Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2: Câu hỏi 481 - 507
§ 481. Kiến thức ngày nay, số 284, ngày 20-6-1998
ĐỘC GIẢ: Xin nêu một câu hỏi nhỏ về Sài Gòn thời trước. “Bắt chó bỏ phú de”: phú de là gì?
AN CHI: Phú de [fu⁵ jɛ¹] chứ không phải [fu⁵ zɛ¹] là chỗ nhốt những con chó chạy rông ngoài đường (hoặc chó hoang) bị xe bắt chó bắt về. Phú de của Sài Gòn ngày trước ở đường Champagne (nay là Lý Chính Thắng), phía gần công trường Dân Chủ (hình như bây giờ cũng còn dùng làm chỗ nhốt chó). Về mặt ngôn ngữ thì đó là một từ Việt gốc Pháp, bắt nguồn ở từ fourrière (nơi giam giữ súc vật lang thang, xe cộ vô thừa nhận hoặc phạm luật, v.v.).
§ 482. Kiến thức ngày nay, số 285, ngày 1-7-1998
ĐỘC GIẢ: Trong một buổi phát hình của HTV về France 98, khi giới thiệu về Lyon, phát thanh viên có nói rằng thành phố này do người La Mã lập ra hồi thế kỷ 43 trước Công nguyên. Tôi tưởng tai mình đã nghe nhầm nhưng trong một buổi phát hình sau đó (tối 9-6-1998 lúc 21 giờ 10) thì tôi cũng lại được nghe: Thành phố Lyon do người La Mã lập ra vào thế kỷ 43 trước Công nguyên. Xin cho biết điều này có đúng không. Tên của Lyon bằng tiếng La Mã là gì?
AN CHI: Vào thế kỷ 43 tr. CN thì ngay thành thị La Mã rồi quốc gia La Mã cũng đều chưa ra đời. Theo truyền thuyết, thành thị La Mã được thành lập vào năm 747 tr. CN còn theo niên đại do Varron ghi chép là vào năm 753*, đều là vào thế kỷ thứ 8 tr. CN cả. Mãi đến giữa thế kỷ thứ 1 tr. CN thì người La Mã mới xâm chiếm được toàn bộ xứ Gaule. Vậy làm thế nào mà họ có thể xây dựng thành phố Lyon trên đất Gaule trước đó đến 42 thế kỷ? Thực ra thành phố Lyon được thành lập vào năm 43 tr. CN (chứ không phải “thế kỷ”), sau khi Cæsar đã xâm chiếm toàn bộ xứ Gaule đến gần 2 thập kỷ. Việc nhầm lẫn năm thành thế kỷ đã đưa đến một sự sai biệt về niên đại đến 4200 năm. Quả là sai một ly đi một dặm.
Người La Mã gọi Lyon là Lugdunum, hoặc theo Charles Rostaing, trong Les noms de lieux (Paris, 1974, p. 39) là Lugudunum. Đây thực ra chỉ là một hình thức La Tinh bao gồm hai yếu tố gốc Gaulois: dunum có nghĩa là đồi (Lyon được xây dựng trên đồi Fourvière) còn lug(u) có thể là tên một vị thần hoặc một loài chim (Xem Charles Rostaing, sđd, tr. 39). Vẫn theo Charles Rostaing thì, ngoài Lyon, hiện nay trên đất Pháp, cũng còn nhiều địa danh bắt nguồn từ Lug(u)dunum như: Laon ở Aisne, Laudun ở Gard, Lauzun ở Lot-et-Garonne, Loudon ở Sarthe và Loudun ở Vienne (tỉnh trùng tên của nước Pháp chứ không phải thủ đô nước Áo).
§ 483. Kiến thức ngày nay, số 285, ngày 1-7-1998
ĐỘC GIẢ: Tôi nghe nói có nhà giáo đã giảng câu chót trong bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến (Cá đâu đớp động dưới chân bèo) là “cá không hề đớp động dưới chân bèo”. Xin cho biết giảng như thế có đúng hay không.
AN CHI: Không chỉ giáo viên mà ngay một nhà ngữ học cũng đã giảng như thế. Tại chương XVIII (“Phân tích từ ngữ trong giảng văn”) trong sách Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt (Nxb. Giáo dục, 1981) tác giả Đỗ Hữu Châu đã viết về bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến như sau:
“Bài thơ cực tả một cảnh tĩnh. Một ngày thu tĩnh quen thuộc với nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cái tĩnh đó trước hết ở hệ thống các từ lạnh lẽo, trong veo, bé tẻo teo, lơ lửng, quanh co, vắng teo. Đó là những từ láy hoặc ghép sắc thái hóa. Tất cả đều chỉ các tính chất để đạt đến điểm đỉnh. Vì đã vút lên đến điểm đỉnh, rồi nén đọng lại ở đó, dừng lại, không vận động nữa. Thứ hai là ở cấu trúc câu. Phần lớn là những câu đơn gồm chủ ngữ và vị ngữ. Mấy câu đầu ngắn. Đó là những câu mà vị ngữ là tính từ, tức những câu chỉ đặc điểm, không phải câu chỉ hoạt động với động từ làm vị ngữ. Nghĩa là cấu trúc của câu cũng phù hợp với sự tĩnh tại.
Một cảnh miêu tả quen thuộc lấy cái động để tả cái tĩnh, lối “vẽ mây để tả trăng”. Để miêu tả cái tĩnh mà cứ nói cái tĩnh mãi thì sẽ nhàm. Cho nên phải đưa cái động vào. Làn, gợn, đưa, động, đớp là những cái động… Nhưng những cái động này có lấy gì làm mạnh mẽ? Chính nhờ sự chết lặng của không gian mà chúng ta mới nhận ra cái động không đáng gọi là động đó. Thực ra, có cái động thật: gợn, đớp, động. Nhưng tác giả sợ “gợn” sẽ quá mạnh, phải giảm nó đi: “hơi… tí”, còn như đớp thì động thật, song nó có xảy ra đâu, tác giả đã phủ định rồi: “đâu đớp động?”.
Sự tĩnh chỉ của không gian cũng là sự tĩnh chỉ âm thanh: cả bài thơ không có lấy một từ gợi đến xa gần một âm thanh. Kể ra, có một âm thanh thực: tiếng vèo của lá bay. Nhưng đây lại là “vẽ mây tả trăng”, phải lặng lẽ đến thế nào đó, một tiếng lá bay mới nghe được thành vèo. Và nét bay của lá là cái động nhất của bài thơ!”. (Sđd, tr. 258).
Đấy là lý giải của một nhà ngữ học đầy kinh nghiệm về việc giảng dạy từ ngữ. Chỉ có điều là riêng từ đâu trong câu cuối cùng đã bị ông hiểu một cách khác thường (đâu = không) vì thực ra thì nó giống hệt với từ đâu trong những câu Kiều sau đây;
– Gió đâu sịch bức mành mành (213);
– Người đâu sâu sắc nước đời (2007);
– Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương (2250);
– Triều đâu nổi tiếng đùng đùng (2619); v.v..
Nếu hiểu theo cách kia thì 4 câu Kiều này cũng sẽ là những câu phủ định và đây là điều hoàn toàn phản thực tế. Còn về thực chất thì trong cả những câu Kiều này lẫn câu thơ kia của Nguyễn Khuyến, đâu là một từ dùng để phiếm chỉ một đối tượng mà sự xuất hiện thường gây ngạc nhiên hoặc ít nhất cũng không được dự kiến. Nó là một từ không phải dùng để phủ định trạng thái hoặc hành động do vị từ biểu hiện mà là để khẳng định sự tồn tại của sự/vật hoặc hiện tượng do danh từ biểu hiện. Đó là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai là khi khẳng định rằng đâu trong câu thơ đang xét là một từ dùng để phủ định, tác giả cuốn sách trên đã quên công dụng của nó là chỉ dùng để phủ định một điều đã được khẳng định trước đó bằng hiển ngôn hoặc hiểu ngầm, hoặc một điều đáng lẽ phải diễn ra theo quy ước, theo trình tự, v.v.. Xét theo công dụng này, “cá đớp động dưới chân bèo” là sự việc không hề được khẳng định trong 7 câu thơ trước của bài “Thu điếu”, đồng thời cũng tuyệt nhiên không phải là cái đáng lẽ phải diễn ra (cái đáng lẽ phải diễn ra lại là việc cá… cắn câu).
Điểm thứ ba là tác giả cuốn sách đã hiểu từ đâu (và cả câu thơ) ngược với thủ pháp “vẽ mây để tả trăng” (lấy cái động để tả cái tĩnh) của Nguyễn Khuyến mà chính ông đã nhắc đến.
Trong toàn bộ bài “Thu điếu”, chi tiết có tác dụng “cực tả” (từ của tác giả cuốn sách) cái im lặng trong 7 câu thơ trên bằng cách “vẽ mây để tả trăng” chính là cái tiếng “đâu”) trong câu thơ cuối cùng. Khẳng định rằng đây là một câu phủ định (cá không đớp động dưới chân bèo) thì có khác nào bảo rằng Nguyễn Khuyến chỉ vẽ… trăng để tả trăng mà thôi!
§ 484. Kiến thức ngày nay, số 285, ngày 1-7-1998
ĐỘC GIẢ: Ngoài câu đố chữ, tiếng Pháp có câu đố về đồ vật, động vật, thực vật, v.v., như trong tiếng Việt hay không. Nếu có, xin cho một số ví dụ.
AN CHI: Tiếng Pháp cũng có câu đố về đồ vật nói chung như trong tiếng Việt. Sau đây là một số câu trích trong Histoire des énigmes của Marcel Bernasconi (Paris, 1970):
1. Bốn cô nàng rượt đuổi nhau mà không bao giờ bắt kịp nhau (Quatre demoiselles qui se p oursuivent sans j amais se rattraper?) ? Đó là bốn cái bánh của một chiếc xe. Sở dĩ phải dùng danh từ “cô nàng” (demoiselle) là vì trong tiếng Pháp thì danh từ chỉ cái bánh xe (roue) thuộc giống cái.
2. Hai chiếc thuyền và một người duy nhất trong đó (Deux barques et une seule personne dedans?)? Đó là đôi guốc.
3. Cái gì lúc xuống thì la; Trở lên thì khóc, đó là cái chi (Qu’est-ce qui descend en criant et remonte en pleurant?)? Đó là cái gàu lấy nước từ dưới giếng.
4. Ba cái chân ở dưới và một cái ở trên (Trois pieds dessous et un dessus?)? Đó là con mèo rửa mặt.
5. Tay lính nỏ tồi nhất thế giới là gì (Quelestle plus mauvais arbalétrier du monde?)? Đó là cái… rắm. Câu này có vẻ “trí tuệ” mà lại diệu vợi. Nó được giải thích như sau: cái rắm nhắm về phía gót chân nhưng lại bắn vào… lỗ mũi (nghĩa là bắn trật hướng).
6a. (Đây là câu đối “liên hoàn”, để dễ gạt người được đố) Cái gì bay, màu đen và có hai chân (Qu’est-ce qui vole, est noir et p ossède deux p attes?) ? Đó là con quạ.
6b. Cái gì bay, màu đen và có bốn chân (Qu’est-ce qui vole, est noir et possède quatre pattes?) ? Đó là hai con quạ nhưng ít người đoán đúng vì cứ ngỡ là một vật duy nhất.
6c. Cái gì bay, màu đen và có sáu chân (Qu’est-ce qui vole, est noir et possède six pattes?)? Người được đố có thể sẽ trả lời ba con quạ nhưng người đố thì lại bảo rằng đó là con ruồi (Như trong tiếng Việt, tiếng Pháp cũng có những câu đố mà tính luận lý không phải bao giờ cũng chặt chẽ).
7. Tôi đã là ngày mai, tôi sẽ là hôm qua (Je fus demain, je serai hier) ? Đó là ngày hôm nay. Tác giả của câu đố này là Fontenelle, cháu của Corneille.
§ 485. Kiến thức ngày nay, số 285, ngày 1-7-1998
ĐỘC GIẢ: Quanh bờ Hồ Gươm, Hà Nội, hiện nay có nhiều thùng rác sơn đỏ đẹp, mang những dòng chữ màu vàng “Hà Nội sạch và đẹp” (tiếng Việt) và “Hanoi propre et belle” (tiếng Pháp). Tôi có thắc mắc về cái “giống cái” (belle) của danh từ riêng “Hanoi” theo tiếng Pháp. Mong được ông giải đáp.
AN CHI: Về giống của tên các thành phố trong tiếng Pháp, thực ra cũng không có qui tắc thật dứt khoát; nhưng, nói chung những tên nào tận cùng bằng -e thì thuộc giống cái còn những tên tận cùng bằng những nguyên âm khác hoặc bằng phụ âm thì thuộc giống đực. Còn xu hướng chung trong khẩu ngữ của tiếng Pháp hiện nay là quy tất cả những danh từ riêng là tên thành phố về giống đực.*
Chúng tôi xin tạm trả lời “chung chung” như trên chứ không dám có ý kiến dứt khoát về giống của danh từ riêng “Hanoi” trong tiếng Pháp vì chúng tôi còn nghĩ đến cái phần – dù là rất nhỏ – chưa dứt khoát của quy tắc.
§ 486. Kiến thức ngày nay, số 286, ngày 10-7-1998
Về câu đố chữ Hán trên Kiến thức ngày nay, số 282.
AN CHI: Nguyên văn chữ Hán của câu đố mà ông Tô Ánh Thép đã gởi đến là như sau:
上 不 在 上,
下 不 在 下。
不 可 在 上,
止 宜 在 下。
Sau đây là âm và nghĩa của từng vế được nêu làm dữ kiện để tìm ra chữ cần thiết:
1. Thượng bất tại thượng: trong chữ thượng 上, nó không ở trên.
2. Hạ bất tại hạ: trong chữ hạ 下, nó không ở dưới.
3. Bất khả tại thượng: trong chữ bất 不, chữ khả 可, nó ở trên (hoặc, hơi gượng ép: trong chữ bất 不, nó có thể ở trên).
4. Chỉ nghi tại hạ: trong chữ chỉ 止, chữ nghi 宜, nó ở dưới (hoặc, hơi gượng ép: trong chữ chỉ 止, nó phải ở dưới).
Theo các dữ kiện trên đây thì “ẩn số” của câu đố chính là chữ nhất 一 : nó là nét ngang không nằm phía trên của chữ thượng 上 (vì nó nằm dưới), không nằm phía dưới của chữ hạ 下 (vì nó nằm ở trên), đồng thời cũng là nét ngang nằm phía trên của chữ bất 不, chữ khả 可 và nằm phía dưới của chữ chỉ 止, chữ nghi 宜.
Về câu đố đó, trong thư gửi cho chúng tôi, ông Vũ Văn Thăng (435/288A, Phan Văn Trị, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh) đã cẩn thận chép lại lời giới thiệu của chúng tôi trên Kiến thức ngày nay, số 282 và đoạn văn thuộc giai thoại về Lê Quí Đôn liên quan đến câu đố này ở các trang 127 – 129 trong sách Giai thoại làng Nho (1966) của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, rồi đề nghị chúng tôi “đối chiếu kỹ lưỡng và thẩm định thực tế” câu đố mà ông Tô Ánh Thép gởi đến với đoạn văn của Lãng Nhân, ý rằng để xem câu đố đó có phải thực là của ông Tô Ánh Thép hay không. Nhưng ông Tô Ánh Thép không hề nhận câu đố đó là do mình đặt ra còn chúng tôi, khi giới thiệu, cũng không hề có ý làm cho bạn đọc hiểu rằng ông Tô Ánh Thép là tác giả của nó. Rất may mắn là các bạn đọc khác vẫn hiểu rằng đây là câu đố của người xưa mà ông Tô Ánh Thép đã có nhã ý gởi đến; còn chúng tôi thì chỉ mời bạn đọc góp phần giải đố cho vui.
Tuy nhiên việc trên đây cũng chưa quan trọng bằng việc dưới đây: bản quyền của câu đố đó không thuộc về người Việt Nam vì nó là của người Trung Hoa. Một trong những bằng chứng cho lời khẳng định này là câu đó đã được Arthur H. Smith ghi nhận trong sách Proverbs and Common Sayings from the Chinese (New York, không ghi năm, in theo bản 1965, 374 + XXIX trang), nguyên văn như sau:
上 不 在 上,
下 不 在 下。
不 可 在 上,
且 宜 在 下。
(Sđd, 161)
phiên âm Hán Việt:
“Thượng bất tại thượng,
Hạ bất tại hạ.
Bất khả tại thượng,
Thả nghi tại hạ”.
và tạm dịch là:
“Trên chẳng ở trên,
Dưới không ở dưới.
Chẳng thể ở trên,
Huống nên ở dưới”
(Thả: huống chi – nghi : nên)
Khó có thể viện lý rằng do những tư tưởng lớn gặp nhau mà người Việt Nam đã sáng tác ra một câu đố đặc sắc trùng với câu đố của người Trung Hoa đến như thế (khác có một chữ: chỉ ≠ thả). Đây chẳng qua là một trường hợp mà ta đã mượn của Tàu, giống như trường hợp của một số câu đối mà ta cũng đã mượn – như chúng tôi đã có nói đến trong một vài kỳ Chuyện Đông chuyện Tây trước đây – để đặt ra giai thoại mà thôi. Và trong các giai thoại về câu đố đang xét thì giai thoại mà ông Tô Ánh Thép đã kể lại, theo chúng tôi, là đặc sắc nhất. Còn chuyện mà Lãng Nhân thuật lại trong Giai thoại làng Nho thì rõ ràng là rất mâu thuẫn với thực tế mặc dù tác giả của giai thoại có quyền hư cấu. Một Lê Quý Đôn mà không giải được câu đố:
“Hạ bất khả hạ
Thượng bất khả thượng
Chỉ nghi tại hạ
Bất khả tại thượng”
thì quả không xứng danh là tác giả của Vân đài loại ngữ và nhiều tác phẩm danh tiếng khác. Đó là còn chưa kể đến việc trong lời kể của Lãng Nhân thì nguyên bản đã bị cải biến nên không còn giữ được cái hay vốn có.
Bây giờ, xin phân trần về một điểm tế nhị. Có một bạn đọc ngờ rằng chúng tôi không biết câu đố về chữ “nhất” đã từng được nhắc đến trong giai thoại nên mới đem ra mời đố theo gợi ý của ông Tô Ánh Thép. Hẳn là phần tổng kết này sẽ giúp cho bạn đọc đó tìm thấy câu trả lời cần thiết. Câu đố vốn được làm ra để đố và điều này không có giới hạn trong không gian và thời gian. Có lẽ nào vì rất nhiều câu đố Việt Nam đã được sưu tập trong một công trình của tác giả Nguyễn Văn Trung rồi nên người ta không còn có quyền lấy những câu đố đó mà đố nhau? Vậy để kết thúc phần tổng kết này, chúngtôi xin chân thành cám ơn ông Tô Ánh Thép đã góp công vào việc tăng cường mối giao lưu giữa các bạn đọc của Kiến thức ngày nay và Chuyện Đông chuyện Tây bằng câu đố mà ông đã có nhã ý gởi đến.
§ 487. Kiến thức ngày nay, số 286, ngày 10-7-1998
ĐỘC GIẢ: Sách Xứ Trầm Hương của nhà thơ Quách Tấn có viết về địa danh Vân Phong ở phía Bắc tỉnh Khánh Hòa như sau: “Năm Minh Mạng thứ 6 (1825) đổi tên Yên Cang làm Vân Phong tức “Đỉnh Mây”.” Hầu hết các tài liệu của tỉnh Khánh Hòa cũng đều gọi là vịnh Vân Phong nhưng có báo lại cứ viết “vịnh Văn Phong”. Vậy theo ông, đó là Văn Phong hay Vân Phong?
AN CHI: Sổ tay địa danh Việt Nam của Đinh Xuân Vịnh (Nxb. Lao động, 1996) cũng ghi rõ ràng Vân Phong là tên chữ của vũng Hòn Khói. Điều ghi chép này hoàn toàn phù hợp với sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn: Hòn Vân Phong, Vũng Vân Phong, Tấn Vân Phong lớn, Tấn Vân Phong nhỏ*. Vậy đó là Vân Phong tức Đỉnh Mây.
§ 488. Kiến thức ngày nay, số 287, ngày 20-7-1998
ĐỘC GIẢ: Bài “Thành phố bí ẩn giữa rừng rậm nhiệt đới” của Thu Lan trên Thế giới mới, số 292 có câu sau đây: “Vị vua vĩ đại đầu tiên của Angkor là Jayavarman II, người giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của người Nhật ở thế kỷ IX”. Có lẽ nào người Nhật đã xâm chiếm một nước “Đông Dương” cách đây đến 11 thế kỷ? Vậy chữ “Nhật” trong câu trích dẫn trên đây hẳn là một lỗi kỹ thuật? Nhưng nó là chữ “gõ” sai, in sai từ chữ nào? Hay là lịch sử đã diễn ra đúng như thế mà vì… dốt sử nên tôi không biết?
AN CHI: Không phải lỗi kỹ thuật mà là lỗi dịch thuật, thưa ông. Rất tiếc là chúng tôi không có được nguyên văn The unexplained places mà tác giả đã nêu lên; nhưng đó là một cách dịch sai.
Liên quan đến giai đoạn lịch sử đang xét của nước Campuchia, mở đầu cho chương III nhan đề “La royauté angkorienne” (Vương quyền Angkor) trong sách của mình, A. Dauphin-Meunier đã viết như sau: “Đúng vào lúc mà Charlemagne khôi phục đế quốc Tây La Mã, thì nhà vua vĩ đại Jaya-Varman II (802 – 850) đã giải phóng nước Campuchia khỏi ách bá quyền của Java và đặt nền móng cho đế quốc Angkor”*. Về sự kiện lịch sử thì câu này hoàn toàn trùng hợp với câu của bài đăng trên Thế giới mới mà ông đã trích dẫn. Vậy có thể dựa vào câu trong sách của A. Dauphin-Meunier mà hiệu đính lại câu của Thu Lan như sau: “Vị vua vĩ đại của Angkor là Jayavarman II, người giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của người Java ở thế kỷ IX”.
Vâng, người Java chứ không phải người Nhật! Người Java, tiếng Pháp là Javanais, còn tiếng Anh là Javanese. Tác giả Thu Lan đã nhầm Javanese với Japanese (người Nhật) nên mới để cho người Nhật cai trị người Campuchia cách đây 1.100 năm đấy. Nếu không muốn dịch “Javanese” thành “người Java” thì có thể dịch thành “người Trảo Oa” hoặc “người Chà Và”. Chà Và (sau này dùng để chỉ người Ấn Độ) vốn là từ thông tục để chỉ Java mà từ thông thái (để ghi chép trong sách vở) là Trảo Oa 爪哇 rồi Trảo Oa còn do chuyện tác đánh tộ, ngộ đánh quá mà bị biến thành Qua Oa 瓜哇 vì chữ qua và chữ trảo chỉ khác nhau có một nét giữa (còn Javanese và Japanese chỉ khác nhau có một chữ: v ≠ p) mà thôi.
Nhân tiện xin mạn phép lưu ý ông và bạn đọc hai điểm sau đây.
Tác giả Thu Lan có viết rằng “Jayavarman II trị vì được 60 năm”. Nhưng theo G. Coedès, một học giả hàng đầu người Pháp về cổ sử Campuchia thì ông vua này chỉ ở ngôi có 48 năm (802 – 850) mà thôi*. G. Coedès là người đã có công sưu tập và chú giải văn bia Campuchia để làm nên bộ tập đại thành Inscriptions du Cambodge – trong đó tất nhiên có cả những cứ liệu về niên đại – nên chúng tôi cho rằng cứ liệu của Coedès có mức độ khả tín cao hơn (Theo câu đã dẫn của A. Dauphin-Meunier thì ông vua đó cũng chỉ ở ngôi 48 năm (802 – 850) mà thôi). Đó là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai là tác giả Thu Lan viết rằng ông vua Jayavarman II đã “đổi tên nước từ Chenla thành Kambuja”. Một sự khẳng định như thế về sự kiện lịch sử là hoàn toàn không thỏa đáng. Chenla tuyệt nhiên không phải là tên bằng tiếng Khmer của nước Campuchia cổ xưa. Đó chẳng qua là âm Bắc Kinh của hai chữ Hán mà âm Hán Việt là Chân Lạp. Hai tiếng này có phải là hình thức phiên âm hay không, nó đã được dùng để phiên âm một từ Khmer nào và từ được phiên âm này có phải là tiếng Khmer hay không, đó là những điều mà cho đến nay người ta vẫn chưa trả lời được. Chỉ biết một cách chắc chắn rằng, cũng như cái tên Phù Nam (về danh xưng này, xin xem Kiến thức ngày nay, số 137, Chuyện Đông chuyện Tây), Chân Lạp (Chenla) là một cái tên có xuất xứ rất mơ hồ mà người Trung Hoa đã dùng để chỉ nước Campuchia cổ xưa, rồi sau này, người ta, kể cả các học giả phương Tây, đã theo mà dùng nó một cách hoàn toàn “bất hợp thức”. Vậy làm sao có thể khẳng định được rằng Jayavarman II đã “đổi tên nước từ Chenla thành Kambuja”? Nói như thế cũng vô lý như nói rằng Minh Thái Tổ, chẳng hạn, đã đổi tên nước từ Kitai thành Đại Minh (Kitai là một cái tên mà chỉ có riêng người Nga dùng để gọi nước Trung Hoa).
Hai điều sai sót trên đây hẳn là do tác giả Thu Lan viết theo tài liệu gốc The unexplained places nhưng việc biến người Chà Và (Java) thành người Nhật thì không biết thuộc về ai.
§ 489. Kiến thức ngày nay, số 287, ngày 20-7-1998
ĐỘC GIẢ: Trong phần công bố kết quả câu đố về lịch tàu chạy trên Kiến thức ngày nay, số 282, ông đã có lý khi cho rằng ai đó đặt ra chuyện này đã không nắm vững hệ thống âm vị và đặc điểm ngữ pháp của tiếng Pháp chuẩn mực. Thế nhưng nếu chỉ dựa vào cách phát âm mà thôi thì cách chơi chữ này có thể chấp nhận được bởi Hoàng đế Napoléon (không rõ Napoléon nào, I, hay III, nhưng nếu là I) là người gốc đảo Corse nên cách phát âm tiếng Pháp của ngài không chuẩn. Tôi cũng đã từng có dịp trò chuyện với một vài người Pháp gốc Corse nên có thể thông cảm chữ “e” phát âm như chữ “é” và chữ “un” gần giống như chữ “a”. Nói thực, cách phát âm tiếng Pháp của người đảo Corse nghe rất “q+uái” và rất khổ cho lỗ tai người nước ngoài nói tiếng Pháp. Xin ông cho biết thêm ý kiến về việc này.
AN CHI: Ý kiến này rất thú vị và rất bổ ích. Tuy nhiên – cũng chỉ là để cho “cùng kỳ lý” – chúng tôi xin được trao đổi thêm với ông như sau.
Tuy Napoléon – chúng tôi cho rằng khi người ta nói Napoléon mà không nhắc đến thế thứ, thì đó là nói về Napoléon đệ Nhất – là người gốc đảo Corse nhưng ngay từ thời thơ ấu (10 tuổi) thì ông ta đã được gởi vào học ở Trường quân sự Brienne, gần Paris (1779 – 1784), rồi tại Paris (1784 -1785) cho nên hẳn là ông ta đã có điều kiện thuận lợi để “nói theo” cái accent parisien (giọng Paris) một cách hoàn toàn tự nhiên: khi còn nhỏ thì việc sửa giọng dễ dàng hơn là khi đã trưởng thành. Huống chi chung quanh ông ta là cả cái giới quý tộc, tư sản mang nặng đầu óc kỳ thị thì cái giọng Paris tất sẽ dễ làm cho ông ta được nể nang hơn là giọng Corse và Napoléon hẳn phải có ý thức về điều này vì ông ta rất thông minh. Khi theo học tại Trường trung học Chasseloup-Laubat thời trước, chúng tôi có học với giáo sư Ortholi, là người gốc Corse. Nhưng trong cách phát âm của ông, điều làm rõ nét cái accent corse chỉ là âm “r” roulé chứ không grasseyé như của Paris; các âm còn lại thì không khác mấy với giọng chuẩn. Điều này chứng tỏ là ông ấy hẳn đã có chú ý sửa giọng theo nhu cầu của nghề nghiệp và môi trường hoạt động. Vậy Napoléon hẳn cũng có thể sửa giọng chăng?
Trên đây dù sao cũng chỉ là nói lý cho hết ý chứ trong thực tế thì rất có thể ý kiến của ông về Napoléon thực sự chính xác.
§ 490. Kiến thức ngày nay, số 287, ngày 20-7-1998
ĐỘC GIẢ: Nhân phần tổng kết trên Kiến thức ngày nay, số 282, tôi xin nói thêm như sau. Về câu “Un grand appétit” thì xưa tôi được nghe là “J’ ai grand appétit”. Nguyên chữ đố là: Ga, đọc là “ggrand, a petit”, đồng âm (với “J’ai grand appétit”). Tôi lại còn được nghe đố chữ P/A, đọc là “a long sous p”, đồng âm với “Allons souper” có nghĩa là chúng ta (hãy) đi ăn tối. Chẳng biết các chữ Ga, P/A là của người Pháp đặt ra, hay là của người nước ta. Còn có câu đố tiếng Pháp: “Je suis le chef des vingt-quatre soldats, sans moi, Paris sera pris”, nghĩa đen là “Tôi là xếp của 24 người lính, không có tôi thì thành Paris sẽ bị chiếm”. Đây là chữ “a”, đứng đầu 25 chữ cái: không có chữ “a” thì “Paris” sẽ thành “pris” (pris là bị chiếm).
AN CHI: Chuyện Ga (g grand a petit – j’ ai grand appétit) và P/A (a long sous p – allons souper) mà cụ đã được nghe là chuyện bắt nguồn từ một giai thoại liên quan đến Frédéric II, vua nước Phổ và Voltaire, bạn văn chương của nhà vua.
Một hôm, Frédéric II đã mời Voltaire đến dự bữa ăn tối bằng ẩn tự “A six heures, P/A , à 6/100”, ẩn ý là “A six heures, à souper, à Sans-Souci”, nghĩa là “Vào sáu giờ, mời dùng tối, tại (lâu đài) Sans-Souci” ( A/P = A sous P, đồng âm với “à souper” còn 6/100 = cent sous six, đồng âm với “Sans-Souci”). Voltaire đã nhận lời bằng ẩn tự “Ga”, ẩn ý là “J’ai grand appétit”, nghĩa là “Thần đói lắm” (Ga = G grand a petit, đồng âm với “J’ai grand appétit”).
Câu chuyện trên có được Marcel Bernasconi ghi lại trong Histoire des énigmes (Paris, 1970, p. 117). Có lẽ đây là giai thoại gốc mà câu chuyện do ông Nguyễn Hồ (Huế) kể lại (trên Kiến thức ngày nay, số 282) chỉ là một “biến tướng” trong đó “Aa” (A grand a petit – Un grand appétit) cũng chỉ là một “biến tướng” của “Ga” chăng? Và P/A (A long sous P) cũng chỉ là một biến tướng của P/A (A sous P)? Nhưng nó do người Pháp hay người Việt Nam “biến” thì đó là một câu hỏi hãy còn bỏ ngỏ.
Cuối cùng, xin cải chính rằng chính người Pháp đã tạo ra cái cách nói dị thường “G grand”, “a petit” mà theo giai thoại thì Voltaire cũng đã không hề kiêng kỵ.
§ 491. Kiến thức ngày nay, số 288, ngày 1-8-1998
ĐỘC GIẢ: Truyện Kiều có câu “Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?”. Xin cho biết cái đài gương nơi khuê các thì có dính dáng gì đến cây bèo ở ao đầm?
AN CHI: Cũng vì cho rằng hai thứ đó chẳng dính dáng gì đến nhau mà trên Ngôn ngữ số 2 năm 1977, Bùi Văn Cường và Mai Chinh đã lấy câu thứ 330 đó của Truyện Kiều làm tiêu đề cho một bài viết trong đó các tác giả đã chỉ trích cách giải thích quen thuộc xưa nay của các nhà làm sách (Bùi Khánh Diễn, Hồ Đắc Hàm, Nguyễn Thạch Giang) mà lập luận như sau:
“Chúng tôi cho rằng các nhà chú giải đã quá câu nệ cổ nhân nên thành ra sai lầm chăng? Có phải là mỗi khi gặp một chữ lạ, một câu khó hoặc bóng bẩy sao đó, là ta phải nghĩ ngay tới điển tích sách vở, rồi lục tìm tra cứu cổ nhân, xem có chỗ nào khả dĩ chấp nhận được thì đó là cội nguồn ý nghĩa của nó, chứ không chú ý tìm tòi nó ngay trong ngôn ngữ quần chúng và trong đời sống? Chính vì cứ làm như thế, nên có khi thành ra gán ghép, gượng gạo và sai lệch” (Bđd, tr. 59).
Các tác giả đó cho rằng đài gương là “đóa hoa sen” và giải thích như sau: “Bèo và sen là hai loài thảo đã cùng ở nước, chúng sống rất gần nhau, nhưng lại tương phản nhau rõ rệt. Sen là loài hoa có phẩm chất cao quí, bèo là loài rêu rong hèn mọn. Trong văn học ta, sen thường là hình ảnh tượng trưng cho những người cao quí, bèo thường là hình ảnh tượng trưng cho những người hèn mọn. Trong ca dao, hình ảnh sen và bèo là những hình ảnh quen thuộc.
– Ai cho vàng đá đua chen
Ai cho bèo nọ lộn sen một bồn
– Chúng chị đây như cúc như sen
Chúng em bèo bọt chẳng chen được nào”.
(Bđd, tr. 60)
Và các tác giả kết luận:
“Từ sự tương phản đối lập ấy, Nguyễn Du đã để cho chàng Kim mượn hình ảnh hoa sen để chỉ Kiều và mượn hình ảnh bèo để trỏ mình, biểu thị một thái độ khiêm nhường” (Bđd, tr. 60).
Thật ra, vấn đề không như Bùi Văn Cường và Mai Chinh đã nghĩ vì nếu Nguyễn Du dùng hai tiếng đài gương để chỉ hoa sen thì quả là không đúng thực tế. Các tác giả có biện luận như sau: “Nhưng tại sao lại gọi hoa sen là đài gương? Khác với các loài hoa khác, hoa sen có cấu tạo đặc biệt, cuống hoa đến thẳng cánh hoa, không có đài hoa, cánh hoa làm luôn nhiệm vụ đài hoa. Giữa đài hoa (những cánh hoa) là gương hoa và nhụy hoa. Cánh hoa và nhụy hoa tàn đi thì còn lại gương hoa kết quả. Cho nên đài gương là toàn bộ bông sen đang xòe nở tươi đẹp” (Bđd, tr. 60). Những lời phân tích trên đây rõ ràng là rất gượng ép.
Đài gương thực ra là hai tiếng mà tác giả Truyện Kiều dùng để diễn Nôm hai tiếng kính đài (có nghĩa là cái… đài gương) để chỉ người thiếu nữ khuê các.
Hai tác giả Bùi Văn Cường và Mai Chinh cũng đã không để ý xem tại sao khi ví Kim Trọng với cây bèo thì Nguyễn Du lại phải nói “dấu bèo” chứ không nói “cánh bèo”, “tai bèo”, v.v., chẳng hạn. Đó là vì ông đã vận dụng hai tiếng Hán “bình tung” 萍蹤 có nghĩa là… “dấu bèo”, đúng như Đào Duy Anh đã giảng. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng Đào Duy Anh cũng đã không đúng khi ông suy diễn thêm rằng “Nguyễn Du theo phép hoán dụ dùng từ dấu bèo để chỉ cánh bèo mà tỷ dụ vật hèn mọn (Kim Trọng tự khiêm ví mình như cánh bèo)”*. Một chàng trai “phong tư tài mạo tót vời, vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa” có cần phải “tự khiêm” đến mức tự ti như thế hay không?
Thực ra, nghĩa của hai tiếng bình tung đã được Từ hải giảng như sau: “Cây bèo sống trong nước, trôi nổi theo làn sóng, nhân đó mà gọi (người) không có chỗ ở nhất định là dấu bèo (bình tung)”. Tiếng Hán còn có các thành ngữ bình tán bồng phiêu, bình tung bồng cảnh, để chỉ cảnh trôi nổi vô định (bồng là một giống cỏ cọng cao hơn thước, lá như lá liễu mà có hình răng cưa, hoa rất nhỏ, sắc trắng, đến mùa thu thì khô và tróc rễ, bị gió cuốn mà bay theo chiều gió – Xem Từ nguyên). Rõ ràng là so với nàng Kiều, thiếu nữ khuê các “sở tại”, thì chàng Kim, “nguyên người quanh quất đâu xa” vừa mới “lấy điều du học hỏi thuê” ngôi nhà Ngô Việt thương gia, chỉ là một anh chàng chưa có sở cứ nhất định. Vì vậy mà chúng tôi cho rằng Nguyễn Quảng Tuân đã hoàn toàn đúng khi ông nói về câu 330 rằng “cả câu là lời Kim Trọng nói khiêm mình chỉ là một thư sinh chưa có danh vọng còn lang thang du học (Chúng tôi nhấn mạnh – AC) không biết có được cô Kiều là bậc cao sang để ý đến không”*. Cùng một cách hiểu này, Thuý-Kiều truyện tường chú của Chiêm Vân thị do Trúc Viên Lê Mạnh Liêu phiên âm và phụ chú (Nha Văn hóa, Sài Gòn, 1973) đã giảng như sau: “Đài gương tức chữ “trang đài” trong nguyên lục (Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân – AC). Trang đài dùng tôn xưng người đàn bà con gái (…) Dấu bèo, tức câu nguyên lục: Tiểu sinh lộ nhân: tiểu sinh này như khách qua đường” (Sđd, quyển thượng, tr. 136, chth. 9, 10). Đây là một cách giảng hoàn toàn hợp lý.
Bùi Văn Cường và Mai Chinh có lập luận như sau: “Nếu đài gương là cái giá gương thì giữa cái gương soi của người phụ nữ và lũ bèo trên mặt nước, chúng có quan hệ gì với nhau? Làm sao có sự liên tưởng diễn ra trong óc, để nhà thơ có thể hạ bút viết: Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng? Đài gương để trong khuê phòng kín đáo, có ai từng đưa đài gương ra đặt ở bờ ao, bờ hồ… để gương soi đến dấu bèo, để bèo kia có thể nói với gương một lời khẩn cầu tha thiết đến như thế? Sự liên tưởng của nhà thơ, dù có táo bạo đến đâu, vẫn có tuân theo qui luật của cái đẹp, cái cân xứng hài hòa và vẫn có cái lô-gích của nó. Nguyễn Du không thể không nghĩ tới điều đó” (Bđd, tr. 59). Nhưng ở đây “(đài) gương” và “(dấu) bèo” đâu có phải là gương thật, bèo thật vì những từ ngữ này đã được dùng theo nghĩa bóng. Nếu cứ kéo từ ngữ về nghĩa đen của chúng mà lập luận như Bùi Văn Cường và Mai Chinh đã làm thì chắc hẳn không ai có thể nói cơn lốc màu da cam để chỉ đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan trong trang phục truyền thống của họ vì cơn lốc thì làm gì… có màu! Còn vô vàn thí dụ khác không thể nào dẫn hết ra đây.
Tóm lại trong câu Kiều thứ 330 thì đài gương là một hoán dụ để chỉ người thiếu nữ nơi khuê các còn dấu bèo là một ẩn dụ để chỉ người không có sở cứ nhất định. Một cách hiểu như thế không có gì là phản hoặc phi luận lý cả.
§ 492. Kiến thức ngày nay, số 288, ngày 1-8-1998
ĐỘC GIẢ: Trên một tờ “Tin nhanh” về France 98 (số 29 ngày 6-7-1998), trong một bài nhan đề “Croatia, chú bé David nổi giận!”, tác giả có viết như sau: “Báo L’ Equipe đã gọi Suker là con người có dòng máu lạnh (le sang-froid de Suker), khi anh vẫn bình tĩnh sút thành công cú sút phạt 11m lần thứ hai trong trận loại Rumani vòng 1/8, sau khi trọng tài từ chối cú sút thành công lần thứ nhất của anh”. Xin cho biết “sang-froid” có phải là “dòng máu lạnh” hay không.
AN CHI: Sang-froid (có gạch nối) là sự bình tĩnh còn sang froid (không gạch nối) thì mới là máu lạnh. Cũng may mà tác giả bài viết có cẩn thận chú thích “le sang-froid de Suker” để người đọc còn có thể hiểu rằng báo L’Equipe muốn nói về “sự bình tĩnh của Suker” chứ không phải là “dòng máu lạnh” của cầu thủ này vì máu lạnh lại là đặc điểm sinh học của động vật cấp thấp, chẳng hạn như loài bò sát.
§ 493. Kiến thức ngày nay, số 288, ngày 1-8-1998
ĐỘC GIẢ: Đọc mấy quyển sách về Phật giáo, tôi gặp hai chữ “đảnh lễ”. Tôi chỉ hiểu đại khái đó là một cử chỉ để bày tỏ sự tôn kính. Nhưng tra từ điển Hán Việt của Thiều Chửu và Đào Duy Anh rồi từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học đều không thấy. Vậy “đảnh lễ” nghĩa là gì và đâu là nguồn gốc của hai chữ ấy?
AN CHI: Đảnh là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 頂 mà âm Hán Việt hiện đại là đỉnh, có nghĩa là: cái chóp, chỗ cao nhất, cái ngọn, cái đỉnh đầu. Đảnh ~ đỉnh cũng giống như: (cái) đanh ~ (cây) đinh; lanh (lợi) ~ linh (lợi); (quần) lãnh ~ (váy) lĩnh; v.v.. Đảnh (đỉnh) lễ 頂禮 cũng đồng nghĩa với đảnh (đỉnh) bái, đều có nghĩa là cúi đầu mà lạy.
§ 494. Kiến thức ngày nay, số 289, ngày 10-8-1998
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Trương Vĩnh Ký với giáo dục đạo đức” đăng trên tạp chí Xưa & Nay, số 49B tháng 3-1998, tác giả Trần Thái Bình có viết như sau: “Chỉ kể riêng phần đã xuất bản in typo thì số lượng trước tác về luân lý của ông (Trương Vĩnh Ký) đã ở một tỷ lệ cao:
1. Nữ tắc
2. Thơ mẹ dạy con
3. Thơ dạy làm dâu
4. Huấn nữ ca
5. Con hiếu thảo
6. Gia huấn ca
7. Tam tự kinh
8. Huấn mông khúc ca
9. Sơ học vấn tân quốc ngữ diễn ca
10. Cờ bạc nha phiến
11. Tam thiên tự giải âm
12. Đại học
13. Trung dung
14. Minh tâm bửu giám”.
(Bđd, tr. 26)
Xin cho biết có phải 14 tác phẩm trên đây đều là do Trương Vĩnh Ký “trước tác” như lời của tác giả Trần Thái Bình không.
AN CHI: Tam tự kinh là sách của Trung Hoa, tương truyền là do Vương Ứng Lân đời Tống soạn, gồm có những câu 3 chữ, dễ học, dễ nhớ, mở đầu là “Nhân chi sơ, tính bổn thiện. Tính tương cận, tập tương viễn…”. Còn Tam thiên tự giải âm là sách của Việt Nam, tuy chưa rõ tác giả nhưng chắc chắn không phải của Trương Vĩnh Ký. Sách dạy 3.000 chữ Hán giảng bằng chữ Nôm như “Thiên: trời; địa: đất; Cử: cất; tồn: còn; Tử: con; tôn: cháu; Lục: sáu; tam: ba…”. Minh tâm bửu giám là sách của Trung Hoa mà nhiều người cho là được soạn vào đời Nam Tống, bao gồm nhiều danh ngôn Trung Hoa từ đời Nam Tống trở về trước. Đến như Đại học và Trung dung thì ai cũng biết đó là hai quyển trong Tứ thư gồm có: Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh Tử. Hai quyển sách kinh điển nổi tiếng này của Trung Hoa làm sao lại là trước tác“ của Trương Vĩnh Ký được? Nữ tắc và Gia huấn ca là những tác phẩm Nôm vô danh của Việt Nam chứ cũng không phải của Trương Vĩnh Ký. (Ý kiến cho rằng Gia huấn ca là của Nguyễn Trãi thì không có căn cứ.) Sơ học vấn tân là sách bằng chữ Hán do người Việt Nam làm ra từ trước rồi Trương Vĩnh Ký mới “diễn ca bằng quốc ngữ” mà thôi. Tóm lại, những quyển trên đây chỉ là do Trương Vĩnh Ký phiên âm và chú giải (hoặc diễn ca) chứ không phải là những “trước tác” của ông. Những quyển còn lại thì vì không nắm vững nên chúng tôi không dám có ý kiến.
o 495. Kiến thức ngày nay, số 290, ngày 20-8-1998
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nhận xét chi tiết về quyển Tìm về cội nguồn chữ Hán (Hán tự tố nguyên) của nguyên tác giả Lý Lạc Nghị, do Jim Waters biên soạn, Nguyễn Văn Đổng dịch, GS. Trần Nghĩa và GS. Vương Lộc hiệu đính và do Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, ấn hành năm 1997.
AN CHI: Vì chưa có điều kiện đọc kỹ và đọc hết quyển sách này nên chúng tôi chưa có thể nhận xét một cách chi tiết. Vả lại, khuôn khổ của Chuyện Đông chuyện Tây cũng không cho phép. Chỉ xin nói ngay rằng đó là một quyển sách rất thú vị và bổ ích về nhiều mặt, được biên soạn rất công phu. Tuy nhiên nó cũng có những sai sót hoặc những chỗ cần thảo luận mà sau đây là một số dẫn chứng bất chợt:
1. Hai chữ 或体 (tr. xxxiii) phải đọc là “hoặc thể”) chứ không phải “vực thể*
2. “Đồng ngưu chi cáo” (tr. 69) không phải là “Trẻ chăn trâu”. Vả lại chữ 告 trong trường hợp này phải đọc là cốc vì đây là dùng thay cho chữ cốc 牿, có nghĩa là chuồng trâu hoặc khúc gỗ ngáng sừng trâu để cho nó không húc được. Có sách giảng “Đồng ngưu chi cốc” là “cái chuồng của con trâu không sừng” như Dictionnaire classique de la langue chinoise của F. S. Couvreur; phần lớn thì giảng là “cái cây ngáng sừng của con trâu non (mà sừng mới nhú) như Từ hải, Hán ngữđại tự điển (Thành Đô, 1993) và các bản chú giải Kinh Dịch (cú đoạn đang xét là của sách này) của Phan Bội Châu, Ngô Tất Tố, Nguyễn Hiến Lê. Dù giảng theo cách nào thì đó cũng không phải là “Trẻ chăn trâu” (đây là một cách dịch quá độc đáo!). Đồng thời chữ 告 dùng thay cho chữ 牿 cũng rất hiếm thấy.
3. Chữ 鍥 (tr. 93) đọc là khiết chứ không phải “kết”.
4. Bộ 宀 đọc là miên chứ không phải “hàm”.
5. Chữ 殊 (tr. 172) đọc là thù chứ không phải “chu”.
6. Chữ 屯 (tr. 212), trong trường hợp đang xét, đọc là truân chứ không phải “đồn”.
7. Chữ 圉 (tr. 377) đọc là ngữ chứ không phải “vũ”.
8. Chữ lệnh 令, mà giáp cốt văn là (tr. 378), được giảng là “dưới mái nhà, một người quì gối đang ra lệnh cho mọi người”. Giảng như thế là nghịch lý: người ra lệnh mà quỳ thì người nhận lệnh sẽ đứng để chỉ tay năm ngón chăng? Thật ra, chữ trong giáp cốt văn chẳng qua chỉ là biến dạng của chữ khẩu , nay viết 口 (= cái miệng), bị lật úp xuống. Sự “lật úp” này không phải là do vô ý hoặc viết sai. Cái miệng tượng trưng cho lời nói, ở đây là mệnh lệnh. Cái miệng phải bị “lật úp” như thế (xin xem lại hình chữ) thì mới chỉ được một cách cụ thể cái hướng ở trên truyền xuống cho kẻ dưới nhận lệnh mà người nhận lệnh (chứ đâu có phải người ra lệnh!) thì được tượng trưng bằng cái hình người đang quỳ ở dưới trong giáp cốt văn.
9. Chữ mão 卯, mà tự hình xưa nhất là (tr. 418) đã được giải thích như sau: “Chữ mão là chữ gốc của “窌” kiệu, nghĩa là hầm hố, cũng là hầm hay hố cất chứa thức ăn”. Thật ra, đây là chữ mão “chánh gốc”, mà âm xưa là mẹo và nghĩa gốc cũng là cái… mẹo, tức là cái phần mà thợ mộc đục lõm vào gỗ theo hình dạng và kích thước của cái mộng để tra mộng vào – vì vậy nên mới có tổ hợp đẳng lập mộng mẹo – mà gắn chặt hai chi tiết gỗ vào với nhau. Với nghĩa vừa nói, từ mẹo còn thông dụng trong tiếng Việt ít nhất là đến giữa thế kỷ XVII nên nó mới được A. de Rhodes ghi nhận vào Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh (1651) rồi đối dịch bằng tiếng Bồ là “encaixos” và bằng tiếng La là “incisio”. Cái nghĩa đó của chữ mão vẫn còn được ghi nhận trong nhiều quyển từ điển tiếng Hán và tiếng Hán vẫn còn có thành ngữ tuẩn đầu mão nhãn 筍頭卯 眼 (chữ tuẩn thường bị đọc thành “duẫn”) để chỉ cái mộng và cái mẹo. Vậy chữ không phải là hình của cái “hố cất chứa thức ăn” vì đó chính là tuẩn đầu mão nhãn: hai nét đứng song song ‖ tượng trưng cho cái mộng còn hai cái “móc” hai bên ( ) chính là tượng trưng cho cái mẹo “ôm chặt” lấy cái mộng.
§ 496. Kiến thức ngày nay, số 290, ngày 20-8-1998
ĐỘC GIẢ: Tôi đã đọc Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 284 và xin trao đổi thêm với ông về vấn đề “ông Vũ Văn Kính đã đọc sai bản Kiều Nôm của cụ Kiều Oánh Mậu” mà ông đã lược bỏ không phải vì dài mà vì lý do ông đã giải thích trong phần trả lời.
Các bản Kiều của Nguyễn Văn Hoàn 1965, Nguyễn Thạch Giang 1972 và Nguyễn Quảng Tuân 1995 thường dùng 3 bản chính để khảo dị. Nguyên tắc chung của các ông này là: Nội dung phần chính văn do sự lựa chọn của từng người, các bản dùng để khảo dị nếu có dị âm, dị tự nào thì đều ghi hết để bạn đọc biết mà có thể hiểu chân diện của các bản ấy. Nếu câu nào không có khảo dị, nghĩa là 3 bản chính chép giống nhau. Ông Vũ Văn Kính cũng làm theo phương pháp ấy.
Năm 1971, trong Đoạn trường tân thanh khảo lục, trang X, ông Kính nêu “phương pháp khảo lục” như sau: “hễ mỗi khi gặp những chữ tự hình khác nhau, chúng tôi chọn chữ cũ hơn nhất, hợp tứ, hợp cơ cấu. Chúng tôi đã ghi chú vào bên cạnh chữ ấy bằng một con số và dưới mỗi trang chúng tôi trưng dẫn những chữ dị khảo theo ba bản A, B, C”. Năm 1998, trong Tìm nguyên tác Truyện Kiều, trang 15, ông Kính cũng nêu “tiêu chuẩn hiệu khảo” như sau: “Khi âm đã được chấp nhận, chúng tôi ghi lên phần chính văn, còn những dị âm, dị tự đều được ghi xuống dưới và giải thích lý do lấy âm trên chính văn”. Rất tiếc là trong câu trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 284 ông lại “quên” mà không nhắc đến “tiêu chuẩn hiệu khảo” quan trọng này để sử dụng nó trong việc xem xét, thẩm định nên ông đã “bênh” ông Kính mà lại “bênh” sai. Đọc cả hai lần “phương pháp khảo lục” 1971 và “tiêu chuẩn hiệu khảo” 1998, chắc bây giờ ông cũng thống nhất với tôi là với những câu không có “ghi chú vào bên cạnh chữ ấy bằng một con số” thì mặc nhiên là ông Kính đã coi cả 3 bản Nôm A, B, C cùng chép giống nhau. Vậy nay nếu tôi thấy ở những câu “không có ghi chú” ấy mà bản Kiều Oánh Mậu (KOM) lại chép chữ Nôm không giống phần quốc ngữ do ông Kính phiên âm thì có nghĩa là ông Kính đã phiên âm sai bản KOM. Ví dụ câu 608 trong bản 1971 được ông Kính chép là:
“Dẽ (8) cho để thiếp bán mình chuộc cha” và có chú thích “(8) bản A: 底 Để” Cũng câu này trong bản 1998, ông Kính lại chép:
“Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha (Dẽ)” mà không có ghi chú.
Nhưng thực tế thì bản KOM chép chữ thứ nhất của câu 608 là , phiên âm đúng thì phải là hãy (Hãy cho để thiếp bán mình chuộc cha).
Từ hãy của bản KOM đã bị ông Kính đọc thành “Để” (1971) và “Rẽ” (1998). Vậy ông xem lại có phải ông Kính đã đọc sai bản KOM hay không. Đây chỉ mới là một thí dụ chứ ông Kính còn phiên sai nhiều chỗ khác nữa. Không rõ trước 1975 ở miền Nam đã có ai góp ý chưa mà đến nay (1998) vẫn chưa được ông Kính phát hiện và sửa chữa? Nếu cứ để tình trạng này thì những người không có bản KOM sẽ theo ông Kính mà đọc và hiểu sai bản này. Còn những người có nó trong tay thì băn khoăn: chẳng lẽ ông Vũ Văn Kính là cây đa, cây đề trong làng Hán-Nôm mà lại đọc sai. Nhưng sự thực là bản KOM chép như thế, ông Kính phiên âm như đã nói là ông Kính đọc sai. Nếu nay chúng ta không lên tiếng thì sau này con cháu chúng ta, khi so sánh đối chiếu bản KOM với hai bản ông Kính đã phiên âm, họ sẽ nghĩ thế nào về thế hệ chúng ta, những người đương thời với ông Kính mà lại để những sai sót ấy tồn tại gần 30 năm? Hoặc những người nước ngoài thông thạo Hán-Nôm (như Jim Waters, người biên soạn quyển Tìm về cội nguồn chữ Hán theo nguyên tác của Lý Lạc Nghị, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1997) sẽ đánh giá thế nào về làng Hán-Nôm của Việt Nam những năm cuối của thế kỷ XX này?
AN CHI: Chúng tôi rất vui mừng nhận được thư ông và xin nhiệt liệt hoan nghênh những ý kiến mà ông đã gửi đến. Chúng tôi muốn thưa lại với ông như sau.
Những chữ trong bản KOM mà ông đã nêu cụ thể để chứng minh rằng ông Vũ Văn Kính đọc sai thực chất hoàn toàn không phải là đọc sai. Những chữ như 事, 幅, 女麻, 焒, v.v., dễ dàng được nhận ra là: sự, bức, nữa mà, lửa, v.v., thì làm sao ôngVũ lại không biết đến mức phải phiên thành: nỗi, lấy, lại còn, hỏa, v.v.. Đây thực chất là những trường hợp mà ông Vũ đã khảo dị sót nhiều chữ trong bản KOM. Nếu được phép thì chúng tôi xin nói rằng như thế là thiếu coi trọng độc giả vì sau 27 năm, đúng như ông nói, ông Vũ đã cho tái bản “nguyên xi” trong Tìm nguyên tác Truyện Kiều (1998) mọi chỗ khảo dị sót đã có trong Đoạn trường tân thanh khảo lục (1971). Vì vậy mà chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ông rằng chúng ta cần lên tiếng để các thế hệ tương lai hiểu đúng chúng ta và để “người nước ngoài thông thạo Hán-Nôm khỏi hiểu sai về làng Hán-Nôm của Việt Nam những năm cuối của thế kỷ XX này”. Chẳng qua chúng tôi chỉ muốn gọi cái thiếu sót của ông Vũ Văn Kính cho đúng tên của nó mà thôi: ông Vũ đã bỏ sót nhiều chữ cần khảo dị của bản KOM; còn những tiếng mà ông cho rằng ông Vũ phiên âm sai từ các chữ Nôm trong bản KOM thì lại chính là những tiếng mà ông Vũ đã phiên âm đúng từ chữ Nôm của các bản khác.
§ 497. Kiến thức ngày nay, số 290, ngày 20-8-1998
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguồn gốc và ý nghĩa của hai tiếng “sen đầm”.
AN CHI: Sen đầm là một từ phiên âm từ tiếng Pháp gendarme, trước kia cũng dịch là hiến binh. Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên giảng sen đầm là “lực lượng vũ trang đặc biệt chuyên giữ gìn an ninh chính trị ở các nước đế quốc, thuộc địa”. Tầm-nguyên tự-điển Việt-Nam của Lê Ngọc Trụ (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993) đã giảng chính xác hơn: “Bộ phận quân đội chuyên trách an ninh công cộng, giữ gìn trật tự và thực thi luật pháp. Thí dụ: Người sen đầm theo lệnh ông dự thẩm cho vòng xích vào tay Loan (Nhất Linh, Đoạn tuyệt). Còn viết: “sơn đầm” (tr. 744). Rõ ràng là chẳng phải chỉ “chuyên giữ gìn an ninh chính trị” như từ điển của Viện Ngôn ngữ học đã giảng.
§ 498. Kiến thức ngày nay, số 291 , ngày 1-9-1998
ĐỘC GIẢ: Chữ thể trong có thể (chỉ khả năng) có phải là một với chữ thể trong cũng thể (Thí dụ: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài) hay không? Xin cho biết từ nguyên của chữ (hoặc hai chữ) thể này. Xin cho biết luôn từ nguyên của chữ thế trong thế này, như thế, v.v.. Chữ thế có liên quan gì với chữ (hoặc hai chữ) thể ở trên hay không?
AN CHI: Theo chúng tôi thì thể trong có thể và thể trong cũng thể chỉ là một. Đó là một hình vị tiếng Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 體 (cũng viết 体) mà âm Hán Việt hiện đại là thể – còn âm xưa là thảy như trong cả thảy, hết thảy, v.v. – có nghĩa là chất, tố chất, bản chất (xin chỉ nêu nghĩa có liên quan).
Vậy:
– Có thể có nghĩa là có đủ tố chất (phù hợp với việc thực hiện sự việc do từ hoặc ngữ đi sau diễn đạt), tức là có khả năng;
– Cũng thể có nghĩa là (dù cho sự vật có bị đánh giá ra sao thì nó) cũng mang đủ tố chất (của sự vật do từ hoặc ngữ đi sau diễn đạt).
Đó là những quán ngữ vị từ và bởi chúng là quán ngữ nên hai thành tố của chúng không thể tách khỏi nhau được. Vậy Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên (trở xuống sẽ viết: Từ điển HP) đã sai khi ghi nhận riêng chữ thể trong cũng thể mà chú thích rằng đó là một động từ. Đây thực ra là một danh từ đi sau cũng để hợp với nó làm trung tâm của vị ngữ và thể trong cũng thể hoa nhài cũng là danh từ y hệt như tuổi trong cũng tuổi con trâu (một lối tính tuổi theo 12 con giáp), như số trong cũng số con nhà nghèo, như họ trong cũng họ Trương chứ không phải họ Trần, như mạng trong cũng mạng hỏa chứ không phải mạng thổ, v.v.. Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967) đã đúng khi ghi nhận nguyên vẹn cũng thể chứ không tách ra như Từ điển HP. Tính hoàn chỉnh của quán ngữ vị từ đang xét còn được thấy ở một thành ngữ lưu hành rộng rãi trong phương ngữ Nam Bộ: dầu hèn cũng thể… mà phần bổ nghĩa bị bỏ lửng để cho người nói có thể diễn đạt và người nghe có thể suy diễn theo ý riêng một cách tế nhị nhưng bao giờ cũng có tính chất tích cực. Cũng có trường hợp mà thể được dùng tách riêng như trong câu ca dao:
Chẳng khôn thể chị lâu ngày,
Chị đái ra váy cũng tày em khôn.
Nhưng đây rõ ràng là một trường hợp mà danh từ thể được dùng một cách hoàn toàn gượng ép – do sự hạn định về số tiếng của câu sáu trong thơ lục bát – nên không thể xem đó là một cách dùng đúng quy tắc được.
Bổ nghĩa cho quán ngữ vị từ cũng thể không nhất thiết là danh từ hoặc ngữ danh từ, mà còn có thể là tính từ như: Chẳng ngon cũng thể sốt, chẳng tốt cũng thể mới.
Tương tự với thể trong cũng thể, thể trong có thể cũng là danh từ – vì nó đồng nhất với thể trong cũng thể – kết hợp với vị từ có để làm thành quán ngữ vị từ có thể chứ không phải là tính từ, như đã ghi chú trong Từ điển HP. Đồng thời có thể là thành phần chính được các từ hoặc ngữ đi sau nó bổ nghĩa chứ không phải là “thường dùng phụ trước động từ” hoặc “dùng làm phần phụ trong câu”, như Từ điển HP đã ghi chú. Trừ những trường hợp cá biệt, rất hiếm hoi, trong tiếng Việt, từ đi sau thêm nghĩa cho từ đi trước chứ không phải ngược lại.
Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh của A. de Rhodes đã ghi chữ thể với dấu ngã thành thễ và theo quyển từ điển này (ấn hành 1651) thì lúc bấy giờ người ta có nói thể nào với nghĩa của thế nào hiện nay. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của và Việt Nam tự-điển của Lê Văn Đức cũng có ghi nhận tương tự như từ điển của A. de Rhodes. Tuy nhiên, đó là hai chữ khác hẳn nhau. Chữ thể đã được nói ở trên còn chữ thế thì Hán tự là 勢 và có nghĩa là điều kiện, tình trạng, vị trí của sự vật trong mối tương quan tổng thể hoặc bộ phận với (những) sự vật khác. Vì thể và thế là hai từ khác nhau nên hình thể không trùng nghĩa với hình thế (Hình khe thế núi (gần xa) không nói được thành “hình khe thể núi”); thất thể không phải là thất thế còn thể nào cũng không tuyệt đối đồng nghĩa với thế nào được. Nhưng vì xét đến cùng thì thế là một khái niệm hẹp bao gồm trong một khái niệm rộng hơn là thể (với cái nghĩa tổng quát nhất của từ này là: hình trạng, trạng thái) nên thế nào vẫn là đồng nghĩa bộ phận của thể nào. Rồi ngày nay khi thể nào dần dần trở nên một lối nói bị xem là cũ kỹ, quê kệch thì thế nào mới chiếm ưu thế mà thay thế cả cho thể nào. Cuối cùng, từ những lối nói đối ứng với thế nào (dùng để hỏi) là thế ấy, thế đó, v.v., thế mới được tách riêng ra mà dùng một mình như: Làm thế thì ăn thua gì! – Nói thế sao được?…Sự “ly khai” của nó khỏi các cấu trúc thế ấy, thế đó, v.v., hãy còn nóng hổi, nghĩa là hãy còn được nhận biết một cách hoàn toàn dễ dàng, cho nên có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng chữ thế dùng một mình trong những thí dụ trên đây chỉ là một với chữ thế trong quyền thế, thế lực hoặc thất thế, v.v., mà thôi.
§ 499. Kiến thức ngày nay, số 291, ngày 1-9-1998
ĐỘC GIẢ: Tổ tiên người Pháp là người Gaulois và hẳn là họ nói tiếng… Gaulois. Nhưng đã từng có ý kiến cho rằng tiếng Pháp ngày nay lại bắt nguồn từ tiếng La Tinh. Điều này có đúng không và nếu đúng thì có lẽ nào giữa tiếng Pháp và tiếng Gaulois lại không có một mối liên hệ nào (Hay là đã có một mối “quan hệ tay ba” giữa tiếng Gaulois, tiếng La Tinh và tiếng Pháp?)?
AN CHI: Tiếng Gaulois có một mối quan hệ “bà con” xa với tiếng La Tinh nhưng lại chẳng có một mối quan hệ trực tiếp nào với tiếng Pháp cả. Sau khi người La Mã chiếm được toàn bộ xứ Gaule (giữa thế kỷ I tr. CN) thì người Gaulois đã dần dần từ bỏ tiếng nói của tổ tiên mình mà nói tiếng La Tinh do các tay thực dân, các nhà buôn, v.v., và binh lính La Mã du nhập. Tiếng Pháp bắt nguồn từ tiếng La Tinh là một sự thật đã được nhất trí thừa nhận vì nó được sự kiện lịch sử chứng minh một cách rõ ràng.
Albert Dauzat, trong Histoire de la langue française (Presses Universitaires de France, Paris, 1959), đã khẳng định tại “Lời nói đầu” như sau: “Tiếng Pháp, đó là tiếng La Tinh, nhưng đã biến đổi sâu sắc dưới ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau”. Sau đó, mở đầu cho chương thứ nhất, Dauzat viết: “Tiếng Pháp bắt nguồn từ tiếng La Tinh. Nói cho rõ ràng hơn, nó biểu hiện một trạng thái tiến hóa đặc biệt của tiếng La Tinh thiên di vào nước ta (Pháp – AC), trong khi tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ru-ma-ni thì biểu hiện những trạng thái tiến hóa khác (cũng của tiếng La Tinh – AC) trên những lãnh thổ khác và trong những môi trường chi phối bằng những điều kiện khác”. (Sđd, tr. 7)
Trên đây là lời của Albert Dauzat (1877-1955), học giả kỳ cựu của Pháp nửa đầu thế kỷ XX. Chân lý này thực ra có thể được tìm thấy ở bất cứ quyển sách nào có đề cập ít nhiều đến lịch sử của tiếng Pháp. Sự thật là như thế chứ không phải như Hoàng Thị Châu đã ngộ nhận trong một bài báo mới đây khi bà viết: “Tiếng Gôloa (Gaulois), nguồn gốc của tiếng Pháp, thuộc ngữ hệ Xentích (Celtique), sau khi xứ Gôlơ (Gaule) bị La Mã hóa, ngôn ngữ của nó cũng La Tinh hóa, vì thế tiếng Pháp hiện nay, tuy bắt nguồn từ tiếng Gôlơ, nhưng được phân loại vào cùng họ hàng với các ngôn ngữ Rômăng”.*
Tiếng Pháp không phải là tiếng người Gaulois bị La Tinh hóa (latinisé) mà là chính tiếng La Tinh được người Gaulois tiếp nhận y như nó được người La Mã đem đến và nói trên đất Gaule rồi cá biệt hóa theo hoàn cảnh lịch sử, điều kiện địa lý, tâm lý dân tộc, tập quán ngôn ngữ cũ, v.v. của người Gaulois mà trở thành tiếng Pháp hiện đại. Sau hơn hai thiên niên kỷ, tiếng Gaulois ngày nay đã tuyệt tích và người ta cơ hồ không còn hy vọng gì có thể tái lập lại hệ thống ngữ âm, hệ thống ngữ pháp và hệ thống từ vựng của nó. Nó chỉ còn để lại trong tiếng Pháp độ vài chục từ liên quan đến văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Gaulois nhưng cũng là thông qua cái vỏ ngữ âm của tiếng La Tinh chứ không phải trong nguyên trạng Gaulois của chúng. Vậy làm sao có thể nói rằng tiếng Pháp là tiếng Gaulois bị La Mã hoá?
§ 500. Kiến thức ngày nay, số 291, ngày 1-9-1998
ĐỘC GIẢ: Hai tiếng “nạ dòng”, từ điển Lê Văn Đức giảng là “đàn bà đã sanh sản nhiều lần”. Vậy có thể từ đó suy ra nạ là “đàn bà” và dòng là “đã sanh sản nhiều lần” hay không? Nếu không thì đâu là xuất xứ của mấy tiếng đó?
AN CHI: “Đàn bà” đúng là một trong những nghĩa của từ nạ. Đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 女 mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là nữ còn âm xưa chính là… nạ. Nạ có nghĩa là đàn bà, mẹ, mà “mẹ” chính là một nghĩa thông dụng trong tiếng Việt ngày xưa, còn lưu truyền trong một số lời nói dân gian như: sểnh (hoặc sẩy) nạ quạ tha; quen việc nhà nạ, lạ việc nhà chồng; v.v..
Nhưng dòng thì không phải là “đã sanh sản nhiều lần” vì đàn ông có sanh được đâu mà người ta vẫn nói bố dòng như trong hai câu sau đây:
Bố dòng lấy được gái tơ,
Đêm nằm mê mẩn như mơ thấy vàng.
Dòng là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 庸 mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là dung còn âm xưa chính là… dòng, có nghĩa gốc là hèn mọn, tầm thường, yếu kém, mệt mỏi, v.v., rồi mới có nghĩa phái sinh là không còn nhanh nhẹn, gọn gàng vì đã luống tuổi, nhất là đối với những người đã có nhiều con (nên càng dễ gây ấn tượng là mình đã… già). Vậy “dòng” là một đặc tính chung của cả hai giới chứ không chỉ là “độc quyền” của phái đẹp, càng không phải là “đã sanh sản nhiều lần” như Lê Văn Đức đã giảng trong Việt-Nam tự điển.
§ 501. Kiến thức ngày nay, số 292, ngày 10-9-1998
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 219, Chuyện Đông chuyện Tây, ông đã bác bỏ lối nói “sau Công nguyên” và đã viết: “Rất tiếc là hai quyển từ điển đó (Từ điển bách khoa Việt Nam và Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học) lại góp phần truyền bá cái ý nghĩ ngộ nghĩnh là hiện nay toàn thế giới đã có những năm sau Công nguyên (…) Chỉ tiếc có một điều là Công nguyên vẫn còn đang tiếp diễn cho nên chẳng làm sao có được năm hoặc thế kỷ sau Công nguyên”. Nhưng mới đây, tại mục “Ai, sao?” trên Kiến thức ngày nay, số 286, GS. TS. Nguyễn Chung Tú lại viết: “Năm 1998 sau Công nguyên (Tôi nhấn mạnh – Đức) tính từ năm 1 là năm 745 của lịch La Mã (…) Năm 1 Công nguyên không phải là năm sinh của Jesus Christ (J. C. sinh năm 5 sau Công nguyên”. Thế là ông đã nói ngược với GS. Tú. Vậy xin cho biết ai đúng ai sai vì chẳng có lẽ hai ý kiến phủ nhận nhau đều đúng cả.
Về câu trả lời của GS. TS. Nguyễn Chung Tú tại mục “Ai sao?” trên Kiến thức ngày nay, số 286, tôi có mấy điểm chưa lĩnh hội được. – Công nguyên là kỉ nguyên Kitô giáo lấy mốc là năm 1 tức năm sinh Jésus Christ (J. C.). Để tránh nhầm lẫn, sách báo Pháp thường chú thích sau các niên đại: “avant J. C.” (trước năm sinh J. C, cũng tức là trước CN) hoặc “après J. C.” (sau năm sinh J. C.). Không thấy có chú thích nào có nghĩa là “sau CN” (après l’ ère chrétienne). Chúng ta đang sống ở năm 1998 của CN (l’ an 1998 de l’ ère chrétienne) mà CN thì vẫn vận hành, chưa biết khi nào nó mới chấm dứt để có những năm sau CN. Vậy “năm 1998 sau CN” và “năm 5 sau CN” là những thời điểm nào? – Qui ước thống nhất hiện hành về CN và Công lịch lấy năm J. C. sinh là năm 1. Vậy dựa vào đâu Nguyễn Chung Tú tuyên bố: năm 1 CN không phải năm sinh của J. C.? – Tôi hiểu khái niệm “trước CN” là lùi lại trước mốc của CN, trước năm 1. Những năm trước CN mang dấu âm (—) và liền trước CN là năm -1. Theo Nguyễn Chung Tú, “năm 754 của lịch La Mã là năm 754 trước CN”, tức -754. Vậy năm 1 của lịch La Mã, một niên đại trước đó (tức trước năm -754) đến 754 năm nữa, là năm bao nhiêu trước CN?
AN CHI: Ngoài những câu mà ông Đoàn Ngọc Đức đã dẫn lại trong câu hỏi, trên Kiến thức ngày nay, số 219, chúng tôi đã phân tích rất rõ cái sai của lối nói “sau Công nguyên”. Vậy các cụm từ “năm 1998 sau Công nguyên” và “năm 5 sau Công nguyên” là những cách diễn đạt không chính xác vì Công nguyên đang tiếp diễn và chưa biết khi nào mới chấm dứt, đúng như ông Tô Ánh Thép đã khẳng định và như chúng tôi cũng có lưu ý trong câu mà ông Đoàn Ngọc Đức đã dẫn lại.
Và nếu Jesus Christ “sinh năm 5 sau Công nguyên” đúng như TS. Nguyễn Chung Tú đã khẳng định thì tất nhiên là cho đến hiện nay Ngài vẫn… chưa ra đời vì năm Ngài giáng sinh sẽ là 1998 + x + 5, trong đó x là số năm tính từ 1999 cho đến năm mà Công nguyên sẽ chấm dứt.
TS. Nguyễn Chung Tú khẳng định rằng “Jesus Christ sinh năm 5 sau Công nguyên” mà nếu theo cách diễn đạt chính xác thì là vào năm 5 (của) Công nguyên. Thực ra, các nhà bác học đã cho rằng Jesus ra đời vào năm 4 hoặc năm 5 trước Công nguyên*, nghĩa là từ 9 đến 10 năm trước niên điểm mà TS. Nguyễn đã đưa ra.
TS. Nguyễn còn khẳng định rằng “năm 1 Công nguyên không phải là năm sinh của Jesus”. Điều này thì đúng nhưng nếu chỉ nói trơn tru có thế thôi thì không thể giải thích được tại sao đó lại là năm đầu tiên của Công nguyên, tức kỷ nguyên Ky Tô, mà tiếng Pháp là ère chrétienne còn tiếng Anh là Christian Era. Vì vậy, chúng tôi mạn phép nói rõ thêm: Tuy năm 1 (của) Công nguyên không phải là năm sinh đích thực của Jesus nhưng vì truyền thuyết rồi truyền thống vẫn xem đó là năm mà Ngài giáng sinh nên người ta mới lấy đó làm năm mở đầu cho kỷ nguyên Ky Tô mà nay ta gọi là Công nguyên.
TS. Nguyễn lại còn khẳng định rằng “năm 754 của lịch La Mã gọi là năm 754 trước Công nguyên” nên đã làm cho ông Tô Ánh Thép phải đặt lại vấn đề. Thực ra, năm 754 của lịch La Mã là năm 1 (của) Công nguyên còn năm 1 của lịch La Mã thì mới là năm 754 trước Công nguyên, tức năm -754. Vấn đề thực ra cũng không hoàn toàn đơn giản và ăn khớp với nhau một cách trọn vẹn như thế vì Paul Couderc đã cho biết như sau: “Sự tồn tại của La Mã tính ngược lên đến 753 năm trước kỷ nguyên Ky Tô. Nhưng người La Mã lại đếm kỷ nguyên của họ bắt đầu từ ngày 21 tháng 4 (Avril). Khoảng 4 tháng thuộc năm 1 của kỷ nguyên Ky Tô tương ứng với năm 753 của lịch La Mã và phần còn lại của nó thì với năm 754. Vì sự tiện lợi, người ta thường lùi kỷ nguyên La Mã lại vài tháng để làm cho năm 1 (của) kỷ nguyên của chúng ta (kỷ nguyên Ky Tô – AC) ăn khớp hẳn với năm 754 của lịch La Mã”.*
Chúng tôi xin tạm trả lời như trên vì cá nhân mình không phải là người thông thạo về lịch pháp; kính mong hai ông và bạn đọc thông cảm. Tuy nhiên có một điều mà chúng tôi muốn khẳng định dứt khoát: niên điểm tương truyền là Chúa Jesus giáng sinh đã mở đầu cho kỷ nguyên Ky Tô, tức Công nguyên, cho nên nói rằng Ngài sinh ra sau Công nguyên là một điều thậm phi lý.
§ 502. Kiến thức ngày nay, số 292, ngày 10-9-1998
ĐỘC GIẢ: Tục ngữ có câu “Đi trước bắc cầu, đi sau theo dõi”. Về ý nghĩa thì tôi có thể hiểu đại khái là nó ca ngợi công lao của người khai phá để cho người sau thừa hưởng. Tôi chỉ thắc mắc về hình thức đối: nếu dõi là một động từ thì làm sao đối được với cầu là một danh từ? Còn nếu là danh từ thì dõi có nghĩa là gì và nó có liên quan gì đến chữ dõi trong dòng dõi? Lại nói đến chữ dòng trong dòng dõi, xin hỏi đây có phải cũng là chữ dòng trong nạ dòng hay không.
AN CHI: Dõi là một danh từ có nghĩa là dấu vết như đã được giảng trong Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức. Vậy theo dõi có nghĩa là noi theo dấu vết. Đây là nghĩa gốc của từ tổ động từ này và cũng là nghĩa trong câu tục ngữ mà ông đã nêu, rồi từ đó mới có nghĩa phái sinh thông dụng là “chú ý theo sát từng hoạt động, từng diễn biến để biết rõ hoặc có sự ứng phó, xử lý kịp thời”, như đã cho trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (viết tắt: Từ điển HP).
Từ nghĩa gốc là dấu vết để lại, dõi mới có nghĩa phái sinh mà Từ điển HP giảng là “dòng dõi” còn Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên thì giảng là “dòng giống”. Dõi ở đây cũng là cái dấu vết, nhưng là dấu vết do tổ tiên để lại bằng huyết thống của mình, tức là con cháu. Vậy đây là nghĩa phái sinh và trong theo dõi thì dõi được dùng theo nghĩa gốc còn trong nối dõi (tông đường) thì dõi được dùng theo nghĩa phái sinh.
Chữ dòng trong nạ dòng đã được giải thích trên Kiến thức ngày nay, số 291 còn dòng trong dòng dõi thì lại là dòng trong dòng chữ, dòng nước dùng theo nghĩa phái sinh, cũng giống danh từ ligne trong tiếng Pháp hoặc line trong tiếng Anh vừa có nghĩa là dòng chữ, vừa có nghĩa là dòng họ. Cùng một kiểu chuyển nghĩa đó, hàng trong xếp hàng, hàng cây đã có nghĩa phái sinh là thế thứ trong quan hệ thân tộc như vẫn thấy trong tổ hợp đẳng lập họ hàng.
Viết thêm cho lần in năm 2018. – Còn một khả năng nữa cho từ nguyên của dõi trong dòng dõi. Đó là chữ 裔 mà âm Hán Việt hiện hành là duệ, có nghĩa là “con cháu”, “đời sau”.
§ 503. Kiến thức ngày nay, số 293, ngày 20-9-1998
ĐỘC GIẢ: “Trẻ con học chữ ê a”: tại sao không “i tờ”, “a bê xê” hoặc “a bờ cờ” mà lại phải ghép chữ “ê” trước, “a” sau?
AN CHI: Vì đó không phải là chữ quốc ngữ. Ê a là một từ tượng thanh đã có trong tiếng Việt rất lâu đời, trước khi có chữ quốc ngữ. Đó là hai yếu tố Việt gốc Hán bắt nguồn ở hai tiếng viết bằng hai chữ 咿啞 mà âm Hán Việt hiện đại là y a. Từ điển tiếng Hán giảng y a là “tiểu nhi học ngữ thanh” nghĩa là tiếng trẻ con học nói.
§ 504. Kiến thức ngày nay, số 293, ngày 20-9-1998
ĐỘC GIẢ:Cây “câu rút” là một giống thực vật như thế nào và thuộc về họ gì?
AN CHI: Tuy cũng là “cây” nhưng câu rút là đồ vật chứ không phải là thực vật vì đó là cây thánh giá. Cây thánh giá, tiếng Bồ Đào Nha là cruz và câu rút chính là hình thức phiên âm từ danh từ này của tiếng Bồ. Như chúng tôi đã nói tại Chuyện Đông chuyện Tây của Kiến thức ngày nay, số 110, tiếng Bồ đã vào Việt Nam trước cả tiếng Pháp nhưng chỉ đem đến cho tiếng Việt có mấy từ như: xà bông < sabão; (dây) cót (trong đồng hồ) < corda và (thêu) ren < renda. Nay xin bổ sung thêm một từ nữa là câu rút < cruz, nhưng từ này thì không còn thông dụng nữa.
§ 505. Kiến thức ngày nay, số 293, ngày 20-9-1998
ĐỘC GIẢ: “Hàng xịn, hàng dỏm”; chữ “xịn” do đâu mà ra? “Nhậu xỉn, say xỉn”: chữ “xỉn” do đâu mà có?
AN CHI: Xịn là âm Quảng Đông của chữ thiện 善, có nghĩa là: “khéo, hay, giỏi, tốt,… xịn. Xỉn cũng là âm Quảng Đông nhưng lại là của chữ thiện 膳 (thuộc bộ nhục) là thức ăn, thức ăn ngon, bữa ăn ngon (nếu là danh từ); là ăn, ăn ngon, ăn sang (nếu là động từ).
§ 506. Kiến thức ngày nay, số 293, ngày 20-9-1998
ĐỘC GIẢ: Xem Kiến thức ngày nay, số 284, tôi được biết đôi câu đối ở đền Trung Liệt (Hà Nội) thờ cụ Nguyễn Tri Phương và cụ Hoàng Diệu. Sau khi cụ Hoàng tuẫn tiết, vua Tự Đức bèn sai cụ Thám hoa Vũ Phạm Hàm soạn đôi câu đối để thờ chung với cụ Nguyễn.
Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa (尺地);
Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thiên niên tâm sự hữu thanh thiên (青天).
Cụ Nhân Phủ dịch:
Thành quách ấy, giang sơn ấy, trăm trận xông pha còn thước đất;
Vi nhựt tinh, vi hà nhạc, nghìn năm tâm sự có trời xanh.
Xích (thước) đối với thanh (xanh) gọi là thanh đối (đối tiếng) chứ không đối ý. “Thước đất” có lẽ chỉ ngôi mộ*.
AN CHI: 1. Tác giả Vũ Tuyên Hoàng đã không có lý khi cho rằng mười năm trong “mười năm tâm sự” (thập niên tâm sự) là khoảng cách giữa năm chết của Nguyễn Tri Phương (1873) và năm chết của Hoàng Diệu (1882). Nếu đúng như vậy thì “10 năm tâm sự” này là của ai, Nguyễn Tri Phương hay Hoàng Diệu? Đối với câu hỏi này, không có bất cứ câu trả lời nào lại có thể hợp lý cả. Thực ra, chữ thập 十 và chữ thiên 千 dễ lẫn lộn với nhau, nhất là khi viết thảo. Vì vậy nên chúng tôi cho rằng nói “thiên niên tâm sự” như trong văn bản mà ông đã chép thì hợp lý hơn là nói “thập niên” như trong văn bản Vũ Tuyên Hoàng và cả văn bản khắc ngay ở cổng Trung Liệt miếu tại gò Đống Đa, Hà Nội. Lý do: đã ôm mối hận đi xuống tuyền đài thì mối hận đó phải là ngàn năm (thiên niên) chứ nếu chỉ có mười năm (thập niên) thì còn hận… mà làm chi!
2. Mới đây, trên Kiến thức ngày nay, số 290, trang 57 – 58, có bài “Trở lại một đôi câu đối xưa” của Hoàng Văn Hoa trong đó tác giả ghi nhận rằng một lão nho có tên trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân cũng cho rằng hai chữ cuối của câu trước là 赤地 (= đất đỏ) chứ không phải 尺地 (= thước đất). Nhưng tác giả Hoàng Văn Hoa đã có nhờ người chụp ảnh đôi câu đối đang xét khắc tại cổng Trung Liệt miếu (Đống Đa, Hà Nội) thì rõ ràng đó lại là hai chữ 尺地 (= thước đất) chứ không phải 赤地 (= đất đỏ). Rồi Hoàng Văn Hoa viết tiếp: “Tôi nghĩ rằng một đôi câu đối được khảm ở một ngôi đền ở cửa ngõ thủ đô nghìn năm văn hiến mà các bậc sĩ phu túc nho thời bấy giờ (những năm cuối thế kỷ 19) lại viết sai hay sao?” (Bđd, tr. 58).
Thật ra “các bậc sĩ phu túc nho” không phải bao giờ cũng đúng. Sau đây là một dẫn chứng vừa liên quan đến câu đối vừa liên quan đến Vũ Phạm Hàm mà có ý kiến cho là tác giả của đôi câu đối ở Trung Liệt miếu (chứ không phải là Vũ Quang). Dẫn chứng này lấy từ bài “Thu thanh hay thung thanh” của Nguyễn Quảng Tuân, đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1987, trang 33 – 34. Đó là đôi câu đối thờ Trần Hưng Đạo ở đền Kiếp Bạc (miền Bắc) do Vũ Phạm Hàm làm, được sao lại tại chính điện của đền thờ Trần Hưng Đạo, ở số 36 đường Võ Thị Sáu, Đakao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên văn như sau:
Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí;
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh.
Nguyễn Quảng Tuân dịch nghĩa như sau:
Núi Vạn Kiếp chỗ nào cũngcó hơi kiếm (bốc toả lên);
Sông Lục Đầu không có sóng nào là không có tiếng thu (gầm thét vang).
Sau khi cho biết rằng học giả Giản Chi chỉ rõ ra cái sai của sự nhầm lẫn từ thung thanh (= tiếng cọc) thành thu thanh (= tiếng thu), Nguyễn Quảng Tuân đã phân tích kỹ vấn đề rồi khẳng định đại ý như sau.
Thung thanh (tiếng cọc) đối với kiếm khí (hơi gươm) thì thật là vừa đúng luật đối vừa đúng sự thật lịch sử. Kiếm (gươm) và thung 格 (cọc) đều là vũ khí hoặc phương tiện chiến tranh nên hai từ này mà đối với nhau thì thật là đẹp đôi chứ kiếm là cây gươm mà lại đối với thu là mùa thứ ba trong bốn mùa thì quả là chẳng có duyên gì với nhau. Thung (cọc) nhắc lại sự kiện Trần Hưng Đạo cùng quân sĩ của mình đã phá tan đoàn chiến thuyền của quân Nguyên vì va và vướng phải cọc nên đổ nghiêng đổ ngửa, vỡ tan và đắm chìm rất nhiều. Còn chữ thu mơ hồ kia thì có liên quan gì đến chiến công hiển hách này? Thế nhưng chỉ vì đã trót thất bản từ thung thanh thành thu thanh nên người ta đã không tiếc lời ca ngợi cái “kiếm khí hoành thu” của đôi câu đối mà thực ra chữ thứ sáu của câu sau là hoàn toàn lạc lõng.
Chúng tôi xin thêm một ý nhỏ như sau: Cái trận Bạch Đằng lừng lẫy đó – mà Vũ Phạm Hàm đã gọi tượng trưng bằng hai tiếng Lục Đầu, để đối với Vạn Kiếp -, cái trận thủy chiến hùng vĩ mà đoàn thuyền của Ô Mã Nhi va phải cọc đóng xuống đáy sông tạo thành tiếng động “thung thanh” vang trời dậy đất đó, cái trận đánh oai hùng trên sông trên sóng đó đã diễn ra vào tháng 3 năm Mậu Tý (1288), mùa xuân còn chưa đi, mùa hè càng chưa đến thì làm sao mà có được “tiếng thu” (thu thanh)? Vũ Phạm Hàm đâu phải là “con nai vàng ngơ ngác” trước sử ký nước nhà mà để cho thủy quân của Ô Mã Nhi sống thêm đến năm, sáu tháng.
Vậy thì “các bậc sĩ phu túc nho” hẳn cũng có lúc sai nên sự ghi chép của họ có lúc cũng phải bị đặt thành vấn đề.
3. Chính vì vậy mà, trở lại với đôi câu đối ở Trung Liệt miếu, chúng tôi xin phép nhấn mạnh rằng “các bậc sĩ phu túc nho” đã viết 尺地 (= thước đất) trong câu:
Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa
mà lại hoàn toàn không để ý đến cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa của nó. Đây là một cấu trúc đề thuyết (câu chủ – vị) mà phần đề là “thử thành quách, thử giang san” (thành quách đó, sông núi đó) còn phần thuyết là “bách chiến phong trần dư xích địa” (gian nan trăm trận trơ đất đỏ – mà thực chất là đất trống).
Nói về “thành quách đó, sông núi đó” thì chỉ có thể là “gian nan trăm trận trơ đất trống” (vì thành quách bị tàn phá, đổ nát) chứ làm sao mà “gian nan trăm trận còn thước đất” cho được? Khi giặc đã cướp nước thì một tấc đất cũng chẳng còn, nói chi đến cả thước! Như đã nói lần trước, xích ở đây là đỏ, mà nghĩa bóng là trơ trụi, trống trơn vì thành Hà Nội đã bị giặc Pháp triệt hạ. Ông có gợi ý rằng xích địa (thước đất) ở đây có lẽ là ngôi mộ nhưng ngôi mộ thì chỉ có thể dùng để nói về Nguyễn Tri Phương và/hoặc Hoàng Diệu chứ không thể nói về “thành quách đó, sông núi đó” được.
4. Ông cho rằng xích địa (thước đất) đối với thanh thiên (trời xanh) là thanh đối và ông Hoàng Văn Hoa cũng nói rằng “các cụ ngày xưa gọi đó là đối âm”. Đối thanh, đối âm là chuyện có thật nhưng cũng dứt khoát là chuyện “đối đế” (= bất đắc dĩ) vì không thể đối chỉnh, đối chuẩn được. Chúng tôi ngờ rằng tác giả của đôi câu đối đang xét đã hiến cho chúng ta “bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi” nhưng chính “các bậc sĩ phu túc nho” đã làm thất bản mà truyền lại cho chúng ta một thứ rượu lợn cợn trong một cái ly đã có tỳ có vết. Vì vậy mà đất đỏ mới thành ra “thước đất” và ngàn năm mới bị rút ngắn nên chỉ còn có “mười năm” chăng? Dù sao thì trên đây cũng chỉ là ngu ý vì biết đâu chính tác giả đã dùng chữ 尺 là thước (như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 284), chữ 十 là mười và cả chữ cộng 共 (thay vì chữ hữu 有 = có) như trong văn bản mà ông đã gửi đến (chữ hữu làm cho câu rõ nghĩa hơn chữ cộng rất nhiều).
§ 507. Kiến thức ngày nay, số 294, ngày 1-10-1998
ĐỘC GIẢ: Ở quê tôi (miền Bắc) ngày xưa, tôi có nghe kể câu chuyện lừa đảo “trung cổ” tếu táo như sau. Một bên thì bán đất bán nhà, bên kia mua nhà mua đất. Hai bên giao kết với nhau xong thì làm văn tự bằng chữ Nôm trong đó có câu “Bán đất bán nhà còn cây thì là không bán”. Bên bán giải thích cho bên mua rằng cây thì là (thường dùng làm gia vị để nấu canh) ở ngoài vườn là cây “cổ thụ” từ đời ông tổ nên khi chủ mới dọn đến ở nhà đã mua và chủ cũ đã chọn được nơi ở mới thì sẽ xin đến bứng cái cây “cổ thụ” kia đi. Đến khi tiền đã trao nhưng cháo chưa… múc trọn bát thì chủ cũ bèn phân tích cú pháp cho chủ mới biết rằng cái câu văn tự kia được ngắt thành “còn cây/thì là không bán” chứ không phải thành “còn cây thì là/không bán”. Vì thế hắn ta dặn chủ mới hễ cứ cây thì cây nào cây nấy để nguyên tại chỗ không được chặt cành hái quả, chờ cho đến mùa thì hắn ta đến mà… thu hoạch: hắn ta chỉ bán đất bán nhà mà thôi còn toàn bộ cây cối… thì là hắn ta không bán.
Kể thì dài dòng cho vui nhưng gút lại chỉ muốn hỏi ông An Chi: (Cây) thì là, hai tiếng này xuất xứ từ đâu mà lại lợi hại đến thế. Hay nó cũng là “gốc Hán” như ông vẫn thường giảng?
AN CHI: (Cây) thì là (tiếng Pháp: cumin hoặc aneth; tiếng Anh: cummin hoặc anethum) là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở hai tiếng ghi bằng hai chữ 蒔蘿 mà âm Hán Việt hiện đại là thì la còn âm xưa thì là… thì là, mà Từ hải đã cẩn thận chú tên khoa học là Anethum graveolens.