Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2: Câu hỏi 458 - 480
§ 458. Kiến thức ngày nay, số 274, ngày 10-3-1998
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Về một vụ án trong Truyện Kiều” đăng ở mục “Bút hoa” trên Thế giới mới, số 273, Tiến sĩ luật khoa Đào Quang Huy đã cho rằng việc Vương Ông bị bắt là một “vụ xuất khẩu tơ tằm trái phép”. Tiến sĩ Đào đã viết như sau: “Việc nhà Vương Ông bị khám xét (…) Nguyễn Du nói về lý do, chỉ có một câu: “Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ”. Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh chép: “Phải tên xưng xuất tạ i thằng bán tơ” và giải thích: tại thằng bán tơ đã khai ra. Khai ra cái gì, Nguyễn Du không nói. Ông là nhà thơ – tiểu thuyết chứ không phải người viết truyện vụ án. Khốn nỗi vì ông không nói rõ nên một số thầy giáo giảng Kiều, cả một số nhà phê bình, nghiên cứu cứ một mực phê phán xã hội phong kiến thối nát, không có luật pháp, không có công lý, chỉ căn cứ vào lời khai vu vơ của một tên lái buôn mà đẩy cả một gia đình lương thiện vào vòng tan nát, một giai nhân tài sắc vẹn toàn vào cuộc đời ô nhục. Phê phán như vậy mới đúng một phần. Xã hội thối nát thì rõ rồi: dựa vào việc khám xét nhà để cướp phá. Thiếu công lý cũng được chứng minh: có ba trăm lạng thì dù là trọng án cũng cho qua. Nhưng còn điều này ta nên biết thêm: xã hội triều Minh có luật pháp, Vương Viên ngoại có vi phạm luật pháp, nghĩa là có tội, hơn thế có thể là trọng tội”. (Thế giới mới, số 273, tr. 71). Rồi sau khi so sánh chính sách của nhà Minh với chính sách của nhà Nguyên, tiến sĩ Đào viết tiếp: “Triều đình Minh chống lại chủ trương vạn quốc hòa đồng của nhà Nguyên và thực hiện chính sách bài ngoại. Trong số các biện pháp bài ngoại có lệnh triệt để cấm thần dân Minh triều bán tơ lụa cho lái buôn người nước ngoài. Ai vi phạm lệnh cấm này sẽ bị “tru di tam tộc” (…) Quan quân nhà Minh bắt quả tang một tên lái buôn đang vận chuyển tơ lụa trái phép, vi phạm nghiêm lệnh của triều đình. Và hắn đã khai ra nguồn gốc số tơ lụa mua ở nhà Vương Viên ngoại. Khi khám nhà Vương Ông, bọn quan lại sai nha đã phá “khung dệt tan tành” là vì thế. Nếu Thúy Kiều không hy sinh thân thể và phẩm giá để lấy tiền hối lộ thì vụ án nhất định sẽ được đưa ra xét xử với nhân chứng, vật chứng và tội danh rõ ràng. Giảng Kiều như thế nào, đó là phần việc của các nhà sư phạm. Nhưng người giảng phải hiểu đúng vấn đề, đừng nên nói lơ mơ: gia đình Thúy Kiều bị thằng bán tơ vu oan”.*
Xin cho biết sự thực thì Vương Ôngvà gia đình oan hay ưng trong “vụ” này và đây thực chất có phải là một “vụ xuất khẩu tơ tằm trái phép” hay không. Lâu nay các nhà giáo giảng rằng gia đình Thúy Kiều mắc oan có phải là “nói lơ mơ” hay không.
AN CHI: Nếu những lời lẽ trên đây của tiến sĩ luật khoa Đào Quang Huy mà đúng thì người đầu tiên “nói lơ mơ” chính là Thanh Tâm Tài Nhân, tác giả của Kim Vân Kiều truyện bên Trung Hoa; còn người thứ hai chính là Nguyễn Du của Việt Nam, chứ các nhà giáo dạy văn bất quá cũng chỉ trực tiếp “nói theo” Nguyễn Du, nghĩa là gián tiếp “nói theo” Thanh Tâm Tài Nhân mà thôi.
Thật vậy, về vụ Vương Ông và Vương Quan bị bắt còn nhà Kiều bị khám xét và cướp phá, thì Thanh Tâm Tài Nhân đã kể như sau:
“Nàng (Kiều – AC) vội vàng ra mở, chẳng ngờ ông bà (Vương ông, Vương bà – AC) thoạt bước chân vào thì đều hớt hơ hớt hải, b ảo cho nàng biết:
Con ơi, nguy biến mất rồi! Gần đây bên nhà dượng con chỉ vì vô ý chứa chấp hai thằng bán tơ, biết đâu chúng nó là bọn ăn cướp. Khi chúng đem tơ đi bán, bị người có của nhận được, bắt giải lên quan, quan bảo dượng con là nhà oa trữ. Thế mà cha đây mấy bữa cùng ngồi uống rượu với chúng, sợ rằng chúng sẽ xưng ra thì thực nguy hiểm.
Quả nhiên ông vừa nói được mấy câu, thì bên ngoài bỗng thấy một bọn công sai chừng bảy tám tên đạp ngõ sấn vào, chẳng cần phân giải, bắt hai cha con viên ngoại trói ghì vào cột (…)”*.
Lời kể của Thanh Tâm Tài Nhân rất cụ thể và rõ ràng: Vương Ông và con trai bị tra khảo đánh đập (rồi tạm giải về cửa quan) chỉ vì ông đã vô tình uống rượu với hai tên cướp giả danh là người bán tơ. Hai tên này đem số tơ cướp được đi bán – tất nhiên là chỉ bán trong nội địa – không ngờ bị khổ chủ bắt được mà đưa lên cửa quan. Chúng đã khai tên Vương Ông và thế là mọi việc đã diễn ra như ai có đọc Kiều cũng đều biết. Chẳng làm gì có “vụ xuất khẩu tơ tằm trái phép” và chuyện “Vương Viên ngoại vi phạm luật pháp”.
Nguyễn Du, tuy có lược bớt nhiều tình tiết vốn có trong nguyên bản của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng vì vẫn tôn trọng và theo sát nguyên truyện nên trong lời kể của mình, ông vẫn gián tiếp hoặc trực tiếp khẳng định rằng gia đình Kiều đã bị mắc oan:
Điều đâu bay buộc ai làm?
Này ai đan rập giật giàm bỗng dưng?
(…) Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.
(…) Rường cao rút ngược dây oan.
(…) Oan này còn một kêu trời nhưng xa.
Chỉ tội cho một số nhà giáo và nhà nghiên cứu của chúng ta, vì trót theo đúng lời và ý của Nguyễn Du mà giảng rằng gia đình Kiều bị mắc oan nên đã bị cho là đã “nói lơ mơ”. Nhưng chẳng có lẽ đem luật nhà Minh “cấm bán tơ lụa cho lái buôn người nước ngoài” – là cái tuyệt đối không trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan gì đến nội dung của Truyện Kiều – vào mà giảng Kiều thì lại là không “nói lơ mơ”?
Tiến sĩ Đào Quang Huy quả đã có dựa vào hai tiếng “khung dệt” ở câu 582 (Rụng rời khung dệt, tan tành gối may) mà “tiền giả định” rằng gia đình Kiều có… dệt lụa để… xuất khẩu. Nhưng chẳng có lẽ Nguyễn Du lại không có quyền dùng mấy tiếng “khung dệt” và “gối may” để chỉ việc nữ công của hai nàng thiếu nữ khuê các họ Vương? Huống chi, câu 582 lại là một câu ít nhất cũng có đến 4 dị bản nữa như sau:
– Rụng rời khung dệt, tan tành gói may;
– Rụng rời giọt liễu, tan tành gối mai;
– Rụng rời giọt liễu, tan tành cội mai;
– Rụng rời giậu liễu, tan tành cội mai.
Với ba câu sau thì cái khung dệt đã biến mất mà chiếc gối (hoặc “gói”) may cũng chẳng còn. Vậy, với “giậu liễu” và “cội mai”, hẳn là gia đình Vương Ông phải uốn tỉa bonsai để xuất khẩu?
§ 459. Kiến thức ngày nay, số 274, ngày 10-3-1998
ĐỘC GIẢ: Từ điển Truyện Kiều của cụ Đào Duy Anh do ông Phan Ngọc sửa chữa (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1987) đã giảng “ngừng” là “nước mắt” và “nhịn ngừng” là “cầm nước mắt”. Xin cho biết ngoài ông Phan Ngọc ra, còn có ai cũng giảng như thế không?
AN CHI: Về lối giảng này của Phan Ngọc, cách đây 12 năm, Nguyễn Quảng Tuân đã có nhận xét cụ thể như sau:
“Ông Ngọc bảo Rhodes, Taberd, Génibrel đã giải thích chữ ngừng là nước mắt. Nói như vậy thì không đúng vì Taberd đã dịch: đượm ngừng là oculus lacrymis plenus; đượm hàng châu lụy là lacry mari; đượm nhừng là oculus lacry manibus. Chữ ngừng hoặc chữ nhừng đi với chữ đượm mới có nghĩa là đầm đìa hoặc dầm dề nước mắt. Génibrel cũng có dịch Đượm hàng châu lụy là verser des larmes và Lụy nhỏ đượm tuôn là larmes abondantes. Chữ đượm ngừng hoặc đượm nhừng cũng có nghĩa như dầm dề hoặc đầm đìa, người ta chỉ thêm chữ nước mắt vào cho rõ nghĩa thêm mà thôi. Chúng ta không thể tách chữ ngừng (nhừng) ra mà bảo nó có nghĩa là nước mắt được. Hơn nữa, Génibrel có đưa ra một thí dụ: Ngừng hai hàng châu lụy đượm tuôn: Avoir sur son visage deux traces de larmes versées à torrents. Thì ta thấy rõ ràng rằng ngừng không phải là nước mắt mà châu lụy mới là nước mắt*.
Những lời phân tích và khẳng định trên đây của Nguyễn Quảng Tuân, theo chúng tôi, là hoàn toàn chính xác. Chúng tôi chỉ xin mạn phép nói thêm như sau: việc giảng “ngừng” thành “nước mắt” cũng chẳng phải là một phát hiện độc đáo của Phan Ngọc vì đó là công đầu của học giả Hoàng Xuân Hãn cách đây đã 45 năm trong Chinh-phụ-ngâm bị khảo (Minh Tân, Paris, 1953). Hoàng Xuân Hãn đã viết như sau: “Tôi xét tiếng cổ, thấy tiếng ngừng là khóc, là ứa nước mắt (…) Trong các tự vị cũ như Taberd (1838), Génibrel (1898), tiếng ngừng có nghĩa ấy. Trong các bản cổ Kim-Vân-Kiều đều có tiếng Nhịn ngừng. Suy đó ra, ta thấy nghĩa nó là cầm nước mắt lại” (Sđd, tr. 91, chth. 135). Khác nhau chỉ là ở chỗ Phan Ngọc giảng “ngừng” là “nước mắt” còn Hoàng Xuân Hãn thì lại giảng là “ứa nước mắt”. Nhưng như Nguyễn Quảng Tuân đã phân tích, từ những lời giảng trong từ điển của Taberd và Génibrel, không làm sao có thể luận ra một định nghĩa như Phan Ngọc hoặc Hoàng Xuân Hãn đã nêu. Cách suy diễn của hai ông chỉ là võ đoán.
Chúng tôi cho rằng “nhịn” ở đây là âm xưa của nhẫn trong nhẫn thế 忍涕, có nghĩa là nín khóc (thế = nước mắt) còn “ngừng” là âm xưa của ngưng trong ngưng lệ, cũng đồng nghĩa với nhẫn thế. Vậy nhịn ngừng có nghĩa là nuốt nước mắt mà… nín khóc. Ngừng không phải là “nước mắt” hoặc “ứa nước mắt”. Xin mạo muội nêu lên thiển kiến như trên để thỉnh giáo ở các bậc thức giả.
§ 460. Kiến thức ngày nay, số 276, ngày 1-4-1998
ĐỘC GIẢ: Trong mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 101, ông Huệ Thiên có viết: “… Cách phân biệt đàn ông 7 lỗ với đàn bà 9 lỗ là điều vô lý”. Gần đây, ông An Chi cũng đồng ý như thế.
Theo thiển ý thì chuyện “nam thất nữ cửu” (nghĩa là nam có 7 vía hoặc 7 lỗ, nữ có 9 vía hoặc 9 lỗ) là một quan niệm đã có từ rất lâu đời; có thể đó là một quan niệm từ Trung Hoa truyền sang Việt Nam như ông Huệ Thiên đã giải thích. Một quan niệm muốn được chấp nhận và được lưu truyền qua nhiều đời thì phải hàm chứa một cái lý nào đó (lý đó có thể được giải thích theo quan điểm duy vật hoặc duy tâm). Loại trừ khía cạnh duy tâm (vía) thì chuyện 7 lỗ và 9 lỗ là có thật.
Người xưa quan niệm lỗ (Hán Việt: khiếu) của con người là những lỗ ăn thông từ bên trong ra bên ngoài của cơ thể. Những lỗ đó rất quan trọng trong sự sống và chết của con người; có những lỗ dùng để tiếp thu sự sống và có những lỗ dùng để thải cặn bã, chất độc ra khỏi cơ thể. Khi bị chấn thương, khí huyết có thể thoát ra từ những lỗ đó và con người có thể chết. Nam có 7 lỗ là: – 2 lỗ tai; – 2 lỗ mũi; – 1 lỗ miệng; – 1 lỗ tiểu tiện; – 1 lỗ đại tiện.
Còn mắt thì không thể xem là lỗ được vì không ai gọi mắt là lỗ mắt mà gọi là con mắt. Vả lại ở mắt làm gì có lỗ nào (nếu có thì chỉ có ở mí mắt dưới: lỗ ghèn). Vậy nam có 7 lỗ và đó là 7 lỗ kể trên còn nữ thì hơn nam 2 lỗ: đó là hai lỗ vú. Người nữ có 2 lỗ này để tiết sữa ra mà nuôi con (Sữa cũng là một dạng khí huyết của con người).
AN CHI: Ý kiến của ông rất thú vị, chính vì vậy mà chúng tôi xin giới thiệu nó để bạn đọc rộng đường tham khảo.
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn muốn được thưa thêm cho rõ như sau. Ông đã có ghi chú rằng cái gọi là lỗ thì yếu tố Hán Việt tương ứng gọi là khiếu và ông cũng có thừa nhận rằng quan niệm “nam thất nữ cửu” có thể là từ Trung Hoa truyền sang. Nhưng thất khiếu hoặc cửu khiếu theo quan niệm của người Trung Hoa thì luôn luôn bao gồm cả hai “lỗ mắt” còn ông thì lại không thừa nhận điều này. Như vậy thì có sợ là không phù hợp với truyền thống hay không? Thật vậy, người Trung Hoa xưa vẫn quan niệm hai lỗ mắt là những yếu tố nằm trong “thất khiếu” hoặc “cửu khiếu” mà sau đây là một vài dẫn chứng cụ thể. Tại chữ khiếu 竅, Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) đã cho nghĩa 4 như sau: “Chỉ nhân hoặc động vật nhĩ mục khẩu tị đẳng khí quan đích khổng, như thất khiếu.” (Chỉ các lỗ thuộc những khí quan tai, mắt, miệng, mũi của người hoặc động vật, như thất khiếu). Còn tại mục thất khiếu thì Từ hải đã giảng như sau: “Nhãn, nhĩ, khẩu, tị thất khổng vị chi thất khiếu” nghĩa là “bảy lỗ mắt, tai, miệng, mũi gọi là thất khiếu”. Quyển từ điển này còn dẫn thí dụ trong sách Trang Tử như sau: “Nhân giai hữu thất khiếu, dĩ thị, thính, thực, tức” nghĩa là “con người ta ai cũng có bảy lỗ để nhìn, nghe, ăn, thở”. Rồi về cửu khiếu thì các sách đều giảng rằng đó là thất khiếu cộng với âm khiếu (lỗ âm) là tiền âm (lỗ tiểu tiện) và hậu âm (lỗ đại tiện).
Rõ ràng là theo quan niệm của người Trung Hoa thì thất khiếu hoặc cửu khiếu luôn luôn bao gồm hai lỗ mắt mà danh từ khoa học tiếng Hán hiện đại gọi là nhãn oa (ổ mắt, tức là cái mà tiếng Pháp gọi là orbite và tiếng Anh là orbit). Còn cửu khiếu thì luôn luôn chỉ là thất khiếu cộng với âm khiếu (cũng gọi là hạ nhị lậu = hai lỗ dưới) chứ không bao giờ là thất khiếu cộng với hai… “lỗ vú” – mà chúng tôi xin được phép gọi là nhũ khiếu – như ông đã nêu.
Đến như chuyện chín vía của phái nữ mà ông đã nêu thì chúng tôi không tìm thấy trong thư tịch của Trung Hoa. Chúng tôi chỉ tìm thấy có bảy vía (thất phách) như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 101 là: thi cẩu, phục thỉ, tước âm, thôn tặc, phi độc, trừ uế, và xú phế. Đây là theo quan niệm của Đạo giáo, thấy được trong sách Vân cập thất tiêm của Trương Quân Phòng đời Tống. Còn chín vía là những vía nào thì xin thỉnh giáo ở các bậc thức giả.
§ 461. Kiến thức ngày nay, số 276, ngày 1- 4 -1998
ĐỘC GIẢ: Tại sao trong Nam nói “bông” còn ngoài Bắc nói “hoa”? Có phải ngoài Bắc gần Trung Quốc nên dùng “hoa” là một tiếng Hán Việt còn trong Nam tiếp xúc nhiều với Mã Lai và Khmer nên mới dùng “bông” là một từ Mã Lai hoặc Khmer hay không?
AN CHI: Thực ra thì trước kia, trong Nam vẫn nói hoa (thay vì bông) như ngoài Bắc. Bằng chứng là danh từ này đã có mặt trong một số cấu trúc (ít nhất là hai) như đã được ghi nhận trong lời kể sau đây của Vương Hồng Sển: “Dinh Tả quân phu nhơn ở trong vòng rào dinh Tổng Thống (dinh Thống Nhất – AC) ngày nay. Xa một độ thì có “Nhà Hoa” (Chúng tôi nhấn mạnh – AC), tức là chốn dành cho Tả quân đến thưởng hoa giải muộn (…) Theo ông Trần Văn Học là ông quan đàng cựu đời Gia Long có công vẽ ra bản đồ thành Sài Gòn thời ấy (1815) thì Cầu Bông, trước kia gọi là “Cầu Cao Mên”, sau đổi làm “Cầu Hoa” (Chúng tôi nhấn mạnh – AC), rồi vì húy tên một bà phi tần của đức Minh Mạng nên gọi “Cầu Bông” cho đến ngày nay”*. Vậy trước kia trong Nam cũng nói hoa như ngoài Bắc rồi từ đời vua Thiệu Trị mới bắt đầu nói hoa thành bông, do kiêng húy của bà Hồ Thị Hoa, tức Thuận Đức Nhân hoàng hậu, mẹ của vị vua này.
Bông thực ra cũng chẳng phải là một từ Việt gốc Mã Lai hay Khmer (cách diễn đạt này thực ra cũng không thích đáng: lẽ ra phải nói “gốc Mã Lai – Đa Đảo” hoặc “gốc Môn – Khmer”. Một vài tác giả cố gắn nó với danh từ bunga (= hoa) của tiếng Mã Lai (Có thể thấy điều này trong Từ điển truyện Kiều của Đào Duy Anh do Phan Ngọc sửa chữa, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989, tr. 59, chẳng hạn), nhưng đó chẳng qua cũng chỉ là một sự gán ghép có tính chất “ngẫu hứng” chứ không thực sự thích hợp với phương pháp so sánh chặt chẽ trong ngữ học. Lý do đơn giản đầu tiên là như sau: bunga là một từ gồm có hai âm tiết “bu + nga” chứ không phải “bung + a”. Tương ứng về từ nguyên với danh từ bunga của tiếng Mã Lai là danh từ pingu của tiếng Chàm. Nếu thoạt kỳ thuỷ, Phan Ngọc đã và chỉ tiếp xúc với hình thái pingu (đọc là pi-ngu) chứ không phải hình thái bunga của pingu nguyên mẫu có nghĩa là hoa trong tiếng Mã Lai nguyên sơ (Proto-Malay) thì liệu ông có cho rằng bông cùng gốc với pingu? Thực ra, trong bunga thì bu- chỉ là một âm tiết lướt (cũng gọi là “tiền âm tiết”) và hoàn toàn có khả năng đó chỉ là kết quả của một sự âm tiết hóa yếu tố thứ nhất của một tổ hợp phụ âm kiểu *pŋ. Lối so sánh trên đây của Phan Ngọc thực chất cũng chỉ là một thao tác có tính chất tài tử kiểu như của Bình Nguyên Lộc trong Lột trần Việt ngữ (Nguồn Xưa, Sài Gòn, 1972) cho rằng cối trong cây cối, chẳng hạn, của tiếng Việt, có quan hệ từ nguyên với boku của tiếng Nhật (cối chẳng na ná với -ku là gì?). Thực ra, boku chỉ là một điệp thức (doublet) của moku, âm Hán – Hòa của chữ 木, mà âm Hán Việt là mộc còn ku trong cả boku lẫn moku thực chất cũng chỉ là kết quả của sự âm tiết hóa phụ âm cuối -k của danh từ *muk (= cây) trong tiếng Hán cổ đại mà thôi. Vậy trong boku thì cái nghĩa “cây” nằm ở trong bok(u) chứ đâu có phải là ở trong (bo)ku! Thao tác theo kiểu đó thì chỉ có vui thôi chứ không thể đúng được! Tóm lại, bông chẳng có liên quan gì về từ nguyên với bunga của tiếng Mã Lai cả. Danh từ bông tất nhiên cũng chẳng có dây mơ rễ má gì về từ nguyên với danh từ đồng nghĩa của nó trong tiếng Khmer là phka. Bông là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 莑 mà âm Hán Việt hiện đại là phong, có nghĩa là mầm, chồi, nụ. Sự tương ứng về ngữ nghĩa giữa bông với phong 莑 ở đây là thực sự hoàn hảo mà sự tương ứng về ngữ âm thì cũng hoàn hảo không kém. Cái lý do đơn giản đầu tiên là phong 莑 thuộc thanh mẫu phu (phô) 敷, một thanh mẫu mà âm Hán Việt xưa là bôi (trong bôi nhọ, bôi trơn -bôi là phô một chất gì đó thành một lớp mỏng trên bề mặt của một vật). Vậy bông ~ phong cũng chỉ là cùng một cái lý với mối tương ứng bôi ~ phu (phô) mà thôi.
Tóm lại, cả bông lẫn hoa đều là những từ Việt gốc Hán chứ không phải hoa mới thuộc gốc Hán còn bông thì gốc Môn – Khmer hoặc Mã Lai – Đa Đảo (malayo-polynésien) như ông đã nêu.
§ 462. Kiến thức ngày nay, số 277, ngày 10-4-1998
TS. Đào Quang Huy, Thành phố Hồ Chí Minh: Tôi xin xác định rằng tôi không hồ đồ đến mức chỉ dựa vào câu thơ số 582 trong Truyện Kiều (Rụng rời khung dệt, tan tành gói may) để “tiền giả định rằng gia đình Kiều… có dệt lụa để… xuất khẩu” như ông đã viết tại Chuyện Đôngchuyện Tây của Kiến thức ngày nay, số 274.
Tài liệu chủ yếu giúp tôi viết bài nhận định ngắn gọn đăng trên Thế giới mới, số 273 là giáo trình Luật Thương mại (Traité de droit commercial) do Joseph Hamel hợp tác cùng Gaston Lagarde, GS. Trường Đại học Luật khoa Paris thâm cứu về Con đường tơ lụa (Route de la Soie) nối liền Tây An của Trung quốc với hải cảng Khaniá của Hy Lạp. Chức danh thân phụ nàng Kiều là viên ngoại (員外) đã xác nhận luận điểm do hai Giáo sư này nêu ra.
Tất nhiên, thi hào Nguyễn Du phóng tác Truyện Kiều theo nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân nhằm mục tiêu chính yếu là chứng minh định đề tài mệnh tương đố được nhà thơ dân tộc tóm lược trong hai câu 5 và 6 của tác phẩm còn nguyên ủy, vì ai, vì lẽ gì, do đâu, do ai, do luật lệ nào mà Vương viên ngoại và Vương Quan bị bắt, nằm ngoài phạm trù khảo cứu của nhà thơ, nên mới xảy ra tình huống tất yếu phải xảy ra là người đọc, người giảng, người nghe đọc cũng như người nghe giảng phỏng đoán để lâm thời an ủi vỗ về bản năng tự nhiên đòi được am hiểu tường tận của mỗi người.
AN CHI: Việc phân tích nội dung của Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài Nhân) hoặc Truyện Kiều (Nguyễn Du) phải xuất phát từ nội dung cụ thể và chính xác của chính các tác phẩm đó chứ không thể căn cứ vào Traité de droit commercial của Hamel và Lagarde. Chỉ khi nào chính Thanh Tâm Tài Nhân hoặc Nguyễn Du khẳng định bằng lời kể cụ thể của họ ở trong truyện rằng Vương viên ngoại có xuất khẩu tơ tằm trái phép thì kết luận của ông trên Thế giới mới, số 273 mới là thực sự chính xác và chúng tôi sẵn sàng nghe theo. Đằng này cả Thanh Tâm Tài Nhân lẫn Nguyễn Du đều khẳng định rành mạch rằng Vương Ông bị mắc oan mà riêng Thanh Tâm Tài Nhân lại còn kể rõ rằng sự mắc oan đó chỉ liên quan đến việc trộm cướp (chứ không phải việc “xuất khẩu tơ tằm trái phép”). Trên Kiến thức ngày nay, số 274, chúng tôi đã có chứng minh. Nay xin dẫn thêm mấy chứng sau đây. Trong Kim Vân Kiều truyện, tại hồi thứ tư, Thanh Tâm Tài Nhân đã để cho Thúy Kiều nói với Thúy Vân như sau: “Việc này liên can đến chuyện trộm cướp (…)”*. Còn tại hồi thứ sáu thì “Một tên kẻ cướp nói: – Thực ra ông ta (Vương Ông – AC) không hề có làm việc với chúng tôi, nhưng vì ông ta có ăn uống với chúng tôi mấy lần. Sau chúng tôi bị bắt, ông ta liền bỏ không nhìn, chúng tôi giận ông ta vô tình nên mới đổ vấy cho” (tr. 110). Vấn đề hoàn toàn rõ ràng. Vậy không thể dựa vào Traité de droitcommercial của Joseph Hamel và Gaston Lagarde mà gán tội cho người vô tội được, cho dù người đó chỉ là một nhân vật… ở trong truyện.
Ông có lập luận rằng “chức danh thân phụ nàng Kiều là viên ngoại đã xác nhận luận điểm do hai Giáo sư này (Hamel và Lagarde – AC) đưa ra”. Rất tiếc rằng ông đã không hề viện dẫn xem họ đã viết gì và viết như thế nào. Nhưng dù cho họ có viết gì và viết như thế nào thì chắc chắn “chức danh” đó cũng không giúp ích được gì cho việc xác nhận luận điểm của họ vì chức danh “viên ngoại” cũng chẳng có liên quan gì đến việc xuất khẩu hoặc nghề tơ tằm. Huống chi “viên ngoại” chẳng qua chỉ là hai tiếng mà tiểu thuyết của Trung Hoa thời xưa thường dùng để gọi những nhà có của ở địa phương mà thôi. Thật vậy, Tiểu thuyết từ ngữ hội thích của Ban biên tập thuộc Đài Loan Trung Hoa thư cục, do nhà này ấn hành năm Trung Hoa Dân Quốc thứ 57 (1968), đã giảng tại trang 420 – 421 như sau: “Tên một chức quan do nhà Đường đặt ra, là một hạng quan ngoại ngạch, có thể bỏ tiền ra mua, cho nên đời sau mới (theo đó mà) tôn xưng người có của là viên ngoại”. Cũng vì thế mà bản dịch đã nói của N. K. Hanh và N. Đ. Vân mới chú thích tại trang 25 như sau: “Viên ngoại đây không phải là chức quan, mà là những người Trung Quốc xưa thường dùng để gọi những nhà khá giả trong thường dân”.
Ông cho rằng “nguyên ủy, vì ai, vì lẽ gì, do đâu, do luật lệ nào mà viên ngoại và Vương Quan bị bắt, nằm ngoài phạm trù khảo cứu của nhà thơ, nên mới xảy ra tình huống tất yếu phải xảy ra là người đọc, người giảng, người nghe đọc cũng như người nghe giảng phỏng đoán để lâm thời an ủi vỗ về bản năng tự nhiên đòi được am hiểu tường tận của mọi người”. Thực ra, cái nguyên ủy đó đã được Thanh Tâm Tài Nhân và Nguyễn Du nói ra một cách hoàn toàn không úp mở. Có điều là họ chỉ không… làm biên bản chi tiết mà thôi. Nhưng dù họ có nói hay không thì người phân tích cũng tuyệt nhiên không thể vì họ không “khảo cứu” mà “khảo cứu” hộ họ bằng cách gán tội cho nhân vật mà chính họ đã khẳng định bằng lời kể của mình là một nhân vật vô tội.
Người đọc, người giảng cũng chẳng “phỏng đoán” mà chỉ suy luận trên cơ sở các tình tiết đã có ở trong truyện. Và họ đã suy luận một cách có căn cứ như thế không phải để “lâm thời an ủi, vỗ về bản năng tự nhiên đòi được am hiểu tường tận” mà chính là để thỏa mãn cái ý thức thường trực muốn tìm hiểu thiên nhiên, xã hội và con người thông qua hành động cảm thụ nghệ thuật. Sự cảm thụ này luôn luôn phụ thuộc vào trình độ và sở thích chủ quan của cá nhân nhưng cũng luôn luôn phụ thuộc vào các tình tiết khách quan vốn có trong tác phẩm chứ không thể là các tình tiết do chủ quan của mình tưởng tượng ra thay cho tác giả.
§ 463. Kiến thức ngày nay, số 277, ngày 10-4-1998
ĐỘC GIẢ: Tôi thấy có mấy từ mọi người đều dùng một cách vui vẻ mà tôi không hiểu nguồn gốc như thế nào. Đó là chữ “chay” trong “ăn chay”. Có phải “ăn trai” (“trai” trong “trai tịnh”) chứ không phải là “chay” và có phải “ăn mạng” (“mạng” trong “sinh mạng”, “mạng sống”) chứ không phải là “ăn mặn” (“mặn” trong “mặn lạt”, “mặn ngọt”)? Bởi lẽ người “ăn chay” cũng phải ăn muối, ăn nước tương,… Chữ “chay” mà người Công giáo dùng có phải là chữ “trai” đọc trại đi? Nếu đây là chữ Hán thì xin cho biết tự dạng ra sao.
AN CHI: “Ăn chay”, trong Nam cũng gọi là “ăn lạt” ( Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức giảng “ăn chay” là “ăn lạt” rồi giảng “lạt” là “chay”) và vì “lạt” đồng nghĩa với “chay” nên phương ngữ Nam Bộ mới có từ tổ đẳng lập “chay lạt” để chỉ việc ăn chay nói chung và từ tổ “cúng lạt”, đồng nghĩa với “cúng chay” nghĩa là dâng toàn đồ chay trong một đám cúng. Vì vậy mà, đối nghịch với “ăn chay”, tức “ăn lạt”, là “ăn mặn” chứ không phải “ăn mạng”.
Chay trong ăn chay là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 齋 mà âm Hán Việt hiện đại là trai, có nghĩa là… ăn chay. Thế là về ngữ nghĩa thì hai bên đã gặp nhau một cách khít khao còn về ngữ âm thì chay ~ trai cũng là một mối quan hệ có thể chứng minh một cách không khó khăn gì. Trước nhất, về phụ âm đầu thì chay ~ trai cũng hoàn toàn giống như: chém ~ trảm; chén ~ trản; chè ~ trà; chèo ~ trạo; chìm ~ trầm; chổi ~ trửu; chắn/chặn ~ trấn (trong “trấn áp”); chầu ~ triều/trào; (chóng) chầy ~ trì; chênh (vênh) ~ tranh (vanh); chồng (chất) ~ trùng (điệp); (chải) chuốt ~ trất (= cái lược – chải bằng lược); v.v.. Về vần thì chay ~ trai cũng giống như (trình) bày ~ (an) bài; giày ~ hài; hay ~ giai 佳; gãy ~ giải 解; v.v..
Cứ như trên thì chữ chay mà người Công giáo sử dụng cũng liên quan về nguồn gốc với chữ trai. Vốn là một từ bên Phật giáo, chay đã được các nhà truyền đạo bên Công giáo mượn để chỉ khái niệm jejunium trong tiếng La Tinh (tiếng Pháp: jeûne). Chính vì vậy mà A. de Rhodes mới ghi và giảng trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh như sau: “Ăn chay. Đích thực có nghĩa là kiêng thịt và cá, nhưng bây giờ thì dùng để chỉ sự ăn chay của những kitô hữu”. Và cũng chính vì chay và trai liên quan với nhau về nguồn gốc và ngữ nghĩa nên trong Danh-từ thần-học và triết-học (Trí đức thư xã, Hà Nội, 1953), Ban giáo sư Đại chủng viện Bùi Chu mới dịch jeûne là “Ăn chay. Trai giới”.
§ 464. Kiến thức ngày nay, số 277, ngày 10-4-1998
ĐỘC GIẢ: Áo cứ tràng, làng cứ xã: xin cho biết đây là “tràng” hay “chàng”.
AN CHI: Về vấn đề này, trong bài “Vì sao một số thành ngữ, tục ngữ lại khó hiểu” (Thông tin Khoa học & Công nghệ, Huế, số 3, 1996, tr. 66 – 77), Huệ Thiên đã viết như sau: “Ngay cả sách vở cũng lâm vào tình trạng bóp méo thành ngữ, tục ngữ chứ chẳng cứ gì dân gian mới bóp méo theo kiểu đó. Nguyễn Lân, chẳng hạn (trong Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam – AC), đã ghi nhận câu “Áo cứ chàng, làng cứ xã” và giảng như sau: “Xã là chức dịch trong làng. Nói tính ỷ lại của người đàn bà, cũng như tính ỷ lại của những người dân trong thôn xóm, không thấy được vai trò làm chủ của mình”. Thật là chuyện quá đỗi bất ngờ khi mà một quyển từ điển lại có thể viết sai chính tả và giảng sai nghĩa đến như thế: hình thức chính xác của câu đang xét là “Áo cứ tràng, làng cứ xã”. “Tràng” có nghĩa gốc là cái cổ áo, nay được hiểu là cái vạt trước của chiếc áo dài (Tục ngữ còn có câu “Áo rách vẫn giữ lấy tràng” mà chính Nguyễn Lân cũng đã có ghi nhận). Cái tràng áo đã bị Nguyễn Lân hiểu thành đức lang quân (“chàng”!) nên “nàng” mới mắc cái oan Thị Kính là hay ỷ lại vào đàn ông!
Rồi dân làng cũng mắc vạ lây mà bị quy là không biết phát huy quyền làm chủ ở nông thôn. Câu tục ngữ đang xét thực ra chỉ muốn nhấn mạnh vào vai trò và trách nhiệm của chức danh “xã” đối với địa phương do mình cai quản mà thôi. Cái được ám chỉ ở đây là trách nhiệm của cá nhân chứ không phải là quyền làm chủ của tập thể”. (Bđd, tr. 72).
§ 465. Kiến thức ngày nay, số 278, ngày 20-4-1998
Ô. Văn Phê, Thành phố Hồ Chí Minh: Trong tay tôi là cuốn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của GS. Nguyễn Lân do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 1997 (nộp lưu chiểu tháng 9-1997). Đây tuy là một quyển sách có ích song xem ra cũng còn không ít thiếu sót. Xin nêu lên một số dẫn chứng và mong nhận được sự chỉ giáo của các bậc thức giả.
1. “Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống. Lời than của cha mẹ già trước cái chết của con cái” (tr. 166). Câu này bị cắt mất vế “trời hay chăng trời” (đây là thơ lục bát) nên không còn mang ý nghĩa của một lời than như tác giả đã giải thích nữa.
2. “Thâm đông, hồng tây, dựng may: Ý nói cuối mùa đông mà thấy phía tây hồng thì bắt đầu có gió may” (tr. 291). Tác giả đã ghi thiếu hẳn vế sau là “Ai ơi ở lại ba ngày hãy (hẵng) đi”. Cả câu có nghĩa là ở miền Bắc vào khoảng tháng 7, tháng 8 âm lịch, nếu thấy phương Đông có mây đen, phương Tây có ráng đỏ, gió heo may nổi lên thì sẽ có mưa bão chứ không phải “cuối mùa đông mà thấy phía tây hồng thì bắt đầu có gió may”.
3. “Khô chân gân mặt, đắt tiền cũng mua. Tỏ ý chuộng người có vẻ cương quyết” (tr. 151). Đúng ra, đây là kinh nghiệm chọn mua trâu, bò, một trong ba việc quan trọng đối với người xưa (tậu trâu, lấy vợ, làm nhà).
4. “Mài mực ru con, mài son đánh giặc. Nói các ông đồ ngày xưa thường ngồi dạy học đồng thời giúp vợ làm việc vặt trong nhà, nhưng khi có giặc thì tham gia phục vụ quân sự” (tr. 189). Câu này vẫn được hiểu là trong việc học ngày xưa, người ta sử dụng mực tàu để viết và son để khuyên, điểm. Mực tàu mềm hơn nên chỉ cần mài nhẹ nhàng như ru trẻ là được nhưng son là một thứ đá đỏ rất cứng nên phải mài mạnh tay mới ra.
5. “Nàng Ban, ả Tạ (nàng Ban là Ban Tiệp Dư, ả Tạ là Tạ Đạo Uẩn, hai người con gái có hiếu trong sử Trung Quốc). Nói những người phụ nữ có hiếu đối với cha mẹ” (tr. 212). Thực ra hai nhân vật này nổi tiếng là học giỏi, thơ hay, không dính dáng gì đến chữ hiếu.
6. “Sáo đói thì sáo ăn đa, phượng hoàng lúc đói cứt gà cũng ăn (Đa là quả đa, phượng hoàng là loài chim thần thoại coi như đứng đầu loài chim). Ý nói: Kẻ quí phái đến lúc sa cơ thì còn khổ hơn người bình thường” (tr. 272). Thực ra câu này ngụ ý mỉa mai những kẻ tự xem hoặc được xem là quí phái nhưng đến lúc sa cơ thì lại làm những điều tệ hại đối với nhân cách của mình hơn cả những người bình thường.
7. “Thời bất tái lai (nghĩa đen: Thời gian không trở lại). Khuyên người ta nên quí thời giờ” (tr. 300). Thực ra, chữ “thời” ở đây là thời cơ, là cái dịp thuận tiện và thích hợp để làm một việc gì, thường không có được lần thứ hai, chứ không liên quan gì đến “thời giờ” cả.
8. “Thứ nhất tốt mời, thứ nhì ngồi dai. Giễu kẻ tham ăn, chỉ mong người ta mời ăn, hoặc cứ ngồi lì để người ta phải mời”. (tr. 303). Câu này mà chép như thế là đã bị “thất bản” vì nguyên văn của nó là “thứ nhất tốt mồi, thứ nhì ngồi dai”, nghĩa là muốn câu được cá thì phải “tốt mồi” hoặc “ngồi dai”, ngụ ý rằng muốn đạt được một mục tiêu nào đó thì phải có phương tiện thật thích hợp hoặc phải thật kiên trì mới được. Huống chi, mồi mới vần với ngồi một cách chặt chẽ.
Việc nêu dẫn chứng còn có thể kéo dài thêm nhiều nhưng vì không dám lạm dụng khuôn khổ của mục Chuyện Đông chuyện Tây nên tôi xin phép tạm dừng tại đây. Đây là một việc làm “chẳng đặng đừng”, xuất phát từ yêu cầu bức xúc và chính đáng của người đọc, người học là được cung cấp những kiến thức chính xác qua sách báo, nhất là từ điển, vì từ điển phải là khuôn vàng thước ngọc cho người đọc và người học noi theo. Nếu có gì sai trái, xin nhờ ông An Chi và quí bạn đọc xa gần nhận xét cho.
AN CHI: Chúng tôi rất hoan nghênh những lời nhận xét và phân tích hoàn toàn chính xác trên đây của ông. Trong bài “Tại sao một số thành ngữ, tục ngữ lại khó hiểu” đăng trên tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ (Thừa Thiên – Huế) số 3-1996, tr. 66 – 77, chúng tôi cũng đã có đề cập đến một số sai sót của quyển tự điển đó và cũng có nói đến câu “Mài mực ru con, mài son đánh giặc” theo cách hiểu mà ông đã nêu. Vậy cũng xin giới thiệu để ông và bạn đọc tham khảo. Một lần nữa, xin chân thành cám ơn ông và mong ông thông cảm cho rằng do khuôn khổ có hạn nên chúng tôi chỉ đăng được 8 trường hợp trong hơn 30 trường hợp mà ông đã nhận xét – và nhận xét rất chính xác.
§ 466. Kiến thức ngày nay, số 278, ngày 20-4-1998
ĐỘC GIẢ: Gần đây, trong một buổi nói chuyện về “Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh 300 năm” do Hội hữu nghị Việt Pháp Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, diễn giả NĐĐ có dịch mấy từ ngữ “Đàng Ngoài” và “Đàng Trong” sang tiếng Pháp thành “Voie extérieure” và “Voie intérieure”. Xin cho biết cách dịch trên đây có ổn hay không.
AN CHI: Tất nhiên – hỏi là đã trả lời – một cách dịch như trên là thực sự không ổn vì “đàng” ở đây không phải là “voie”, “route”, “chemin”, v.v., mà là “zone”, “région”, “contrée”, v.v., bắt nguồn từ nghĩa “côté”, “rang”, “partie”, “part” như đã cho trong Dictionnaire annamite français của J. F. M. Génibrel.
Tuy nhiên, nếu có dịch “Đàng Ngoài” và “Đàng Trong” thành “Zone (Région, Contrée) extérieure” và “Zone (Région, Contrée) intérieure” thì đây cũng chỉ là một cách dịch mot à mot (từng từ một) chứ không nói lên được cái ý mà hai từ “ngoài” và “trong” biểu đạt vì ở đây “ngoài” có nghĩa là “Bắc” còn “trong” thì lại có nghĩa là “Nam” (trong Nam ngoài Bắc, ra Bắc vào Nam): Đàng Ngoài là đàng Bắc của Đàng Trong còn Đàng Trong là đàng Nam của Đàng Ngoài. Chính vì vậy mà để cho sát, J. F. M. Génibrel mới dịch “Đàng Ngoài” thành “Tonkin” và “Đàng Trong” thành “Cochinchine”. Còn A. de Rhodes, trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh, thì đã dịch “Đàng Ngoài” bằng tiếng Bồ Đào Nha là “as quatro Provincias da Corte” (bốn tỉnh của Triều đình), bằng tiếng La Tinh là “quatuor Provinciae circa Tunquini regiam” (bốn tỉnh chung quanh triều đình Đông Kinh) còn “Đàng Trong (tlaõ)” bằng tiếng Bồ Đào Nha là “as outras Provincias desda Corte até Champa” (những tỉnh khác từ Triều đình đến Chiêm Thành) và bằng tiếng La Tinh là “reliquae Provinciae a Regia Tunquinensi usque ad Regnum Ciampa” (những tỉnh còn lại từ triều đình Đông Kinh đến vương quốc Chiêm Thành).
Cách dịch “Đàng Ngoài” và “Đàng Trong” thành “Voie extérieure” và “Voie intérieure” có lẽ đã chịu ảnh hưởng của cách dịch “Đường Trên” và “Đường Dưới” (ở Sài Gòn xưa) thành “Route Haute” và “Route Basse” chăng?
§ 467. Kiến thức ngày nay, số 279, ngày 1-5-1998
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Tiếng nói nôm na” đăng trên tạp chí Nguồn sáng số 9612, trang 15 – 16, sau khi giảng về cấu tạo của chữ Nôm, tác giả có viết như sau:
“Trong Chinh phụ ngâm có câu (do các sách viết bằng chữ quốc ngữ ghi):
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao…
Xưa nay với câu dưới, các sách báo đều giảng đại ý là: Có cái chết nặng như núi Thái Sơn, có cái chết nhẹ như lông (con chim) hồng… Nhưng chúng tôi trộm nghĩ, ta nên ghi là:
Leo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
mới hợp với nghĩa của câu trong bài, bởi vì đây là một chiến tướng cưỡi ngựa ra trận, vượt qua núi Thái Sơn cao ngất (chỉ sự trở ngại lớn lao) bằng cách nương nhẹ vào (khinh kỵ) con “ngựa hồng mao” (một loại ngựa hay, ngựa mạnh). Nếu quả đúng câu viết là “Gieo Thái Sơn…” thì chỉ có thể hiểu rằng: coi việc lớn lao nặng nề (như núi Thái Sơn) nhẹ như gảy móng tay (như lông con chim hồng) chứ không thể hiểu là: coi nhẹ, coi thường cái chết; huống chi, con chim hồng chỉ có lông vũ chứ không có lông mao!” (Bđd, tr. 16).
Lập luận trên đây của tác giả có đúng hay không?
AN CHI: Chúng tôi xin trả lời rằng lông chim vẫn có gọi là “mao” đấy. Thật vậy, tại chữ mao 毛, Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) đã giảng ở nghĩa 1, trang 837 như sau: “(Mao là) vật hình sợi mọc ở trên da của động thực vật; (là) lông của chim (…) Từ Hạo (bình chú bộ mao trong sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận – AC) viết: “Lông người, lông thú (bốn chân) gọi là mao, lông chim gọi là vũ, (nhưng cũng) gọi lẫn lộn là mao”. Chính vì vậy mà lông con chim hồng mới được gọi là hồng mao 鴻毛 trong tiếng Hán xưa nay và hai tiếng này vẫn được ghi nhận trong các quyển từ điển như Từ hải, Từ nguyên, Mathews’ Chinese – English Dictionary, Hiện đại Hán ngữ từ điển, v.v.. Chẳng những thế mà hai tiếng đó còn được ghép với hai tiếng Thái Sơn để tạo nên thành ngữ “Thái Sơn hồng mao” mà Từ hải giảng là dùng để “ví nặng nhẹ khác xa vậy” (“dụ trọng khinh huyền thù dã”). Quyển tự điển này đã nêu thí dụ lấy ở “Truyện Tư Mã Thiên” trong Hán thư: “Người ta vốn có một lần chết, có cái chết nặng hơn Thái Sơn, có (cái chết) nhẹ hơn lông hồng”. Vậy sách báo đều giảng đại ý như tác giả đã nhắc lại chính là giảng theo thư tịch xưa chứ có phải tự ý đặt ra đâu. Đó là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai là điều gợi ý độc đáo của tác giả (thay gieo bằng “leo”), đã hoàn toàn không tính đến nguyên tác của Đặng Trần Côn. Câu:
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
chẳng qua là kết quả của một lối dịch sát nguyên văn vì ứng với câu dịch đó thì nguyên tác là:
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
Trịch là quăng, là ném, là liệng; dịch thành “gieo” trong câu thơ đang xét là rất đạt.
Sau đây là một vài điểm không đúng khác trong cách hiểu của tác giả bài viết đó: 1. Nhẹ tựa hồng mao là nhẹ như lông hồng (tựa ~ tự 似 = như, giống với) nhưng tác giả lại cho rằng tựa là “dựa vào” nên mới giảng cụm từ đó là “nương nhẹ vào (con ngựa hồng mao)”. Nương nhẹ vào con ngựa thì chỉ có nước… rớt xuống đất khi con ngựa phi nước đại, còn đánh giặc làm sao được? 2. Sau mấy tiếng “nương nhẹ vào”, sợ người đọc không biết tiếng Hán, tác giả còn ghi chú hai tiếng “khinh kỵ” trong ngoặc đơn vì cho rằng “khinh kỵ” là “cỡi (kỵ) nhẹ (khinh)”. Thực ra, chữ khinh ở đây dùng để chỉ sự trang bị gọn nhẹ của người kỵ binh. 3. Người chinh phu ở đây không phải là một “chiến tướng” như lời của tác giả vì anh ta chỉ là một “chàng tuổi trẻ” vừa mới “xếp bút nghiên theo việc đao cung” mà thôi. 4. Con “ngựa hồng mao” của tác giả đã “tuyệt tích giang hồ” rồi vì không thấy tăm hơi của nó trong thư tịch. Vậy vị “chiến tướng” của tác giả lấy gì mà cỡi?
§ 468. Kiến thức ngày nay, số 279, ngày 1-5-1998
ĐỘC GIẢ: Câu “Que sais-je?” là của ai và có ý nghĩa gì?
AN CHI: “Que sais-je?” là một câu châm ngôn của Montaigne – Michel Eyquem de Montaigne – nhà văn và nhà triết học người Pháp (1533 – 1592) thời Phục hưng. Xin tạm dịch nó thành “Ta biết gì nhỉ?”. Với lời tự vấn này, thực ra Montaigne muốn nói lên chủ nghĩa hoài nghi mà bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ cùng với những điều kiện thuộc về chủ quan đã khơi gợi cho nhà văn.
§ 469. Kiến thức ngày nay, số 279, ngày 1-5-1998
ĐỘC GIẢ: Trong Từ điển Truyện Kiều của cụ Đào Duy Anh do ông Phan Ngọc bổ sung và sửa chữa và do nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành tại Hà Nội năm 1987, ông Phan Ngọc có cho biết rằng tác giả của quyển Dictionarium anamitico – latinum in lần đầu ở Serampore năm 1838 tên là “Contans Taberd” (Sđd, tr. 16). Xin cho biết có phải Taberd, tác giả của quyển từ điển đó, tên là “Contans” hay không. Nếu không thì tại sao lại ghi như thế? Câu hỏi phụ: ông Phan Ngọc phải sử dụng đến cả quyển tự điển đó để làm gì vì nó chỉ giảng toàn bằng tiếng La Tinh?
AN CHI: Dictionarium anamitico – latinum của Taberd, tuy chỉ giảng tiếng Việt bằng tiếng La Tinh nhưng lại rất quý ở chỗ nó có ghi nhận nghĩa cổ của một số từ (những nghĩa này không còn tồn tại trong tiếng Việt hiện đại nữa) nên có thể giúp soi sáng nghĩa của một số từ ngữ khó hiểu trong Truyện Kiều. Vì vậy nên việc tác giả Phan Ngọc sử dụng nó là hợp lý và cần thiết và sở dĩ ông cần đến những quyển từ điển xưa đến cỡ đó là vì ông muốn có điều kiện để nâng cấp công trình của Đào Duy Anh lên hàng từ điển ngữ văn theo quan điểm của ngữ học hiện đại, như ông đã thông báo tại mục 2 của phần “Những sửa đổi trong lần tái bản” ở trang 14. Nhân tiện, xin giới thiệu đến ông và bạn đọc bài viết “Ngữ học gia Phan Ngọc đã nâng cấp công trình của học giả Đào Duy Anh như thế nào?” của Huệ Thiên, đăng trên tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ (Thừa Thiên – Huế), số Xuân Mậu Dần (số 4-1997), trang 67 – 79.
Bây giờ xin trở lại với tên của Taberd là “Contans”. Chắc chắn tác giả đã chép thiếu mất chữ “s” sau chữ “n” và trước chữ “t” vì chính tả của từ này phải là “constans” (cũng có thể là lỗi ấn loát). Nhưng “constans” cũng chẳng phải tên của Taberd vì tên của tác giả này đã được ghi rõ tại trang nhãn của Dictionarium anamitico – latinum in tại Serampore năm 1838: “editum a J. L. Taberd”, nghĩa là “do J. L. Taberd trước tác”. Vậy tên của Taberd là J. L. Nhưng J. có thể là Jean, là Jacques, là Joseph, là Julien, v.v., còn L. có thể là Léon, là Louis, là Lucien, là Léopold, v.v.. Chúng tôi không dám… đoán mò nên có tìm hiểu ở hai vị thức giả Công giáo – Nhân đây, xin chân thành cảm ơn hai vị – thì được biết rằng đó là Jean Louis. Vậy Taberd tên là Jean Louis và nếu xưng đủ danh tánh thì đó là Jean Louis Taberd.
Nhưng do cớ sự nào mà Phan Ngọc lại gọi vị giám mục này là “Contans Taberd”? Chúng tôi xin… đoán mò như sau. Tại trang 16 của Từ điển Truyện Kiều do mình nâng cấp (1989), Phan Ngọc có cho biết là, ngoài bản in lần đầu (tại Serampore năm 1838) của Taberd, ông còn sử dụng cả bản “in lần thứ hai năm 1877 do Hội truyền giáo Bắc Kỳ xuất bản” nữa. Ở chỗ này, Phan Ngọc đã nhầm: bản in lần thứ hai đã được J. S. Theurel “hiệu đính và bổ sung nhiều” (“recognitum et notabiliter adauctum”), chứ không còn là riêng của Taberd nữa, như Hoàng Dũng đã nhận xét tại bài “Đè trong Truyện Kiều nghĩa là gì?” (Ngôn ngữ & Đời sống, số 1 (27)-1998, tr. 19, chth. 2). Nhưng dù cho có “hiệu đính và bổ sung nhiều” thì bản in lần thứ hai cũng vẫn và chỉ là thoát thai từ bản in lần thứ nhất của Taberd mà thôi. Chính vì vậy nên Theurel (hoặc người biên tập) mới ghi ở trang nhãn của bản in lần thứ hai là “ex opere Ill. et Rev. TABERD constans”, nghĩa là “cấu thành (constans) từ (ex) công trình (opere) của Đức Taberd hiển danh (Ill.) và (et) tôn kính (Rev.)”. Constans, phân từ của động từ constare (cấu thành từ, căn cứ vào, v.v.), gắn với tên sách “Dictionarium anamitico – latinum”, đã bị Phan Ngọc rút ra khỏi đó để biến thành tên của Taberd vì thấy chữ ấy đi liền với họ của ngài (Taberd là họ). Đấy là chúng tôi… đoán mò như thế còn thật ra thì chỉ có tác giả Phan Ngọc mới biết tại sao Taberd lại có tên là “Contans” mà thôi.
Xin nói thêm với ông và bạn đọc rằng, ngoài cái tên “Con(s) tans” ra, ở một chỗ khác, chúng tôi thấy Taberd còn có một cái tên khác nữa, cũng rất lạ. Đó là “Ravier”. Cái tên này xuất hiện trong bài “Một bộ từ điển Việt-La Tinh viết tay vào cuối thế kỷ XVIII vừa sưu tầm được” của Trần Nghĩa, đăng trên tập Nghiên cứu Hán Nôm 1984 (không ghi số), trang127 – 136. Trong bài này, tác giả của quyển Dictionarium anamitico – latinum in năm 1838 tại Serampore đã trở thành “Ravier Taberd”. Thật ra, Ravier là một người khác và đây là M. H. Ravier, tác giả của Dictionarium latino-annamiticum, ấn hành tại Ninh Phú năm 1880.
§ 470. Kiến thức ngày nay, số 280, ngày 10-5-1998
ĐỘC GIẢ: Tên của người đã “lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình” vào năm 1698 là Nguyễn Hữu Cảnh hay Nguyễn Hữu Kính?
AN CHI: Vấn đề quả có phức tạp. Trước nhất, tên của nhân vật này, chữ Hán viết là 鏡 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là kính, có nghĩa là cái gương. Đây là một chữ thuộc vận bộ ánh 映 cho nên âm chính thống của nó lẽ ra phải là cánh (cư khánh thiết = c(ư) + (kh)ánh = cánh) chứ không phải kính. Đồng thời một số tiếng thuộc thanh khứ (sắc, nặng) có thể có biến thể thanh điệu mang thanh thượng (hỏi, ngã) theo quy tắc: sắc → hỏi và nặng → ngã, thí dụ: (thông) báo – bảo (ban); (tiết) tháo → (hiếu) thảo, (Từ) Dụ → (Từ) Dũ; điện (tín) → (pháo) điễn; v.v.. Vậy cánh 鏡 → cảnh cũng là chuyện hoàn toàn có thể hiểu được. Huống chi với âm kính, nó cũng đã từng có biến thể thanh điệu mang thanh hỏi là kỉnh trong mục kỉnh (kính đeo mắt).
Vậy cánh 鏡 có thể đọc thành cảnh và tên của nhân vật đang xét có thể là Nguyễn Hữu Cảnh. Nhưng Nguyễn Hữu là một dòng họ thế gia vọng tộc cho nên việc đặt tên, gọi tên chắc chắn phải theo đúng chữ nghĩa chính thống chứ không thể đặt trại, gọi trại đi được. Vậy nếu chữ tên đó có theo sát vận bộ ánh thì nó cũng chỉ có thể đọc là cánh chứ không phải cảnh (là âm đã bị đọc trại đi). Huống chi, trước khi nhân vật đang xét qua đời (1700) thì chữ 鏡 không còn đọc là cánh nữa, mà đã được đọc thành kính, như đã được ghi nhận trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh của A. de Rhodes (1651) ra đời trước đó đến nửa thế kỷ. Có thể cố biện bạch thêm một lần nữa mà nói rằng dù sao thì “cảnh” cũng là một cách phát âm riêng của phương ngữ Nam Bộ cho nên cần đọc theo âm này để giữ lại một phần nào cái sắc thái của “Đàng Trong”. Nếu sự thật quả là như thế thì chúng tôi xin nhiệt thành hưởng ứng. Chỉ tiếc rằng, trong phương ngữ Nam Bộ, âm “cảnh” đã không hề thay thế được cho âm kính trong bất cứ cấu trúc nào: viễn vọng kính, lăng kính, thấu kính, nhãn kính, v.v., chưa bao giờ được phát âm thành “viễn vọng cảnh”, “thấu cảnh”, v.v.. Trong khi đó, sanh, chẳng hạn, biến thể của sinh 生, được thấy ở hàng loạt cấu trúc: học sanh, vãn sanh, vãng sanh cực lạc, sanh thành, sanh mạng, v.v.. Cũng vậy, đối với tánh, biến thể của tính 性: tánh tình, tánh mạng, bổn tánh, tánh bổn thiện, tánh hạnh, Võ Tánh, v.v.. Còn “cảnh” thì tuyệt nhiên… không.
Chính vì “cảnh”, và cả “cánh” nữa, không hề là biến thể ngữ âm của kính trong phương ngữ Nam Bộ cho nên trong quyển Dictionarium anamitico – latinum của Pigneaux de Béhaine, soạn vào cuối thế kỷ XVIII – là một quyển từ điển mà phần tiếng Việt mang nhiều dấu ấn của tiếng Đàng Trong – chỉ có mục: “鏡 kính. Speculum (= gương – AC)” mà không có “cánh” hoặc “cảnh” với nghĩa đó. Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức, vốn thu thập rất nhiều từ ngữ của phương ngữ Nam Bộ, cũng chỉ ghi nhận Nguyễn Hữu Kính (chứ không phải “Cảnh”).
Từ những điều trên đây, có thể suy ra rằng tên của vị Thống suất đã đi kinh lược miền Nam rồi lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình hồi năm 1698 là Nguyễn Hữu Kính chứ không phải “Nguyễn Hữu Cảnh” như nhiều người vẫn gọi lâu nay.
Viết thêm cho lần in năm 2018. – Vẫn có thể là do nhân vật đang xét thuộc dòng họ thế gia vọng tộc, thông thạo chữ Hán nên đã đọc chữ 鏡 theo đúng phiên thiết là cánh, rồi do kỵ húy mà đổi thành cảnh.
§ 471. Kiến thức ngày nay, số 280, ngày 10-5-1998
ĐỘC GIẢ: Vì chưa đồng ý với cách giải thích của ông về từ “thiếu đói” trên Kiến thức ngày nay, số 263, tôi xin bàn thêm như sau:
“Thiếu đói” đúng là một từ mới xuất hiện. Hình như nó là một từ dùng trong khẩu ngữ, còn trong văn viết thì không nên dùng như vậy. Ngôn ngữ viết cần sự chuẩn mực, dễ được mọi người chấp nhận. Văn viết phải trong sáng, dễ hiểu và không gây ngộ nhận.
Nếu giải thích “thiếu đói” là cấu trúc đẳng lập, hai thành tố cùng một từ loại và một phạm trù ý nghĩa, thì nên dùng từ “đói rét” (đói cơm rét áo), đối lập với “no ấm” (no cơm ấm áo).
Hơn nữa, nếu cho rằng “thiếu đói” có cấu trúc đẳng lập thì ít ra phải dẫn chứng một vài cặp từ tương tự với “thiếu đói”. Ông đã không dẫn chứng được mà chỉ mượn những cặp từ có cấu trúc đẳng lập như: no đủ, đầy đủ, đông đủ,… rồi các cặp từ có cấu trúc chính phụ như: thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tiền, thiếu gạo,… Vậy thì các cặp từ đồng dạng với “thiếu đói” nằm ở chỗ nào? Vả lại, nếu đã phân tích “thiếu đói” là “cấu trúc đẳng lập trong đó hai thành tố đều cùng một từ loại và một phạm trù ý nghĩa” thì ít ra phải nói rõ đó là lập luận dựa trên trường phái ngữ pháp nào? Của nhóm tác giả nào? Và có được các nhà ngôn ngữ đương đại công nhận không? Đồng thời phải nêu nó là từ loại gì. Phải chăng đây là cách phân tích chủ quan của ông? Nếu công nhận “thiếu đói” là một từ đúng đắn thì ta thử đưa các cặp từ tương tự như: thiếu rét, thiếu dốt, thiếu bệnh,… Phải chăng những trường hợp này cũng là những cấu trúc đẳng lập trong đó hai thành tố cùng một phạm trù ý nghĩa tiêu cực, xấu xa? Nhưng thử hỏi có ai trong chúng ta đã dùng những cặp từ này chưa?
AN CHI: 1. Ông hỏi rằng lập luận của chúng tôi “dựa trên trường phái ngữ pháp nào”, “của nhóm tác giả nào”, và “có được các nhà ngôn ngữ đương đại công nhận hay không”. Chúng tôi xin thưa rằng “thiếu đói” chỉ là một trường hợp thông thường nên đâu đã cần thiết phải đặt ra vấn đề “trường phái” và “nhóm tác giả”. Còn nếu chúng tôi trả lời rằng ý kiến của chúng tôi có thể “được các nhà ngôn ngữ đương đại chấp nhận” thì sợ ông lại nói rằng chúng tôi chỉ kết luận theo chủ quan của mình chăng?
2. Ông cho rằng chúng tôi đã không dẫn chứng được một vài cấu trúc đẳng lập trong đó thiếu là một thành tố (“Vậy thì các cặp từ đồng dạng với “thiếu đói” nằm ở chỗ nào?). Thì đây: thiếu sót, thiếu hụt, thiếu kém, thiếu nát, thiếu ngặt, thiếu bấn, thiếu vắng, thiếu thốn, v.v.. Thiếu đói là một cấu trúc tuyệt đối đồng dạng với các thí dụ vừa kể.
3. Trên đây chúng tôi đã nêu lên một số cấu trúc đẳng lập trong đó thiếu là một thành tố để cho ông hài lòng chứ thực ra nếu những cấu trúc đó không hề tồn tại trong từ vựng của tiếng Việt thì “thiếu đói” tự nó vẫn cứ là một cấu trúc đẳng lập vì người ta dứt khoát không thể dựa vào sự không tồn tại của những cấu trúc đẳng lập nào đó (mà người ta giả thiết là phải có) để phủ nhận sự tồn tại của một cấu trúc đẳng lập khác.
4. Cùng một nếp nghĩ nghịch lý như trên, ông cho rằng nếu thừa nhận “thiếu đói” là một cấu trúc đẳng lập thì cũng phải thừa nhận cả các cấu trúc như: “thiếu rét”, “thiếu dốt” “thiếu bệnh” vì đây cũng là những cấu trúc đẳng lập. Vâng, đó cũng là những cấu trúc đẳng lập. Có điều… đó là những cấu trúc đẳng lập giả tạo, còn “thiếu đói” thì lại là một cấu trúc đẳng lập mà người ta đặt ra để diễn đạt một nội dung ngữ nghĩa cụ thể và xác định. Đói là thiếu cái ăn ở mức độ này hoặc mức độ khác còn thiếu ở đây là không đủ phương tiện này phương tiện khác, ngoài cái ăn, cho cuộc sống vật chất hàng ngày (quần áo, thuốc men, v.v.). Cái nét nghĩa chung liên kết “đói” với “thiếu” để cho chúng có thể đẳng lập với nhau là: không đủ phương tiện để sinh sống. Thiếu đói là một cấu trúc đẳng lập được đặt ra một cách hoàn toàn… đúng chuẩn mực và đã hành chức một cách trôi chảy, trơn tru chứ đâu có phải là không trong sáng vì dễ gây ngộ nhận như ông đã nói. Sự “không trong sáng” có khi không phải là cái tội của từ ngữ: đó chỉ là hậu quả không thích hợp của cách hiểu mà thôi.
§ 472. Kiến thức ngày nay, số 281 , ngày 20-5-1998
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 152, khi nói về mấy câu:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
ông có viết rằng “Yên Thái là làng Bưởi, nổi tiếng về nghề làm giấy (tiếng chày ở đây là tiếng chày giã bột để làm giấy) nay thuộc quận Ba Đình, Hà Nội”. Nhưng trong quyển Tâm trạng Dương Khuê, Dương Lâm (Nxb. Văn học, 1995), tác giả Dương Thiệu Tống lại viết như sau; “An Thái: còn gọi là Yên Thái, tức là khoảng đất ở phố Hàng Mành (Hà Nội) ăn thông ra Hàng Bông. Hồi xưa An Thái dùng làm chỗ chứa thóc công và là nơi làm nhiều cối xay, cối giã gạo. Vì vậy, tác giả mới viết Nhịp chày An Thái” (Sđd, tr. 101, chth. 3). Xin cho biết thật ra An (Yên) Thái là khoảng đất ở phố Hàng Mành ăn thông ra Hàng Bông hay đó là làng Bưởi. Và “nhịp chày” ở đây là nhịp chày giã gạo hay giã bột để làm giấy? Tác giả là người thuộc dòng họ của hai cụ Dương Khuê, Dương Lâm nên khả năng chính xác hẳn phải cao hơn?
AN CHI: Thưa: “nhịp chày” là một từ tổ dùng để chỉ tiếng chày khi người ta dùng cối dùng chày để giã chứ không phải chỉ những cái cối hoặc những cái chày đang đứng im, nằm im. Khoảng đất từ Hàng Mành sang Hàng Bông, nếu đúng như tác giả nói, bất quá chỉ sản xuất ra cối xay, cối giã chứ không phải là một khu vực chuyên xay thóc giã gạo thì chẳng làm gì có được tiếng chày vang đều đến có thể được dùng làm tượng trưng cho cả khu vực. Còn Yên Thái làng Bưởi thì hẳn hoi là một nơi sản xuất giấy nổi tiếng, tọa lạc gần cạnh Hồ Tây, tại đó tiếng chày giã bột làm giấy vang lên hàng ngày và lan ra đến mặt hồ, đến nỗi người ta có thể tưởng tượng ra rằng mặt nước Hồ Tây xáo động nhiều hay ít là do tiếng chày mau hay thưa, nặng hay nhẹ, đều hoặc không đều,…
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ là như thế.
Cái tiếng chày giã bột làm giấy của Yên Thái làng Bưởi này thực ra không phải chỉ có ở trong bài Hà Nội tức cảnh của Dương Khuê mà đã được nói đến trước khi Dương Khuê ra đời (1839) đến gần bốn thập kỷ trong bài phú ca tụng cảnh Hồ Tây của Nguyễn Huy Lượng, làm vào năm 1801. Xin dẫn ra sau đây đoạn có liên quan đến ý vừa nói:
“Rập rềnh cuối bãi Đuôi Nheo, thuyền thương khách chen buồm bươm bướm;
Thanh lảnh đầu hồ Cổ Ngựa, tháp cao tăng hé cửa tò vò.
Chày Yên Thái nện trong sương lãng đãng;
Đó Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co…”
Cái “nhịp chày Yên Thái” rõ ràng là một yếu tố trong khung cảnh rộng lớn của Tây Hồ mà chung quanh đó còn bao nhiêu địa danh láng giềng kề cận khác: Đuôi Nheo, Cổ Ngựa, Nghi Tàm, v.v.. Trước và sau đoạn trích dẫn lại còn có nhiều địa danh láng giềng kề cận khác nữa.
Vậy Yên Thái ở đây không phải là “khoảng đất ở phố Hàng Mành ăn thông ra Hàng Bông”, mà đúng là làng Bưởi cạnh Hồ Tây như vẫn được hiểu một cách phổ biến từ lâu. Vì địa danh, địa điểm đã như thế rồi nên “nhịp chày” ở đây tất nhiên cũng không thể là của cối giã gạo mà chỉ có thể là của cối giã… bột để làm giấy.
§ 473. Kiến thức ngày nay, số 281 , ngày 20-5-1998
ĐỘC GIẢ: Trong phim Maria Van Damme do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh trình chiếu, sau khi người yêu của mình đã tham gia Công xã Paris thì Maria lên Paris để tìm anh. Vì chân ướt chân ráo đến nơi kinh thành lần đầu tiên nên nàng đã phải hỏi thăm khó khăn lắm mới được biết là chàng đang ở, theo lời dịch thành tiếng Việt, tại “khách sạn thành phố”. Xin cho biết Paris lúc đó có nhiều khách sạn hay chỉ có một mà thôi. Nếu có nhiều mà trả lời như thế thì người nơi xa đến biết đâu mà tìm?
AN CHI: Nếu lời kể của bạn mà hoàn toàn chính xác, thì chúng tôi chỉ có thể kết luận rằng đó là do người dịch đã dịch sai mà thôi, cho dù lúc đó Paris chỉ có một khách sạn. Người yêu của Maria đã tham gia Công xã mà trụ sở là địa điểm của Tòa thị chính Paris. Tòa thị chính, tiếng Pháp là Hôtel de ville. Người dịch lời phim từ Pháp sang Việt đã dịch hôtel de ville thành khách sạn thành phố theo kiểu dịch từng từ một (hôtel = khách sạn; de = của, thuộc về; ville = thành phố). Xin nói thêm với bạn cho vui rằng nếu dịch theo kiểu đó thì Paris còn có cả “khách sạn cảnh sát” nữa đấy vì ở Paris quả thật có Hôtel de police, dịch cho đúng thì là… Sở cảnh sát. Cũng như nếu dịch cho đúng thì Hôtel des postes phải là Sở bưu điện chứ không phải “khách sạn… dành riêng cho nhân viên bưu điện”.
Nhân tiện, xin trả lời một bạn đọc khác về một chi tiết trong phim Tể tướng Lưu gù. Bạn hỏi tại sao trong tập cuối khi vị tể tướng về quê, vào đến nhà bị cháu nội vòi vĩnh thì liền bảo con trai của mình – cũng theo lời dịch – đem “gia pháp” ra để ông ta trị tội. Thì người con trai liền đem ra một con roi mà kính cẩn dâng lên cho cha. Thế có lạ không? Ông cha bảo đem “gia pháp” ra mà ông con thì lại đem ra một con roi.
Nếu lời kể của bạn mà đúng, thì đây cũng lại là một trường hợp người dịch đã dịch sai: gia pháp ở đây có nghĩa là “con roi” chứ không phải là “những điều quy định về nghi thức và lễ nghĩa trong gia tộc”. Ở đây, ông cha Lưu gù đã bảo ông con đem con roi ra đấy vì gia pháp đã chuyển nghĩa theo hoán dụ để chỉ cái công cụ mà ông gia trưởng thường dùng để răn dạy kẻ dưới trong gia tộc và kẻ ăn người ở phải thực hành và tuân theo “gia pháp” chánh cống. Nói cho đúng: ở đây người dịch đã không dịch. Nhưng để nguyên ở đây thì vẫn cứ là một kiểu dịch sai vì, trong tiếng Việt, gia pháp không bao giờ lại có nghĩa là “con roi”.
§ 474. Kiến thức ngày nay, số 282, ngày 1-6-1998
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Chiều chiều trước bến Văn Lâu”, ở câu cuối, tại sao tác giả không viết “động lòng nước non” mà lại viết “chạnh lòng nước non”? Chữ “chạnh” và chữ “động” nghĩa vẫn giống nhau; vậy có thể thay “chạnh” bằng “động” không? Hai chữ đó hoàn toàn là từ Việt hay Hán Việt?
AN CHI: Động và chạnh tuy có đồng nghĩa nhưng những từ đồng nghĩa không thể thay thế cho nhau trong tất cả mọi trường hợp. Chẳng hạn, trong các cấu trúc sau đây thì chạnh không thể thay thế cho động được:
1. động trời, động đất, v.v..
2. động dạng, động dong (dung), v.v..
3. động cỡn, động hớn, động đực, v.v..
4. động thai, động kinh (lên cơn co giật), v.v..
5. động ổ, v.v..
Chạnh, kết hợp với danh từ, hầu như chỉ thấy trong vài cấu trúc ít ỏi: chạnh lòng, chạnh niềm (…) mà thôi. Điều này chứng tỏ nó có một phạm vi phân bố rất hẹp: chỉ đi chung với một vài danh từ chỉ nội tâm. Trong khi đó thì động có thể đi với các danh từ chỉ thiên nhiên (các thí dụ 1), chỉ diện mạo (các thí dụ 2), chỉ sự rạo rực giới tính (các thí dụ 3), chỉ sự thay đổi trong cơ thể (các thí dụ 4), chỉ sự bất ổn của một tổ chức (thí dụ 5), v.v.. Phạm vi phân bố của động rộng hơn nên nghĩa của nó cũng khái quát hơn còn nghĩa của chạnh thì chỉ liên quan đến nội tâm mà thôi. Vì vậy khi nói động lòng, người ta có thể liên tưởng đến những động trời, động dạng, động cỡn, động thai, động ổ. Điều này vô hình trung đã làm cho cái nghĩa của động trong động lòng “tan loãng” ra. Còn khi nói chạnh lòng, thì ngoài cái cấu trúc đồng nghĩa là chạnh niềm ra người ta không có bất cứ lý do và điều kiện nào để liên tưởng đến cái gì khác: cái nghĩa của chạnh, do đó, vô hình trung, đã trở thành “cô đúc” hơn. Những điều kiện phân bố trên đây làm cho chạnh có sắc thái biểu cảm mạnh hơn động. Chính vì vậy mà, trong câu hò trên đây, nếu thay chạnh bằng động thì cái nỗi buồn nước non sẽ giảm bớt phần sâu đậm mà tác giả muốn đạt đến.
Chạnh và động đều là những từ Việt gốc Hán. Gốc Hán của động hãy còn hoàn toàn rõ ràng vì người ta có thể dễ dàng liên hệ nó với chữ 動: đó là một hình vị Hán Việt hiện đại. Còn chạnh là một yếu tố Hán Việt xưa hơn nên nói chung khó nhận ra. Đó là một hình vị tiếng Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 掁 mà âm Hán Việt hiện đại là trành, có nghĩa gốc là đụng, chạm. Từ nghĩa gốc này, trong tiếng Việt, trành còn có nghĩa là dao động, lúc lắc và cái nghĩa này được chứng thực bằng sự hiện diện của nó trong tròng trành mà tròng là âm xưa của tràng 撞, cũng có nghĩa gốc là đụng, chạm rồi nghĩa phái sinh là dao động… y như trành. Vậy tròng trành là một cấu trúc ghép đẳng lập.
Tóm lại, cả động lẫn chạnh đều là những từ Việt gốc Hán. Chúng chỉ khác nhau ở chỗ động là một yếu tố đọc theo âm nay còn chạnh là một yếu tố đọc theo âm rất xưa mà thôi.
§ 475. Kiến thức ngày nay, số 282, ngày 1-6-1998
ĐỘC GIẢ: Có phải trong tiếng Pháp, con gà con và con ngựa con đều… cùng một gốc?
AN CHI: Câu hỏi của bạn rất dí dỏm. Chúng tôi chỉ xin phép nói cho rõ lại một chút là trong tiếng Pháp thì danh từ chỉ con gà con (nói cho đúng là con gà tơ), poulet, và danh từ chỉ con ngựa con, poulain, đều cùng một gốc mà ra vì đều bắt nguồn từ tiếng La Tinh pullus có nghĩa là: con vật con – con gà con, con gà giò – con ngựa con – con nòng nọc – đứa bé con – cái chồi non. Nhưng trở lên chỉ là nói tổng quát cho gọn chứ poulain và poulet không trực tiếp bắt nguồn từ một nguyên từ duy nhất. Lý do đơn giản là riêng poulet (gà giò) thì trực tiếp phái sinh từ poule (gà mái) mà poule thì lại phái sinh từ pulla, giống cái của pullus.
Từ danh từ pullus, tiếng La Tinh còn có thêm danh từ phái sinh pullulus, có nghĩa là chồi non, rồi từ pullulus mới có động từ phái sinh pullulare, có nghĩa là sinh sôi nảy nở. Động từ này chính là nguyên từ của động từ pulluler trong tiếng Pháp.
§ 476. Kiến thức ngày nay, số 283, ngày 10-6-1998
ĐỘC GIẢ: Câu trả lời của ông trên Kiến thức ngày nay, số 279 có đoạn viết: “Con “ngựa hồng mao” của tác giả đã “tuyệt tích giang hồ” rồi vì không thấy tăm hơi của nó trong thư tịch”. Đoạn này làm tôi sực nhớ chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh có kể rằng vua Hùng thách cưới: “Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”. Vậy xin hỏi: ngựa “chín hồng mao” là ngựa gì?
AN CHI: Ngựa chín hồng mao là con ngựa có đúng chín cái lông màu đỏ trong cả cái bộ lông của nó; bộ lông này có thể có màu trắng, màu đen, màu vàng, màu hung… nhưng nhất định không thể là màu đỏ vì nếu bộ lông của nó có màu đỏ thì đó đã là con ngựa hồng mao chứ không còn là ngựa chín hồng mao nữa.
Điều trên đây có nghĩa là con ngựa hồng mao vẫn còn “tuyệt tích giang hồ”. Cũng xin nói thêm rằng nếu trong một cuộc đua ngựa nào đó mà bạn thấy có một con ngựa hồng mao thật xuất hiện thì con ngựa này cũng không phải là con ngựa hồng mao của tác giả Lê Tuyên, chỉ đơn giản vì “ngựa hồng mao” đang xét phải là ngựa hay ngựa giỏi được thư tịch ghi nhận chứ chủ yếu không phải là con ngựa có bộ lông màu đỏ. Có bộ lông màu đỏ nhưng không giúp được cho vị chiến tướng nương nhẹ trên lưng mà tạt qua núi Thái Sơn thì cũng chỉ là ngựa hèn mà thôi.
Vậy con ngựa hồng mao chỉ “tái xuất giang hồ” khi nào bạn thấy thư tịch ghi rằng ngựa hồng mao là ngựa hay, ngựa giỏi chứ không chỉ đơn giản là con ngựa có bộ lông màu đỏ, càng không phải là ngựa “chín hồng mao”.
§ 477. Kiến thức ngày nay, số 283, ngày 10-6-1998
ĐỘC GIẢ: Tôi nghe nói có người đã dựa vào bộ Đại Nam quấc âm tự vị của cụ Huình-Tịnh Paulus Của mà chép câu “Sông Tương một dải nông sờ” của Truyện Kiều thành “Sông Tương một dải nung sừ” và giảng nung sừ là mênh mông. Có đúng là có người đã chép và giảng như thế? Và giảng như thế có đúng hay không?
AN CHI: Trước nhất, chúng tôi thành thật xin lỗi vì đã để hơn hai năm mới trả lời cho câu hỏi của ông. Từ nhiều năm trước đây, chúng tôi đã có nghe nói ông Vũ Văn Kính cho rằng hai chữ cuối cùng của câu 365 trong Truyện Kiều là “nung sừ” chứ không phải “nông sờ” như các bản phiên âm quốc ngữ đã chép. Nhưng vì chỉ nghe nói mà không chính mắt thấy trên giấy trắng mực đen – có thể là tác giả có công bố mà chúng tôi không biết chăng? – nên chúng tôi đã không tiện trả lời cho ông. Nay trong quyển Tìm nguyên tác Truyện Kiều (Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm nghiên cứu quốc học, 1998), ông Vũ Văn Kính đã chính thức chép và giảng như ông đã nêu trong câu hỏi nên chúng tôi mới có cơ sở để trả lời cho ông.
Ông Vũ Văn Kính đã viết như sau: “Các bản quốc ngữ đều: … nông sờ hay nông trờ… Bản Nôm viết chữ nùng trừ, âm Nôm có thể đọc nông sờ, nông trờ. Nhưng trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của thì ông đọc câu này là: “Sông Tương một dãy nung sừ” và giải thích nung sừ là minh mông, mịt mù (xem chữ sừ). Chúng tôi thấy âm của Paulus Của đúng hơn vì sông Tương đâu có nông và nếu nông sờ thì sao lại bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia. Mặc dầu âm nông sờ đã quen tai với độc giả rồi, nhưng chúng tôi cũng xin lấy âm của Paulus Của (…) Sông Tương bắt nguồn từ núi Dương Hải, huyện Hưng An, tỉnh Quảng Tây, dài hơn hai nghìn dặm. Như vậy sông không thể nông được, mà ý mênh mông, mù mịt là hợp lý” (Sđd, tr. 72, chth. 143).
Trong bài “Nung sừ & bát ngát” đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 3(29)-1998, Lê Trung Hoa cũng chủ trương và lập luận giống như Vũ Văn Kính.
Chúng tôi chỉ tiếc có một điều là ông Vũ Văn Kính và ông Lê Trung Hoa cứ ngỡ rằng “sông Tương” trong câu 365 của Truyện Kiều là con sông thực trong địa lý của nước Trung Hoa (dài hơn hai ngàn dặm, bắt nguồn từ núi Dương Hải của tỉnh Quảng Tây và chảy qua địa phận tỉnh Hồ Nam, rồi hợp lưu với sông khác mà đổ vào hồ Động Đình) mà không ngờ rằng hai tiếng đó chỉ là một điển tích dùng để nói lên cái khoảng cách giữa hai người yêu, mà ở đây là giữa chàng Kim và nàng Kiều. Điển tích này lấy từ mấy câu thơ mà chính ông Lê Trung Hoa cũng có dẫn ra trong bài đã nói:
“Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại Tương giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương giang thủy”
nghĩa là
“Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau không thấy nhau
Cùng uống nước sông Tương”.
Vâng, sông Tương trong câu Kiều thứ 365 chỉ là một điển tích lấy từ mấy câu thơ trên đây chứ có phải là con sông thực mà chàng Kim thì ở tại thượng nguồn trên núi Dương Hải còn nàng Kiều thì ở tại cửa sông đổ vào hồ Động Đình (hoặc ngược lại) đâu. “Sông Tương” ở đây chỉ là một bức tường mà thôi (câu 367: Một tường tuyết chở sương che) cho nên khi chàng và nàng đang “gắn bó tất giao” (câu 359) mà nghe “xôn xao tiếng người” (câu 360) thì cả hai đều kịp “chàng về viện sách, nàng dời lầu trang” (câu 362). Một khoảng cách mà chỉ có bước tới bước lui là ai cũng đã về nhà người ấy rồi. Một con “sông Tương” như thế thì bảo sao đừng “nông sờ” cho được?
Ông Vũ Văn Kính bảo rằng “nếu nông sờ thì sao lại bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia”. Ông Lê Trung Hoa còn nói mạnh hơn: “Nếu sông Tương nông sờ thì có thể băng qua sông để gặp nhau”. Mà nào có “băng” được cho cam. Mới nghe “xôn xao tiếng người” thì ai cũng đã phải rút lui có trật tự về nhà người ấy rồi và sau đó thì “tin xuân đâu dễ đi về cho năng” (câu 368). Không “đầu nọ cuối kia” thì là gì? Chỉ có một bức tường mà vẫn “đầu nọ cuối kia” vì ở đây “sông Tương” là một con sông “tâm lý” và “tu từ” chứ đâu có phải là một con sông địa lý. Cũng như nếu không lấy tâm lý yêu đương ra mà đo thì làm gì “nhất nhật bất kiến” mà lại “như tam thu (hề)”? Thời gian thực của trái đất làm sao mà có thể dễ dàng kéo giãn ra 1 ngày = 365 ngày ⨯ 3 = 1095 ngày một cách dễ dàng và phi lý như thế. Trong Truyện Kiều, có những danh từ đặc xưng là những địa danh thực thụ, nhưng có những danh từ đặc xưng chỉ là những địa danh điển tích mà thôi. Châu Thai, Hàng Châu, Lâm Thanh, Lâm Tri, Liêu Dương, Tiền Đường, Việt Đông, Vô Tích, v.v., là những địa danh thực thụ còn những “cành Dương Quan” “liễu Chương Đài”, “đỉnh Hiệp (Giáp) non Thần”, “đống xương Vô Định”, sông Tần, Tấn Dương (được thấy mây rồng có phen), v.v., thì chỉ là những địa danh điển tích mà thôi. Nếu cứ đòi băng qua sông Tương như ông Lê Trung Hoa thì chắc chắn Thúc Sinh phải đi từ huyện Lâm Tri của tỉnh Sơn Đông (là nơi chàng và Kiều đang sống hạnh phúc bên nhau) sang tận tỉnh Thiểm Tây để vượt qua sông Tần (là con sông của tỉnh Thiểm Tây) thì mới có thể chia tay được với Thúy Kiều vì Nguyễn Du đã chẳng viết: Sông Tần một dải xanh xanh (câu 1501) là gì?
Rồi chàng còn phải sang tận tỉnh Cam Túc thì mới thấy được “mấy cành Dương Quan” vì Nguyễn Du lại viết tiếp: Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan (câu 1052) mà Dương Quan là một cái ải ở tỉnh Cam Túc chứ đâu có phải là một địa điểm ở Sơn Đông!
Tóm lại “sông Tương” ở đây chỉ là một lối dụng điển để nói lên sự ngăn cách giữa hai người yêu mà thôi. Cái khoảng cách đó – một bức tường – không là gì cả nên Nguyễn Du mới viết:
Sông Tương một dải nông sờ
Nhưng trớ trêu là ở chỗ tuy “nông sờ” nhưng nó lại là “một tường tuyết chở sương che” (câu 367) đến nỗi “tin xuân đâu dễ đi về cho năng” (câu 368). Rõ ràng là nông sờ mà lại không thể băng qua được chứ không dễ như ông Lê Trung Hoa đã tưởng.
Đến như cách phiên âm của Huình-Tịnh Paulus Của trong Đại Nam quấc âm tự vị thì ngay trong câu đang xét:
Sông Tương một dải nông sờ,
một chữ dễ hơn là chữ “dải” cũng đã bị tác giả phiên sai thành “dãy” rồi, nói chi đến hai tiếng “nông sờ” (hoặc “nông trờ”). Và có lẽ vì cũng nghĩ rằng sông Tương là một con sông lớn nên sau khi phiên hai tiếng đang xét thành “nung sừ” rồi thì nhà từ điển tất phải luận ra rằng đó là “mịt mù”, “mênh mông” cho thuận lý chăng?
§ 478. Kiến thức ngày nay, số 283, ngày 10-6-1998
ĐỘC GIẢ: Có phải chữ thật (trong thành thật) là biến thể ngữ âm của chữ thực (trong thực hư, thực hiện) rồi sau đó lại “biến” một lần nữa mà thành thiệt (trong thiệt tình) hay không? Tại sao?
AN CHI: Tuy có thể “thông” với nhau, nghĩa là dùng thay cho nhau trong một số trường hợp nhất định nhưng thực và thật là hai chữ riêng biệt. Chữ thực, Hán tự là 寔, có thiết âm là “thường chức thiết (= th[ường] + [ch]ức = thực). Còn chữ thật thì Hán tự là 實 và có thiết âm là “thần chất thiết” (= th[ần] + [ch]ất = thật). Đây là hai chữ riêng biệt ít nhất cũng là từ thời Thuyết văn giải tự của Hứa Thận (đời Hán) theo sự ghi nhận của sách này. Vậy, khi người Việt Nam chính thức tiếp xúc với tiếng Hán thì đó đã là hai chữ riêng biệt mặc dù ở thời viễn cổ thì chúng có thể đã chỉ là một.
Chữ thật bị đọc trại thành thiệt là do kiêng tên của bà Hồ Thị Hoa, chính phi của hoàng tử Đảm, về sau là vua Minh Mạng. Thật là tên do vua Gia Long đặt cho bà. Tiếng hoa cũng vì kiêng húy của bà mà bị đọc trại thành huê.
§ 479. Kiến thức ngày nay, số 284, ngày 20-6-1998
ĐỘC GIẢ: Tôi vui mừng khi thấy cuốn Tìm nguyên tác Truyện Kiều do Vũ Văn Kính hiệu khảo (Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh – Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 1998), nằm trang trọng trên giá một hiệu sách lớn ở trung tâm thủ đô Hà Nội. Cuốn sách của ông Vũ Văn Kính, một nhà nghiên cứu Hán Nôm cao tuổi, đã từng soạn những cuốn Học chữ Nôm, Tự điển chữ Nôm, nay chắc đã có nhiều thành tựu nên mới cho ra mắt quyển Tìm nguyên tác Truyện Kiều. Vì vậy, mặc dù đã có cuốn Đoạn trường tân thanh khảo lục (1971), và cuốn Truyện Kiều đối chiếu chữ Nôm – quốc ngữ (1993) của cùng tác giả, tôi vẫn hứng thú mua và chăm chú đọc.
Năm 1971, ông chỉ mới xây dựng Đoạn trường tân thanh khảo lục và 1993 mới có Truyện Kiều đối chiếu chữ Nôm – quốc ngữ dựa trên 3 bản Nôm: bản A của Kiều Oánh Mậu in 1902, bản B của Quan Văn Đường in 1925 và bản C của Duy Minh Thị in 1879. Nay ông lại làm bản Tìm nguyên tác Truyện Kiều vẫn trên cơ sở 3 bản Nôm đó và thêm 5 bản quốc ngữ; bản 1 của Bùi Kỷ – Trần Trọng Kim in lần thứ 8, bản 2 của Tản Đà tái bản 1952, bản 3 của Bùi Khánh Diễn, bản 4 của Lê Văn Hòe và bản 5 của Phạm Kim Chi in 1917.
Đáng tiếc là đến nay tác giả vẫn chưa sưu tầm thêm được những bản Nôm cổ có giá trị như Liễu Văn Đường 1871, Quan Văn Đường và Thịnh Mỹ Đường 1879, Michels 1884 hay bản Quan Văn Đường 1906 được coi là đại diện cho các bản Phường. Còn về các bản quốc ngữ, lẽ ra nên có mặt các bản cổ hơn như Trương Vĩnh Ký 1875, Nordemann 1897, Nguyễn Văn Vĩnh 1912 thì khả năng gần với nguyên tác mới có thể thuyết phục được độc giả trong và ngoài nước.
Điều cần góp ý đầu tiên là tác giả định cho bản Kiều của mình có 3.256 câu theo bản Kiều Oánh Mậu là không hợp lý vì việc cải sửa đoạn thơ 4 câu từ 531 đến 534 thành 6 câu là do các quan văn của nhà Nguyễn chữa mà Kiều Oánh Mậu chép theo. Trong số 32 bản Nôm in trước 1939 chỉ có thêm bản Duy Minh Thị: 3.256 câu, bản Michels: 3.252 câu, bản Liễu Văn Đường 1916, 1919, 1924: 3.262 câu còn toàn bộ các bản cổ nhất như: Liễu Văn Đường 1871, 1882; Thịnh Mỹ Đường 1879, 1919; Quan Văn Đường 1906, 1923, 1925; Phúc Văn Đường, Quảng Thịnh Đường, Phúc An hiệu,… đều chép thống nhất chỉ có 3.254 câu. Việc chọn câu nào, chữ nào vào chính văn là do sự thẩm định của từng tác giả nhưng để tiện cho việc so sánh, đối chiếu với các bản quốc ngữ đang lưu hành, thì ở đoạn 6 câu đó chỉ nên đánh thêm số phụ (chẳng hạn 534a và 534b) trước câu số 535 cho khỏi xáo trộn. Chẳng hạn bản Bùi Khánh Diễn, tái bản năm 1960, cũng dùng 6 câu theo bản Kiều Oánh Mậu nhưng không đánh số hai câu thêm ấy.
Việc khảo dị của tác giả còn bỏ sót nhiều chỗ dị âm, dị tự nhưng điều đáng ngạc nhiên nhất là việc tác giả phiên âm sai nhiều chữ trong bản Nôm của Kiều Oánh Mậu mà sau đây là 22 trường hợp cụ thể (Chúng tôi xin phép lược bỏ phần dẫn chứng cụ thể này vì lý do mà chúng tôi sẽ nói trong phần trả lời – AC).
Với bản Kiều Oánh Mậu, chúng tôi cũng nhận thấy sau 27 năm tác giả đã phát hiện và sửa sai được 1 câu là 1.509, nhưng lại mắc thiếu sót khi khảo dị các bản quốc ngữ của câu ấy. Trong bản in 1971, tác giả đã chép rằng 3 bản Nôm A, B, C, đều thống nhất là:
và phiên âm là: Dễ lòa yếm thắm, trôn kim.
Điều này sai, vì bản Kiều Oánh Mậu chép là:
phiên âm là: Dễ mà ép xẩm luồn kim.
Nay trong lần in 1998, tác giả đã chép trong chính văn là “Dễ lòa yếm thắm trôn kim” và có chú thích (số 527) ở trang 194: “Dị khảo: bản Nôm A và quốc ngữ 3 đều: Dễ mà ép xẩm luồn kim”. Như vậy là đã sửa được lỗi đọc sai bản Nôm A nhưng lại khảo sai bản quốc ngữ 3 (Bùi Khánh Diễn) vì bản mà chúng tôi có thì lại ghi là:
Dễ mà bắt xẩm xâu kim (chứ không phải “luồn”).
Xem tiếp một số trường hợp nữa, ta thấy tác giả đã phiên âm 2 bản Nôm B và C không nhất quán giữa hai lần in năm 1971 và năm 1998, thí dụ:
– Chữ thứ 3 và chữ thứ 4 của câu 989, bản 1971 phiên là phá vỡ còn bản 1998 thì phiên là vỡ lở;
– Chữ thứ 5 của câu 2.405, bản 1971 phiên là mấy còn bản 1998 thì phiên là bao;
– Chữ thứ 4 của câu 2.841, bản 1971 phiên là sửa còn bản 1998 thì phiên là lễ.
– Chữ thứ 3 và chữ thứ 4 của câu 2.846, bản 1971 phiên là đã cất còn bản 1998 thì phiên là dễ cất.
Cách phiên âm không nhất quán này làm chúng tôi không hiểu thực chất chữ Nôm ở 2 bản B, C viết thế nào mà tác giả lại tùy tiện mỗi lần phiên âm một cách. Đến đây chúng tôi có băn khoăn về 3 quyển Kiều Nôm mà tác giả dùng vì bản A mà chúng tôi có thì gồm 90 tờ còn tác giả trong cả hai lần in 1971 và 1998 đều tả bản A “dày 88 tờ kể cả tờ đầu”. Hay là có 2 bản Kiều Oánh Mậu cùng in năm 1902 mà bản của chúng tôi khác bản của tác giả?
“Tìm nguyên tác Truyện Kiều” là một công việc rất khó. Nó càng khó hơn khi những người làm công tác này lại phiên âm sai chữ Nôm, khảo dị sót các bản mà mình dùng, làm cho độc giả không có các bản Nôm và quốc ngữ đó trong tay cứ tin theo mà hiểu sai lệch chân diện của các bản ấy. Vì vậy mà việc ấn định tên sách của tác giả (Tìm nguyên tác Truyện Kiều) đã làm cho chúng tôi mừng hụt. Việc làm của tác giả là đáng trân trọng và khuyến khích nhưng rất tiếc là hãy còn có những sai sót mà vì chưa có điều kiện đọc kỹ nên có thể là chúng tôi nhận xét chưa được đầy đủ. Rất mong được tác giả, các nhà nghiên cứu và bạn đọc xa gần chỉ giáo.
AN CHI: Liên quan đến quyển Tìm nguyên tác Truyện Kiều của Vũ Văn Kính, những điều nhận xét mà ông đã có nhã ý gửi đến là rất thiết thực và bổ ích. Vì vậy mà chúng tôi xin trân trọng giới thiệu để bạn đọc tham khảo.
Phương pháp của tác giả có những nhược điểm khiến người đọc khó lòng tin tưởng được rằng mình có thể cùng đi với tác giả mà lại “tìm ra được nguyên tác của Truyện Kiều”.
Tuy nhiên đây là vấn đề mà khuôn khổ và yêu cầu của kỳ này chưa cho phép chúng tôi bàn đến. Ở đây chúng tôi chỉ xin trao đổi thêm với ông một điểm như sau.
Tác giả Vũ Văn Kính đã không lấy bản A (Kiều Oánh Mậu) làm gốc để phiên âm vì tiêu chuẩn hiệu khảo của tác giả là như sau: “Sau khi so sánh những âm trong 3 bản Nôm và 5 bản quốc ngữ, chúng tôi chọn âm thích hợp cơ cấu Truyện Kiều rồi tra cứu các tài liệu phụ (…) để quyết định lấy âm nào” (tr. 15). Nghĩa là tác giả đã “đúc kết cả ba bản Nôm đó và năm bản quốc ngữ để dựng nên một bản chính văn gọi là Tìm nguyên tác Truyện Kiều” (tr. 9). Do đó, 22 trường hợp mà ông cho rằng Vũ Văn Kính phiên âm sai chữ Nôm trong bản A (và chúng tôi đã xin phép lược đi) thực ra lại là những âm mà tác giả đã “đúc kết” theo “quan điểm cơ cấu” từ ba bản Nôm và năm bản quốc ngữ đã nói. Những âm được “đúc kết” này có thỏa đáng hay không thì lại là chuyện khác và trên Kiến thức ngày nay, số 283 (10-6-1998) thì chúng tôi đã có phân tích thí điểm trường hợp của hai tiếng “nung sừ” mà ông Vũ Văn Kính đã “đúc kết” cho hai chữ cuối của câu Kiều thứ 365.
§ 480. Kiến thức ngày nay, số 284, ngày 20-6-1998
ĐỘC GIẢ: Tại cổng đền Trung Liệt (Hà Nội), có đôi câu đối sau đây của ông Vũ Quang:
Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa
Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự cọng thanh thiên.
Sau khi xin ý kiến của một số nhà văn, nhà thơ lão thành, ông Vũ Tuyên Hoàng đã dịch như sau:
Đó thành quách, đó giang sơn, trăm trận phong trần còn thước đất.
Vì trời cao, vì sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh.*
Tôi cho rằng đây phải là xích địa 赤地 (đất đỏ) thì đối với thanh thiên (trời xanh) mới chỉnh được (chứ không thể là 尺 地 = thước đất). Câu đối thờ ở miếu Quan Công có 4 chữ xích (đỏ) đối với 4 chữ thanh (xanh) như sau;
Xích diện bỉnh xích tâm, kỵ xích thố truy phong, trì khu thời vô vong xích đế
Thanh đăng quang thanh sử, trượng thanh long yểm nguyệt, ẩn vi xứ bất quá thanh thiên.
Vậy xin cho biết đây là 赤 (đỏ) hay 尺 (thước).
AN CHI: Chúng tôi cũng nghĩ như ông rằng đây phải là 赤 (đỏ) thì đối với thanh (xanh) mới chỉnh được (hai tính từ đối với nhau) chứ 尺 (thước) là danh từ mà đối với thanh (xanh) thì quả là có chệch choạc về mặt từ loại. Tuy nhiên, vì không đến được “thực địa” nên chúng tôi cũng không rõ được… thực hư ra sao; biết đâu Vũ Quang đã chẳng viết 尺 (= thước)? Còn nếu hai chữ đó là xích địa 赤地 (mà nghĩa gốc là đất đỏ) thì nghĩa của nó ở đây là “đất trơ trụi”, “đất trống trơn”, rất thích hợp với cảnh thành quách bị tàn phá mà chính ông Vũ Tuyên Hoàng cũng đã có phác họa lại trong bài đã dẫn.
Xin lưu ý: Nguyên văn câu sau trong đôi câu đối thờ Quan Công là: “Thanh đăng quan (xem, nhìn) thanh sử, trượng thanh long yển (ngửa lên) nguyệt, ẩn vi xứ bất quý (hổ thẹn) thanh thiên”.