đã phân tích và khẳng định rằng hai tiếng “nét ngài” trong câu thứ 20 của Truyện Kiều (“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”) có nghĩa là nét người, dáng người (chứ không phải là nét lông mày) vì ở đây “ngài” là tiếng địa phương có nghĩa là người. Xin cho biết lời khẳng định này có đúng hay không.
AN CHI: Nét ngài chính là nét lông mày và tiếng ngài dùng để chỉ lông mày trong ngôn ngữ của Nguyễn Du cũng giống như chữ nga 蛾 (= con ngài) có thể dùng một mình thay cho hai chữ nga mi 蛾眉 (= mày ngài) trong tiếng Hán (Xem, chẳng hạn Từ nguyên hoặc Từ hải). Rất tiếc là chúng tôi không được vinh dự nghe buổi giải đáp của ông Nguyễn Hữu Đạt trên VTV2 nhưng dù cho vị phó tiến sĩ này có phân tích như thế nào thì nét ngài cũng không thể là “nét người” được vì những lý do sau đây.
1. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng từ “người” tất cả là 214 lần* và trong 214 lần đó Nguyễn Du đã có ý thức sử dụng từ đang xét theo đúng âm chuẩn của ngôn ngữ toàn dân là “người” (mà nhiều nơi ở Bắc Trung Bộ phát âm thành “ngài”). Vì vậy, không có bất cứ lý do xác đáng nào để giải thích tại sao tác giả lại tạo ra một ngoại lệ kỳ quái bằng cách dùng âm “ngài” thay cho “người” chỉ riêng ở câu thứ 20 mà thôi. Mặc dù Nguyễn Du đã nói về toàn bộ kiệt tác của mình là “Lời quê chắp nhặt dông dài” nhưng chắc chắn là ông đã không quê đến độ dùng “ngài” thay cho người trong trường hợp đang xét và chỉ trong trường hợp này mà thôi.
2. Ở các bản Nôm, chữ “người” trong tất cả 214 trường hợp đã nói đều được viết thành *, có chữ nhân 人 là người làm nghĩa phù (để chỉ con người) còn chữ ngài trong nét ngài của câu thứ 20 thì lại được viết thành *, có chữ hủy 虫 làm nghĩa phù (để chỉ con ngài, tức là con bướm tằm). Chữ nghĩa đã rõ ràng như thế thì ngài ở đây làm sao lại có thể là “người” được!
3. Huống chi chữ ngài của câu thứ 20 lại nằm trong một cái thế hiệp vần giữa những câu sau đây:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Nếu ngài đúng là “người” thì chắc chắn là Nguyễn Du đã “tự nhiên nhi nhiên” mà hạ chữ người (thành “nét người”) để cho sự hiệp vần được chặt chẽ hơn (mười – vời – người) chứ tội gì phải dùng chữ “ngài”, vừa làm cho vần không chỉnh bằng (mười – vời – ngài) vừa gây ra chuyện để cho hậu thế phải tranh cãi xem đó là “con ngài” hay “con người”, nhất là để gây ra một cái lệ ngoại “không giống ai” so với 214 trường hợp kia.
4. Mới ở câu thứ 17, Nguyễn Du còn tả hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân là “mai cốt cách, (tuyết tinh thần)” thì có lẽ nào đến câu 20 ông lại “phản phé” mà “thổi” Thúy Vân lên thành một người đẹp có thân hình nở nang? Tiểu thuyết gia hạng xoàng còn chưa làm được như thế, huống hồ Nguyễn Du!
Tóm lại, nét ngài ở đây là nét lông mày chứ không phải “nét người”. Có nhà nghiên cứu cho rằng nếu dùng nét ngài để chỉ nét lông mày trong trường hợp này là không hợp lý. Ông đã viết như sau:
“Không hợp lý bởi tính không chỉnh về hai vế đối trong câu này: một bên là khuôn trăng (hiểu nôm na là khuôn mặt); một bên là nét ngài (nếu hiểu là nét lông mày) vốn chỉ là một phần, một nét trên khuôn mặt. Ta thường chỉ thấy các bộ phận thân thể có cùng cấp độ được đem ra so sánh với nhau như: râu hùm – hàm én, mắt phượng – mày ngài, lưng ong – đùi dế, v.v.. Thế mà trong câu Kiều trên đây lại có sự so sánh khập khiễng không cùng cấp độ: khuôn mặt với nét lông mày”.*
Thực ra, nếu ở đây có sự khập khiễng nào thì đó là lỗi của tiếng Việt, bắt nguồn từ trong tâm thức của người Việt, chứ chẳng phải lỗi củaNguyễn Du. Tiếng Việt vẫn “đặt ngang hàng” cái mặt người với một bộ phận của nó: mặt măng miệng sữa; mặt trơ trán bóng; mặt xanh nanh vàng; tai to mặt lớn; đỏ mặt tía tai, v.v.. Đặc biệt đôi lông mày lại có duyên nợ sâu đậm với cái mặt. Chẳng thế mà trước nhất tiếng Việt có từ tổ đẳng lập mặt mày rồi sau đó là một loạt thành ngữ: mặt chai mày đá; mặt dạn mày dày; mặt hoa mày liễu; mặt muội mày gio (tro); mặt nặng mày nhẹ; mặt ngang mày dọc; mặt rác mày dơ; mặt se mày sém; mặt sưng mày sỉa; mặt ủ mày ê; v.v.. Rồi một loạt tổ hợp cố định có vị từ làm nòng cốt như: méo mặt méo mày; nhăn mặt nhíu mày; nở mặt nở mày; v.v.. Cuối cùng là một loạt cấu trúc tự do trong đó mặt mày đóng vai trò chủ ngữ như: mặt mày hớn hở; mặt mày rạng rỡ; mặt mày sáng sủa; mặt mày tươi tắn; v.v..
Vậy nếu Nguyễn Du tả diện mạo của Thúy Vân bằng cách phác họa khuôn mặt và nét mày của nàng thì chẳng qua là ông cũng chỉ làm theo tâm thức và tập quán ngôn ngữ của người Việt mà thôi. Người Việt không hề xem đó là một sự so sánh khập khiễng. Vấn đề còn lại chỉ là ở nghĩa của hai tiếng “nở nang”.
Người ta sợ rằng, với bốn tiếng nét ngài nở nang, Nguyễn Du đã gắn vào khuôn mặt của Thúy Vân một đôi lông mày giống con sâu róm hoặc giống con tằm nằm (thì còn đẹp cái nỗi gì?). Nhưng nở nang ở đây đâu có được hiểu theo nghĩa đen mà phải lo sợ như thế. Chẳng có lẽ nói nở mặt nở mày thì lại là diễn tả một khuôn mặt bị phù nề hoặc phình ra đến mức phúng phính? Nở mặt nở mày chẳng qua là mặt mày rạng rỡ hẳn lên, sáng sủa hẳn lên vì một niềm hãnh diện nào đó. Thì nét ngài nở nang cũng chỉ là nét lông mày rạng rỡ, tươi tắn mà thôi. Rất may mắn là trong Truyện Kiều, hai tiếng nở nang với nghĩa đã nói còn được Nguyễn Du dùng thêm một lần nữa trong câu 2482:
Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha.
Nở nang mày mặt ở đây nào có phải là mặt mày phồng lên hoặc phình ra, cũng chẳng phải mặt mày vốn dĩ đầy đặn mà là mặt mày rạng rỡ vì hãnh diện, vì mãn nguyện đó thôi.
Vậy nét ngài nở nang là nét lông mày tươi tắn và nét ngài chính là nét lông mày chứ không phải “nét người”, “dáng người”, như một vài người đã cố chứng minh. Huống chi, nếu Thúy Vân thuộc típ người “nở nang” thì nàng đẹp (“trang trọng khác vời”) thế nào được đối với thẩm mỹ quan của Nguyễn Du – và trước nhất là của Thanh Tâm Tài Nhân – về người đẹp ở thời đó!