Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2: Câu hỏi 442 - 457

§ 442. Kiến thức ngày nay, số 264, ngày 20-11-1997

ĐỘC GIẢ: Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam (20-11), xin cho biết từ nguyên của từ “thầy”.

AN CHI: Thầy là một từ Việt gốc Hán. Điều này cũng dễ hiểu vì Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và của Khổng giáo trong đó vai trò của người thầy luôn luôn được đề cao: quân, sư, phụ (vua, thầy, cha). Đó là một từ Việt gốc Hán rất xưa. Nó xuất hiện trong tiếng Việt muộn nhất cũng là ở thời của Sĩ Nhiếp, thái thú quận Giao Chỉ, người mà sử vẫn ghi chép là đã mở mang việc học ở nước ta hồi đầu thế kỷ III, nên mới được tôn xưng là Nam giao học tổ. Còn theo chúng tôi thì từ thầy đã đi vào tiếng Việt trước đó rất lâu nữa.

Tuy cũng chủ trương gốc Hán của từ đang xét nhưng Lê Ngọc Trụ lại cho rằng có hai từ thầy khác nhau là thầy trong thầy giáo (xin ghi là thầy 1) và thầy trong thầy ký (xin ghi là thầy 2). Theo ông thì thầy 1 là do sư 師 có nghĩa là “thầy dạy người ta học” còn thầy 2 là do đề trong đề lại 提吏 có nghĩa là “thơ lại” mà ra*. Thực ra, chỉ có một từ thầy duy nhất có nghĩa gốc là người dạy chữ nghĩa, đạo lý, rồi nghĩa phái sinh là người làm việc có liên quan đến chữ nghĩa nơi công đường. Vả chăng, trong đề lại thì lại mới là danh từ chỉ người còn đề chỉ là một động từ có nghĩa là nêu lên, đưa ra, nắm giữ, v.v., làm định ngữ cho danh từ lại nên nó không thể trực tiếp có liên quan gì đến từ thầy về mặt xuất xứ cả.

Thầy bắt nguồn ở một nguyên từ ghi bằng chữ 師 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là sư còn âm Hán Việt chính thống hiện đại thì lại là si vì thiết âm của nó là “sơ chi thiết” hoặc “sương chi thiết”*. Về phụ âm đầu thì thầy ~ sư cũng giống như: – (áo) the ~sa 紗 (= the); – (thông) thoáng ~ sướng 暢 (= thông suốt); – (lỗ) thủng ~ súng (= chui, lọt, xuyên qua..); – then (chốt)~ soan 閂, có người đọc là “thuyên” (= then cửa); – (cơm) thiu ~ sưu 餿 (= thiu); v.v.. Về vần thì vấn đề phức tạp hơn vì thầy không trực tiếp liên quan đến âm Hán Việt thông dụng hiện đại của chữ 師 (là sư) mà chỉ liên quan đến âm chính thống của chữ này (là si, như đã nói) vốn là một chữ thuộc vận bộ chi 脂, nghĩa là một tiếng thuộc vần -i, mà tiền thân lại là -ây như vẫn còn thấy được trong nhiều trường hợp: – (chóng) chầy ~ trì 遲 (= chậm chạp); – (riêng) tây ~ ti 私 (= riêng); – thây (ma) ~ (tử) thi 屍; – (cái) rây ~ si 篩 (= cái rây); v.v.. Trong những chữ trên đây và trong lối nói thông dụng của tiếng Việt, có những chữ đã tách khỏi vận bộ chi 脂 mà thay i bằng ư, như: si 師 (= thầy) thành sư; ti 私 (riêng) thành tư; si 篩 (= rây) thành sư, si 獅 (= sư tử) thành sư. Điều này đã được ngữ âm học lịch sử xác nhận*. Từ trên đây suy ra,

thầy > si > sư 師

cũng hoàn toàn giống như: tây > ti > tư 私; rây > si > sư 篩. Cứ liệu còn lại tuy ít nhưng rất đáng tin.

Vậy thầy là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 師 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là sư (còn trò thì bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 徒 mà âm Hán Việt hiện đại là đồ (như đã nói ở một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây trước đây).

§ 443. Kiến thức ngày nay, số 264, ngày 20-11-1997

ĐỘC GIẢ: Trong một cuộc họp đồng hương, tôi có mua được cuốn “Quảng Nam – Đất nước & con người” của tác giả Nguyễn Q. Thắng (Nxb. Văn hóa, 1996), do Nguyên Thăng trình bày bìa. Ở bìa sau, để trang trí bìa và giới thiệu tác giả, người trình bày có chép lại bằng chữ to nét đậm lời của giáo sư Giản Chi Nguyễn Hữu Văn đề tặng ông Nguyễn Q. Thắng mà nguyên văn đã được in nơi trang 6 – 7 như sau:

Thế biến trung thầm sư cổ triết.

Tuế hàn kính tiết nhận chân Ngô.

Nhưng một người bạn nói với tôi rằng, ở bìa 4, người trình bày bìa đã chép sai mấy chữ Hán, mà chữ Hán viết cũng có phần “nguệch ngoạc”. Xin nhờ ông xem có sai chữ nào thì đính chính giúp cho chúng tôi được rõ vì trong cuộc họp có rất nhiều người đã mua quyển sách đó.

AN CHI: Người bạn của ông đã nói đúng: người trình bày bìa đã viết sai một số chữ Hán.

1. Chữ biến 變 đã bị viết thành tiếp 燮 (= hòa hợp).

2. Chữ thầm 忱 (= thành thật) bị viết thành hoảng 恍 (= mơ hồ, không rõ, sợ sệt).

3. Chữ tiết 節 bộ trúc 竹 (*) trong “khí tiết”, “tiết tháo” bị viết theo bộ thảo 艸 (艹) thành 莭.

4. Đặc biệt, bút hiệu của người tặng hai câu trên đây cho Nguyễn Q. Thắng là Giản Chi 簡之 đã bị viết thành Lan Chi 蘭之.

Một thân hữu có cho chúng tôi biết sách đã được in lại và trong lần in lại này, có lẽ do đã thấy sai nên tác giả và người làm bìa đã bỏ những dòng chữ Hán ở bìa sách.

§ 444. Kiến thức ngày nay, số 264, ngày 20-11-1997

ĐỘC GIẢ: Cũng là Kiều cả mà bản của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim ghi:

Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa

còn bản của Nguyễn Thạch Giang thì ghi:

Bụi hồng một nấm mặc dầu cỏ hoa.

Tôi thấy vùi nông hợp hơn vì người ta thường nói chôn cạn, chôn sâu. Hơn nữa, Đạm Tiên là ca kỹ, khi chết thì “buồng không lặng ngắt như tờ”, không ai đoái hoài nên Nguyễn Du mới viết “vùi nông” cho hợp cảnh. Còn hai chữ “bụi hồng” không giúp cho người ta tưởng tượng ra nấm mồ của kẻ bất hạnh. Vả lại, “bụi hồng” thường dùng để chỉ cõi trần gian đầy cát bụi. Ông nghĩ có phải hay không?

AN CHI: Ấy thế nhưng Chiêm Vân Thị lại chê hai tiếng vùi nông là “quê” mà cho rằng bụi hồng mới hay, rằng bụi hồng ở đây là “bụi cỏ hồng tâm” theo truyện Thẩm A Chi trong Đường đại tùng thư. Hoặc nếu không phải thế, cũng theo Chiêm Vân Thị, thì bụi hồng là bụi châu, tức là những hạt bụi sa châu theo điển “Vật loại tương cảm chí” của Tô Thức*. Liên hệ đến như thế thì quả là khiên cưỡng. Nguyễn Thạch Giang cũng dẫn lời của Tản Đà khen hai tiếng “bụi hồng” mà chê hai tiếng “vùi nông” như sau: “Hai chữ bụi hồng đây chỉ là lời văn lịch-sự, nói cái mả chôn ở bên đường. Có nhiều bản đề là “vùi nông” thời làm mất cả vẻ hay mà lại thành ra cái tình của người khách không có trung-hậu”*. Hình như Tản Đà quên rằng đây là lời kể của Vương Quan, một kẻ chẳng những chỉ tỏ ra bàng quan mà còn hoàn toàn vô tình trước cái chết của Đạm Tiên. Vương Quan chẳng những chỉ dùng hai tiếng “vùi nông” mà còn chấm dứt lời kể bằng một câu “bất cận nhân tình”:

Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm!

Chẳng qua Nguyễn Du chỉ muốn tạo ra một thế tương phản giữa thái độ của Vương Quan với thái độ của Thúy Kiều mà thôi vì liền sau đó thì:

Lòng đâu sẵn mối thương tâm.

Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.

Thực ra, nếu phân tích cấu trúc cú pháp của câu thơ đang xét trong mối tương quan của nó với câu trên (Sắm sanh nếp tử xe châu) thì sẽ thấy tiếng thứ nhất của nó phải là động từ: câu trên nói về việc chuẩn bị chôn cất, còn câu đang xét thì nói về chính việc chôn cất. Đã là động từ thì phải là “vùi” chứ không thể là “bụi” được. Nguyễn Quảng Tuân đã lập luận một cách có lý rằng “theo mạch văn ở đây phải dùng hai chữ vùi nông mới chuyển tiếp được với việc sắm sanh ở câu trên”*. Vậy đây là vùi nông chứ không phải “bụi hồng”.

Xin lưu ý thêm rằng bốn tiếng vùi nông một nấm ở đây đồng nghĩa với bốn tiếng thiển thổ một đôi ở câu 2561 (Xin cho thiển thổ một đôi) mà Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim đã giảng là “bởi chữ 淺土 一 堆 thiển thổ nhất đôi: một đống đất nông” mà ra*. Cấu trúc cú pháp tuy khác (vùi nông một nấm là ngữ động từ còn thiển thổ một đôi là ngữ danh từ) nhưng hàm nghĩa thì chỉ là một. Chính cấu trúc thiển thổ một đôi của câu 2561 đã giúp khẳng định rằng hai chữ đầu của câu 78 phải là vùi nông chứ không thể là “bụi hồng”. Nhờ hai cấu trúc đang xét khẳng định lẫn nhau mà có thể luận ra rằng tiếng thứ nhất của câu 2561 là thiển (= nông) chứ không phải “tiện” như có bản đã ghi, đồng thời tiếng thứ sáu của nó là đôi (= đống, “nấm”) chứ không phải “doi” vì doi là dải phù sa ven sông hoặc ở cửa sông nên không thể dùng để chỉ nấm mồ được. Có ý kiến cho rằng “chữ doi này chiếu xuống câu 2564 (Truyền cho cảo táng di hình bên sông) thì hợp nghĩa”. Nhưng chữ 堆 ở câu 2561 được dùng để chỉ nấm mồ chứ không phải địa điểm để chôn thi hài của Từ Hải. Vậy đó không thể là “doi” được. Huống chi Đào Thái Tôn đã chứng minh một cách lý thú và chắc chắn rằng chữ đó phải được đọc là đôi.*

Tuy nhiên xin nói rõ chúng tôi hiểu đôi ở đây là “nấm (mộ)” còn ông Đào Thái Tôn thì hiểu rằng đôi lại là “hai”. “Xin cho thiển thổ một đôi” được ông hiểu là “xin hai miếng đất nhỏ hẹp để chôn Từ Hải và chôn chính nàng” (Bđd, tr. 13). Ông đã diễn nghĩa như thế vì ông cho rằng từ tổ người tử sinh trong câu tiếp theo (Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh) đã được dùng để chỉ người vừa chết trận là Từ Hải (tử) và cả cái mạng sống thừa (sinh) của Kiều nữa (Xem bđd, tr. 13). Thực ra kiểu cấu trúc đang xét không thể tách làm đôi được: người mua bán không phải là người mua và người bán, người sinh sát không phải là người cho sống và người giết, người thao túng không phải là người nắm và người buông, v.v.. Cũng vậy, người tử sinh không phải là người sống và người chết. Đó, theo chúng tôi, chỉ là hình tượng chết đứng của Từ Hải mà thôi. Vả lại, xét mạch văn của bốn câu 2561 – 2564:

“Xin cho thiển thổ một đôi,

Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh!

Hồ công nghe nói thương tình.

Truyền cho cảo táng di hình bên sông”.

thì thấy rằng Hồ Tôn Hiến đã tức khắc chấp nhận và cho thực hiện ngay lời cầu xin của Kiều là “vùi nông một nấm” (“thiển thổ một đôi”) cho Từ Hải, và tất nhiên chỉ một mình Từ Hải. Luận lý nội tại của đoạn thơ trên, theo chúng tôi, chỉ cho phép hiểu như thế mà thôi.

§ 445. Kiến thức ngày nay, số 265, ngày 1-12-1997

ĐỘC GIẢ: Trong lời nhắn tin trên Kiến thức ngày nay, số 247, ông có giới thiệu để ông Lê Sơn và bạn đọc tìm đọc bài “Học giả Hoàng Xuân Hãn nói về Truyện Kiều”, đăng trên tạp chí Văn học số 3 năm 1997. Nhưng chính bài này lại là đầu đề cho một cuộc tranh luận giờ đây đã trở nên khá gay gắt giữa hai ông Nguyễn Quảng Tuân và Đào Thái Tôn trên báo Văn nghệ (Hà Nội) nhiều số gần đây. Ông có thể cho biết nhận xét của ông về bài đó của học giả Hoàng Xuân Hãn?

AN CHI: Bài “Học giả Hoàng Xuân Hãn nói về Truyện Kiều”, đăng trên tạp chí Văn học, số 3 năm 1997 là một bài thú vị và có nhiều giá trị tham khảo nên chúng tôi đã trân trọng giới thiệu để bạn đọc tìm đọc. Tuy nhiên, bài đó cũng có một số điểm không thỏa đáng. Ngoài những điểm mà Nguyễn Quảng Tuân đã nêu trên báo Văn nghệ, còn có một số điểm khác mà chúng tôi xin mạo muội trình bày như sau.

1. Hoàng Xuân Hãn nói: “Cuối cùng tôi thấy trong những bản còn lại, có một bản hội đủ điều kiện để tái lập phần lớn văn Kiều đời xưa, có thể nói là nguyên lời Nguyễn Du, chứ không phải là nguyên bản vì nguyên bản không tìm ra được nữa” (Bđd, tr. 3). Có lẽ do thấm nhuần ý tưởng này mà tác giả Thu Trang cũng đã viết như sau: “Đặc biệt tác phẩm của Nguyễn Du (Truyện Kiều – AC), học giả Hoàng Xuân Hãn đang xem lại tất cả những bản đã in. Những sai sót trong chữ Nôm khi tái bản, ông đang tìm cách sửa lại cho đúng nguyên văn bản gốc của Nguyễn Du”.*

Thật ra, cách khẳng định trên đây của Hoàng Xuân Hãn rất khó tin: không có nguyên bản của Nguyễn Du thì làm sao biết được văn Kiều mà mình tái lập “có thể nói là nguyên lời của Nguyễn Du” được? Huống chi, giả sử có được nguyên bản của Nguyễn Du ở trong tay thì văn Kiều mà mình tái lập cũng đâu đã hẳn là nguyên lời của Nguyễn Du! Lý do rất đơn giản: chữ Nôm không phải là một thứ chữ ghi âm như chữ quốc ngữ, nó thuộc loại hình chữ vuông (phương khối tự) mượn ở chữ Hán nhưng lại không có quy củ như chữ Hán cho nên có nhiều chữ rất khó đọc và có những chữ có nhiều âm mà mỗi người đọc một cách. Trong những trường hợp này, ai cũng muốn nhận rằng âm mà mình phiên mới đúng là âm của Nguyễn Du. Vậy chỉ có Nguyễn Du tái thế thì may ra mới biết được ai đúng ai sai mà thôi! Người ta có thể viện đến những nguyên tắc và phương pháp của văn bản học ra để phản bác nhưng chúng tôi vẫn xin thưa rằng đối với chữ Nôm thì lý thuyết của bộ môn này xem ra phải được bổ sung một cách thích đáng thì mới có thể tin tưởng được.

2. Hoàng Xuân Hãn nói: “Trong các bản, có một bản ở trong Nam thấy đương còn những dấu vết hoàn toàn đời Gia Long. Không có đời Minh Mạng. Thì mình chắc chắn bản ấy người ta sao lại một bản từ đời Gia Long” (Bđd, tr. 4). Liên quan đến chuyện này, chúng tôi muốn nhắc đến bài “Gặp nhà bác học Hoàng Xuân Hãn ở Paris” của Đoàn Khắc Xuyên, in trong tập chuyên đề Con người & Thời đại của Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12-1990, trang 50 – 53. Tại bài này, Đoàn Khắc Xuyên đã ghi lại lời của Hoàng Xuân Hãn thông báo về công việc ông đang làm, nguyên văn như sau: “Đang tập trung nghiên cứu Kim Vân Kiều cho xong. Phải làm trên cơ sở chắc chắn nhất, dựa trên văn bản gần với nguyên gốc nhất. Văn bản gần nhất là thời Gia Long”. Sau khi đọc bài này, bảy năm nay, chúng tôi cứ thấp thỏm chờ mong ngày được đọc bản Kiều do Hoàng Xuân Hãn phiên âm trên cơ sở của một bản Nôm thời Gia Long. Hóa ra, theo Nguyễn Quảng Tuân thì đó chẳng qua chỉ là bản do Duy Minh Thị trùng san, in ở Phật Trấn, Quảng Đông năm 1879.*

Sở dĩ Hoàng Xuân Hãn chưa muốn nói rõ đó là bản nào có lẽ là vì ông còn muốn giữ bí mật về bản Nôm “tẩy” của mình cho đến khi ông công bố bản Kiều quốc ngữ do mình phiên âm chăng? Nếu đúng thế, thì chúng tôi rất tán thành ý kiến sau đây của Nguyễn Quảng Tuân: “Làm gì mà phải nói mập mờ như muốn giữ kín không cho ai biết rõ ràng”*. Huống chi, cũng theo Nguyễn Quảng Tuân, thì bản của Duy Minh Thị, “các nhà nghiên cứu đều biết cả và năm 1883, chính Abel des Michels đã dùng để phiên âm sang Quốc ngữ và dịch sang tiếng Pháp” (Bđd, tr. 13). Chúng tôi cũng xin nói thêm rằng, gần đây, trong Truyện Kiều đối chiếu chữ Nôm – Quốc ngữ (Viện Bảo tàng lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, 1993), Vũ Văn Kính cũng đã có sử dụng bản của Duy Minh Thị để làm khảo dị. Thế mà lâu nay nhiều người cứ ngỡ là Hoàng Xuân Hãn có một bản nào đó rất bí mật!

3. Để bảo vệ quan điểm của mình cho rằng Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều trước khi ra làm quan cho nhà Nguyễn, Hoàng Xuân Hãn có đưa ra một luận cứ như sau: “Tôi chắc cũng không phải (Nguyễn Du viết Truyện Kiều – AC) đời Gia Long, bởi vì đời Gia Long, cụ Nguyễn Du đã bị gọi ra làm quan, tri phủ Thường Tín hay tri phủ gì ở ngoài Bắc. Lúc đã ra làm quan rồi thì không có thì giờ ngồi viết Kiều (Chúng tôi nhấn mạnh – AC)” (Bđd, tr. 5).

Hoàng Xuân Hãn biện luận như trên e là quá dễ dãi chăng? Làm vua như Tự Đức mà còn viết được những Việt sử tổng vịnh thi tập, Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca, Luận ngữ diễn ca, Từ huấn lục, Thập điều diễn ca, v.v. thì lo gì làm quan như Nguyễn Du – mà làm quan cũng không “hết mình” – lại “không có thì giờ ngồi viết Kiều”!

4. Hoàng Xuân Hãn nói: “Trong truyện Tàu (tức Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân – AC) không có chuyện bể dâu gì cả. Không có sự thay đổi gì cả. Đó là một histoire sociale (truyện xã hội – AC) bên Trung Quốc, đời nhà Minh (…) không phải là cuộc bể dâu. Đời nhà Minh vẫn êm thắm, không có gì cả” (Bđd, tr. 6). Ông cho rằng chỉ trong Truyện Kiều mới có cuộc bể dâu (vì chính Nguyễn Du đã viết “Trải qua một cuộc bể dâu”).

Thực ra, chính cái “histoire sociale” trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã được Nguyễn Du gọi là “cuộc bể dâu” trong Truyện Kiều đấy chứ. Đó chính là cái tai biến đau thương và kinh hoàng đã làm cho gia đình họ Vương từ chỗ đầm ấm, vui vầy bỗng chốc phải thất điên bát đảo rồi lâm vào cảnh sa sút, chia lìa, chính là cái tai biến khiến cho Kiều từ một nàng khuê nữ sắc nước hương trời và tài hoa tuyệt thế bỗng chốc phải trở thành gái lầu xanh và dấn thân vào bước đường mười lăm năm lưu lạc đầy tủi nhục. Không thay đổi thì là gì? Không phải là “cuộc bể dâu” thì là gì? Và đây chính là cái khung toàn cảnh của truyện Tàu mà Nguyễn Du đã diễn bằng tiếng ta. Ngặt một nỗi là Nguyễn Du thì dùng ngữ danh từ “cuộc bể dâu” còn Thanh Tâm Tài Nhân thì lại không nhắc đến mấy tiếng “thương hải tang điền”, khiến cho Hoàng Xuân Hãn mới ngỡ rằng trong truyện Tàu chỉ có “histoire sociale” còn trong Truyện Kiều thì mới có “cuộc bể dâu”! Vả lại, Thanh Tâm Tài Nhân cũng đã viết về cái tai biến của gia đình họ Vương như sau: “Ái ngại thay cho một gia đình đương yên vui, phút chốc biến thành non băng bể tuyết”*. “Non băng bể tuyết” chính là “cuộc bể dâu” đấy.

5. Hoàng Xuân Hãn còn ngộ nhận thêm một điều khác nữa. Ông nói: “Vậy cuộc bể dâu ấy (trong Truyện Kiều – AC) là gì? Tức là Tây Sơn phá Trịnh với Lê và cụ, tức là cái họ của cụ không biết bao nhiêu người làm quan đầu triều hết cả – thượng thư đầu triều hay là đương còn trẻ, văn học rất nổi tiếng, trong họ của cụ có hàng chục người như thế. Một cuộc bể dâu mà Tây Sơn đánh đổ Lê Trịnh là làm đổ hết cả họ về mọi mặt ở Tiền Điền” (Bđd, tr. 6).

Thực ra, như đã nói, cuộc bể dâu trong Truyện Kiều chính và chỉ là cái tai biến đau thương và kinh hoàng của gia đình Kiều và của Kiều mà thôi. Nếu Nguyễn Du có muốn nói đến việc “Tây Sơn đánh đổ Lê Trịnh làm đổ hết cả mọi mặt ở Tiên Điền” thì cũng chỉ là ám chỉ bằng cuộc bể dâu của gia đình Kiều và của Kiều chứ làm sao mà cuộc bể dâu trong Truyện Kiều lại có thể đích thị là chính việc Tây Sơn đánh đổ Lê Trịnh như Hoàng Xuân Hãn đã khẳng định? Nói như thế thì hình tượng văn học còn có ý nghĩa gì nữa? Huống chi, Nguyễn Du có thực sự “đau lòng” trước “cuộc bể dâu” đó và có ác cảm với Tây Sơn hay không cũng còn là chuyện mà có người đã đặt thành vấn đề phải bàn lại*.

6. Hoàng Xuân Hãn có đưa ra mấy chữ Nôm để phân tích mẫu. Về cách phân tích này, Nguyễn Quảng Tuân đã có nhận xét trên báo Văn nghệ. Ở đây chúng tôi chỉ nêu thêm mấy khía cạnh nhỏ khác để chứng minh rằng cách hiểu vấn đề của Hoàng Xuân Hãn có khi hơi dễ dãi.

Chẳng hạn ông cho rằng chữ thứ tư của câu 628 (Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao) phải đọc thành “trụi” và nhấn mạnh: “Trụi như trụi lông: không có một tí lông nào hết cả” (Bđd, tr. 13). Có hay không có một tí nào, chúng tôi sẽ trở lại chuyện này trong một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây sắp tới. Lần này chỉ xin nói về việc dùng từ. Câu 628 là một câu bát có hai vế tiểu đối, mỗi vế bốn chữ. Xưa nay ai cũng đọc chữ thứ tư của nó là nhụi và có lẽ Nguyễn Du đã an bài như thế rồi để cho “nhẵn nhụi” có thể đối với “bảnh bao” một cách mỹ mãn vì đó đều là những từ láy âm. Bây giờ mà đổi lại thành “nhẵn trụi” (không phải là từ láy) thì làm sao có thể đối với bảnh bao cho “xứng lứa vừa đôi” được?

Để kết thúc kỳ trả lời này, xin nhận xét cách hiểu của Hoàng Xuân Hãn về câu 328: Trần trần một phận ấp cây đã liều. Đây là lời của Kim Trọng nói với Kiều trong lần đầu gặp nhau. Sau khi kể lại tích ôm cây đợi thỏ, Hoàng Xuân Hãn đã giảng hàm ý của câu đó như sau: “Tôi là thằng ngốc đợi cô” (Bđd, tr. 14). Một thư sinh “văn chương nết đất, thông minh tính trời” và “vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa” có lẽ nào lại thốt ra được một lời ngây ngô đến thế? Nếu quả anh ta muốn nói như thế thật thì chắc là nàng Kiều “thông minh vốn sẵn tính trời” kia đã cho anh ta “à la de” từ lâu. Chiêm Vân Thị đã giảng hợp lý hơn: “Còn chí nhất quyết của chàng thì, như người nước Tống bo bo giữ cây để đợi thỏ, không hề lui, không hề hối”.* Nghĩa là trong cái việc ôm cây đợi thỏ, Kim Trọng chỉ nhấn mạnh đến cái ý kiên trì, bền bỉ chứ không phải cái ý mà Hoàng Xuân Hãn đã nêu.

§ 446. Kiến thức ngày nay, số 266, ngày 20-12-1997

ĐỘC GIẢ: Bài viết nhan đề “Sài Gòn, phố cũ đường xưa” của tác giả Thượng Hồng đăng trên Thế giới mới, số 237 (26-5-1997) có một vài chỗ mà khi đọc đến tôi cảm thấy ngờ ngợ vì mình cũng là dân “Sài Gòn xưa”. Vậy xin cho biết việc nói về tên đường trong bài này có chính xác 100% hay không. Trong bài viết này, tác giả đã nói rằng đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa hiện nay chính là đường Charles de Gaulle năm xưa, ông thấy có đúng không (vì lúc đó de Gaulle hãy còn sống).

AN CHI: Chúng tôi rất thích bài viết đó của Thượng Hồng (Thế giới mới, số 237, tr. 102 – 105 và 99). Tuy nhiên chúng tôi cũng muốn trao đổi thêm với tác giả một số ý kiến.

1. Thượng Hồng viết: “Đường Trên khởi đầu từ Ngã Sáu Sài Gòn, chia làm hai đoạn chạy thẳng vô Chợ Lớn. Đoạn đầu mang tên Frère Louis (từ năm 1954 đổi là Võ Tánh), đoạn thứ hai mang tên Maréchal Joffre (sau đổi thành Nguyễn Trãi), ngày nay cả đoạn Võ Tánh và Nguyễn Trãi đều thống nhất mang tên Nguyễn Trãi” (Bđd, tr. 102).

Tác giả khẳng định đoạn thứ hai mang tên Maréchal Joffre có lẽ là vì ông đã căn cứ vào bản đồ xóm Chợ Quán (Bđd, tr. 103), sao lại từ bản đồ trong quyển Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1991, tr. 169). Tiếc rằng cả tác giả Vương Hồng Sển cũng không cho biết đó là bản đồ của xóm Chợ Quán trong thời gian nào chứ trước khi đổi thành đường Nguyễn Trãi thì con đường mà Thượng Hồng gọi là Maréchal Joffre lại có tên là đường Cây Mai, mà người Quảng Đông gọi là Mùi Xán cái (Mai Sơn nhai = đường Gò Cây Mai). Tên đường này còn được Trương Vĩnh Ký nhắc đến cách đây trên một thế kỷ trong Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, ấn bản 1885*. Đây là một tên đường xưa nhất có liên quan đến cổ tích của Sài Gòn, nay đã không còn.

2. Thượng Hồng viết: “Con đường ngày nay mang tên Chủ tịch Tôn Đức Thắng thời xưa có tên là Luro, từ năm 1954 đổi là Cường Để (đoạn từ xưởng Ba Son đến giáp đường Lê Duẩn bây giờ, còn từ khúc quanh cuối xưởng Ba Son đến Cầu Quay, Khánh Hội, gọi là Bến Bạch Đằng”) (Bđd, tr. 103 – 104).

Thực ra, trước kia, chỉ có đoạn từ khúc quanh Ba Son đến đường Lê Duẩn, tức đường Cường Để thời chế độ cũ, mới mang tên là Luro mà thôi. Trong suốt thời Pháp cai trị, dù có trải qua những lần đổi tên, đoạn từ khúc quanh Ba Son đến Cầu Quay vẫn luôn luôn là một con đường riêng, gọi là bến (tiếng Pháp: quai) và tên đầu tiên của nó là bến Primauguet*.

3. Thượng Hồng viết: “Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm trước mang tên Rousseau, từ cuối đường này, chỗ hông Thảo Cầm Viên, là các con đường Lagrandière (Gia Long cũ, nay là Lý Tự Trọng), l’Espagne (Lê Thánh Tôn), cạnh đó là Mossard (Nguyễn Du)” (Bđd, tr. 104).

Thực ra, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ mang tên Rousseau hồi đầu thế kỷ chứ trước khi đổi thành Nguyễn Bỉnh Khiêm thì nó là đường Docteur Angier và nó đã mang tên này muộn nhất cũng là trong thập kỷ 1930 (Cậu ruột của chúng tôi, nay đã ngoại thất tuần, cho biết khi ông còn nhỏ và học tại Ecole primaire supérieure française des garçons, tọa lạc tại con đường này thì nó đã mang tên đó rồi).

Đường Lê Thánh Tôn trước kia không mang tên “l’ Espagne” mà là (rue) d’ Espagne.

Đường Mossard cũng không phải toàn bộ đường Nguyễn Du hiện nay vì con đường này, đoạn từ Hai Bà Trưng cho đến Cách Mạng Tháng Tám, thì trước kia lại là Taberd.

Đường Lagrandière cũng không giáp với Nguyễn Bỉnh Khiêm như đường Mossard và đường d’Espagne được vì ngay từ xưa, nó đã bị ngăn cách với Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng các công trình kiến trúc nằm giữa bốn con đường này là: Nguyễn Bỉnh Khiêm – Nguyễn Trung Ngạn (xưa là Palanca) – Tôn Đức Thắng – Lê Thánh Tôn.

4. Thượng Hồng viết: “Cắt ngang Hàm Nghi và Lê Lợi là hai con đường xưa mang tên Pellerin (Pasteur) và Mac Mahon (rồi đổi là Charles de Gaulle, từ năm 1954 là Công Lý, hiện mang tên Nam Kỳ Khởi Nghĩa)” (Bđd, tr. 104).

Ông Sĩ Nguyên không tin rằng khi nhân vật de Gaulle còn sống mà Sài Gòn lại có con đường mang tên ông ta. Chúng tôi xin khẳng định là có. Tuy nhiên Thượng Hồng vẫn không đúng vì Sài Gòn chưa bao giờ có đường “Charles de Gaulle” mà chỉ có đường Général de Gaulle mặc dù tướng de Gaulle có tên là Charles. Sau Cách mạng tháng Tám, sau khi quân Pháp tái chiếm Sài Gòn rồi tạm thời ổn định tình hình thì con đường Mac-Mahon bị cắt làm đôi: một phần dành cho de Gaulle, một phần vẫn là của Mac-Mahon. Đến năm 1952, khi tướng de Lattre de Tassigny, cao ủy Pháp tại Đông Dương, trở về Pháp rồi chết và được phong thống chế (maréchal) thì đường Mac-Mahon lại bị cắt một lần nữa để có thêm phần cho de Lattre. Thế là trước khi đổi tên thành Công Lý thì con đường Mac-Mahon thời xưa đã bị chia làm ba và tính từ Tân Sơn Nhất đổ về bờ sông thì nó gồm có ba “đường”: Général de Gaulle, Maréchal de Lattre de Tassigny và Mac-Mahon.

5. Thượng Hồng viết: “Con đường cắt ngang Verdun, chạy từ Ngã Bảy ra tận cầu Phan Thanh Giản, ngày trước có tên là Lizé, còn được gọi là đường Hai Mươi, sau đổi là Phan Thanh Giản, nay là Điện Biên Phủ” (Bđd, tr. 105).

Thật ra, con đường đó, đoạn từ Verdun đến cầu Phan Thanh Giản, ngày trước có tên là Legrand de la Liraye. Còn Général Lizé, mà tên cũ là đường Hai Mươi, lại là đoạn nối Legrand de la Liraye với Ngã Bảy.

Vậy đoạn từ Verdun đến cầu Phan Thanh Giản cũng không phải là đường Hai Mươi.

6. Thượng Hồng viết: “Đường An Dương Vương ngày xưa chỉ chạy từ khoảng nhà thờ Ngã Sáu ra đến chợ An Đông, mang tên Boulevard Charles Thomson (Bđd, tr. 99).

Nhưng dù là ngày xưa thì Boulevard Charles Thomson cũng đâu có ngắn đến thế vì thực ra nó bắt đầu từ giao điểm với đại lộ Tổng đốc Phương (nay là đường Châu Văn Liêm), nghĩa là bao gồm cả đoạn mà hiện nay có hàng chục cửa hàng đồ điện và điện tử liên tiếp nhau bắt đầu từ Sài Gòn Công thương ngân hàng trở đi.

7. Thượng Hồng viết: “Đại lộ Khổng Tử có tên là Gaudot hay Bonheure” (Bđd, tr. 99).

Thực ra đại lộ Khổng Tử bây giờ đã là đường Hải Thượng Lãn Ông. Hơn nữa, cách diễn đạt trên đây làm cho người ta hiểu rằng thời trước cả con đường Hải Thượng Lãn Ông có thời gọi là Gaudot, có thời gọi là Bonhoure (chứ không phải “Bonheure”) hoặc vừa gọi là Gaudot vừa gọi là Bonhoure. Nhưng thời trước thì Gaudot và Bonhoure là hai con đường riêng biệt: Gaudot là đoạn đường Hải Thượng Lãn Ông chạy từ đường Trần Văn Kiểu hiện nay đến Bồn binh Chợ Lớn, giáp với bên này đầu đường Châu Văn Liêm còn đoạn đường Hải Thượng Lãn Ông chạy từ bên kia đầu đường Châu Văn Liêm cho đến đường Phùng Hưng (mà tên thời Pháp là đường Paris) thì mới là Bonhoure.

Trở lên là một số điểm mà chúng tôi muốn trao đổi với ông Thượng Hồng để ông xem xét. Chúng tôi chỉ căn cứ theo trí nhớ chứ không có điều kiện để đối chiếu trong công báo hoặc trên bản đồ của từng thời kỳ nên rất có thể là có chỗ chúng tôi đã nhớ sai. Nếu được ông kiểm tra lại thì chúng tôi rất hân hạnh.

§ 447. Kiến thức ngày nay, số 266, ngày 10-12-1997

ĐỘC GIẢ: “Giải thưởng” hay “dải thưởng”? Trên các phương tiện thông tin đại chúng, người ta thường viết “giải thưởng”. Một lần, tôi có viết một tài liệu, trong bản viết tay tôi viết là “dải thưởng”. Khi đưa cho văn thư đánh máy, anh văn thư sửa lại là “giải thưởng”. Dò lại bản đánh máy tôi sửa lại ở ngoài lề cẩn thận: “dải thưởng”. Thế mà khi đưa đăng báo, tòa soạn lại chữa lại là “giải thưởng”. Ngày nay sách báo, kể cả báo Nhân dân đều ghi là “giải thưởng”. Vậy cách viết nào đúng?

AN CHI: Xét theo từ nguyên thì đó là “dải”. Dải có nghĩa gốc là cái băng bằng vải, bằng lụa để treo, để buộc, rồi cái băng để treo phần thưởng và cuối cùng với nghĩa này, nó lại có nghĩa phái sinh bằng hoán dụ để chỉ chính cái phần thưởng được treo. Nghĩa này đã được thấy trong câu Kiều thứ 210:

Thì treo dải nhất chi nhường cho ai.

Sở dĩ phải viết với d- vì dải là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 帶 mà âm Hán Việt là đái, có nghĩa là cái dải, cái băng, theo luật tương ứng d ~ đ như: – (con) dao ~ đao 刀(= dao); – dát (= nhát) ~ đát 怛 (= sợ hãi); – doi (đất) ~ đôi 堆 (= gò, đống); – dỗi (giận hờn) ~ đội 憝(= oán ghét); – dạo (nhạc, đàn) ~ đạo 導 (= đưa đường); – dọc (= cái sống ở giữa) ~ đốc 督 (= đường ở giữa).

Mối quan hệ này đã được ngữ âm học lịch sử khẳng định*.

Hình thức của chữ “dải” trong “dải thưởng” hồi giữa thế kỷ XVII là dĕải, nghĩa là vẫn còn viết với “d” như có thể thấy trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh của Alexandre de Rhodes (Roma, 1651). Vì không nắm vững nguồn gốc nên từ lâu người ta đã viết chữ này với “gi” thành giải cho nên ngày nay muốn lái nó trở về cách viết sát từ nguyên là “dải” thì cũng khó mặc dù một số tự điển vẫn còn thừa nhận cách viết với “d”, chẳng hạn Từ điển chính tả phổ thông của Viện Văn học (Nxb. Khoa học, Hà Nội, 1963) hoặc Từ điển tiếng Việt1992, v.v..

Chúng tôi hoàn toàn tán thành cách viết của ông nhưng rất tiếc là quan điểm của chúng ta xem ra không “chống chọi” nổi với thói quen chung của đa số vì trong ngôn ngữ thỉnh thoảng vẫn có những cái sai trở thành thông dụng rồi không bao giờ còn sửa lại được nữa!

§ 448. Kiến thức ngày nay, số 267, ngày 20-12-1997

ĐỘC GIẢ: “Múi giờ” (24 múi giờ nơi mặt địa cầu) tiếng Hán gọi là gì? Ban Hán Nôm của Viện Khoa học Xã hội bảo đó là phiến (片) mà âm Bắc Kinh là piān. Còn Ban chữ Hoa của báo Sài Gòn giải phóng bảo đó là biện (?). Trong khi đó, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh ghi: phiến là tấm mỏng, một mảnh, một nửa còn biện là cái cánh hoa. Vậy rốt cuộc, múi giờ tiếng Hán nói thế nào?

AN CHI: Phiến 片 là một lượng từ (loại từ) có nghĩa là tấm, miếng, mảnh. Thí dụ: – nhất phiến chỉ = một mảnh giấy; – nhất phiến vân = một làn mây; phiến giáp bất tồn (hoặc bất lưu) = không còn manh giáp; – nhất phiến chân tâm = một tấm lòng thành; v.v.. Với nghĩa là một phần cực nhỏ, phiến có thể đi chung với danh từ khắc hoặc thời để tạo thành từ tổ phiến khắc, phiến thời (= một nháy mắt, một khoảnh khắc) nhưng nó chẳng có liên quan gì đến từ múi trong từ tổ múi giờ, mà tiếng Việt đã sao phỏng từ cấu trúc fuseau horaire của tiếng Pháp cả. Còn biện 辨 đúng là một danh từ có nghĩa là cánh hoa. Âm Hán Việt xưa của nó là bèn (rã bèn = rã cánh). Nó cũng có nghĩa là múi, thí dụ: – trục biện là múi bưởi, – cam biện là múi cam, nhưng nó cũng lại chẳng có liên quan gì đến múi trong múi giờ cả. Sở dĩ như thế là vì để chỉ múi giờ, tiếng Hán đã không dịch từ tiếng Pháp fuseau horaire mà lại dịch (cũng bằng hình thức sao phỏng) từ tiếng Anh time zone. Time = thời 時; zone = khu 區; và time zone = thời khu 時 區, âm Bắc Kinh là shìqú. Và múi giờ = fuseau horaire = time zone = thời khu (shíqū). Vậy cái mà Ban Hán Nôm của Viện Khoa học Xã hội gọi là “phiến” còn Ban chữ Hoa của báo Sài Gòn giải phóng gọi là “biện” thực tế chẳng có liên quan gì đến “múi” trong “múi giờ” cả.

§ 449. Kiến thức ngày nay, số 267, ngày 20-12-1997

ĐỘC GIẢ: Ngày xưa, con trai thì được chơi ngọc chương (lộng chương) còn con gái chỉ được chơi ngói (lộng ngoã). Phải chăng đây cũng là một kiểu phân biệt đối xử theo tinh thần “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”?

AN CHI: Lộng ngõa thực chất không phải là chơi ngói như một vài quyển từ điển đã đối dịch (chẳng hạn Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh). Ngõa ở đây lại là phưởng chuyên (hoặc phưởng trùy), nghĩa là cái con suốt để quấn chỉ, quấn sợi, nhưng lại làm bằng đất nung. Và lộng ngõa là “chơi con suốt bằng đất nung”. Vậy cho con gái “lộng ngõa” tức là tập cho con gái của mình có ý thức về việc canh cửi, một loại hình lao động sản xuất phù hợp với chức phận của người phụ nữ ngày xưa.

§ 450. Kiến thức ngày nay, số 267, ngày 20-12-1997

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguyên văn bài thơ của Hồ Xuân Hương mắng học trò (“Lũ ngẩn ngơ”). Có phải câu đầu có những dị bản?

AN CHI: Dưới nhan đề “Lũ ngẩn ngơ”, quyển Hồ Xuân Hương, thơ và đời do Lữ Huy Nguyên tuyển chọn (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1996) đã chép như sau;

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?

Lại đây cho chị dạy làm thơ,

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.

Quyển Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục của Đào Thái Tôn (Nxb. Giáo dục, 1995) đã chép bài đó dưới nhan đề “Mắng học trò” với ba chỗ khác biệt cụ thể như sau: – chữ thứ hai của câu thứ nhất là “léo” chứ không phải “khéo”, – sau câu thứ hai là dấu chấm chứ không phải dấu phết (phẩy), – sau câu thứ ba là dấu phết chứ không phải là không dấu (Xem sđd, tr. 167). Ngoài ra, trong phần “Bình chú”, Đào Thái Tôn còn cho biết như sau: “Ở bản Landes, theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn, bài này có lời dẫn ngắn: Có ba thanh niên đi cùng với nhau. Thấy Xuân Hương, bèn muốn ghẹo cô mà hỏi: “Xuân Hương có muốn lấy ta không?”. Xuân Hương mắng cho:

“Hởi hởi các em đừng thẩn thơ …

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa”.

(Sđd, tr. 167)

Thế là với bản của Landes, thì câu đầu lại khác hẳn: thay vì “khéo khéo” hoặc “khéo léo” thì lại là “hởi hởi”, thay vì “đi đâu” thì lại là “các em” và thay vì “lũ ngẩn ngơ” thì lại là “đừng thẩn thơ”. Nhưng dù câu đầu có là như thế nào thì chúng tôi cũng không tin rằng bài “Lũ ngẩn ngơ” (tức “Mắng học trò”) là của Hồ Xuân Hương, vì hai câu cuối của nó đã có từ nửa sau của thế kỷ XV, đời vua Lê Thánh Tông. Đó là hai câu luận trongbài thất ngôn bát cú Đường luật nhan đề “Tương phùng”, nguyên văn như sau:

Ấy khuôn hay mẹo thợ nào lừa?

Mướp đắng khen ai đổi mạt cưa

Rắn đói đâu từ con cóc thối

Mèo thèm chi dỗi miếng nem thừa

Ong già buông nọc châm hoa rữa

Dê yếu văng sừng húc giậu thưa

Ơ hở tiền chi mua vải nối,

Nồi nào vung ấy khéo in vừa.*

Khó mà có chuyện những “tư tưởng lớn”, những “tư tưởng đẹp” của thế kỷ XV và của thế kỷ XVIII – XIX lại gặp nhau một cách vừa vặn và khít khao đến như thế. Một đằng là:

Ong già buông nọc châm hoa rữa

Dê yếu văng sừng húc giậu thưa.

Một đằng thì lại là:

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.

Trừ sự khác nhau ở tiếng thứ hai và tiếng thứ ba trong các câu đang xét của Hồng Đức quốc âm thi tập và “của Hồ Xuân Hương” thì cái khung ngôn từ và cú pháp của hai bên hoàn toàn là một. Vậy nếu đây là chuyện “vay mượn” cả lời lẫn ý thì chỉ có thể là người đời sau vay mượn của người đời trước chứ không thể có chuyện ngược lại. Nhưng xin thú thật rằng chúng tôi cũng không cho là Hồ Xuân Hương đã mượn thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập, dù là mượn có ý thức hay mượn kiểu réminiscence (hồi ức đột xuất và vô ý thức). Theo chúng tôi, đây là bài thơ mà hai câu sau đã được một đấng nam nhi lấy từ bài “Tương phùng” trong Hồng Đức quốc âm thi tập rồi “chế biến” mà gán ghép cho Hồ Xuân Hương. Đây không phải là trường hợp duy nhất vì ít nhất cũng còn có một bài nữa là bài “Đánh đu”, cũng được gán cho Hồ Xuân Hương, rất giống bài “Cây đánh đu” thuộc phần “Phẩm vật môn” trong Hồng Đức quốc âm thi tập*.

Có khi chỉ vì khoái hiện tượng éros mà người ta sẵn sàng tin rằng nhiều bài hoặc tất cả các bài đậm chất gợi dục, được truyền tụng là của Hồ Xuân Hương, đích thị là của bà. Chúng tôi cho rằng hiện tượng Hồ Xuân Hương, trong đó tất nhiên có hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương, là vấn đề sẽ tiếp tục được các nhà chuyên môn đào sâu thêm để tìm cho ra cái lẽ phải tìm. Và trong công việc này, theo chúng tôi, Đào Thái Tôn (với sđd) là người đã đi đúng hướng: đó là cái hướng mà Trần Thanh Mại đã gợi ý cách đây trên 30 năm.

§ 451. Kiến thức ngày nay, số 267, ngày 20-12-1997

ĐỘC GIẢ: Hồng Đức quốc âm thi tập do Phạm Trọng Điềm – Bùi Văn Nguyên phiên âm, chú giải và giới thiệu (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1982), phần “Phẩm vật môn”, bài 57 (Lại bài cây cau) có câu:

Mình cài xiêm lục phe đuôi phượng.

Xin cho biết đây là “phe đuôi phượng” hay là “khoe đuôi phượng?”

AN CHI: Chữ “khoe” đã được dùng ở ngay câu trên của bài ấy rồi:

Vì người dễ khiến thức khoe hồng.

Vậy đây không thể cũng lại là “khoe” nữa, mà chính là phe. Phe có nghĩa là phẩy, là vẫy; vì vậy mà có từ tổ ghép đẳng lập phe phẩy. Phe đuôi phượng có nghĩa là vẫy đuôi phượng: đây chỉ những tàu lá cau rung rinh, đung đưa trước gió. Câu thứ 6 của bài 70 (Thạch khuyển) trong “Phẩm vật môn” cũng có từ phe.

Chào người quân tử chẳng phe đuôi.

Chẳng phe đuôi có nghĩa là không vẫy đuôi (vì chỉ là con chó bằng đá (thạch khuyển) mà thôi).

§ 452. Kiến thức ngày nay, số 267, ngày 20-12-1997

ĐỘC GIẢ: Có phải từ “phi” là ma trong tiếng Thái có nghĩa gốc là sai, trái và bắt nguồn từ chữ Hán phi 非 trong phi lý, phi nghĩa, phip háp hay không?

AN CHI: Chúng tôi xin nói để bạn đọc được rõ rằng trong tiếng Thái (Tây Bắc), phi có nghĩa là ma, thí dụ: phi hướn là ma nhà; phi bản là ma bản; phi mướng là ma mường; phi pá là ma rừng; v.v..

Phi trong tiếng Thái (và các từ cùng gốc trong tiếng Xiêm, tiếng Lào, tiếng Tày, v.v.) không liên quan gì đến chữ phi 非 là không, là sai trái. Nó bắt nguồn ở (hoặc cùng gốc với) một từ tiếng Hán ghi bằng chữ 祕 có nghĩa là thần, mà âm Hán Việt là bí, âm Bắc Kinh trước đây là bì và hiện nay là mì (do một sự lệch âm có thể giải thích được). Tất cả các hình thái tương ứng trên đây đều còn giữ lại được âm chính cổ xưa của từ gốc là “i”. Còn phụ âm đầu ph- của tiếng Thái (Th) tương ứng với b- [p] của tiếng Bắc Kinh (BK) là một hiện tượng hoàn toàn có thể chứng minh được: – Th. phạo (vội, kíp) ~ BK bào 暴 (Hán Việt: bạo); – Th. phảu (giữ, canh) ~ BK bảo 保 (Hán Việt: bảo); – Th. phột (sôi, náo) ~ BK bó 勃 (Hán Việt: bột); – Th. phú (phà, phun, hà hơi) ~ BK bú 哺 (Hán Việt: bộ); v.v.. Tất nhiên là đối với các ngôn ngữ Tày Thái khác – mà từ có nghĩa là ma cũng bắt đầu bằng ph- và có âm chính là -i – người ta cũng có thể chứng minh được như thế, chẳng hạn: – Lào, Tày phẻo (báo, beo) ~ BK bào 豹 (Hán Việt xưa: beo, Hán Việt nay: báo); – Xiêm, Lào, Thái, Tày pha (phên liếp) ~ BK bá 笆 (Hán Việt: ba); v.v..

Vậy từ phi là ma của tiếng Thái (và những từ cùng gốc trong tiếng Xiêm, tiếng Lào, tiếng Tày) bắt nguồn ở (hoặc cùng gốc với) từ ghi bằng chữ 祕 trong tiếng Hán mà nghĩa gốc là thần (trong thần linh).

§ 453. Kiến thức ngày nay, số 268, ngày 1-1 -1998

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết mai vàng trong Nam và mai trong văn thơ xưa có quan hệ gì với nhau hay không.

AN CHI: Nhiều người vẫn mặc nhiên cho rằng hai thứ là một. Chẳng thế mà, trên nhiều tờ báo xuân, thỉnh thoảng người ta vẫn thấy bài viết về hoa mai trong văn thơ xưa (bằng chữ Hán) được minh họa bằng hình ảnh của hoa mai vàng miền Nam hoặc bài viết tán tụng hoa mai vàng bằng những đức tính của cây mai trong văn thơ xưa. Thiết tưởng đây là một sự nhầm lẫn cần đính chính.

Thực ra, mai trong văn thơ xưa – xin cứ gọi đơn giản theo truyền thống là “mai” – và mai vàng là hai giống thực vật hoàn toàn khác nhau. Cây mai có tên khoa học là Prunus mume S. et Z. và thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae) còn cây mai vàng thì có tên khoa học là Ochna harmandii Lec và thuộc họ Hoàng mai (Ochnaceae). Cây mai cùng họ với cây mơ, mà tên khoa học là Prunus armeniaca Linn. và cây đào, mà tên khoa học là Prunus persica Stokes*.

Mai có hoa năm cánh màu trắng, hồng hoặc đỏ và có mùi thơm; quả có vị chua, còn sống thì màu xanh, chín thì màu vàng, có thể ăn được. Quả mai phơi hoặc sấy khô thì có màu đen nên gọi là ô mai, chế biến cho có mùi chua thơm thì gọi là toan mai, âm Quảng Đông là sýn mùi (chữ “y” đọc như “u” của Pháp) mà người Việt miền Nam đã mượn và đọc thành xí(m) mụi. Còn cây mai vàng thì hoa không thơm, quả chỉ nhỏ bằng hạt đậu, sống thì màu xanh, chín thì màu đen và không ăn được.

Cây mai có một đặc tính quan trọng là giỏi chịu rét, và vẫn có thể trổ hoa trong tiết trời đầy tuyết giá. Chẳng thế mà Chân Sơn Dân đời Tống đã có thể viết trong bài “Sơ đông” (Đầu mùa đông = tháng 10) rằng hoa mai cứ gợi hứng để làm thơ vì ngay thời điểm đó mà nó cũng đã nảy nụ trên đầu cành rồi (chứ không cần đợi đến sang xuân).

Mai hoa khổ dục thôi ngâm hứng.

Hựu phá sao (tiêu) đầu bán điểm hương.

Cũng chính vì hoa mai đã có mặt ngay trong mùa đông nên Mao Ngọc Long đời Minh mới viết trong bài “Đông dạ” (Đêm đông) rằng ai mà đoái đến kẻ cô đơn bên thư song vắng lặng, chỉ có chiếc bóng lạnh lẽo cùng với hoa mai trong ánh đèn đêm mà thôi.

Thùy liên tịch mịch thư song hạ,

Đống ảnh mai hoa bạn dạ đăng.

(Mao Ngọc Long là con gái quan ngự sử Mao Phong Thiều, chồng mất sớm, ở góa cho đến cuối đời).

Cũng là để tả cái sức chịu đựng giá rét của cây mai mà Trương Vị đời Đường đã viết trong bài “Tảo mai” (Mai sớm) rằng thấy mai cứ ngỡ là đã sang xuân mà vì trải qua mùa đông dài nên vẫn còn có tuyết, không ngờ rằng đang còn mùa đông mà vì mọc gần nước nên mai lại nở sớm:

Bất tri cận thủy hoa tiên phát

Nghi thị kinh đông tuyết vị tiêu

Cùng ý trên, Vương An Thạch đời Tống đã viết trong bài “Hồng mai” rằng miền Giang Nam dịp cuối năm thường có gió tuyết mà cũng đã có hoa mai báo tin xuân:

Giang Nam tuế tận đa phong tuyết,

Dã hữu hồng mai lậu tiết xuân.

Chính vì vậymà tuyết vẫn đi chung với mai trong cảm hứng của nhà thơ. Lư Mai Pha đời Tống đã viết trong bài “Tuyết, mai” rằng mai và tuyết tranh xuân mà chẳng chịu thua nhau, khiến nhà thơ đành gác bút vì rất khó mà làm thơ để phẩm bình hơn kém:

Mai tuyết tranh xuân vị khẳng hàng,

Tao nhân các bút phí bình chương.

Mai không sợ tuyết; trong tuyết mai vẫn nở. Đặc điểm sinh thái này của cây mai đã làm cho nó trở thành biểu tượng của sự cứng cỏi, kiên trinh. Lục Du đời Tống đã viết trong bài “Lạc mai” (Mai rụng) rằng gió càng mạnh, tuyết càng dày thì mai càng uy nghi vì nó có khí tiết kiên trinh nhất trong các loài hoa:

Tuyết ngược phong thao dũ lẫm nhiên,

Hoa trung khí tiết tối cao kiên.

Nói đến thơ vịnh mai, tưởng cũng nên nhắc đến bài “Tảo mai” (Mai sớm) của nhà sư Tề Kỷ đời Đường mà bốn câu đầu đã khắc họa cái thế tương phản sâu đậm giữa mai và các giống thảo mộc khác. Muôn cây tưởng chừng sắp chết cóng vì giá rét mà cây mai đơn độc ở xóm trước đêm qua vẫn đủ sức ấm để nở được một bông trong tuyết rơi dày đặc:

Vạn mộc đống dục chiết,

Cô căn noãn độc hồi.

Tiền thôn thâm tuyết lý,

Tạc dạ nhất chi khai.

Bài thơ đã đi vào giai thoại. Rằng câu thứ tư vốn được Tề Kỷ viết là:

Tạc dạ sổ chi khai

(Đêm qua nở mấy bông).

Trịnh Cốc xem xong bài thơ rồi nói: “Sổ chi, phi tảo dã, vị nhược nhất chi” (“Mấy bông” không phải là sớm, chưa hay bằng “một bông”). Tề Kỷ bèn sửa thành:

Tạc dạ nhất chi khai

(Đêm qua nở một bông)

và nhận Trịnh Cốc làm “nhất tự sư”.*

Cấu trúc “Tiền thôn (thâm tuyết lý) tạc dạ nhất chi khai” trong bài thơ trên đây của Tề Kỷ gợi nhớ đến câu “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” trong bài kệ “Cáo tật thị chúng” của thiền sư Mãn Giác. Câu này của Mãn Giác đã được Nguyễn Minh Ngọc bình như sau: “Ta sững sờ xúc động trước cái bất ngờ hết sức của câu kết… Đêm qua sân trước nở cành mai. Đến đây, thiên nhiên mà cụ thể là mùa xuân chợt hiện lên vừa sinh động, vừa tươi tắn. Bức tranh xuân có nhánh mai vàng”*. Chúng tôi không tin vào “nhánh mai vàng” này vì ở thời của Mãn Giác (thế kỷ XI) thì tại nước Đại Việt mà biên giới phía Nam chỉ mới hết châu Ma (Minh) Linh (nay là một phần phía Bắc của Quảng Trị), dân chúng chưa biết đến mai vàng, ít nhất cũng chưa hề trồng nó. Chính Giáo sư Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi, người từng vất vả đi tìm cây mai vàng ở miền Bắc, đã nói rõ rằng “sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (4-1975 – AC) thì mai vàng mới có phổ biến (ở miền Bắc – AC) (theo Đỗ Tất Lợi, bđd), nghĩa là hồi tập kết năm 1954 vẫn chưa có. Còn người Việt miền Nam cũng chỉ mới biết đến cây mai vàng nhiều lắm là trên ba trăm năm nay. Thậm chí, tại những địa danh nổi tiếng của Sài Gòn xưa là chùa Cây Mai (tên dân gian của Thứu Lãnh tự), gò Cây Mai (nơi có chùa Cây Mai) và chùa Gò (tên dân gian của Phụng Sơn tự) thì cây mai được trồng cũng không phải mai vàng, mà lại là bạch mai (mai trắng). Về những cây mai này, Vương Hồng Sển có cho biết như sau: “Chùa Gò có đặc điểm là có bốn cây bạch mai, một loại với cây mai ở đồn Cây Mai nhưng trổ bông trổ trái sum sê, hỏi ra thì giống mai này mang từ Cao Miên về cách nay (thập kỷ 60 – AC) trên bốn chục năm và có lẽ cũng một chi phái với cây mai trên lăng Mạc Cửu đất Hà Tiên, vì nhất quyết mai Hà Tiên gốc ở Cao Miên đem về, còn mai do Mạc Cửu mang từ Trung Hoa sang đã khô chết từ lâu”*. Có lẽ phải kiểm tra lại ý kiến cho rằng giống mai do Mạc Cửu đem từ Trung Hoa sang “đã khô chết từ lâu”, nhất là xem “giống mai ở Cao Miên” có tên khoa học là gì thì mới có thể khẳng định dứt khoát. Nhưng dù cây mai ở những địa điểm đã nói có tên khoa học là gì thì đó cũng chẳng phải là mai vàng.

Tóm lại, nói về thâm niên và truyền thống thì mai vàng ở ta thua xa mai bên Tàu vì mai Tàu đã đi vào văn chương từ thời Kinh Thi. Và khi người xưa nói “mình hạc xương mai” hoặc khi Nguyễn Du viết “mai cốt cách” để tả hai chị em Kiều và “mai gầy vóc sương” để tả Kiều khi nàng bị quan phủ ở Lâm Tri sai lính gia hình thì mai ở đây cũng chỉ là cây Prunus mume S. et Z. thuộc họ Hoa hồng chứ chẳng có liên quan gì đến cây Ochna Harmandii Lec cả. Mai và mai vàng hẳn hoi là những người dưng khác họ thì nỡ nào lại đem lòng… nhớ thương!

§ 454. Kiến thức ngày nay, số 268, ngày 1-1 -1998

ĐỘC GIẢ: “Ông chủ” có phải là đực rựa hay không?

AN CHI: “Ông chủ” 翁主 không thể là đực rựa được vì đó là những ái nữ của các bậc vương đời Tây Hán. Hai chữ ông chủ đã được Từ nguyên giảng như sau: “Tây Hán xưng chư vương nữ vi ông chủ. Hán thư Sư Cổ chú vân: Thiên tử bất thân chủ hôn, cố vị chi công chủ 公主. Chư hầu tức tự chủ hôn, cố kỳ nữ hiệu ông chủ. Ông giả, phụ dã. Hựu xưng vương chủ. Sư Cổ vân: Vương tự chủ hôn, cố viết vương chủ”, nghĩa là: “Đời Tây Hán gọi con gái của các vương là ông chủ. Sách Hán thư do Nhan Sư Cổ chú nói: Thiên tử không đích thân làm chủ hôn, do đó gọi là công chủ (công: chung; chủ, chủ hôn – AC). Chư hầu thì tự thân làm chủ hôn, do đó con gái của họ gọi là ông chủ. Chữ ông có nghĩa là cha vậy. Cũng gọi (ông chủ) là vương chủ. Nhan Sư Cổ nói: Bậc vương tự đứng ra làm chủ hôn, do đó gọi là vương chủ”.

Xin nói rõ là trở lên chúng tôi đã giữ nguyên cách ông phiên âm chữ 主 thành chủ để tiện việc trả lời chứ theo truyền thống thì nên đọc ba khái niệm hữu quan trên đây là: công chúa, ông chúa và vương chúa. Con gái của vua gọi là công chúa vì đám cưới không do vua đích thân làm chúa (chủ) hôn. Con gái của tước vương gọi là ông chúa vì đám cưới do cha mình (chữ ông 翁 cũng có nghĩa là cha) đứng ra làm chúa (chủ) hôn và vì người cha này có tước vương nên con gái cũng còn được gọi là vương chúa, nghĩa là đám cưới do tước vương đứng ra làm chúa (chủ) hôn.

§ 455. Kiến thức ngày nay, số 271 , ngày 20-2-1998

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 266, kết thúc câu trả lời về cách viết chữ dải (hoặc giải) trong “dải (hoặc giải) thưởng”, ông An Chi đã viết: “Chúng tôi hoàn toàn tán thành cách viết của ông nhưng rất tiếc là quan điểm của chúng ta xem ra không “chống chọi” nổi với thói quen chung của đa số vì trong ngôn ngữ thỉnh thoảng vẫn có những cái sai trở thành thông dụng rồi không bao giờ còn sửa lại được nữa”! Sau đó, trên Thế giới mới, số 270, tôi lại đọc được bài “Dùng sai lâu ngày thành đúng” của tác giả Duy Anh đăng trong mục “Nói và viết” ở trang 66 và 65. Trong bài này, sau khi nêu và phân tích một số thí dụ, tác giả đã viết: “Đương nhiên chúng ta không phủ nhận hiện tượng biến nghĩa của một số từ ngữ nhất định trong quá trình phát triển của ngôn ngữ (…). Tuy nhiên, cũng không phải vì thế mà ta đồng ý với ý kiến cho rằng một từ, dù dùng sai nhưng được nhiều người dùng thì phải chấp nhận”. Xin ông An Chi cho biết ông có ý kiến như thế nào về ý kiến trên đây của tác giả Duy Anh, vì theo chúng tôi thì hình như tác giả muốn ám chỉ câu trả lời của ông trên Kiến thức ngày nay, số 266. Hơn nữa, trong câu trả lời này, ông An Chi cũng không hề dẫn chứng về “những cái sai trở thành thông dụng rồi không bao giờ còn sửa lại được nữa”.

AN CHI: Chúng tôi không cho rằng trong bài “Dùng sai lâu ngày thành đúng” đăng tại mục “Nói và viết” trên Thế giới mới, số 270, tác giả Duy Anh lại ám chỉ câu trả lời của chúng tôi trên Kiến thức ngày nay, số 266 vì quan điểm của chúng tôi không trùng với điều mà tác giả Duy Anh đã phản đối. Nhưng vì ông đã liên hệ ý kiến của tác giả này với câu trả lời của chúng tôi nên, để cho phân minh, chúng tôi xin phân tích như sau.

Duy Anh viết: “Tuy nhiên, cũng không vì thế (nghĩa là vì “hiện tượng biến nghĩa của một số từ ngữ” – AC) mà ta đồng ý với ý kiến cho rằng một từ, dù dùng sai nhưng được nhiều người dùng thì phải chấp nhận. Làm sao có thể chấp nhận yếu điểm thay cho điểm yếu khi hai từ này gần như trái nghĩa nhau…” (Bđd, tr. 65).

Nhưng chúng tôi chưa bao giờ chủ trương một cách chung chung rằng “một từ, dù dùng sai nhưng được nhiều người dùng thì phải chấp nhận”. Huống chi, về các từ ngữ yếu điểm và điểm yếu mà tác giả Duy Anh đã nêu lên như một thí dụ chủ chốt trong lập luận của mình thì cách đây hơn 4 năm, cũng tại mục Chuyện Đông chuyện Tây, chúng tôi đã viết rành mạch như sau:

“Có nhiều người, kể cả nhà văn, nhà báo và nhà giáo, đã dùng yếu điểm thay cho nhược điểm. Họ nghĩ rằng yếu ở đây chính là yếu trong mạnh được yếu thua, yếu thế, ốm yếu, v.v. mà không hề ngờ rằng đó lại là yếu trong quan yếu, chủ yếu, yếu lĩnh, yếu nhân, v.v.. Thực ra, yếu điểm là điểm quan trọng, còn nhược điểm thì mới là chỗ yếu. Nếu hiểu theo lối từ nguyên dân gian trên đây thì yếu nhân sẽ là người yếu. Nhưng thật ra đó là nhân vật quan trọng, thậm chí còn là VIP nữa”*.

Hiển nhiên là thông qua những dòng trên đây, chúng tôi đã không hề tán thành cách dùng yếu điểm thay cho nhược điểm, nghĩa là điểm yếu. Đó là nói về cái thí dụ chủ chốt mà Duy Anh đã nêu lên. Bây giờ, trở lại với ý kiến cụ thể của chúng tôi, mà ông đã dẫn lại đầy đủ trong câu hỏi ở trên, thì xin nhấn mạnh rằng chúng tôi đã và chỉ viết rành mạch theo ba ý như sau:

“1. Chúng tôi hoàn toàn tán thành cách viết của ông (ông Hồ Đắc Thắng – AC) nhưng

2. rất tiếc là quan điểm của chúng ta xem ra không chống chọi nổi với thói quen chung của đa số vì

3. trong ngôn ngữ thỉnh thoảng vẫn có những cái sai trở thành thông dụng rồi không bao giờ còn sửa lại được nữa”.

Một cách hiểu thật sự chính xác và chặt chẽ cả về ngữ nghĩa lẫn ngữ pháp sẽ cho thấy rằng: – ý 1 nói lên quan điểm chính thức của chúng tôi về cách viết chữ “dải” (cách viết theo từ nguyên, cũng là cách viết đúng) và chỉ riêng về chữ “dải” mà thôi; – ý 2 nói lên cái trở ngại cho việc thực hiện quan điểm đó (thói quen phi từ nguyên và phạm chính tả của đa số); – còn ý 3 thì nêu lên cái lý do của sự trở ngại trên đây (thói quen của đa số tạo thành áp lực để cho cái sai được chấp nhận). Nói cho rõ ràng hơn, ý 3 chỉ là một sự ghi nhận những trường hợp đã có xảy ra trong thực tế chứ không hề nói lên quan điểm của chúng tôi vì quan điểm này đã được nói đến trong ý 1 và cũng chỉ trong ý 1 mà thôi. Rõ ràng là chúng tôi không hề chủ trương rằng “một từ, dù dùng sai nhưng được nhiều người dùng thì phải chấp nhận”. Cách diễn đạt của chúng tôi hoàn toàn rành mạch như trên nên không thể nào hiểu nhầm câu cú mà tưởng chúng tôi đã chủ trương một cách vô nguyên tắc như thế được.

Nhưng trở lên chỉ mới là nói đi chứ nếu nói lại thì hẳn hoi là “trong ngôn ngữ thỉnh thoảng vẫn có những cái sai trở thành thông dụng rồi không bao giờ còn sửa lại được nữa”, đúng như chúng tôi đã khẳng định tại Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 266. Sau đây là một số dẫn chứng.

Trước hết, xin nhắc lại một số chữ viết sai đã trở thành thông dụng mà chúng tôi đã nêu lên tại Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 238 khi nhận xét về Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên. Đó là các chữ “cà-roòng”, “hôông”, ngheng” của phương ngữ Nam Bộ mà quyển từ điển này đã ghi thành “cà ròn”, “hôn”, “nghen”, có lẽ vì thấy nhiều người… cũng đã viết như thế chăng?

Trong chữ Hán cũng có nhiều trường hợp chữ viết sai đã trở thành thông dụng nên muốn hay không muốn thì cũng phải… chấp nhận, chẳng hạn chữ hùng trong anh hùng mà hình thức gốc là 雄 đã bị “nắn” lại thành 䧺. Hình thức sau cùng này đã được chấp nhận trong tự điển. Hoặc như chữ đố là ghen, mà hình thức gốc là 妬 (đây là một hình thanh tự mà nghĩa phù là nữ 女 còn thanh phù là thạch 石) đã bị viết sai thành 妒 nhưng chữ viết sai này chẳng những được chấp nhận mà lại còn thông dụng hơn cả cái chữ gốc kia nữa. Những thí dụ như thế không hiếm trong chữ Hán và cũng rất nhiều trong chữ Nôm. Trong tiếng Pháp cũng có hiện tượng tương tự, chẳng hạn “être en age” (ướt đẫm mồ hôi) bị viết thành “être en nage” hoặc “tomber dans le lacs”(mắc bẫy → hỏng bét) bị viết thành “tomber dans le lac”, như chúng tôi đã có nói đến tại Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 127.

Trở lên là một số thí dụ về những cái sai chính tả đã trở thành thông dụng và được chấp nhận. Nhưng được chấp nhận vì đã trở thành thông dụng còn có thể là những cái sai về mặt ngữ âm mà trên Kiến thức ngày nay, số 127 chúng tôi cũng có nêu lên hai thí dụ trong tiếng Pháp. Đó là “prendre panier pour corbeille” (nhìn gà hóa cuốc) bị nói sai thành “prendre Paris pour Corbeil” và con đường “Rue aux Oues” (phố Ngỗng – Oues là hình thức cổ của từ Oies) của Paris bị nói thành “Rue aux Ours” (phố Gấu). Về thí dụ trong tiếng Anh, xin giới thiệu danh từ bride-groom (chàng rể): đây là một cách nói sai trong đó groom (người giữ ngựa) là kết quả của sự nói trại danh từ guma > gume > gome, danh từ này có nghĩa là người đàn ông, như đã nói tại Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 113. Thêm một vài thí dụ nữa trong tiếng Anh: albatross (chim hải âu lớn) là kết quả của một cách phát âm, và cả cách hiểu sai nữa, từ hình thức gốc alcatras (mà nghĩa gốc là chim bồ nông) trong đó “c” của “alca(tras)” đã bị đồng hóa với “b” của albus (= trắng) trong tiếng La Tinh, mà giống cái là alba. Cuối cùng, xin nói rằng “good” trong “good bye” là một cách phát âm sai của danh từ “God”(= Chúa) trong God be with ye! → God be wi’ye → God bw’ye → God bwye, cuối cùng → Good bye do áp lực của good trong good morning, good night, v.v.. Về thí dụ trong tiếng Việt, xin nhắc lại trường hợp mà chúng tôi đã phân tích tại Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 150: đó là “đang cai” (“đương cai”), bị phát âm thành “đăng cai” do áp lực của “đăng ký ”, là một từ tổ có tần số sử dụng khá cao ở miền Bắc trước năm 1975, rồi cả ở miền Nam hiện nay. Ngoài những cái sai về chính tả và ngữ âm, còn có cả những cái sai về ngữ pháp… được chấp nhận. Chẳng hạn, trong tiếng Pháp, danh từ lierre (dây thường xuân) là kết quả một sự chắp dính (agglutination) của quán từ le bị ríu (élidé) thành l- với danh từ ierre. Nghĩa là xưa kia, khi người ta nói l’ ierre là đã có quán từ trong đó rồi nhưng về sau vì không ngờ đã có quán từ nên người ta mới thêm quán từ vào một lần nữa mà nói thành le lierre. Cũng vậy, loriot (chim vàng anh) vốn là l’ oriot nhưng ngày nay không ai nói un oriot mà phải nói un loriot. Còn nhiều thí dụ như thế nữa.

Và ngoài những cái sai về chính tả, về ngữ âm và về ngữ pháp, còn có cả những cái sai về ngữ nghĩa: lang bạt kỳ hồ là một thí dụ trong tiếng Việt mà chúng tôi đã phân tích tại Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 125. Thành ngữ này vốn có nghĩa là con chó sói giẫm lên cái yếm da ở cổ của nó (nên không thể bước tới được) nhưng ngày nay người Việt Nam lại dùng để nói lên cái ý là sống lang thang rày đây mai đó. Trở lên là một số thí dụ về “những cái sai trở thành thông dụng rồi không bao giờ còn sửa lại được nữa” mà chúng tôi đã nêu ra theo gợi ý của ông.

Trở lại với quan điểm của cá nhân mình, chúng tôi xin phép nhắc lại rằng trong suốt 5 năm phụ trách chuyên mục Chuyện Đông chuyện Tây, chúng tôi đã luôn luôn chủ trương duy trì hoặc phục hồi cái đúng trong tất cả mọi trường hợp còn có thể phục hồi hoặc duy trì được chứ chưa bao giờ chủ trương “thấy người khác dùng, ta cũng dùng, dù sai thì lâu ngày rồi cũng thành đúng” (Thế giới mới, số 270, tr. 65). Việc chúng tôi chỉ trích cách viết sai từ ngữ địa phương trong Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên (viết “cà-roòng”, “hôông”, “ngheng” thành “cà ròn”, “hôn”, “nghen”) là một trong những bằng chứng hiển nhiên của quan điểm nhất quán đó. Vì vậy, chúng tôi không cho rằng bài của tác giả Duy Anh trên Thế giới mới, số 270 lại ám chỉ câu trả lời của chúng tôi trên Kiến thức ngày nay, số 266. Nếu rủi ra, Duy Anh muốn ám chỉ ý kiến của chúng tôi thì rõ ràng là tác giả này đã hiểu sai dụng ý và ngôn từ của chúng tôi rồi đấy.

§ 456. Kiến thức ngày nay, số 272, ngày 20-2-1998

ĐỘC GIẢ: Nhân đọc câu trả lời của ông ở mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 266 (10-121997) cho ông Đào Công Tâm và ông Sĩ Nguyên liên quan đến tên cũ của một số con đường ở Sài Gòn, tôi xin hân hạnh gởi đến ông phần trích dẫn từ một tài liệu mà tôi may mắn có được, may ra có thể giúp giải tỏa phần nào sự “ngờ ngợ” do trí nhớ đối với thời gian xa xưa chăng. Đó là quyển “Sổ tên các đường sá trong Đô thành Sài Gòn” do Nha giám đốc cảnh sát đô thành Sài Gòn (chế độ cũ) đặt in tại ấn quán Nguyễn Văn Huấn, số 72/4 đường Nguyễn Đình Chiểu (nay là Trần Quốc Toản, Q.3, Thành phố Hồ Chí Minh) để phát cho nhân viên cảnh sát trực thuộc nhưng không rõ là in vào năm nào.

1. Bến Bạch Đằng, Q.1, dài 844m, bắt đầu từ đại lộ Cường Để và chấm dứt tại bến Chương Dương. Tên cũ: quai de l’ Argonne – quai le Myre de Vilers (tr. 2).

2. Đường Công Lý, Q.1-3, bắt đầu từ đườngHồng Thập Tự và chấm dứt tại rạch Avalanche. Tên cũ: Général de Gaulle (tr. 6).

3. Đường Công Lý nối dài, Q.1, bắt đầu từ bến Chương Dương và chấm dứt tại đường Hồng Thập Tự. Tên cũ: De Lattre de Tassigny (tr. 6).

4. Đại lộ (3 đường) Cường Để, Q.1, dài 712m, bắt đầu từ bến Bạch Đằng và chấm dứt tại đại lộ Thống Nhứt. Tên cũ: đại lộ Luro (tr. 6).

5. Đường Gia Long, Q.1-2, dài 1914m, bắt đầu từ đại lộ Cường Để và chấm dứt tại đường Lê Văn Duyệt. Tên cũ: Lagrandière (tr. 9).

6. Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Q.1, dài 1349m, bắt đầu từ đường Lê Thánh Tôn và chấm dứt tại rạch Avalanche. Tên cũ: Bác sĩ Angier (tr. 10).

7. Đại lộ Hồng Bàng, Q.5, dài 2564m, bắt đầu từ đại lộ Nguyễn Hoàng và chấm dứt tại bến Dương Công Trừng. Tên cũ: đại lộ Charles Thomson (tr. 11).

8. Đại lộ Khổng Tử, Q.5, dài 899m, bắt đầu từ bến Lê Quang Liêm và chấm dứt tại đường Lý Thành Nguyên. Tên cũ: Gaudot + Bonhoure (tr. 13).

9. Đường Lê Thánh Tôn, Q.1-2, dài 2062m, bắt đầu từ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và chấm dứt tại đường Phạm Hồng Thái. Tên cũ: Espagne – Lê Lợi (tr. 15).

10. Đường Nguyễn Du, Q.1-2, dài 2836m, bắt đầu từ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và chấm dứt tại đường Lê Văn Duyệt. Tên cũ: L. Mossard + Taberd (tr. 19).

11. Đường Nguyễn Trãi, Q.5, dài 5716m, bắt đầu từ đường Khải Định và chấm dứt tại bến Dương Công Trừng. Tên cũ: Quang Trung – Harteman (tr. 22).

12. Đường Phan Thanh Giản, Q.1-3, dài 3612m, bắt đầu từ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và chấm dứt tại đại lộ Lý Thái Tổ. Tên cũ: Legrand de la Liraye + Général Lizé (tr. 25).

13. Đại lộ Thành Thái, Q.5, dài 1100m, bắt đầu từ đường Khải Định và chấm dứt tại đại lộ Nguyễn Hoàng. Tên cũ: Marchand (tr. 30).

14. Đường Võ Tánh, Q.2, dài 1745m, bắt đầu từ đường Lê Văn Duyệt và chấm dứt tại đường Khải Định. Tên cũ: Frère Louis (tr. 36).

AN CHI: Chúng tôi xin nhiệt liệt hoan nghênh và chân thành cám ơn sự quan tâm và sự đóng góp của ông cho Chuyện Đông chuyện Tây. Xin đăng toàn bộ những điều mà ông đã trích dẫn để bạn đọc rộng đường tham khảo. Tuy nhiên chúng tôi cũng phải mạnh dạn nói ngay là rất tiếc rằng tài liệu đó lại có những chỗ thiếu chính xác như chúng tôi sẽ chỉ ra dưới đây.

Điểm sai sót quan trọng nhất là sách đó đã ghi rằng đường Công Lý nối dài thuộc Q.1, bắt đầu từ bến Chương Dương rồi chấm dứt tại đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) và có tên cũ là de Lattre de Tassigny. Sự ghi nhận này hoàn toàn ngược chiều với sự thật vì đoạn đường Công Lý (trước kia là Mac-Mahon còn nay là Nam Kỳ khởi nghĩa chạy từ Bến Chương Dương đến đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai)) là đoạn đường “cố cựu” đã hiện diện trên các bản đồ Sài Gòn thuộc loại xưa nhất, chẳng hạn Bản đồ Sài Gòn 1884 do Charles Lemyre vẽ, có in lại trong Gia Định phong cảnh vịnh do Trương Vĩnh Ký ghi chép và do nhà xuất bản Trẻ mới ấn hành năm 1997. Đã là “cố cựu” thì không thể nào lại là… “nối dài” được. Phần nối dài chỉ có thể là phần mới làm hoặc mới thêm vào về sau để… kéo dài con đường cũ ra mà Công Lý nối dài chính là đoạn chạy từ cầu Công Lý cho đến Tân Sơn Nhứt, đã có lúc được gọi là đường Ngô Đình Khôi, rồi đường Cách mạng 1-11, còn hiện nay là đường Nguyễn Văn Trỗi thuộc quận Phú Nhuận, như chính ông cũng đã nói đến trong thư. Quyển sách đó đã lấy đầu này của một con đường làm đầu kia của nó thì thật là nguy hiểm cho hoạt động của ngành cảnh sát. Người ta hô cướp ở quận Phú Nhuận mà cảnh sát lại chạy ra bến Chương Dương để bắt thì quả là trớ trêu!

Sách đó ghi nhận rằng trên đường Công Lý có một đoạn mà tên cũ là de Lattre de Tassigny. Điều ghi chép này đã xác nhận ý kiến của chúng tôi trên Kiến thức ngày nay, số 266 nói rằng từ năm 1952 thì một đoạn đường Mac-Mahon (tên cũ của Công Lý) đã được cắt ra để làm đường Maréchal de Lattre de Tassigny. Tuy nhiên, về giới hạn của con đường này thì ý kiến lại bất nhất. Sách mà ông trích dẫn nói rằng đó là đoạn chạy từ đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đến bến Chương Dương. Nhưng Nguyễn Đình Tư – Lê Trung Hoa thì lại viết: “Ngày 15.1.1952, người Pháp cắt đoạn từ đường Lý Tự Trọng (trước đây là Gia Long, xưa nữa là Lagrandière, mà cũng có tài liệu ghi là La Grandière – AC) ra đến bến Chương Dương thành đường riêng và đặt tên là đường Maréchal de Lattre de Tassigny”*. Thế là với hai tác giả này thì đường Maréchal de Lattre de Tassigny đã lùi từ Hồng Thập Tự đến Lý Tự Trọng (về phía bến Chương Dương). Còn cá nhân chúng tôi thì lại nhớ rằng con đường mang tên viên tướng được truy phong thống chế đó có chạy qua bên hông phía Đông của trường Chasseloup-Laubat (là nơi mà chúng tôi đã theo học cho đến 5-1955) và có cắt ngang đường Richaud (nay là Nguyễn Đình Chiểu, dưới chế độ cũ là Phan Đình Phùng). Chúng tôi nhớ như thế là vì lúc bấy giờ mỗi tuần chúng tôi đều có giờ tập thể dục tại Stand Richaud (nay là một phần khuôn viên Câu lạc bộ Phan Đình Phùng) và từ năm 1952 khi đi từ trường sang bãi tập hoặc ngược lại thì đều thấy bảng tên đường mang tên viên thống chế de Lattre. Nghĩa là theo trí nhớ của chúng tôi, thì đi từ bến Chương Dương ngược về phía Tân Sơn Nhất, con đường Maréchal de Lattre de Tassigny không chỉ cắt ngang các con đường Lý Tự Trọng và Nguyễn Thị Minh Khai hiện nay, mà còn cắt ngang cả các con đường Võ Văn Tần (thời Pháp là Testard) và Nguyễn Đình Chiểu hiện nay nữa. Đồng thời, theo chúng tôi nhớ thì tên của Mac-Mahon cũng không bị bỏ hẳn vì cho đến giờ chót của người Pháp tại Sài Gòn thì con đường MacMahon xưa kia, sau khi bị cắt hai lần (một lần cho de Gaulle, rồi lại một lần nữa cho de Lattre), vẫn tiếp tục tồn tại ở đoạn chót của nó là đoạn từ boulevard Bonard (nay là Lê Lợi) ra đến quai de Belgique (nay là bến Chương Dương). Chúng tôi nhớ như thế là vì bấy giờ chúng tôi vẫn thường đến nhà sách Vĩnh Bảo (ngay tại vị trí của Công ty vàng bạc đá quý Thành phố hiện nay) nằm tại số 66 ter Bd Bonard, ngay góc hai con đường Bonard và Mac-Mahon. Chúng tôi rất muốn tin rằng mình đã nhớ sai nhưng muốn tin chắc như thế thì chỉ còn trông chờ vào sự đối chiếu trong công báo chứ bản đồ mà sai hoặc thiếu cũng là chuyện thường như tác giả Đỗ Văn Anh đã có nhận xét trong bài “Tên đường Thành phố Hồ Chí Minh xưa và nay” (Khoa học & Phát triển, số 39, tr. 35 – 48) còn sách, báo sai cũng chẳng phải là chuyện không thường thấy.

Trở lên là sai sót quan trọng nhất của sách mà ông trích dẫn liên quan đến tên đường de Lattre de Tassigny mà chúng tôi đã có nói đến trên Kiến thức ngày nay, số 266. Liên quan đến tên đường Cây Mai mà chúng tôi cũng đã nói đến trên số này, sách đó cũng sai sót khi viết rằng đường Nguyễn Trãi, đoạn chạy từ Khải Định (trước đó là Nancy, rồi về sau là đại lộ Cộng Hòa còn hiện nay là Nguyễn Văn Cừ) cho đến bến Dương Công Trừng (trước kia là quai de Ceinture còn nay là đường Nguyễn Thị Nhỏ) có tên cũ là “Quang Trung -Harteman” (Trở xuống, xin ghi theo Đỗ Văn Anh, bđd, là “Hartman”). Thực ra, Quang Trung là tên sau này của đoạn mà trước kia là Maréchal Joffre còn Hartman thì lại là tên trước kia của đoạn mà về sau lại được gọi trở lại thành đường Cây Mai. Như chúng tôi đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 266, đoạn thứ hai của đường Nguyễn Trãi mà Thượng Hồng nói đến trên Thế giới mới, số 237, tức đoạn chạy từ Nguyễn Văn Cừ đến Nguyễn Thị Nhỏ hiện nay, trước đây có tên là đường Cây Mai như vẫn còn được nhắc đến trong Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs của Trương Vĩnh Ký. Về sau Pháp đã cắt đoạn từ Nguyễn Văn Cừ đến Ngô Quyền, Quận 5, (thời Pháp là đường Général Beylié) làm đường Maréchal Joffre (sau đổi thành Quang Trung) và đoạn từ Ngô Quyền đến Nguyễn Thị Nhỏ làm đường Hartman. Nhưng vì tập quán dân gian lấn át cho nên cái tên Hartman không tồn tại bao lâu thì đã bị thay thế bằng cái tên hành chính chính thức là Rue de Cây Mai, vốn là tên dân gian cũ của con đường này, như đã được ghi nhận trên Plan de Saigon – Cholon của nhà in J. Aspar, ấn hành vào nửa đầu của thập kỷ 1950 tại Sài Gòn. Ngay cả đoạn Maréchal Joffre, về sau là Quang Trung, vẫn được phần đông dân chúng gọi là đường Cây Mai, trừ khi họ bị ràng buộc về thủ tục hành chính. Vậy sách mà ông trích dẫn đã thiếu sót vì không nhắc đến tên Cây Mai khi nói về tên cũ của đường Nguyễn Trãi.

Về Sài Gòn phố cũ đường xưa, có lẽ còn nhiều chuyện để nói nhưng kỳ này chúng tôi xin tạm dừng tại đây.

§ 457. Kiến thức ngày nay, số 273, ngày 1-3-1998

ĐỘC GIẢ: Nhân đọc bài “Góp chút tư liệu về hai từ vang và bóng” của ông Mai Văn Tạo trên Kiến thức ngày nay, số 257, tôi xin gửi đến ông vài suy nghĩ như sau. Theo tư liệu mà tác giả này đưa ra thì đúng là Nguyễn Tuân đã sử dụng hai từ “vang” và “bóng” như hai danh từ. Và đúng như tác giả này đã viết, “người sau kế thừa di sản của người trước và sáng tạo cái mới của thời đại mình”. Vì vậy họ mới tạo ra các động từ ghép “vang bóng”, tính từ ghép “vang bóng”, danh từ ghép “vang bóng”. Điều này không có gì lạ vì trong tiếng Anh chẳng hạn, cũng có rất nhiều từ làm chức năng của các từ loại khác nhau. Mong ông cho biết ý kiến.

AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 258, chúng tôi đã trình bày rất cặn kẽ quan điểm của mình về việc sử dụng hai từ “vang” và “bóng” nên xin được phép không trở lại vấn đề đó nữa. Còn trong thư lần này, ông đã có ý so sánh tiếng Việt với tiếng Anh, nghĩa là gợi lên một vấn đề lý thú khác, nên chúng tôi xin trao đổi với ông như sau.

1. Ông nói rằng việc sử dụng hai từ “vang” và “bóng” như danh từ, động từ hoặc tính từ “không có gì lạ vì trong tiếng Anh chẳng hạn, cũng có rất nhiều từ làm chức năng của các từ loại khác nhau”. Nhưng tiếng Anh là tiếng Anh còn tiếng Việt là tiếng Việt. Ngôn ngữ nào cũng có cấu trúc nội tại riêng của nó nên không thể so sánh theo kiểu “đồng quy” như thế được, nghĩa là không thể lấy tiếng Anh làm chuẩn để quy chiếu tiếng Việt về đó. Cách đây nửa thế kỷ, nhiều người vẫn còn làm như thế nên đã lấy cái khung văn phạm của tiếng Pháp rồi điền vào đó những thí dụ bằng tiếng Việt và cho rằng hễ nói hoặc viết thì bao giờ cũng phải đủ “Sujet – Verbe – Complément” thì mới ra cú, ra câu. Và cũng do xu hướng đó mà người ta đã chỉ trích một cách hoàn toàn vô ý thức – vì phản ngữ pháp – việc sử dụng ba tiếng “thì”, “là”, “mà”, nhất là tiếng “thì” vốn là những cái “đinh ốc” hoàn toàn cần thiết phải dùng để “siết chặt” cái cấu trúc của cú, của câu trong tiếng Việt (chỉ đơn giản vì tiếng Pháp làm gì có “thì”, “là”, “mà”!). Người ta cứ ngỡ rằng nền ngôn ngữ học đại cương lúc đó – với ngữ liệu chủ yếu là của các ngôn ngữ Ấn Âu – là khuôn vàng thước ngọc để noi theo mà nghiên cứu tất cả các ngôn ngữ còn lại trên hành tinh. Bây giờ người ta đã bắt đầu thấy rằng như thế là sai lầm và phi lý. Trong giới ngữ học của Việt Nam thì nhà ngữ học Cao Xuân Hạo là người đầu tiên đã nhiều lần lên tiếng phê phán “cách nhìn Âu châu đối với tiếng Việt”. Cao Xuân Hạo viết:

“Tôi vẫn nghĩ rằng cái chung chỉ có thể rút ra được sau khi đã biết rất chắc tất cả những cái riêng khác nhau chứ không phải trước khi đó. Nếu không, những “phổ niệm” quy ra được chẳng qua là những nét đặc thù của tiếng Âu châu đã được đem gán cho các ngôn ngữ khác sau khi gò nó lại cho vừa với cái khuôn Âu châu, như hiện nay người ta đang làm một cách vô tư lự”.*

Chính vì quan điểm có tính chất đột phá của ông mà khi giới thiệu bài “Vấn đề âm vị trong tiếng Việt” của Cao Xuân Hạo, in lần đầu tiên bằng tiếng Anh (The Problem of the Phoneme in Vietnamese) trong Vietnamese Studies số 40 (chuyên đề: Linguistic Essays), xuất bản tại Hà Nội, Jean-Pierre Chambon đã kết luận tại tr. 210 của Revue des langues romanes, t.LXXXIII, n° 1978, fasc. 1, như sau:

“Quả nhiên, có lẽ chính cái hướng do Cao Xuân Hạo chỉ ra – chứ không phải cái hướng của ngữ pháp tạo sinh chuyển hóa (mà cha đẻ là ngữ học gia nổi tiếng người Mỹ: Noam Chomsky – AC) – mới đúng là cái hướng mà ta phải theo để tìm đến cuộc cách mạng Copernic thật sự của nền ngữ học hiện đại”.

Chambon cũng nói rõ rằng Cao Xuân Hạo đã đặt nền ngữ học hiện đại vào tình thế phải “từ bỏ những tham vọng của nó về tính phổ quát” (abdiquer ses prétentions à l’ universalité”). Chúng tôi chỉ tiếc có một điều sau đây: Chambon đã không nói thẳng ra rằng cái khuôn Âu châu kia, mà ông chỉ mới gọi theo ẩn dụ là lit de Procuste*, suy cho đến cùng, chẳng qua cũng chỉ là một thứ chauvinisme* trong ngữ học mà thôi. Vậy tưởng đã đến lúc – vì cũng đã quá muộn – phải “déchauviniser” nền ngữ học đại cương hiện đại theo hướng mà Cao Xuân Hạo đã nêu.

Tóm lại, việc nghiên cứu về ngữ pháp của tiếng Việt không thể dựa dẫm vào cái khung ngữ pháp sẵn có của tiếng Anh hoặc của bất cứ một ngôn ngữ nào khác. Đó phải và chỉ có thể là một nền ngữ pháp học về tiếng Việt do tiếng Việt và vì tiếng Việt mà thôi.

2. Huống chi hiện tượng “một từ có thể thuộc nhiều từ loại khác nhau” trong tiếng Anh lại là một quá trình đồng quy – mà cũng chỉ là đồng quy về hiện tượng, về hình thức – rất khác với hiện tượng đó trong tiếng Việt, như sẽ chứng minh dưới đây.

a. Chẳng hạn, tiếng Anh hiện đại vừa có động từ (to) love, vừa có danh từ love. Không nắm vững lịch sử và từ nguyên của từ, nhiều người cứ ngỡ rằng đây là trường hợp động từ được dùng làm danh từ (hoặc ngược lại). Nhưng sự thực lại hoàn toàn không phải như thế vì hình thái cổ của danh từ love là lufu còn của động từ love thì lại là lufian, trong đó hậu tố -ian chứng tỏ rằng lufian phái sinh từ danh từ lufu mà thân từ là luf-. Vậy love không phải là động từ dùng làm danh từ (hoặc ngược lại) vì rõ ràng lufian > (to) love vốn là một động từ phái sinh từ danh từ lufu > love. Và người ta có hàng loạt thí dụ như thế:

– mearcian > merken > marken > (to) mark là một động từ phái sinh từ danh từ mearc > merke > marke > mark (dấu, dấu vết).

– meolcian > milcian > (to) milk là một động từ phái sinh từ danh từ meolc > milc > milk (sữa)

– naeglian > (to) nail là một động từ phái sinh từ danh từ naegel > naegl > nail (móng, vuốt); v.v..

b. Có những trường hợp ngược lại: ngay từ đầu, danh từ đã bắt nguồn ở động từ, chẳng hạn:

-danh từ flap (nắp túi, vành mũ, v.v.) bắt nguồn ở động từ (to) ap (vỗ đen đét, đập phành phạch, v.v.) mà hình thái cổ là appen;

-danh từ lug (sự kéo lê) bắt nguồn ở động từ (to) lug mà hình thái trung đại là luggen, hình thái này lại bắt nguồn ở tiếng Thụy Điển lugga; v.v..

c. Lại có những trường hợp mà danh từ và động từ hoàn toàn đồng âm và đồng dạng chính tả nhưng chẳng có quan hệ trực tiếp gì với nhau ngay trong nội bộ tiếng Anh vì danh từ của tiếng Anh là mượn ở một danh từ tiếng Pháp còn động từ tuy cũng bắt nguồn từ tiếng Pháp nhưng lại mượn từ một động từ. Thí dụ:

– danh từ force (sức, lực) mượn từ danh từ force của tiếng Pháp còn động từ (to) force (ép buộc…) thì lại mượn ở động từ forcer của tiếng Pháp;

– danh từ limit (giới hạn) là mượn ở danh từ tiếng Pháp limite còn động từ (to) limit thì lại mượn ở động từ limiter của tiếng Pháp;

– danh từ dance (sự khiêu vũ) là mượn ở danh từ danse của tiếng Pháp nhưng động từ (to) dance thì lại là mượn ở động từ danser; v.v..

d. Lại còn có trường hợp mà danh từ và động từ trở thành hoàn toàn đồng âm với nhau trong tiếng Anh hiện đại là do tiền tố đã rụng đi như I. V. Arnold đã nhận xét trong The English word (Moskva, 1986, tr. 155).

Trên đây là bốn loại nguyên nhân rất khác nhau đã dẫn đến hiện tượng đồng âm và đồng dạng chính tả trong tiếng Anh hiện đại giữa nhiều cặp danh từ và động từ vốn có cấu tạo và/hoặc nguồn gốc không giống nhau trong lịch sử. Nhưng chính hiện tượng đồng âm và đồng dạng chính tả này của những cặp danh từ và động từ đó lại là tiền đề và tiền lệ cho việc tạo từ mới bằng cách thay đổi từ loại của từ (conversion, theo cách gọi của Arnold) trong tiếng Anh hiện đại. Với biện pháp conversion, danh từ có thể trở thành động từ (như các cặp: the tool – to tool; the trade – to trade; the check – to check; the course – to course; v.v.) hoặc ngược lại (như các cặp: to drink – the drink; to find – the find; to trend – the trend; to try – the try; v.v.). Rồi một từ có thể chuyển loại mà gia nhập nhiều từ loại khác nhau (Xem chẳng hạn, các thí dụ ở tr. 154 trong sđd của Arnold). Hiện tượng này trong tiếng Anh bắt nguồn ở những nguyên nhân tuyệt đối không có trong tiếng Việt nên hoàn toàn xa lạ đối với nó. Chính vì vậy mà không thể nói rằng “điều này không có gì lạ vì trong tiếng Anh cũng có rất nhiều từ làm chức năng của các từ loại khác nhau”, như ông đã khẳng định trong lời góp ý của mình.

Những dẫn chứng trên đây về tiếng Anh cho thấy rõ ràng rằng tiếng Anh là tiếng Anh còn tiếng Việt là tiếng Việt. Nó cũng đồng thời cho thấy rằng việc phân biệt hiện tượng với bản chất là một yêu cầu luôn luôn cứng rắn trong các thao tác phân tích của nhà nghiên cứu. Chính vì không phân biệt hiện tượng với bản chất mà trước đây trong khi nói về văn phạm của tiếng Việt, có người đã cho rằng các loại từ (cái, cây, con, cục, v.v.) – đích thực là những danh từ chính danh – là quán từ (article) cũng giống như le, la, les của tiếng Pháp hoặc the của tiếng Anh.

Ngày nay, nền Việt ngữ học của Việt Nam tất nhiên đã tiến rất xa so với trước nhưng vẫn rất tiếc rằng cũng có nhiều nhà Việt ngữ học người Việt Nam lại tự “chauviniser” để hành hạ tiếng Việt trên chiếc giường của Procuste.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3