Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2: Câu hỏi 508 - 534

§ 508. Kiến thức ngày nay, số 294, ngày 1-10-1998

ĐỘC GIẢ: Tôi đã đọc câu trả lời của ông về hai chữ “tu hành” ở mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 253. Đặc biệt ông còn đem cả cụ Nguyễn Du ra làm dẫn chứng. Hai từ tu hành và tu hạnh tuy âm na ná nhau nhưng là hai từ hoàn toàn khác nhau. Tôi chưa thấy ai trong thiên hạ đã “lệch giọng” từ tu hạnh thành tu hành như ông đã nói cả. Chỉ cần nghe câu “Người tu hành khổ hạnh” thì cũng đủ biết. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu viết “sửa mình trong sạch để thờ Phật gọi là tu hạnh” là rất đúng. Hai tiếng tu hạnh chỉ những người “sửa mình trong sạch để thờ Phật” nhưng không cần quy y, xuống tóc. Chỉ cần có Phật tâm và luôn luôn trau dồi Phật tâm thì cũng là người tu hạnh rồi.

Còn tu hành thì sao? Tu là sửa, hành là đi nhưng vì đây là từ Hán Việt nên không thể bổ ra mà dịch như vậy được. Nếu ông làm theo kiểu đó thì ông chỉ làm người dịch nghĩa từ Hán sang Việt mà thôi. Ở đây phải hiểu tu hành là người đi tu và người đi tu phải tu hạnh.

Tóm lại chỉ cần thí phát quy y thì đã được coi là người tu hành rồi nhưng chưa chắc đã tu hạnh vì nếu ai tu hành cũng tu hạnh thì làm gì có sư hổ mang. Tu hành chỉ những người có chí sửa mình học theo Phật hoặc theo một giới luật nào đó nhưng chưa chắc đã tu hạnh. Tu hạnh thì chỉ những người tu hành hoặc không tu hành nhưng đã giác ngộ được cái tâm, cái trí của Phật và luôn luôn trau giồi nó.

Đọc đến đây chắc ông cũng có cái nhìn khác về hai câu thơ của cụ Nguyễn Du rồi phải không?

AN CHI: Xin trao đổi với ông như sau:

1. Sở dĩ ông “chưa thấy ai trong thiên hạ đã “lệch giọng” từ tu hạnh thành tu hành” như chúng tôi đã nói là vì nếu muốn thấy thì phải tra cứu kỹ trong từ điển tiếng Hán xem chữ 行 trong 修行 được thiết âm như thế nào nên phải được đọc ra sao; chứ không phải chỉ cần nghe mà hiểu theo chủ quan là đủ.

2. Dù có “bổ ra mà dịch” hay là không “bổ ra” và dù có hiểu theo tiếng Việt hay tiếng Hán thì chữ hành trong tu hành cũng không bao giờ có nghĩa là “đi” như ông đã suy diễn: tiếng Hán gọi “đi tu” là xuất gia còn trong tiếng Việt thì hành không bao giờ được dùng độc lập mà lại có nghĩa là “đi”. Huống chi, trong từ tổ 修行 thì, như đã nói, chữ thứ hai được thiết âm là hạnh chứ không phải là “hành”.

3. Nếu ông vui lòng đọc kỹ lại câu trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 253, hẳn ông sẽ thấy rằng chúng tôi đã có lưu ý điều sau đây: hai chữ 修行 vốn đọc là tu hạnh có nghĩa là trau dồi đức hạnh (tức là “sửa mình trong sạch”) nhưng, song song với sự lệch giọng thành tu hành, ngày nay nó đã được dùng theo nghĩa phái sinh là “xa lánh cuộc đời phàm tục mà sống theo những giới luật của một tôn giáo nhất định”. Vậy cả nghĩa của tu hành và tu hạnh theo cách hiểu của ông đều đã nằm trong lời lưu ý của chúng tôi. Tuy nhiên đó chỉ là chuyện nói thêm cho cạn lẽ chứ trên Kiến thức ngày nay, số 253, tu hành khác với tu hạnh như thế nào trong tiếng Việt hiện đại lại không phải là vấn đề chúng tôi cần bàn. Điều chúng tôi cần bàn tại đấy chỉ là âm gốc và âm chuẩn của hai chữ 修行 đọc như thế nào mà thôi.

§ 509. Kiến thức ngày nay, số 294, ngày 1-10-1998

ĐỘC GIẢ: Trong Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 242, ông có dẫn bốn chữ “thoại bất đầu cơ” (trong câu “Thoại bất đầu cơ bán cú đa”) mà các soạn giả Nguyễn Lập Sơn và Dư Phát Linh đã dịch trong quyển Tục ngữ Hoa -Việt là “chuyện chẳng hợp nhau” còn ông thì dịch là “lời nói không đúng lúc” (đầu là thích hợp; cơ là cơ hội).

Sách Minh tâm bửu giám do Trương Vĩnh Ký phiên dịch, được Hội nghiên cứu & giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh in lại, có lời của Trương Vĩnh Ký như sau: “Đây là một quyển sách góp nhặt những lời vàng tiếng ngọc của các bậc hiền triết danh nhân thời xưa đã nói trong các kinh điển hay sách vở (…)”. Trong thiên thứ mười tám là thiên “Ngôn ngữ”, bốn chữ “thoại bất đầu cơ” trong câu “Thoại bất đầu cơ bán cú đa” đã được Trương Vĩnh Ký dịch nghĩa đen là “lời chẳng gieo máy” và nghĩa xuôi là “lời nói chẳng gài máy lập mưu”. Thấy rằng hai chữ “đầu cơ” có mấy cách dịch khác nhau cho nên dám mạo muội xin ông chỉ giáo.

AN CHI: Cả câu “Thoại bất đầu cơ bán cú đa” đã được Trương Vĩnh Ký dịch thành “nghĩa xuôi” là “Lời nói chẳng gài máy lập mưu, dầu có nửa câu cũng đã nhiều”. Nghĩa là, theo Trương Vĩnh Ký, lời nói mà có “gài máy lập mưu” thì dẫu có nhiều bao nhiêu cũng chưa đủ. Thế là vị học giả của chúng ta đã dạy người đời “gài máy lập mưu” mà bẫy nhau, gạt nhau và ông đã dạy như thế ngay trong sách Minh tâm bửu giám là gương báu để soi sáng lòng người.

Thực ra, trên đây không phải là cái sai duy nhất của Trương Vĩnh Ký trong khi dịch Minh tâm bửu giám. Sau đây chúng tôi chỉ xin nêu thêm hai dẫn chứng.

Tại thiên thứ bảy (Tồn tâm) có mấy câu thơ như sau:

Tam điểm như tinh tượng,

Hoàn câu tự nguyệt tà;

Phi mao tùng thử đắc,

Tố Phật dã do tha.

Câu cuối đã được Trương Vĩnh Ký dịch theo nghĩa đen là “nên Phật vậy bởi gì (khác)?” Lời dịch này có hai chỗ sai: – chữ dã 也 ở đây không có nghĩa là “vậy: mà có nghĩa là “cũng”; – chữ tha 他 ở đây không có nghĩa là “gì (khác)?” mà chỉ có nghĩa là “nó”. Vậy nghĩa của câu này là “nên Phật cũng do nó” và “nó” là cái “tâm” mà Trương Vĩnh Ký cũng đã nhắc đến trong phần “nghĩa xuôi”.

Tại thiên thứ mười tám (Ngôn ngữ), câu “Sĩ tương kiến lễ viết” đã được Trương Vĩnh Ký dịch thành nghĩa đen là “Lễ kẻ sĩ cùng ra mắt rằng” và thành “nghĩa xuôi” là “Lễ kẻ sĩ ra mắt nhau dạy rằng”. Thực ra, “Sĩ tương kiến lễ” là tên của một thiên trong sách Nghi lễ. Vậy “Sĩ tương kiến lễ viết” phải được dịch là: Thiên “Sĩ tương kiến lễ” (trong sách Nghi lễ) nói. Dịch như Trương Vĩnh Ký thì làm thế nào người đọc có thể hiểu rằng đó là tên của một thiên trong một quyển sách kinh điển? Người ta chỉ có thể hiểu rằng đó là cái lẽ phải thông thường đã dạy cho kẻ sĩ gặp nhau thì phải lấy lễ để đối xử với nhau như thế nào mà thôi.

§ 51 0. Kiến thức ngày nay, số 295, ngày 10-10-1998

ĐỘC GIẢ: Do đâu mà có thành ngữ: phớt Ăng lê?

AN CHI: Thành ngữ phớt Ăng Lê gồm có hai từ: phớt và Ăng Lê. Việt Nam tự-điển của Lê Văn Đức và Tầm nguyên từ điển Việt Nam của Lê Ngọc Trụ cho rằng phớt là do tiếng Pháp flegme (= sự điềm tĩnh) mà ra. Nhưng phớt lại là một yếu tố đã có trong từ vựng của tiếng Việt trước khi ngôn ngữ này tiếp xúc với tiếng Pháp. Thật vậy, trước khi người Việt Nam biết đến danh từ flegme và tính từ flegmatique của tiếng Pháp thì cha ông của họ đã từng nói: phớt lờ, nói phớt qua, phơn phớt hồng, lớt phớt mưa, v.v., trong đó phớt có nghĩa gốc là thưa (như lớt phớt mưa), là nhạt (như phơn phớt hồng), rồi mới có nghĩa phái sinh là không thấu đáo, không kỹ càng (như: nói phớt qua), là thờ ơ, không quan tâm (như: phớt tỉnh, phớt đời, phớt lờ, v.v.).

Vậy phớt không phải là một từ Việt gốc Pháp. Chính Ăng Lê mới là một từ Việt gốc Pháp bắt nguồn từ danh từ Anglais có nghĩa là người Anh (danh từ này lại phái sinh “nguyên trạng” từ tính từ anglais có nghĩa là thuộc về nước Anh, liên quan đến nước Anh). Người Anh là những người mà sự điềm tĩnh là một đặc tính điển hình được thế giới thừa nhận nên dân ta – mà khởi đầu tất nhiên là dân trí thức, dân văn nghệ, v.v. – mới mượn cái “tộc danh” Ăng Lê mà đặt sau vị từ phớt để tạo ra thành ngữ phớt Ăng Lê mà hài hước một cách nhẹ nhàng.

§ 511. Kiến thức ngày nay, số 295, ngày 10-10-1998

ĐỘC GIẢ: Trong giỗ chạp, chạp có nghĩa là gì?

AN CHI: Chạp là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 臘 mà âm Hán Việt hiện đại là lạp, có nghĩa là lễ tế thần vào tháng cuối năm. Vì vậy mà tháng cuối năm cũng gọi là lạp nguyệt. Trong tiếng Việt thì chạp có nghĩa là lễ cúng tổ tiên vào tháng cuối năm. Vì vậy tháng cuối năm gọi là tháng Chạp, nghĩa là tháng có ngày cúng tổ tiên trước khi bước sang năm mới. Chạp ~ lạp, về mặt phụ âm đầu, cũng giống như: – lang 郎 (mà âm xưa là làng) ~ chàng (đối với nàng); – lịch lạc 歷落 (= so le, không đều) ~ chệch chạc (choạc); – lam 藍 (mà xưa hơn là: làm) ~ (xanh) chàm; v.v..

§ 51 2. Kiến thức ngày nay, số 295, ngày 10-10-1998

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguyên văn và lời dịch bài thơ “Mộc già” trong nguyên bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.

AN CHI: Trong nguyên truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thì nguyên văn bài thơ mà Kiều đã làm là như sau:

“Ngã dữ mộc vi cừu

Hỷ khuyên sáo trung đắc xuất đầu

Phương viên già cái toàn thân xủ

Hà tằng mi vũ tu

Tọa tỉnh khả ưu

Khả liên lệ hần (ngấn) lưu

Bất đáo sam hòa tụ

Tạ hiền hầu

Giáo nhân cưỡng hạng

Tái bất hứa p hóng ca hầu”.

Chiêm Vân Thị đã dịch như sau:

“Ta với cây gỗ là kẻ thù;

Mừng về nỗi trong vòng khuyên tròn được chui đầu ra;

Xấu về nỗi vuông tròn che khắp thân thể.

Mày mặt chưa từng hổ thẹn.

Nhưng mang chữ “tỉnh” (hình dạng cái gông) đáng buồn.

Thương thay dòng nước mắt

Không chảy tới vạt áo và ống tay áo.

Kính tạ hiền hầu,

Bắt người phải cứng cổ,

Không cho lại mở họng hát ra”.*

Tô Nam Nguyễn Đình Diệm dịch như sau:

“Ta với cây là thù

Trong khuôn khổ mừng được ló đầu

Vuông tròn che toàn thân cảm thấy xấu

Tai mắt thẹn gì đâu

Đáy giếng âu sầu

Đáng thương áo xiêm chẳng thấm, giọt lệ cứ tuôn mau

Tạ hiền hầu

Cổ bị cứng, giọng hát nghẹn trong yết hầu”*

Còn Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân thì dịch:

“Với gỗ tuy thù sâu

Mừng trong vòng còn được ló đầu.

Ôi! Khung vuông tròn che thân ô nhục!

Nhưng hình hài khúm núm, thẹn lòng nhau.

Ngồi đáy giếng, lo âu.

Đáng thương thay mắt cạn khô lệ sầu!

Ơn hiền hầu!

Dạy cho cứng cổ,

Lại chẳng bắt làm ca lâu”*

§ 513. Kiến thức ngày nay, số 295, ngày 10-10-1998

ĐỘC GIẢ: Có phải “cây” san hô còn có tên là “giáng thụ” (mà nghĩa đen là “cây đỏ”)?

AN CHI: Vâng, san hô còn có tên là giáng thụ 絳樹, mà nghĩa đen là “cây đỏ” (Tuy nhiên, đó không phải là thực vật và chính vì thế mà ông mới đặt chữ “cây” trong ngoặc kép). Thực ra, giáng thụ không phải là tên phổ thông của san hô mà chỉ được dùng trong thi ca, chẳng hạn trong bài “Thơ vịnh san hô” (Vịnh san hô thi) của Vi Ứng Vật đời Đường:

Giáng thụ vô hoa diệp,

Phi thạch diệc phi quỳnh

(San hô không lá không hoa, Không phải là đá, cũng không ngọc quỳnh).

Xin nói thêm rằng Giáng Thụ (cũng viết bằng hai chữ Hán ở trên) còn là tên của một mỹ nhân thời xưa nữa. “Đáp Phồn khâm thư” của Ngụy Văn Đế có câu: “Kim chi diệu vũ mạc xảo ư Giáng Thụ, thanh ca mạc thiện ư Tống Lạp” (Người múa đẹp ngày nay không ai khéo hơn Giáng Thụ, hát hay không ai giỏi bằng Tống Lạp).

§ 514. Kiến thức ngày nay, số 296, ngày 20-10-1998

Ông Lưu Hiến Miện, 280/82 Bùi Hữu Nghĩa, Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh: Ở mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 292, An Chi có nói về cụm từ “sau Công nguyên” mà GS. TS. Nguyễn Chung Tú đã dùng. Đọc phần trả lời của An Chi, tôi thấy có nhiều chỗ rất buồn cười:

1. GS. Nguyễn Chung Tú nói “năm 1998 sau Công nguyên tính từ năm 1 là năm 754 của lịch La Mã” thì An Chi lại cho là GS. Tú nói “năm 754 của lịch La Mã là năm 754 trước Công nguyên” (!) rồi tranh cãi ỏm tỏi cả lên. An Chi lại còn viện dẫn nào là người La Mã tính lịch từ tháng 4… một cách dài dòng và vô bổ. Nhưng buồn cười nhất là cuối cùng, sau khi nêu một loạt tài liệu dài dòng và rắc rối, An Chi lại buông thõng một câu: “Vấn đề thật ra không hoàn toàn đơn giản như thế”! Chà, trả lời như An Chi đây mới khôn ngoan chứ!

2. An Chi cứ khăng khăng cho rằng “Công nguyên vẫn đang tiếp diễn” tức là chủ ý chỉ muốn bác bỏ chữ “sau” trong cách nói của GS. Nguyễn Chung Tú. Xin thưa từ ngữ quen thuộc xưa nay của người Việt Nam vẫn dùng là “trước Công nguyên” để chỉ những năm trước năm 1 dương lịch và “sau Công nguyên” để chỉ những năm bắt đầu từ năm 1 dương lịch trở đi! Ở đây người ta nói “sau Công nguyên” là muốn chỉ “sau lúc Jésus ra đời” theo như “truyền thống” mà An Chi nói. Cụm từ này người ta xem như đồng nghĩa với “năm Thiên Chúa”, hay là “năm công lịch”. Cũng chính vì vậy mà Từ điển bách khoa Việt Nam và Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học đã chép nó vào. Từ điển Oxford cũng chỉ rõ: “B. C. là viết tắt của Before Christ (trước Thiên Chúa); và A. D. là in the year of our Lord (năm Thiên Chúa)”. Hoàn toàn không có đả động gì tới Công nguyên cả.

3. Điểm tức cười thứ ba là chính An Chi cũng tự nhận mình là “không thông thạo về lịch pháp”. Không thông thạo nhưng An Chi cũng đã dám đứng ra trả lời và phê bình người này, phê phán người kia. An Chi can đảm thật!

4. Điểm buồn cười cuối cùng là ai cũng biết GS. TS. Nguyễn Chung Tú là một người đầy uy tín được nhiều người kính trọng. Dám hỏi An Chi có được học vị gì, kiến thức tới đâu hay chỉ biết đi lấy những tài liệu do người khác soạn sẵn mà “phô bày” ra cho mọi người “lác mắt” chơi?

AN CHI: Chúng tôi vô cùng vinh hạnh nhận được thư góp ý của ông và xin trả lời ông theo từng điểm như sau:

1. Tại mục “Ai, sao?” trên Kiến thức ngày nay, số 286, trang 96, dòng 8 – 9, TS. Nguyễn Chung Tú đã viết rõ ràng trên giấy trắng mực đen như sau: “Đảo lại, năm 754 của lịch La Mã gọi là năm 754 trước CN”. Đó là nguyên văn của TS. Nguyễn, chứ chúng tôi không hề bịa ra.

Còn chỗ mà ông nói rằng chúng tôi đã “buông thõng một câu” thì lại chính là một vấn đề được trình bày rất nghiêm túc nhưng chúng tôi bất tất phải biện minh dài dòng vì chúng tôi tin tưởng ở sự nhận xét khách quan và chính xác của bạn đọc.

2. Đúng như ông đã nói, cái mà chúng tôi muốn bác bỏ chính là tiếng “sau” mà TS. Nguyễn Chung Tú đã dùng trước hai tiếng “Công nguyên” vì đó là một cách dùng nghịch lý. Muốn biết nó nghịch lý ở chỗ nào thì phải biết “Công nguyên” là gì và Công nguyên là gì thì chúng tôi đã nói rõ trên Kiến thức ngày nay, số 219 nên ở đây chúng tôi xin khỏi nói lại. Ông cho rằng chính vì mấy tiếng “sau Công nguyên” là một lối nói đúng nên nó mới được Từ điển bách khoa Việt Nam và Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thu nhận và sử dụng. Xin thưa rằng từ điển, về nguyên tắc, phải là khuôn vàng thước ngọc nhưng đáng tiếc là không phải bao giờ chúng cũng được như thế. Về vấn đề này, xin chép hiến ông lời của Bùi Thiết trong bài “Chủng loại sách từ điển trong thế giới sách” đăng trên Tạp chí Sách, số 1-1998 như sau: “(…) họ đã tập hợp đến hơn 1000 nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhiếp ảnh, thầy giáo, nghệ sĩ múa, ca sĩ, đạo diễn, thương nhân, huấn luyện viên, trọng tài,… vào làm từ điển bách khoa, và kết quả là đã cho ra đời một tập sách có đến hàng vạn lỗi nội dung, không chuẩn về ngôn ngữ, không mang tính bách khoa” (Bđd, tr. 30). Đấy, có những quyển từ điển như thế đấy và “sau Công nguyên” là một cách diễn đạt không chính xác trong những quyển từ điển trên đây. Đó chỉ là một cái mốt mới phát sinh độ vài thập kỷ gần đây ở một số người viết chứ không hề là “từ ngữ quen thuộc xưa nay của người Việt Nam”.

3. Chẳng những chúng tôi nói rằng mình không thông thạo về lịch pháp mà về tất cả những vấn đề đã trả lời cho bạn đọc từ buổi ban sơ của Chuyện Đông chuyện Tây cho đến ngày hôm nay chúng tôi cũng chưa bao giờ dám nhận là mình đã thông thạo.

Chúng tôi chỉ trả lời một cách nghiêm túc những câu hỏi mà bạn đọc xa gần gửi đến chứ không làm chuyện “phô bày ra cho mọi người lác mắt chơi” như ông đã nói. Và nói như ông là đã xem thường bạn đọc rồi đấy: có bạn đọc nào lại có thể “lác mắt” trước những sự phô bày dỏm!

4. Chúng tôi không có học vị nhưng chúng tôi biết chắc chắn rằng học vị không phải là cái bảo bối vạn năng để cho nhà khoa học không bao giờ sai. Và “sau Công nguyên” không phải là cái sai duy nhất của TS. Nguyễn Chung Tú. Sau đây là mấy dẫn chứng.

Trong bài “Tết Tây” đăng trên Kiến thức ngày nay, số 26 (1-1-1990), tác giả Nguyễn Chung Tú đã viết như sau: “Noël. Đó là một từ của ngôn ngữ Hébreu (Do Thái) nghĩa là sinh nhật của Jésus Christ” (Bđd, tr. 14). Thực ra, trong tiếng Hébreu, thì ngày sinh của Jesus lại là chagamolad hanotsri*. Còn Noël thì lại là tiếng Pháp và danh từ này của tiếng Pháp bắt nguồn ở từ nátális trong từ tổ natalis dies của tiếng La Tinh, có nghĩa là ngày sinh.

Trong bài “Các cách đặt tên trong khoa học” đăng trên Kiến thức ngày nay, số 27 (Xuân Canh Ngọ, 1990), tác giả Nguyễn Chung Tú đã viết như sau: “Người ta kể chuyện nhà luyện đan nghĩ ra phương pháp đun cách thủy, thay vì gọi là bain d’eau (…) thì ông ta lại gọi là bain marie vì Marie là tên… người yêu của ông ta!” (Bđd, tr. 36). Ở đây, TS. Nguyễn chỉ đùa cho vui chứ hẳn ông cũng thừa biết, như thư tịch vẫn ghi nhận, rằng Marie là tên chị (hay em gái?) của Moïse và sở dĩ tên của bà được đưa vào cụm từ đang xét là vì theo truyền tụng thì bà là tác giả của mấy công trình về thuật luyện đan.

Cũng trong bài trên, nói về việc Gell-Mann đặt tên cho hạt cơ bản, tác giả Nguyễn Chung Tú đã viết: “Hạt cơ bản, mẫu số chung của các hạt, ta gọi là gì bây giờ? Gell-Mann tự hỏi như vậy. Ông đang phân vân thì một đàn quạ bay trên trời và kêu quaaa… quaaa… Ông reo lên: “Hạt cơ bản ta gọi là quark”. Đó là bản khai sinh của quark” (Bđd, tr. 38 – 39). Ở đây TS. Nguyễn cũng lại đùa cho vui vì ông đã để cho nhà vật lý học người Mỹ Murray Gell-Mann nghe tiếng quạ kêu bằng cái tai của người Việt Nam nên mới thành ra “quaaa… quaaa…”. Chứ cái danh từ có tính chất tượng thanh để chỉ con quạ trong tiếng Anh, kể cả tiếng Anh nói ở Mỹ, lại là crow còn cái động từ có tính chất tượng thanh để chỉ hành động kêu của con quạ thì lại là (to) croak. Nhưng vấn đề chủ yếu là dù cho Gell-Mann có nghe tiếng quạ kêu bằng cái tai của người Việt hay cái tai của người Mỹ thì danh từ quark cũng chẳng có dính dáng đến tiếng kêu của bất cứ loài vật nào cả vì nó đã bắt nguồn từ một tác phẩm của nhà văn James Joyce như đã được ghi nhận trong những quyển sách nghiêm túc. Chẳng hạn, Petit Larousse Illustré những năm gần đây đều ghi chú rằng quark là “mot anglais, tiré de l’ oeuvre de James Joyce” còn Quid 1986, p. 192, a, thì viết rằng “Le mot quark a été forgé par le romancier irlandais James Joyce”. Bài “Cuộc chiến xung quanh việc đặt tên cho các khám phá mới” của Hoàng Cường, viết theo Ça m’intéresse (12-1994), đăng trên Kiến thức ngày nay, số 168, cũng nói rõ rằng quark là “một từ lấy trong tiểu thuyết Finnegan’s Wake của James Joyce”. Vậy từ quark chẳng có liên quan gì đến tiếng kêu của loài quạ cả.

Cuối cùng xin nhắn với ông rằng trong việc trao đổi hoặc tranh luận về học thuật, người ta chỉ dùng lý lẽ chứ không dùng học vị. Vậy vấn đề cốt yếu chỉ là ở chỗ lý lẽ có vững, có chắc hay không chứ không phải ở chỗ học vị cao hay thấp và có hay không có học vị.

§ 515. Kiến thức ngày nay, số 296, ngày 20-10-1998

ĐỘC GIẢ: Ông tơ gàn quải chi nhau (Kiều, câu 549): gàn là ngăn, cản; còn quải là gì?

AN CHI: Quải là một hình vị tiếng Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 絓, cũng viết 罣, mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là quái, cũng có nghĩa là ngăn trở. Vì đồng nghĩa như thế nên quải mới đứng chung với gàn mà làm thành cấu trúc đẳng lập gàn quải.

§ 516. Kiến thức ngày nay, số 296, ngày 20-10-1998

ĐỘC GIẢ: Thằng bờm có cái quạt mo: thay vì thằng bờm, có dị bản lại ghi là thằng bần (= thằng nghèo). An Chi nghĩ thế nào?

AN CHI: Có lẽ dị bản đó đã chịu ảnh hưởng của câu “Cờ bạc là bác thằng bần” chăng? Còn chúng tôi thì cho rằng đó vẫn là bờm và bờm là một yếu tố Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 凡 mà âm Hán Việt hiện đại là phàm, có nghĩa là tầm thường, thấp kém. Bờm ~ phàm cũng giống hệt như bợm ~ phạm 犯 (= kẻ gây tội). Vậy thằng bờm là thằng tầm thường, thằng thấp kém (đối với phú ông là kẻ cao sang).

§ 517. Kiến thức ngày nay, số 297, ngày 1- 11 – 1998

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 284, nói về quyển Tìm nguyên tác truyện Kiều của tác giả Vũ Văn Kính, ông đã viết: “Phương pháp của tác giả có những nhược điểm khiến người đọc khó lòng tin tưởng được rằng mình có thể cùng đi với tác giả mà lại “tìm ra được nguyên tác của Truyện Kiều””. Xin cho biết đây là nói lỡ trớn hay là nói có sách mách có chứng.

AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 284, sau câu mà ông đã trích, chúng tôi còn viết tiếp như sau: “Tuy nhiên đây là vấn đề mà khuôn khổ và yêu cầu của kỳ này chưa cho phép chúng tôi bàn đến”. Nay, nếu ông cần “mách có chứng” thì chúng tôi xin nói thêm đôi điều như sau.

Ngay cái nhan đề của quyển sách cũng đã là không ổn rồi: Tìm nguyên tác truyện Kiều? Nhưng Truyện Kiều được viết bằng chữ Nôm mà ông Vũ Văn Kính thì lại dùng toàn chữ quốc ngữ trong quyển sách mang cái nhan đề đó của mình thì có phải là trớ trêu hay không? Đương nhiên là ông Vũ có quyền dùng chữ quốc ngữ để trình bày tư tưởng của mình vì đây dù sao cũng chỉ là một thứ “siêu ngôn ngữ” nhưng cái đối tượng được bàn thảo trong quyển sách của ông thì dứt khoát phải là những chữ Nôm và cái “nguyên tác” mà ông Vũ đã tìm ra được cũng dứt khoát phải là một văn bản Nôm (còn việc phiên âm văn bản Nôm đó ra chữ quốc ngữ thì lại là một việc khác). Đằng này cả quyển sách 358 trang của ông không có lấy một chữ Nôm nào dù là một chữ đơn giản nhất! Hay là tác giả cho rằng trước đó mình đã có ấn hành quyển Truyện Kiều đối chiếu chữ Nôm – quốc ngữ (Viện Bảo tàng lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, 437 trang) rồi nên trong quyển này mình không cần viết chữ Nôm? Nếu quả tác giả đã hiểu ngầm như thế thì: một là cái danh từ “nguyên tác” phải được dành cho quyển kia chứ không phải cho quyển này; hai là làm như thế thì có khác gì chơi trò hú tim với người đọc vì có phải ai có quyển kia cũng có quyển này hoặc ngược lại đâu! Huống chi, trong quyển đối chiếu, ông Vũ cũng không hề đánh số thứ tự cho các câu thì nếu có muốn đối chiếu cũng phải mất rất nhiều thì giờ.

Nhân tiện, xin nói thêm đôi lời nhận xét chung về công trình khảo lục Truyện Kiều của ông Vũ Văn Kính. Năm 1971, tại Sài Gòn, ông đã cho ấn hành quyển Đoạn trường tân thanh khảo lục, tất nhiên là do ông khảo lục, và do Bùi Hữu Sủng nhuận chính, gồm có XV trang vừa nhan đề, vừa tựa, vừa cách sử dụng, 128 trang phiên âm quốc ngữ, kể cả 3 trang đính chính và 205 trang chữ Nôm. Đến năm 1993, ông cho ấn hành Truyện Kiều đối chiếu chữ Nôm – quốc ngữ. Đây thực chất chỉ là Đoạn trường tân thanh khảo lục mà phần chữ Nôm, thay vì để làm một phần riêng sau phần quốc ngữ, thì bây giờ đã được ông cho sao chụp lại “nguyên xi” mà in kèm theo phía bên trái của từng trang quốc ngữ tương ứng mà thôi. Nói “nguyên xi” thì cũng không tuyệt đối đúng vì năm 1971, với bản khảo lục thì còn có tên của Bùi Hữu Sủng ở trang nhãn cũng như ở cuối phần chữ Nôm nhưng năm 1993 với bản đối chiếu thì Bùi Hữu Sủng đã bị xóa tên. Trớ trêu có một điều là trong bản đối chiếu 1993, tuy tên của Bùi Hữu Sủng không còn nhưng ở cuối phần chữ Nôm thì ông Vũ vẫn “cẩn thận” giữ lại được những chữ “Tân Hợi niên trọng hạ, Tây lịch nhất cửu thất nhất niên” (= giữa hạ năm Tân Hợi, Tây lịch năm 1971) là niên điểm mà trên bản khảo lục thì Bùi Hữu Sủng còn đứng tên nhuận chính.

Bây giờ xin nói đôi lời về phương pháp của ông Vũ Văn Kính. Ông Vũ có nhắc đi nhắc lại từ 1971 đến nay (1998) về phương pháp “cơ cấu”. Đây là một danh từ lớn và ông Vũ có nhắc đến tên của Roland Barthes là “tay cũng già”. Nhưng chỉ cần xét hai thí dụ nhỏ thôi thì cũng đủ biết ông đã hiểu “cơ cấu” như thế nào rồi.

Thí dụ thứ nhất: xin lấy lại trường hợp của hai tiếng “nung sừ” mà chúng tôi đã nói đến trên Kiến thức ngày nay, số 283. Truyện Kiều có một hệ thống địa danh điển tích và một hệ thống địa danh chánh cống nhưng ông Vũ đã đánh đồng hệ trước với hệ sau nên nhất định không chịu con sông Tương nông sờ mà phải là… “nung sừ” mới đúng.

Thí dụ thứ hai: Hai câu 361 – 362 vẫn được phiên là:

Vội vàng lá rụng hoa rơi,

Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang.

Nhưng thay vì dời, ở tiếng thứ 6 của câu 8 thì ông Vũ lại phiên là “về” bởi, theo ông, “Chữ về rõ nghĩa hơn vì lúc chia tay thì kẻ về phòng sách, người về phòng riêng của mình”.

Ông đã thiên về nghĩa của câu thơ mà quên mất hệ thống vần trong toàn bộ Truyện Kiều. Hệ thống này đã được Nguyễn Thế Lịch đúc kết – có thừa hưởng và/hoặc tham khảo các công trình của Nguyễn Phan Cảnh, Lê Anh Hiền, Phan Ngọc – trong bài “Nguyên tắc hiệp vần trong Truyện Kiều” (Ngôn ngữ, số 1, 1992, tr. 24 – 38) mà sau đây là các nguyên tắc hữu quan:

1a. Âm cuối phải đồng nhất;

1b. Âm cuối zéro thì âm chính không được khác dòng;

2a. Âm chính phải đồng nhất hoặc cùng dòng;

2b. Âm chính khác dòng thì phải có âm cuối là bán nguyên âm /j/.

Âm về mà ông Vũ đã chọn cho tiếng thứ 6 của câu đang xét không nằm trong nguyên tắc nào cả: ê (của về) không thể vần với ơi (của rơi). Xin hãy đọc:

Vội vàng lá rụng hoa rơi,

Chàng về viện sách, nàng về lầu trang.

Thật là lạc lõng. Huống chi ba bản Nôm mà ông Vũ dùng để hiệu khảo đều chép “dời ”. Thế mà ông lại theo bản Bùi Kỷ – Trần Trọng Kim in lần thứ 8 để chép là “về” trong khi chính bản này in lần thứ 6 cũng hãy còn chép đúng là “dời ”. Ông Nguyễn Quảng Tuân (trao đổi riêng) có nhận xét rằng bản in lần thứ 8 này có rất nhiều lỗi. Tiếc rằng ông Vũ lại chọn đúng bản có nhiều lỗi này để thực hiện phương pháp “cơ cấu” của mình. Đi tìm nguyên tác của một truyện Nôm – tất nhiên là viết bằng chữ Nôm – mà lại căn cứ vào một bản quốc ngữ in sai rất nhiều chỗ rồi lại lấy đúng cái chữ khác biệt của nó mà đưa vào phần chính văn thì liệu có đúng hướng “cơ cấu” được không?

Vì là người ngoại đạo về chuyện “cơ cấu” nên chúng tôi chỉ dám đưa ra hai thí dụ nhỏ như trên để thưa chuyện cùng ông. Những việc đại sự khác thì xin nhường lại cho các nhà chuyên môn.

§ 518. Kiến thức ngày nay, số 297, ngày 1- 11 – 1998

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 283, ông có giải thích rằng “chữ thật bị đọc trại thành thiệt (trong thiệt thà, thiệt tình) là do kiêng tên của bà Hồ Thị Hoa, chính phi của hoàng tử Đảm, về sau là vua Minh Mạng”. Còn chữ thiệt trong thiệt thòi, thiệt mạng, v.v., là những biến âm của chữ thật nào khác, hay cũng là của chữ thật đó?

AN CHI: Thiệt trong thiệt thòi, thiệt mạng không phải là biến âm của chữ thật nào cả vì đó là âm Hán Việt chánh cống của chữ 折, có nghĩa là gãy, là hao tổn. Chữ 折 này thường chỉ được biết đến với âm chiết (trong chiết tự, chiết khấu, khuất chiết, v.v.) nhưng âm thiệt của nó đã từng được ghi nhận trong các quyển Đường vận, Tập vận, Vận hội, Chính vận, mà Khang Hy tự điển đã dẫn lại. Đó là “thực liệt thiết, âm thiệt” (食列 切,音舌). Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) cũng có ghi nhận âm này với những nghĩa đã nói. Các quyển từ điển như Từ nguyên, Từ hải đã hỗn nhập hai âm làm một nên đã góp phần làm mất tung tích của âm thiệt, khiến ngay cả một số người biết chữ Hán cũng ngộ nhận mà cho rằng thiệt là một từ “thuần Việt”. Cuối cùng, xin nói thêm rằng thòi trong thiệt thòi cũng là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 摧 mà âm Hán Việt hiện đại là tồi, cũng có nghĩa là gãy như chữ thiệt (nên mới đi chung với chữ này mà tạo thành tổ hợp đẳng lập thiệt thòi).

§ 519. Kiến thức ngày nay, số 298, ngày 10-11-1998

Ô. Nguyễn Khắc Bảo (Bắc Ninh): Kiến thức ngày nay, số 284 và 290 đã bàn về hai chữ xích địa trong đôi câu đối ở miếu Trung Liệt. Vậy viết 尺地 (thước đất) đối với thanh thiên (trời xanh) có chỉnh hay không? Tôi xin trích dẫn ý kiến của Bảng nhỡn Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, quyển IV, phần “Thiên chương” (tr. 163) để bạn đọc tham khảo:

“Tiên nho nói: Dùng chữ để đối với nhau trong thể văn biểu có 6 phép:

1. Chính danh đối (đối đúng từ chữ): như thiên địa đối với nhật nguyệt.

2. Đồng loại đối (chữ cùng loại đối với nhau): như quỳnh cư đối với ngọc bạch.

3. Liên châu đối (chữ điệp âm đối với nhau): như minh minh đối với hách hách.

4. Tá tự đối (mượn nghĩa để đối): như Ngũ tướng đối với thiên quân. Ngũ tướng ở đây là viên tướng họ Ngũ” nhưng ngũ còn có nghĩa là số 5 nên mới mượn để đối với thiên là số ngàn.

5. Tựu cú đối (chữ câu nào chọi với chữ câu ấy) như:

Nhất huy ngũ quận, dự thập tải dĩ lâm dân;

Bạch thủ đan tâm, quy đồng đình nhi sự chúa.

(Một tay năm quận, hơn mười năm cai trị nhân dân;

Đầu bạc lòng son, về sân đỏ phụng thờ vua chúa).

6. Bất đối chi đối (hai câu không có ý đối mà thành đối với nhau) như:

Tự hữu sinh dân dĩ lai;

Vị như kim nhật chi thịnh.

(Từ có sinh dân đến giờ,

Chưa bằng ngày nay là thịnh).

Trở lên là dẫn lời Lê Quý Đôn để thấy rằng người xưa đã từng có phép đối như thế và câu đối ở miếu Trung Liệt dùng chữ xích địa 之 地 (thước đất) theo lối tá tự đối (mượn nghĩa của xích 赤 là đỏ để đối với thanh là xanh) là rất chỉnh. Xin dẫn thêm đôi câu đối rất hay để minh họa cho phép tá tự đối như sau:

Thi nhân hữu tửu đa kỳ cú 奇句;

Sự đáo vô tâm tức thị tiên 是仙.

Hai chữ kỳ cú ở câu trên đã dùng phép tá tự của hai chữ kỳ 其 để đối với thị 是 và (chim) cú 鴝 để đối với tiên 仙.

Còn về nội dung, theo thiển kiến, ý “trơ đất đỏ”; “đất trơ trụi”, “đất trống trơn” chỉ là văn tả cảnh điêu tàn của thành quách Thăng Long sau khi hai vị Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu tuẫn tiết. Vậy viết “còn thước đất” mới gợi đúng tâm sự đau lòng của người dân mất nước. Tâm sự này đang nặng trĩu trong lòng mọi người dân Việt lúc ấy vì nước ta chỉ còn “thước đất” để lập miếu Trung Liệt thờ các chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc.

AN CHI: Sáu “phép” mà Lê Quý Đôn đã nêu thực chất chỉ là những nhận xét về thực tiễn đối chứ không phải là những quy tắc đối. Huống chi việc chia thành 6 “phép” đó lại không hề căn cứ vào tiêu chí phân loại cụ thể và nhất quán nào: đồng loại đối và liên châu đối chẳng qua cũng chỉ là chính danh đối mà thôi. Rồi ngay cái tên “chính danh đối” (đối đúng từng chữ) cũng đã mặc nhiên “chê” rằng những “phép” kia là không chính danh, nghĩa là không chỉnh, không chuẩn. Sở dĩ người ta chấp nhận những “phép” không chính danh đó là vì những “phép” này dành cho thể văn biểu nói riêng và văn biền ngẫu nói chung, là những thể văn mà độ dài và số chữ (quá nhiều!) làm cho việc thực hiện “chính danh đối” “đại trà” trở thành một việc cực kỳ khó nhọc. Chính là để giảm thiểu sự khó nhọc này mà người ta chấp nhận những “phép” không “chính danh” kia chứ đối với câu đối, một thể văn độc lập và độc đáo thì lại khác. Câu đối là một thể văn hai vế mà mỗi vế đều có độ dài rất ngắn, thường là trên dưới 10 chữ chứ trên 20 chữ đã là hiếm. Thử nghĩ xem, trong câu đối với tính cách là một thể văn mà lại thực hiện cái “phép” thứ sáu là “bất đối chi đối” thì câu đối còn tồn tại được ở chỗ nào? Xin nói thêm rằng cái mà Lê Quý Đôn gọi là tá tự đối chính là cái mà ông Lê Thận gọi là thanh đối còn ông Hoàng Văn Hoa gọi là đối âm, mà trên Kiến thức ngày nay, số 293, chúng tôi đã lạm phép gọi là “đối đế”.

Để minh họa thêm cho lối tá tự đối, ông còn nêu đôi câu đối:

Thi nhân hữu tửu đa kỳ cú (奇句)

Sự đáo vô tâm tức thị tiên (是仙)

Ông cho rằng hai chữ “kỳ cú” của câu trên đã dùng phép tá tự của hai chữ kỳ 其 (để đối với thị 是 và (con) cú 鴝 (để đối với tiên 仙). Nhưng cú đối với tiên là chuyện trong tiếng Việt (“Mẹ cú đẻ con tiên”) còn đôi câu đối mà ông đã nêu thì lại là Hán văn 100% nên không thể hiểu như ông đã viết được: trong tiếng Hán, chữ 鴝 không hề có nghĩa là con (chim) cú còn cái chữ 鴝 mà ông đọc là (chim) cú thì lại là chữ Nôm!

Tóm lại, dù có gọi mấy tiếng xích địa (thước đất) là tá tự đối, đối âm hay thanh đối thì đó cũng là một trường hợp đối không chính danh, nghĩa là không chỉnh, không chuẩn.

Còn về nội dung, ông cho rằng “còn thước đất” mới nói lên được tâm sự của người dân mất nước chứ “đất trơ trụi”, “đất trống trơn” chỉ là văn tả cảnh điêu tàn của thành Thăng Long mà thôi. Nhưng

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu?

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!

Đằng sau cái cảnh “đất trơ trụi”, “đất trống trơn” là cả một nỗi đau thống thiết của người dân trước cảnh nước mất nhà tan đấy chứ. Mà mấy tiếng đó lại còn tố cáo được tội ác chiến tranh của giặc nữa.

Ông cho rằng, “lúc ấy nước ta chỉ còn “thước đất” để lập miếu Trung Liệt thờ các chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc”. Nếu hiểu theo cách này (vẫn còn đất để lập miếu thờ) thì lúc bấy giờ chúng ta đâu có “mất đất”: trừ cố nông không có tấc đất cắm dùi còn bần nông, trung nông, phú nông và… địa chủ thì nói chung ai cũng ở nhà nấy và khai thác ruộng nấy đấy chứ. Rồi các tầng lớp khác cũng tương tự. Nhưng chẳng có lẽ như thế là ta không mất nước?

Trên đây dù sao cũng chỉ là nói cho cạn lẽ chứ chúng tôi chưa có lần nào (trên các số 284, 293) dám khẳng định rằng tác giả của đôi câu đối đang xét đã viết xích địa 赤地 (là đất trơ trụi) cả.

§ 520. Kiến thức ngày nay, số 298, ngày 10-11-1998

ĐỘC GIẢ: Bạt trong lều bạt, nhà bạt có phải là do tiếng Pháp bâche (= vải bạt) mà ra?

AN CHI: Có những quyển từ điển đã giảng như thế thật, chẳng hạn Tầm nguyên tự điển Việt Nam của Lê Ngọc Trụ (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993). Nhưng chúng tôi cho rằng đây chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên vì chữ bạt đã có trong tiếng Việt từ xưa. Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh của A. de Rhodes (Roma, 1651) đã đối dịch từ bạt bằng tiếng Bồ là ramada và tiếng La là umbraculum. Cả hai từ dùng để đối dịch này đều có nghĩa là cái mái che tạm để trú ẩn. Vậy bạt không bắt nguồn ở từ bâche của tiếng Pháp. Đó là một từ Việt gốc Hán và là âm Hán Việt hiện đại của chữ 茇, có nghĩa gốc là cái lều cỏ. Khi người Việt Nam tiếp xúc với từ bâche thì họ đã có sẵn từ bạt để dịch nó, chứ không phải là đã dùng âm bạt để phiên âm từ bâche.

§ 521. Kiến thức ngày nay, số 298, ngày 10-11-1998

ĐỘC GIẢ: “Qui dort dîne”: xin cho biết nguồn gốc và ý nghĩa của câu này.

AN CHI: Dictionnaire général de la langue française của Adolphe Hafzfeld và Arsène Darmesteter cũng chỉ giảng rằng đó là một câu tục ngữ (nên không biết tác giả) nay được hiểu là người nào ngủ thì không cảm thấy đói nhưng ngày xưa thì lại được hiểu là người ta nhịn ăn khi người ta thức dậy sau bữa ăn.

§ 522. Kiến thức ngày nay, số 299, ngày 20-11-1998

Ông Nguyễn Phương Nghi (Đà Nẵng): Tôi có đọc Chuyện Đông chuyện Tây của An Chi trên các số Kiến thức ngày nay, số 284, 290, 293 bàn về đôi câu đối ở miếu Tam Trung, cũng gọi là Trung Liệt miếu tại Hà Nội. Ông An Chi, theo biện chứng pháp sắc bén cố hữu đưa ra 2 điểm:

1. Xích 赤 địa, chứ không phải xích 尺 địa;

2. Thiên 千 niên, chứ không phải thập 十 niên.

Nhưng thực chứng pháp đã cho thấy tự dạng trên cổng Trung Liệt miếu là: xích 尺 và thập 十. Tôi nghĩ rằng xích 尺 (thước) đối với thanh (xanh), trong trường hợp này là đối thanh, đối âm như các cụ túc nho lý giải mà ông Hoàng Văn Hoa đã có dịp chất chính*. Còn “thập niên tâm sự” thì ông An Chi cho rằng ông Vũ Tuyên Hoàng “không có lý” vì “đã ôm mối hận đi xuống tuyền đài thì mối hận đó phải là ngàn năm (thiên niên) chứ nếu chỉ có mười năm thì còn hận… mà làm chi”.*

Tôi cũng có tìm hiểu về cụ Hoàng Diệu, đặc biệt mảng thơ văn người đương thời phúng điếu cụ, xin trình chính ông An Chi cùng chư vị độc giả sự thật về cái “tâm sự mười năm” đó như sau:

Tiến sĩ Nguyễn Chánh, người huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, điếu:

Công năng bất cầu sinh, khả vô nhượng thập niên tiền tráng liệt;

Ngã diệc trường thái tức, như chi hà lục tỉnh thức giang sơn.

Bản dịch sẵn:

Sống tạm ngài không thèm, so tiền nhân, mười năm trước đâu kém tráng liệt;

Thở dài tôi ngán lắm, nhìn xem non nước sáu tỉnh biết sao đây!

Lại có câu đối Nôm khuyết danh:

Bạn cũ có chết đâu, bốn biển chín châu nghe tráng liệt

Quê ta đành nhớ mãi, mười năm hai lượt khóc anh hùng.

Bài Chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, câu 55-56 viết:

Kể từ năm Dậu bao xa,

Đến nay tính đốt phỏng đà mười niên.

Năm Dậu tức Quý Dậu 1873 là năm Nguyễn Tri Phương chết với thành Hà Nội đến Nhâm Ngọ 1882 là năm Hoàng Diệu “lòng cô trung thề với Long thành, chết mong theo Nguyễn Tri Phương dưới đất”.

AN CHI: Chúng tôi xin hoan nghênh và cám ơn về những cứ liệu thú vị và bổ ích mà ông đã có nhã ý gửi đến. Xin trân trọng giới thiệu để bạn đọc rộng đường tham khảo. Bây giờ xin thưa thêm với ông đôi lời như sau (vì cũng đã nói kỹ trên các số 284, 293 và 298).

1. “Thực chứng pháp” cũng đã cho thấy rõ ràng rằng hai tiếng cuối trong câu sau của đôi câu đối tại cửa chính đền Kiếp Bạc ở miền Bắc và tại chính điện đền thờ Trần Hưng Đạo ở Thành phố Hồ Chí Minh là hai chữ “thu thanh” nhưng chữ “thu” ở đây lại là hoàn toàn lạc lõng, như đã nói trên số 293. Vậy không phải bao giờ “thực chứng pháp” cũng có thể có tiếng nói cuối cùng.

2. Hai tiếng “mười năm” trong câu đối của Nguyễn Chánh, trong câu đối Nôm của tác giả vô danh và trong câu 55 – 56 của bài Chính khí ca mà ông đã dẫn chỉ nói lên khoảng cách thời gian giữa cái chết của Nguyễn Tri Phương và cái chết của Hoàng Diệu chứ hoàn toàn không nói lên được cái gì khác. Về điều này chúng tôi cũng đã nói trên số 284. Nay xin phân tích rõ các cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa cụ thể mà ông đã nêu.

Thập niên tiền tráng liệt (người tráng liệt mười năm trước) trong câu đối của Nguyễn Chánh là một cụm từ dùng để chỉ Nguyễn Tri Phương, người đã qua đời trước Hoàng Diệu mười năm. Vậy mấy tiếng thập niên (mười năm) ở đây là hoàn toàn thích hợp.

Mười năm trong câu đối Nôm khuyết danh là “mười năm hai lượt khóc anh hùng”: lần đầu là năm Quý Dậu 1873 (khóc Nguyễn Tri Phương) và lần sau là năm Nhâm Ngọ 1882 (khóc Hoàng Diệu). Vậy hai tiếng “mười năm” ở đây là hoàn toàn thích hợp.

Mười niên trong câu 55 – 56 của bài Chính khí ca cũng là khoảng cách Quý Dậu – Nhâm Ngọ nói trên. Vậy hai tiếng “mười niên” ở đây cũng hoàn toàn thích hợp.

Còn thập niên (mười năm) trong câu đối ở miếu Trung Liệt thì sao? Tất nhiên không thể tách rời hai tiếng này khỏi hai tiếng “tâm sự” được vì “thập niên tâm sự” (tâm sự mười năm) là một cấu trúc danh từ tính chặt chẽ. Vậy thập niên tâm sự này là của ai? Tất nhiên không thể là của Nguyễn Tri Phương. Mối liên hệ luận lý chặt chẽ trong đôi câu đối đang xét là: câu trước nói lên cảnh giang sơn, thành quách bị tàn phá còn câu sau thì nói lên tâm sự của người đã trấn giữ Hà thành trước cảnh đổ nát đó. Người đó là Hoàng Diệu và niềm tâm sự này chỉ có thể khởi phát sau khi Hà thành thất thủ lần thứ hai (1882) thì làm sao nó có thể kéo dài “mười năm” từ 1873 đến 1882 cho được? Vì vậy mà cái khoảng cách “mười năm” từ Quý Dậu đến Nhâm Ngọ không thể ứng dụng vào đôi câu đối ở Trung Liệt miếu. Huống chi, bên cạnh cái chữ thập (mười) phi lý kia, người ta còn biết được một dị bản nữa là chữ thiên (ngàn). Chính sự tồn tại của dị bản này cho phép người ta nghĩ rằng thiên mới đúng là cái chữ gốc bị “tam sao” nên đã “thất bản” mà thành thập, tạo ra một sự phi lý là niềm tâm sự lại khởi phát đến “mười năm” trước khi sự việc hữu quan xảy ra.

Trở lên là những điều mà chúng tôi muốn trao đổi thêm với ông một cách thẳng thắn bằng “biện chứng pháp” chứ chúng tôi vẫn có nói (Kiến thức ngày nay, số 293) rằng biết đâu chính tác giả đã viết xích là thước và thập là mười. Còn sự thật như thế nào thì ở đây “thực chứng pháp” cũng không thể có tiếng nói cuối cùng được.

§ 523. Kiến thức ngày nay, số 299, ngày 20-11-1998

ĐỘC GIẢ: Cả dòng tộc chúng tôi đều họ Huỳnh nhưng một người chú tập kết ra Bắc đã đổi thành họ Hoàng. Đến năm 1975 thì chú tôi trở về sinh sống tại quê nhà. Dòng tộc ai cũng họ Huỳnh; chỉ có chú tôi và các con của chú tôi là họ Hoàng. Điều này làm chú tôi phải suy nghĩ và tìm tòi trong sách vở. Cho đến nay chú tôi vẫn chưa tìm ra được tài liệu nào chứng minh cho sự đổi họ từ Hoàng thành Huỳnh là do sự kiêng tên của chúa (Nguyễn) Hoàng mà ra. Xin nhờ ông An Chi tìm giúp (đính kèm bản sao một phần bức thư của chú tôi gửi cho tôi và một số trang tộc phả của chúng tôi).

AN CHI: Việc kiêng húy của chúa Nguyễn Hoàng là một hiện tượng mà trong dân gian rất nhiều người đã biết đến từ lâu. Nhưng vì ông cần dẫn chứng bằng sách vở cho thuyết phục nên chúng tôi xin cung cấp cho ông như sau.

Sách Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại của Ngô Đức Thọ, do Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1997 đã ghi rõ ràng như sau: “Âm kiêng húy Đoan quốc công Nguyễn Hoàng. Kiêng húy âm Hoàng, đọc chệch thành Huỳnh. Đến nay các địa phương miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ vẫn dùng âm Huỳnh như: Huỳnh Mẫn Đạt, Huỳnh Thúc Kháng, v.v..” (tr. 120). Sách Nguyễn Phúc tộc thế phả của Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 1995, trong phần “Một số húy danh cần biết trong họ Nguyễn Phúc” cũng ghi rõ rằng “chữ Hoàng phải đọc trại âm thành Huỳnh” (tr. 427).

Trong thư, chú ông có nói rằng họ của quý ông viết bằng chữ 黄 là màu vàng nên phải đọc là hoàng, chỉ có chữ 黌 là trường học thì mới đọc là huỳnh. Thực ra, trong Hán tự có rất nhiều chữ “hoàng” khác nhau nhưng về nguyên tắc kiêng âm thì bất cứ chữ “hoàng” nào cũng phải đọc thành huỳnh cả. Để quý ông rõ thêm về tính phổ biến của việc kiêng húy dưới triều Nguyễn, xin trích dẫn thêm sách của Ngô Đức Thọ như sau:

“Khác với việc viết kiêng chữ húy, việc kiêng âm húy gắn bó nhiều với yếu tố truyền khẩu. Từ việc kiêng húy trong gia tộc của chúa Nguyễn lan truyền đến những người giúp việc xung quanh, quan lại cao cấp, những người dân có quan hệ công việc đến phủ chúa v.v. người này truyền cho người khác, lâu dần thành một tập quán kiêng âm húy của các chúa Nguyễn rất bền vững” (Sđd, tr. 120).

Sở dĩ trong bản phiên âm quyển tộc phả, ông thấy có lúc phiên Hoàng, có lúc phiên Huỳnh (nhưng Huỳnh vẫn là tuyệt đại đa số, theo những tờ mà ông đã gởi đến) thì chẳng qua là vì người phiên âm đã không nhất quán đó thôi.

Cuối cùng xin lưu ý rằng hiện nay có tộc gốc họ 黄 nhưng do di chuyển từ Nam ra Bắc nên có người ghi và đọc họ của mình là Huỳnh, có người lại ghi và đọc họ của mình là Hoàng; có tộc vẫn giữ họ Hoàng một cách nhất quán mà không có ai đổi thành Huỳnh; đồng thời có tộc họ Huỳnh không có ai đổi thành Hoàng cả. Chúng tôi biết nhiều người họ Huỳnh ở trong Nam sẵn sàng mang tiếng là “mất gia phả” chứ không cần đổi lại thành họ “Hoàng” mà cũng không cần biết đến một ông tổ họ Hoàng nào cả. Họ là một hiện tượng không đơn giản. Ở bên Pháp, họ gốc Lefèvre/Lefèbvre phân thành họ Lefébure là một thí dụ điển hình mà Ferdinand de Saussure đã nói đến trong Cours de linguistique générale*. Nhưng hình như không ai có cái ý tưởng bắt những người mang họ Lefébure phải đổi lại thành Lefèvre mà cách viết bác học là Lefèbvre.

§ 524. Kiến thức ngày nay, số 299, ngày 20-11-1998

ĐỘC GIẢ: Cụm từ “tứ đổ tường” được dùng để chỉ 4 việc: rượu chè – trai gái – cờ bạc – hút xách. Vậy “đổ tường” nghĩa là gì?

AN CHI: Đổ tường có nghĩa là bức vách và ba tiếng tứ đổ tường có xuất xứ ở thiên “Tĩnh tâm” trong sách Minh tâm bửu giám:

“Tửu, sắc, tài, khí, tứ đổ tường;

Đa thiểu hiền ngu tại nội sương.

Nhược hữu thế nhân khiêu đắc xuất;

Tiện thị thần tiên bất tử phương”.

nghĩa là:

Uống rượu, mê gái, bài bạc, hút xách là bốn bức tường (tài là tiền của – khí là làn hơi, ở đây dùng để ám chỉ việc hút xách) – (làm sao chẳng có) ít nhiều kẻ ngu người hiền (bị nhốt) dưới cái chái nhà đó. Nếu ở đời có người nhảy ra khỏi (chỗ này) được – Thì đó là phương thuốc bất tử của bậc thần tiên.

§ 525. Kiến thức ngày nay, số 300, ngày 1-12-1998

Ông Quang Thoại, 89 Hàm Nghi, Qui Nhơn: Trên Kiến thức ngày nay, số 294, ông đã thẳng thắn trao đổi với ông Lê Đình Bá ở Đồng Tháp về câu “Thoại bất đầu cơ bán cú đa”. Tôi cũng xin thẳng thắn trao đổi với ông như sau. Đọc lời dịch của ông Trương Vĩnh Ký, tôi hiểu là: Lời nói không gài bẫy lập mưu gì thì không cần dài dòng văn tự, cũng có nghĩa là lời nói ngay thẳng chân thành thường ngắn gọn. Chuyện gì các ông phải trích dẫn dài dòng để bảo rằng “vị học giả của chúng ta đã dạy người đời “gài máy lập mưu” mà bẫy nhau, gạt nhau và ông đã dạy như thế ngay trong sách Minh tâm bửu giám”! Vậy xin hỏi các ông dài dòng lý sự với dụng ý gì? Có phải các ông “gài máy lập mưu” để bảo rằng ông Trương Vĩnh Ký

1. dịch sai (kiến thức kém);

2. dạy người đời “gài máy lập mưu” mà bẫy nhau (nêu rõ dã tâm và bản chất xấu của ông Trương Vĩnh Ký)?

Có phải các ông đã làm như thế để hạ thấp giá trị của một học giả đã thành danh, để gián tiếp cho rằng mình đạo đức, uyên bác, hay để nâng cao “chất lượng” của Chuyện Đông chuyện Tây?

AN CHI: Xin nói ngay một cách rành mạch rằng chúng tôi không bàn về sự nghiệp và nhân cách của Trương Vĩnh Ký ở mục Chuyện Đông chuyện Tây, dù là trực tiếp hay gián tiếp. Còn thái độ và tình cảm thực của chúng tôi đối với vị học giả này như thế nào thì tưởng rằng Chuyện Đông chuyện Tây lại không phải là chỗ để chúng tôi trình bày. Chỉ xin nhân tiện giới thiệu với ông bài viết rất lý thú và bổ ích của Phong Lê, nhan đề “Trương Vĩnh Ký – Cuốn sổ bình sanh công với tội”, đăng trên tạp chí Văn học, số 9 (319), tháng 9-1998 nhân 100 năm ngày mất của vị học giả (1-9-1898). Còn mục Chuyện Đông chuyện Tây thì có vị trí và ý nghĩa riêng của nó đối với từng bạn đọc (khen hay chê, thích hoặc không thích, thích nhiều hoặc thích ít, v.v.) chứ làm sao mà chúng tôi lại phải mượn danh của Trương Vĩnh Ký một cách gián tiếp?

Bây giờ, xin lại thẳng thắn trao đổi với ông trong phạm vi học thuật thuần tuý như sau. Trên số 294, chúng tôi đã viết: “Thế là vị học giả của chúng ta đã dạy người đời “gài máy lập mưu” mà bẫy nhau, gạt nhau và ông đã dạy như thế ngay trong sách Minh tâm bửu giám là gương báu để soi sáng lòng người”. Với câu trên đây, chúng tôi chỉ muốn nói: “Trương Vĩnh Ký dịch hai tiếng đầu cơ thành gài máy lập mưu là đã dịch sai và dịch sai như thế thì chẳng khác nào dạy người đời gài máy lập mưu mà bẫy nhau gạt nhau ngay trong bản dịch Minh tâm bửu giám”. Chẳng qua trước một câu hỏi mà chúng tôi cho là có ý vặn vẹo, chúng tôi đã có một cách trả lời “nóng nảy” còn ông thì lại nhạy cảm nên mới xảy ra hiểu lầm đó mà thôi. Chúng tôi không hề có ý muốn nói rằng Trương Vĩnh Ký đã chính thức dạy người đời “gài máy lập mưu” mà bẫynhau, gạt nhau. Nhưng rõ ràng là ở đây Trương Vĩnh Ký đã dịch sai.

Trương Vĩnh Ký không chỉ dịch sai ở điểm đang xét và ở hai chỗ đã nêu thêm trên số 294, mà trong suốt bản dịch Minh tâm bửu giám, dịch giả này còn dịch sai nhiều chỗ khác nữa. Nếu ông cần dẫn chứng thì chúng tôi sẽ sẵn sàng nêu lên để đông đảo bạn đọc cùng nhận xét cho rộng đường dư luận. Chẳng những đã dịch sai nhiều chỗ trong Minh tâm bửu giám mà cả trong khi phiên âm Truyện Kiều sang chữ quốc ngữ và chú thích bản phiên âm này, Trương Vĩnh Ký cũng đã phiên sai ít nhất là 41 chỗ và chú sai ít nhất là 32 chỗ như Nguyễn Quảng Tuân đã chỉ ra một cách hoàn toàn xác đáng trong Chữ nghĩa Truyện Kiều (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990, tr. 9 – 63). Trí giả thiên lự tất hữu nhất thất. Điều này chẳng có gì đáng lấy làm lạ. Mặt khác, các học giả, dù đã thành danh đến đâu, cũng không phải là những bậc thánh, càng không phải là những thần tượng bất khả xâm phạm. Học thuật chân chính luôn luôn đòi hỏi một thái độ bình đẳng và một tinh thần dân chủ, đúng như câu thơ đã trở thành danh ngôn của Horatius: “Grammatici certant et adhuc subjudice lis est” (Các nhà ngữ pháp cứ tranh luận chứ vụ kiện thì vẫn còn chờ đợi ở quan tòa). Có như thế thì học thuật mới có thể phát triển được.

§ 526. Kiến thức ngày nay, số 300, ngày 1-12-1998

Ông Nguyễn Trung, 15 Lê Quý Đôn, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh: Sau khi đọc lời góp ý của ông Lưu Hiến Miện cho ông An Chi trên Kiến thức ngày nay, số 296, tôi xin góp vài ý kiến cho rộng đường dư luận. Tôi là một độc giả bình thường nhưng tôi cũng không bao giờ xem phần giải đáp của An Chi là khuôn vàng thước ngọc làm chuẩn cho kiến thức của mình vì thực tế có ai bắt tôi phải nghe theo An Chi đâu. Nhưng có một người đảm trách việc giải đáp thắc mắc cho bạn đọc như Kiến thức ngày nay chủ trương và An Chi đang làm cũng là đáng quý rồi. Nhiều khi tôi nghĩ An Chi nhận mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay thật chẳng khác nào tự mình chuốc họa vào thân. Nhưng nếu không có người đảm nhận mục Chuyện Đông chuyện Tây thì làm sao giải đáp được những thắc mắc mà độc giả khắp nơi gởi đến. Và nếu An Chi lúc nào cũng nói theo độc giả hoặc các tác giả được trích dẫn thì An Chi đâu phải là An Chi. Vì vậy mà An Chi phải có ý kiến riêng về những vấn đề đó. Còn đúng hay sai thì tự mỗi người xem xét mà vận dụng. Theo tôi, nhiều chỗ, nhiều lúc An Chi giải thích chưa thỏa đáng nhưng trong khi chờ đợi những ý kiến hợp lý hơn hoặc những tư liệu đầy đủ hơn thì sự giải thích đó vẫn bổ ích để cho độc giả tham khảo.

Chân lý là khách quan và kẻ thắng là chân lý chứ không phải chúng ta. Khi tranh luận thì sự lịch thiệp là một yêu cầu quan trọng. Tranh luận trong lúc trà dư tửu hậu cũng cần lịch thiệp huống chi đây lại là một vấn đề khoa học trình bày trên mặt báo cho biết bao nhiêu người đọc. Vậy, mong rằng những lời góp ý cho mục Chuyện Đông chuyện Tây sẽ mang tính chất xây dựng. Cuối cùng, tôi rất hoan nghênh Kiến thức ngày nay đã đăng cả những ý kiến phản bác của phía người đọc: đó là biểu hiện của một sự tôn trọng đáng quý đối với độc giả.

AN CHI: Chúng tôi rất cảm kích trước sự góp ý tận tình và thẳng thắn của ông. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc. Chúng tôi hy vọng rằng nhiều bạn đọc khác cũng quan niệm giống như ông về tính chất của mục “Chuyện Đông chuyện Tây” cũng như về công việc của cá nhân chúng tôi. Xin chân thành cám ơn.

§ 527. Kiến thức ngày nay, số 300, ngày 1-12-1998

ĐỘC GIẢ: Trên Thế giới mới, số 311, trong bài “Thế giới tuyệt mật của các văn nghệ sĩ”, TTP đã viết: “François Marie Arouet – một cái tên xa lạ, nhưng đó là… mật danh của nhà văn, triết gia Pháp Voltaire”. Xin cho biết có phải đó thật là mật danh của Voltaire hay không.

AN CHI: François Marie Arouet là tên thật chứ không phải là mật danh của Voltaire. Ngoài ra, dịch giả còn nhầm lẫn khi viết như sau: “… Voltaire đã mang quà của cơ quan mật vụ đến cho Thủ tướng Régent…”. Thực ra nước Pháp lúc bấy giờ chẳng có vị thủ tướng nào tên là “Régent” cả. Trong giai đoạn lịch sử này, vì vua Louis XV hãy còn thơ ấu nên quyền nhiếp chính được trao cho Philippe d’ Orléans, cháu của vua Louis XIV. Vậy Philippe d’ Orléans là hoàng thân nhiếp chính. Nhiếp chính, tiếng Pháp là régent. Danh từ này đã được “đặc dụng” để chỉ Philippe d’ Orléans nên nhân vật này được gọi là “le Régent” (“Nhà nhiếp chính”). Nhà nhiếp chính này đã trở thành Thủ tướng (theo cách dịch của TTP) sau khi vị Thủ tướng tiền nhiệm là Hồng y Dubois qua đời. Thế là Le Régent, tức Philippe d’Orléans, đã trở thành Premier ministre (thủ tướng) chứ chẳng có ông thủ tướng nào tên là “Régent” cả.

§ 528. Kiến thức ngày nay, số 301, ngày 10-12-1998

ĐỘC GIẢ: Quyển sách quý L’univers des Truyện Nôm (Thế giới của Truyện Nôm) của Maurice Durand (Nxb. Văn hóa, 1998), trang 155 – 157 có phần thứ 11 là Hoàng Trừ truyện và có cước chú số 11 ở cuối trang 155 là “Truyện Hoàng Trừu”. Xin cho biết đây là “Hoàng Trừ” hay “Hoàng Trừu”. Trong Hoàng Trừ truyện, có câu: Biển đề hai chữ tuyển phu tương vàng mà Maurice Durand dịch sang tiếng Pháp là: Une pancarte portait gravé en lettres dor “Choix de l’époux”.

Tôi đồ chừng chữ gravé được dùng để dịch chữ đề còn lettres dor dùng để dịch mấy chữ chữ vàng. Vậy tương là gì và chữ tương vàng là chữ như thế nào?

AN CHI: 1. Maurice Durand phiên âm chữ 儲 thành trừ là hoàn toàn đúng vì thiết âm của nó là “trùng dư thiết, âm trừ 除 ” (Xem chẳng hạn Từ nguyên hoặc Từ hải). Âm trừu mà một vài nhà nho hoặc học giả người Việt Nam đã phiên cho chữ này có thể là do nhầm lẫn hoặc là do kiêng húy mà ra. Có thể là do kiêng húy của Lê Trừ, anh của Lê Lợi và là tổ 6 đời của Lê Duy Bang, tức vua Lê Trang Tông. Cũng có thể là do kiêng húy (một tên húy khác) của bà Trương Thị Dung, vợ của chúa Nguyễn Phúc Khoát và là bà nội của vua Gia Long. Tuy nhiên điều này không lấy gì làm chắc chắn.

Xin lưu ý thêm một điều là chữ 儲 trong sách của Durand là một chữ không chuẩn vì nó chỉ có 17 nét còn chữ trừ thật đúng thì có đến 18 nét và viết là (phần phía dưới bên phải là chữ bạch 白 chứ không phải chữ viết 曰).

2. Chữ tương ngày xưa thì thông dụng hơn nên không phải là khó hiểu như hiện nay. Chẳng hạn trong dân gian có câu:

Chữ nhẫn là chữ tương vàng;

Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu.

Trong Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam*, vì cũng không biết được nghĩa của chữ tương nên Nguyễn Lân đã giảng “tương là đối lẫn nhau”, ngỡ rằng đó là chữ tương trong tương trợ, tương đối mà Hán tự là 相. Thực ra, chữ tương ở đây thì Hán tự là 鑲, có nghĩa là thếp, mạ, viền, bịt (bằng kim loại): tương nha là bịt răng hoặc răng bịt (bằng vàng, bằng bạc); tương bôi tương trản là ly bịt chén bịt (miệng có viền bằng kim loại); tương kim là khảm vàng, bịt (bằng) vàng, thếp vàng, v.v.. Vậy chữ tương vàng chẳng qua là chữ thếp vàng, chữ viền vàng và câu đang xét có thể được “diễn” lại cho dễ hiểu là:

Biển đề hai chữ tuyển phu thếp (hoặc viền) vàng.

§ 529. Kiến thức ngày nay, số 301, ngày 10-12-1998

ĐỘC GIẢ: “Cám ơn” và “cảm ơn”: từ nào đúng thực nghĩa nhất? “Cám” trong “cám ơn” nghĩa là gì?

AN CHI: Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên cho rằng cám ơn và cảm ơn đều dùng như nhau còn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên thì lại giảng rằng cám ơn có tính chất khẩu ngữ để mặc nhận rằng cảm ơn thì mới văn chương hơn.

Cám là một điệp thức của cảm, một hình vị Hán-Việt mà Hán tự là 感, có nghĩa là làm cho động lòng hoặc do tác dụng của ngoại vật mà thấy rung động trong lòng. Vậy cám cũng là một hình vị gốc Hán; hình vị này còn được thấy trong các cấu trúc cám cảnh, cám dỗ. Chữ đầu tiên của câu 1076 trong Truyện Kiều cũng đã được Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, Nguyễn Thạch Giang, Đào Duy Anh, Nguyễn Quảng Tuân phiên thành cám:

Cám lòng chua xót, lạt tình bơ vơ

Hiện tượng thanh điệu 5 (dấu sắc) chuyển đổi với thanh điệu 4 (dấu hỏi) vẫn thường thấy trong nhiều yếu tố gốc Hán: – cánh (đồng) ~ cảnh 境 (= vùng đất); – chuyến (xe) ~ (vận) chuyển; – (thưng) đấu ~ đẩu (thăng); – khấn (vái) ~ (cầu) khẩn, v.v.. Vậy cám ~ cảm là một hiện tượng bình thường.

Sở dĩ cám bị giáng xuống hàng khẩu ngữ còn cảm được nâng cấp lên hàng văn chương là vì lý do lịch sử. Cám vốn là tiền thân của cảm, nay không còn hoặc khó được cảm nhận là một yếu tố gốc Hán, nên dễ bị xem là “thuần Việt”, “nôm na” còn cảm thì được gắn với chữ Hán 感 vì đó là âm Hán Việt hiện đại của chữ này. Mà trong tiếng Việt thì giữa các từ đồng nghĩa, từ Hán Việt vẫn được xem là có sắc thái trang trọng hơn từ “thuần Việt”.

Tóm lại, cám ơn đồng nghĩa với cảm ơn. Có điều hiện nay nhiều người muốn xem cảm ơn là một hình thức trau chuốt hơn vì cho rằng cám ơn chỉ còn thích hợp với khẩu ngữ mà thôi.

Viết thêm cho lần in năm 2018. – Cá nhân chúng tôi thì vẫn dùng cám ơn vì cho rằng đây là đối thoại trực tiếp còn cảm ơn thì lại là việc ghi nhớ ở trong lòng. Trên Facebook, chúng tôi luôn dùng cám ơn.

§ 530. Kiến thức ngày nay, số 301, ngày 10-12-1998

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết hai tiếng “y chang” (nghĩa là giống hệt) có phải là do “y trạng” (giữ y nguyên trạng) mà ra hay không. Trong “giống hệt” thì “hệt” do đâu mà ra và có nghĩa là gì?

AN CHI: Y chang là một từ của khẩu ngữ Nam Bộ bắt nguồn từ tiếng Khmer i châng, có nghĩa là như thế, như vậy chứ không phải là do y trạng mà ra. Một số người muốn gắn chang trong y chang với trang trong bằng trang bằng lứa nên đã phát âm y chang thành “y trang” nhưng đây là một xu hướng không tự nhiên.

Còn hệt trong giống hệt là một điệp thức của hết. Giống hệt là giống hết, giống toàn bộ, không trừ chỗ nào. Hệt/hết là những yếu tố Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 歇 mà âm Hán Việt hiện đại là hiết, có nghĩa là hết. Trong nội bộ tiếng Hán thì hiết 歇 lại là điệp thức của kiệt 竭 (trong kiệt quệ, khánh kiệt, v.v.) cũng có nghĩa là hết. Chính vì vậy mà cả hai chữ đều có thanh phù là hạt 曷. Sự tương ứng về thanh 6 (dấu nặng) với thanh 5 (dấu sắc) giữa hệt và hết là hoàn toàn bình thường vì nằm trong một hệ thống tương ứng chung với rất nhiều cặp điệp khúc khác như: – bịt ~bít, đều bắt nguồn từ chữ 閉 mà âm quen thuộc là bế nhưng còn một âm nữa là biết (bất yết thiết), có nghĩa là đóng kín; – chặn ~chắn, đều bắt nguồn từ chữ trấn 鎮, có nghĩa là ngăn giữ; – (hình) dạng ~ dáng, đều do chữ 樣; – mực (nước) ~ mức (độ), đều do chữ mặc 墨 là mực (thằng mặc là dây và mực: thợ mộc dùng dây nhúng vào mực, gọi là dây mực để nẩy mực mà cưa cho thẳng); v.v..

Vậy hệt ~ hết là một hiện tượng bình thường. Hiện nay hình vị hệt chỉ còn tồn tại trong mấy tổ hợp ít ỏi: giống hệt, y hệt. Đây là những cấu trúc chỉ mức độ mà ngữ pháp Trần Trọng Kim gọi là “tuyệt đối tối cao đẳng cấp” (superlatifabsolu) kiểu như: cao vút, xanh lè, sạch trơn, dơ hầy, v.v.. Chính vì đó là những cấu trúc chỉ “tuyệt đối tối cao đẳng cấp” nên người ta chỉ có thể nói “y hệt”, “giống hệt” mà không thể nói “rất giống hệt”, “y hệt quá” vì hệt tự nó đã hàm ý “rất”, “quá” rồi. Người ta còn tách hệt ra mà dùng riêng với nghĩa của giống hệt, y hệt (Thí dụ: Thằng đó hệt như cha nó) nhưng đây chỉ là hiện tượng thuần túy khẩu ngữ mà thôi.

§ 531. Kiến thức ngày nay, số 301, ngày 10-12-1998

ĐỘC GIẢ: Trên báo Sài Gòn giải phóng chủ nhật 30-81998, mục “Gặp gỡ cuối tuần” (tr. 2) có bài về nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh. Trong câu trả lời, nghệ sĩ Võ An Ninh có cho biết khi được hỏi đùa tại sao nghề của ông lại được gọi là “nhiếp ảnh” thì ông đã đem câu hỏi đó mà hỏi lại học giả Đào Duy Anh và được trả lời rằng “chữ nhiếp của tiếng Hán được hợp lại bằng ba chữ: óc, tim và mắt”. Xin cho biết tự dạng của chữ nhiếp gồm có ba chữ “óc, tim và mắt” đó.

AN CHI: Tự dạng của chữ nhiếp trong nhiếp ảnh là 攝. Bên trái là chữ 扌, thay cho chữ thủ 手 là tay (chữ 手 khi đứng làm bộ thủ ở bên trái thì viết thành 扌); bên phải là ba chữ nhĩ 耳 là tai (cơ quan của thính giác); một chữ ở trên, hai chữ ở dưới. Vậy chữ nhiếp trong nhiếp ảnh được viết bằng một chữ “tay” và ba chữ “tai”. Chính Đào Duy Anh cũng đã cho in chữ nhiếp y hệt như thế trong Hán-Việt từ-điển của mình. Không có chữ nhiếp nào “được hợp lại bằng ba chữ: óc, tim và mắt” cả.

§ 532. Kiến thức ngày nay, số 301, ngày 10-12-1998

ĐỘC GIẢ: Tôi có mua quyển Câu đố Việt Nam do Ninh Viết Giao biên soạn (Nxb. Khoa học Xã hội, in xong và nộp lưu chiểu tháng 8-1997). Cuốn sách có phần “Câu đố về chữ nghĩa” (tr. 208 – 213) mà từ câu 1178 đến câu 1203 là đố về chữ Hán. Nhưng tác giả chỉ cho có “đáp số” (thí dụ câu 1178, trả lời là “chữ thời”) mà không có “lời giải” thì làm sao những người không biết chữ Nho như tôi có thể hiểu được? Vậy xin nhờ Chuyện Đông chuyện Tây giải giúp và xin có lời cám ơn ông An Chi.

AN CHI: Do khuôn khổ có hạn nên chúng tôi chỉ có thể giải một số trường hợp mà thôi, mong ông thông cảm.

1. “Mặt trời đã xế về chùa” là chữ “thời” vì chữ này Hán tự là 時, gồm có chữ nhật 日 là mặt trời ở bên trái và chữ tự 寺 là chùa ở bên phải.

2. “Anh kia hay ngón xuyên tâm” là chữ “tất” vì chữ này Hán tự là 必 gồm có chữ tâm 心 và một nét phẩy 丿 xuyên qua giữa.

3. “Tai nghe, miệng nói, đít làm vua” là chữ “thánh” vì chữ này Hán tự là 聖 gồm có chữ nhĩ 耳 là tai và chữ khẩu 口 là miệng ở trên còn ở dưới là chữ vương 王 là vua.

4. “Một vành trăng khuyết ba sao giữa trời” là chữ “tâm” vì chữ này Hán tự là 心 gồm có một nét móc 乚 (được ví với vành trăng khuyết) và ba nét chấm (được ví với ba ngôi sao).

5. “Chữ lập đập chữ viết, chữ viết đập chữ thập” là chữ “chương”, vì chữ này Hán tự là 章, gồm có chữ lập 立 trên chữ viết 曰 và chữ viết này lại nằm trên chữ thập 十.

§ 533. Kiến thức ngày nay, số 302, ngày 20-12-1998

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 254, trả lời câu hỏi “Mã giám sinh có râu hay không?”, ông đã viết: “Nếu “đức” giám sinh họ Mã mà không có râu thì làm sao Nguyễn Du có thể viết được “Mày râu nhẵn nhụi” (còn áo quần thì bảnh bao)”? Rồi ông nhắc đến “một bài đã đăng trên Kiến thức ngày nay dạo nào”, có phải ông muốn ám chỉ bài “Mã Giám Sinh làm gì có râu mà cạo!” của Thái Doãn Hiểu, đăng trên Kiến thức ngày nay, số 98? Tôi thấy bài này đúng quá ấy đi chứ!

AN CHI: Chúng tôi rất tôn trọng cách nhìn và cách hiểu của ông nhưng xin trao đổi thêm với ông như sau:

Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Hà Nội, 1967) đã ghi “Nhẵn nhụi. – Trơn tru đẹp đẽ: Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao (K)”. Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên (bản 1992) ghi: “Nhẵn nhụi. Được sửa dọn cho sạch sẽ, trơn tru không còn lởm chởm rậm rạp. Mày râu nhẵn nhụi”. Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức ghi: “Nhẵn nhụi. Trơn-tru, sạch-sẽ: Mày râu nhẵn-nhụi, áo quần bảnh-bao (K)”. Còn Từ điển từ láy tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên thì ghi: “Nhẵn nhụi. Trơn tru, không còn lởm chởm, rậm rạp do được sửa, dọn cẩn thận và sạch sẽ (…) Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao (Nguyễn Du)”.

Các quyển từ điển trên đây đều giảng rằng mày râu nhẵn nhụi là mày râu được chăm chút ngay ngắn, gọn gàng, dễ coi. Đó là cách hiểu hoàn toàn bình thường và chính xác. Với câu thơ đang xét, Nguyễn Du muốn nói rằng Mã Giám Sinh đã o bế ngoại hình của mình rất cẩn thận, từ việc tỉa tót mày râu đến việc chưng diện quần áo. “Mày râu nhẵn nhụi” và “áo quần bảnh bao” là hai vế tiểu đối rất cân xứng, bổ sung cho nhau một cách rất hài hòa.

Đáng tiếc là có người lại cho rằng nhẵn nhụi ở đây là trụi lủi vì bị cạo nên mới làm phát sinh cái thắc mắc là: thế thì họ Mã có cạo cả lông mày hay không? Nếu có thì kỳ cục quá nhưng nếu không thì tại sao Nguyễn Du lại viết “mày râu nhẵn nhụi”? Và cuối cùng cũng ra được một cách hiểu “đờ-mi” cho rằng tuy Nguyễn Du viết thế nhưng đức giám sinh chỉ cạo trụi râu thôi chứ lông mày thì ngài còn chừa lại. Nghĩa là, suy cho đến tận chỗ sâu xa của vấn đề, thì nói như thế chẳng khác nào nói rằng Nguyễn Du là một tác giả quá kém cỏi trong việc sử dụng từ ngữ: viết “mày râu nhẵn nhụi” mà lại bắt người đọc phải hiểu rằng chỉ có râu mới bị cạo chứ lông mày thì “nguyễn y vân”. Đến như nói rằng “Mã giám sinh làm gì có râu mà cạo” thì thật là chẳng còn hay biết gì đến ý nghĩa và công dụng của hai tiếng nhẵn nhụi nữa. Khi người ta nói, chẳng hạn “thằng ấy thua nhẵn túi” thì có nghĩa là trước đó trong túi của hắn ta đã có tiền. Nói “thằng ấy ăn đến nhẵn nồi” thì có nghĩa là trong nồi đã từng có cơm. Nói “trộm đã vét nhẵn két sắt” thì có nghĩa là trong két sắt đã từng có tiền bạc, châu báu, v.v.. Vậy nếu họ Mã không có râu thì lấy đâu mà… “nhẵn nhụi”? Đó là còn chưa nói rằng, với nghĩa đang xét thì chính từ nhẵn đơn độc mới được dùng trong tuyệt đại đa số các trường hợp chứ từ tổ đẳng lập nhẵn nhụi, nếu có được dùng, thì cũng chỉ là khiên cưỡng mà thôi. Và chắc chắn là Nguyễn Du đã không dùng hai tiếng nhẵn nhụi với nghĩa này một cách kém cỏi đến thế. Vậy, khẳng định như Thái Doãn Hiểu rằng, “Mã giám sinh làm gì có râu mà cạo” là đã nói ngược với cả hai nghĩa của từ tổ nhẵn nhụi:

1. được dọn sửa trơn tru, sạch sẽ;

2. hết sạch cái đã từng có.

Thái Doãn Hiểu viết: “Nếu biết được về sau con cái đem nhân vật của mình ra cấy râu vào rồi dùng dao thật bén mà “thịt” tuốt luốt cả râu lẫn lông mày chắc cụ Nguyễn Du buồn lắm!”*. Nhưng chắc chắn là Nguyễn Du sẽ buồn hơn rất nhiều nếu cụ biết rằng có người đã biến đấng mày râu họ Mã của mình thành một kẻ ái nam ái nữ, không có lông mày mà cũng chẳng có… râu ! Thực ra việc chăm chút râu mày là một việc mà các đấng tu mi thời xưa vẫn làm một cách tự nhiên (kỹ đến mức nào hoặc theo kiểu dáng nào thì lại là một việc khác). Thậm chí họ còn có cả “đồ nghề” nữa, chẳng hạn cái lược… chải râu mà họ gọi là tu sơ 鬚梳; còn cái nhíp nhổ râu mà họ gọi là tu kiềm 鬚 鉗 thì cũng chẳng phải đến thời nay mới có.

Cuối cùng, Thái Doãn Hiểu viết: “Tôi (…) viết bài này chỉ với mục đích rất khiêm tốn là góp một vài suy nghĩ thô thiển để góp phần vào việc ngăn không đưa những cái sai không đáng sai, không được phép sai vào khu cấm địa là nhà trường”*. Nhưng chẳng có lẽ cái sai của Thái Doãn Hiểu lại là “cái sai đáng sai” vì là “cái sai được phép”?

§ 534. Kiến thức ngày nay, số 302, ngày 20-12-1998

ĐỘC GIẢ: Tại sao lại gọi kinh đô của nhà Hồ là Tây Đô? Xin cho biết vài nét về công trình kiến trúc này và cho biết vì nguyên nhân nào mà Hồ Quý Ly phải dời đô về đó.

AN CHI: Thành nhà Hồ được gọi là Tây Đô để phân biệt với Đông Đô là tên gọi mới của thành Thăng Long vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV. Thành xây năm 1397 trong vòng ba tháng thì xong. Liên quan đến việc này, Đại Việt sử ký toàn thư đã chép như sau:

“Đinh Sửu năm thứ 10 (đời Trần Thuận Tông, 1397- AC), mùa xuân, tháng giêng, sai thượng thư Lại bộ kiêm thái sử lệnh là Đỗ Tỉnh (có cách chép là Mẫn) đi xem xét đo đạc động An-tôn, phủ Thanh-hóa, đắp thành, đào hào lập nhà Miếu nền Xã, mở đường phố, có ý muốn dời kinh đô đến đấy, 3 tháng làm xong. Trước đó, việc bàn của triều thần chưa quyết định, hành khiển Phạm Cư Luận can không nên, Quý Ly nói: “Ý ta đã định trước rồi, ngươi còn nói gì nữa”. Đến đây thi hành. Bấy giờ khu mật chủ sự thị sử là Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại lược nói rằng: Ngày xưa nhà Chu nhà Ngụy dời đô, đều thấy không tốt. Nay đất Long-đỗ có núi Tản-viên, có sông Lô sông Nhị, núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi, các đế vương ngày xưa mở nghiệp dựng nước, không đời nào là không lấy đất ấy làm nơi gốc sâu rễ bền. Nên cứ theo như trước. Bấy giờ quân Nguyên bị giết, giặc Chiêm nộp đầu. Xin nghĩ lại một chút để làm thế vững bền nhà nước. An-tôn là đất chật hẹp hẻo lánh, cuối nước đầu non, nên với loạn mà không nên với trị, chỉ cậy hiểm được thôi. Đời xưa có câu: “Cốt ở đức không cốt ở hiểm”. Quý Ly không nghe”.*

Thực ra, Hồ Quý Ly có những lý do riêng của mình và điều này đã được Song Jeong Nam phân tích như sau:

“Mặc dù các cựu thần trong triều đình phản đối, năm 1397 Hồ Quý Ly vẫn quyết định dời đô về xã Yên Tôn (tức An Tôn – AC), huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Rõ ràng ông nhận thấy Thăng Long, trong suốt 300 năm từng là kinh đô của triều Lý và Trần nằm ở vùng đồng bằng, nếu quân địch tấn công sẽ khó bề kháng cự. Ông cho dời đô là để chuẩn bị về mặt quân sự trước nguy cơ xâm lược của nhà Minh. Đồng thời, cũng là để bứt ra khỏi ảnh hưởng sâu sắc của nhà Trần, tăng cường cho thế lực ủng hộ đường lối cải cách của mình. Thực tế khi quan sát phần còn lại của bức thành, giới nghiên cứu, giới chuyên môn quân sự Việt Nam đều đánh giá bức thành nhà Hồ đã lợi dụng được tối đa địa hình, địa vật chiến lược, nhằm mục đích quân sự là trước hết, thêm nữa là rất kiên cố, có những nét ưu việt nổi bật”.*

Về kiến trúc của tòa thành thì Đại Nam nhất thống chí đã chép như sau:

“Thành cũ của Hồ Quý Ly cũng gọi là thành Tây Đô, ở các xã Tây Giai, Xuân Giai, Phương Giai, huyện Vĩnh Lộc (tỉnh Thanh Hóa – AC), bốn mặt đều xây đá xanh, mỗi mặt dài 120 trượng, cao 1 trượng 2 thước. Lại xây một con đường lát đá hoa từ cửa Nam suốt đến đàn Nam Giao ở Đốn Sơn phía ngoài thành. Mặt Nam thành xây cửa ba tầng bằng đá, như cửa Châu Tước ở thành Thăng Long, còn về mặt Đông, mặt Bắc và mặt Tây đều mở một cửa xây đá; quanh các cửa đều xây nền bằng đá xanh; thành xây bằng gạch vuông, dày và rắn; dưới chân thành có hào ở ngoài. Trong thành ước hơn 300 mẫu, nay đều là ruộng, chỗ nào trũng thấp là hồ ao. Tả hữu thành đều gần núi đá; phía trước thành là sông Mã. Phía ngoài thành lại đắp đất làm la thành, phía tả từ tổng Cổ Biện, phía Đông qua các xã Bút Sơn và Cổ Điệp theo ven sông Bảo chạy về Nam đến núi Đốn Sơn; phía hữu từ tổng Quan Hoàng huyện Cẩm Thủy theo ven sông Mã chạy về Đông thẳng đến núi Yên Tôn mấy vạn trượng; nay đều đổ nát, dân sở tại vỡ làm ruộng”. (Tập 2, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1992, tr. 269 – 270).

Cứ như đã mô tả trong Đại Nam nhất thống chí thì rõ ràng là thành nhà Hồ đã “lợi dụng được tối đa địa hình địa vật chiến lược”, đúng như Song Jeong Nam đã nhận định trong bài mà chúng tôi đã trích dẫn ở phần trên.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3