Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2: Câu hỏi 427 - 441

§ 427. Kiến thức ngày nay, số 254, ngày 10-8-1997

ĐỘC GIẢ: “Triệu tổ” có phải là vị “tổ muôn đời”? Tại sao không dịch hẳn thành “tổ triệu đời”?

AN CHI: Quả có người đã dịch “triệu tổ” thành “tổ muôn đời”. Chẳng hạn, trong bài “Thăm vùng Đất Tổ Hùng Vương” của Thái Nhân Hòa, in trong quyển Văn hóa Văn Lang của Hội khoa học lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh do nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, ấn hành năm 1996, có hai chỗ như sau:

-“Nam Việt triệu Tổ, Tổ muôn đời của nước Việt Nam” (Sđd, tr. 143).

-“Triệu Tổ Nam bang, Tổ muôn đời của nước Nam”(Sđd, tr. 145).

Nhưng chữ triệu 肇 trong triệu tổ lại có nghĩa là khai sáng, sáng lập, hoàn toàn khác với số từ triệu (= 1.000 ngàn) mà Hán tự là 兆. Vậy triệu tổ chỉ có nghĩa là vị tổ khai sáng, và đồng nghĩa với thủy tổ chứ nếu ở đây triệu lại là số từ thì có lẽ cũng nên dịch thành “tổ triệu đời”, như ông đã gợi ý, để cho được lâu dài hơn, và nhất là cho sát hơn. Vậy để cho thực sự sát và đúng, thì phải dịch triệu tổ là vị tổ khai sáng.

Chúng tôi cũng xin nhân tiện nhận xét rằng trong hai cấu trúc mà chúng tôi đã dẫn từ bài của tác giả Thái Nhân Hòa, thì cấu trúc “Triệu tổ Nam bang” là một cấu trúc bất thường vì nó hoàn toàn không đúng với ngữ pháp của tiếng Hán. Muốn cho đúng thì phải đổi thành “Nam bang triệu tổ”, giống như cấu trúc “Nam Việt triệu tổ”, cũng trong cùng bài đã dẫn của chính tác giả đó. Vậy không biết ông Thái Nhân Hòa đã chép sai hay bốn chữ hữu quan tại khu Đền Hùng thực tế là như thế?

§ 428. Kiến thức ngày nay, số 255, ngày 20-8-1997

ĐỘC GIẢ: Hai tiếng “ông nghè” dùng để chỉ các vị tiến sĩ ngày xưa đến thời Nguyễn mới có hay đã có từ thời Lê? Xin cho biết nguồn gốc của chữ “nghè”: có phải đây là tiếng dùng để chỉ cái mái hiên ở trong Hoàng cung, nơi các ông tiến sĩ ngồi chờ để chầu vua không (theo cách giải thích của Chu Thiên Hoàng Minh Giám)?

AN CHI: Hai tiếng “ông nghè” dùng để chỉ các vị tiến sĩ đã có từ thời Lê nên mới được A. de Rhodes thâu nhận (và ghi là “oũ nghè”) vào Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh in tại Roma năm 1651.

Ngoài nghĩa mà Chu Thiên Hoàng Minh Giám đã nêu, Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức có cho một lời giảng hơi khác như sau: “Nghè. Điện các nhà vua – Tiếng gọi các quan làm việc trong điện các nhà vua, thường là các ông đỗ tiến-sĩ”. Cứ theo lời giảng này thì khía cạnh chính được nêu bật trong khái niệm “ông nghè” lại là “quan làm việc trong điện các nhà vua” chứ không phải là “tiến sĩ”. Vậy, ngoài cái nghĩa “tiến sĩ” ra, từ tổ cố định ông nghè còn có nghĩa là quan nữa, mà theo chúng tôi, cũng không nhất thiết là “quan làm việc trong điện các nhà vua”. Chứng thực là mấy câu ca dao sau đây:

Em là con gái đồng trinh,

Em đi bán rượu qua dinh ông nghè

Ông nghè sai lính ra ve,

Trăm lạy ông nghè tôi đã có con.

Có con thì mặc có con,

Thắt lưng cho giòn đi lấy chồng quan.

“Ông nghè” ở đây chỉ là ông quan chứ đâu có phải là “quan làm việc trong điện các nhà vua”, cũng chẳng phải là ông tiến sĩ, mà cũng chẳng nhất thiết là ông quan có học vị tiến sĩ.

Vậy đâu là xuất xứ của từ nghè trong ông nghè? Đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 衙 mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là nha, còn âm xưa chính là… nghè. Về mối tương ứng âm vị ng ~ nh, người ta có không ít ví dụ, chẳng hạn: – ngà (voi) ~ nha 牙; – ngan (vịt Xiêm) ~ nhạn 雁; – ngẫm (nghĩ) ~ nhẫm 恁 (nghĩ tới, nhớ tới); – (béo) ngậy ~ nhị 膩 (mỡ màng); v.v.. Về mối quan hệ e ~a, số thí dụ lại càng nhiều hơn, chẳng hạn: – che (lấp) ~ già 遮 (=che); – (rượu) chè ~trà 茶; – hé (mở) ~ há 罅 (=nứt, hở); – (mùa) hè ~ hạ 夏; – hè (nhà)~ hạ 廈(=chái, hè); – (hội) hè ~ hạ 賀(= chúc mừng); v.v.. Về mối quan hệ giữa thanh điệu 2 (huyền) với thanh điệu 1 (ngang), thí dụ cũng không ít: – (đổi) dời ~ di 移(=dời); – diều (hâu) ~ diêu, dao 鷂(= chim cắt); – (mưa) dầm ~ dâm (vũ)淫; – (vang) rền ~ diên 延(=kéo dài); v.v..

Mối quan hệ về mặt âm vị giữa nghè và nha thế là không có gì còn phải nghi ngờ và nha có nghĩa là công đường, là nơi làm việc của quan lại. Ngoài ra trong Đường thư, nó còn có nghĩa là chỗ ở của vua nữa*. Nghĩa này hoàn toàn trùng hợp với nghĩa đã cho trong Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức. Ngoài ra, chữ/từ 衙 còn có một biến thể văn tự, ngữ âm và ngữ nghĩa là nhã 厊 mà âm xưa cũng là nghè và có nghĩa là nhà khách nơi sang trọng, sảnh đường (nơi làm việc của quan lại), nhà trọ cho khách qua đường, và cũng còn có nghĩa là cái hiên nhà nữa*. Cái nghĩa sau cùng này rõ ràng cũng có phần căn bản trùng hợp với nghĩa mà Chu Thiên Hoàng Minh Giám đã nêu (cái mái hiên trong hoàng cung).

Từ trên đây suy ra, danh từ nghè ban đầu được dùng để chỉ công đường (nơi quan lại làm việc) hoặc cung vua (nơi vua ở và ngự triều) rồi về sau mới có nghĩa phái sinh bằng hoán dụ để chỉ các quan làm việc nơi công đường hoặc cung vua. Ngày nay, nghè đã trở thành một từ cổ, nên người ta không còn biết rõ nghĩa và công dụng của nó nữa. Vì vậy mà về nghĩa gốc của nó, có người giảng rằng đó là cái mái hiên trong cung vua, có người lại nói rằng đó chính là cung điện của nhà vua, còn về nghĩa phái sinh của nó thì có người giảng rằng đó là ông tiến sĩ nhưng có người lại giảng rằng đó là ông quan làm việc trong cung điện của nhà vua. Xét kỹ ra, như trên đã nói, thì nghĩa nào cũng có cả. Ngoài ra, trong tiếng Việt, nghè còn có nghĩa là cái miếu thờ thần nữa nhưng vì nghĩa này không liên quan đến vấn đề đang xét nên trên đây chúng tôi mới không nêu lên.

Trở lên chúng tôi đã phân tích nghĩa và nguồn gốc của từ nghè. Cuối cùng xin nói thêm rằng cách dùng hai tiếng “ông nghè” để chỉ các vị tiến sĩ hoặc các vị quan thời phong kiến tuy đã có từ thời Lê (1428 – 1788) chứ không phải đến thời Nguyễn (1802 – 1945) mới có nhưng bản thân danh từ nghè thì lại du nhập vào tiếng Việt cách đây trước sau đến khoảng 2.000 năm vì đó là âm Hán Việt của chữ 衙 từ đời Hán hoặc trước Hán còn nha là âm chỉ mới xuất hiện cách đây khoảng 1000 năm mà thôi. Những cách phát âm trên đây cùng với thời điểm xuất hiện của chúng là điều đã được ngữ âm học lịch sử khẳng định.

§ 429. Kiến thức ngày nay, số 256, ngày 1-9-1997

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 242, ông có trả lời rằng câu “Hổ phụ sanh hổ tử” mới là câu đúng còn câu “Hảo phụ sanh hảo tử” chỉ là câu “cải biên” nhưng ông không chỉ ra được câu mà ông cho là đúng xuất xứ từ sách nào của thời nào. Hơn nữa, chữ “phụ” của câu “Hảo phụ sanh hảo tử” là chữ “phụ” 婦, có nghĩa là đàn bà chứ không phải chữ “phụ” 父 là cha. Vậy theo tôi, câu “Hảo phụ sanh hảo tử” 好婦生好子 (Người đàn bà tốt sanh con tốt) mới là câu đúng chứ nói “Hổ phụ sanh hổ tử” thì chẳng có lẽ đối với loài vật mà cũng dùng hai tiếng “phụ tử” hay sao?

AN CHI: Đúng là trên Kiến thức ngày nay, số 242, chúng tôi đã có trả lời cho ông về hai câu “Hổ phụ sanh hổ tử” và “Hảo phụ sanh hảo tử”. Lần này xin trả lời tiếp cho ông như sau:

1. Câu “Hổ phụ sanh hổ tử” là một câu rất thông dụng, hầu như ai ai cũng biết thì liệu có nhất thiết phải dẫn đến “kinh sách” hay không? Tuy nhiên, vì ông đã gợi ý, chúng tôi cũng xin nêu một vài nguồn xuất xứ như sau. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của ghi: “虎父 生 虎子 Hổ phụ sanh hổ tử. Cha hùm sanh con hùm: dòng nào sinh giống ấy”. Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán của Viện ngôn ngữ học (Nxb. Văn hóa, 1994), ghi: “Hổ phụ sinh hổ tử. Cha là người hùng, tài giỏi, thì sẽ sinh con là người hùng, ví như hổ sinh ra hổ”.

2. Trong tiếng Hán, các chữ phụ 父, mẫu 母 và tử 子 đều có dùng để chỉ động vật: phụ là con đực, con trống, con cha; mẫu là con cái, con mái, con mẹ còn tử là con… con. Xin xem, chẳng hạn trong Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993), nghĩa 4 của chữ phụ, nghĩa 5 của chữ mẫu và nghĩa 17 của chữ tử.

3. Chúng tôi chưa thấy trong sách câu “Hảo phụ 婦 sanh hảo tử” (Đàn bà tốt sanh con tốt) mà chỉ thấy câu “Hảo mẫu sinh hảo tử, hảo đạo xuất hảo mễ” nghĩa là “Mẹ hiền sinh con tốt, lúa tốt cho gạo ngon”*. Chữ phụ (= đàn bà) trong câu của ông chỉ có ý nghĩa sinh vật học thuần tuý còn chữ mẫu (= mẹ), đối với chữ tử (= con), trong câu của Tục ngữ Hoa-Việt mới thực sự nhấn mạnh đến khía cạnh huyết tộc và truyền thống gia đình.

4. Theo cách đặt vấn đề trong câu hỏi lần trước của ông (Kiến thức ngày nay, số 242) thì danh từ phụ trong cả hai câu “Hổ phụ sanh hổ tử” và “Hảo phụ sanh hảo tử” đều phải được hiểu là “cha”. Còn lần này, ông lại nêu lên chữ phụ có nghĩa là “đàn bà”, nghĩa là lần này đã có một sự đánh tráo khái niệm (“chơi” như vậy có fair play không?). Nhưng cho dù có chấp nhận phụ ở đây là “đàn bà” thì, như đã nói, chúng tôi cũng chưa thấy câu “Hảo phụ sanh hảo tử” trong sách nào cả.

5. Cuối cùng, ông có thể cho rằng câu “Hổ phụ sanh hổ tử” chỉ thấy trong sách của Việt Nam (mà chúng tôi đã nêu) chứ không phải trong sách Tàu, cho nên những dẫn chứng mà chúng tôi đã nêu cũng không có giá trị. Thưa rằng không thể lập luận như thế được vì ngoài nền Hán văn của chính người Hán bên Trung Hoa, thì còn có cả một nền Hán văn riêng biệt của người Việt tại nước Việt Nam nữa. Nền Hán văn văn ngôn Việt Nam này là một thực thể lịch sử không thể nào phủ nhận được và, đúng như lời của GS. Lê Trí Viễn, “trong tay sử dụng của người Việt Nam, nó không thể không tăng cường từ vựng, linh hoạt cú pháp, sáng tạo thêm những cách diễn đạt mới, trở thành một thứ Hán văn Việt Nam rất gần gũi với tiếng Việt”*. Vậy sự tồn tại của câu “Hổ phụ sanh hổ tử”, với tính cách là một cấu trúc cố định, là một hiện tượng hiển nhiên trong tiếng Việt còn câu “Hảo phụ (= đàn bà) sanh hảo tử” của ông thì chưa hề tồn tại với tính cách là một đơn vị cố định trong tiếng Việt lẫn tiếng Hán, ít nhất cũng là trước khi ông đưa ra những dẫn chứng cụ thể và cần thiết.

§ 430. Kiến thức ngày nay, số 257, ngày 10-9-1997

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết câu “Da trắng vỗ bì bạch” cho đến nay đã có câu đối lại nào được xem là hoàn mỹ hay chưa.

AN CHI: Theo chúng tôi thì chưa nhưng theo người khác thì có. Chẳng hạn, trong bài “Cấu trúc ngôn ngữ và cảm giác thẩm mỹ”, đã đăng trên tạp chí Sông Hương và in lại trong quyển Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học (Nxb. Trẻ, 1995), Phan Ngọc đã viết: “Vế ra Da trắng vỗ bì bạch đã thách thức chúng ta trên một trăm năm mươi năm và nhiều vế đối đã được đưa ra như: Trời xanh màu thiên thanh; Nhà vàng ngồi đường hoàng, nhưng đều chưa ổn. Bì bạch là láy âm, nhưng thiên thanh, đường hoàng đều không phải là láy âm. Chỉ vào khoảng những năm 50, anh bạn của tôi là Nguyễn Ngọc Thâm mới ngẫu nhiên nghĩ ra được câu đối chỉnh là Rừng sâu mưa lâm thâm trong đó lâm thâm là Hán Việt có nghĩa là rừng sâu lại đồng thời là từ láy âm trong tiếng Việt. Chỉ đến lúc đó vế ra mới hết hấp dẫn (Chúng tôi nhấn mạnh – AC), cũng như bài toán khó hết hấp dẫn khi có người giải được nó.” (Sđd, tr. 56).

Gần cuối bài, Phan Ngọc vẫn còn cao hứng nhắc lại như sau: “Anh Thâm kể lại cho tôi anh có người anh là Lâm. Một hôm trời mưa, cha anh gọi Lâm, Thâm vào nhà. Sẵn máu chơi chữ, anh tìm được vế đối thực đắt (Chúng tôi nhấn mạnh – AC) cho cái vế ra xưa nay vẫn treo” (Sđd, tr. 69).

Nhưng thật rất may mắn cho chúng ta và cho cả câu ra “Da trắng vỗ bì bạch” là nó vẫn còn hấp dẫn chứ không phải hết như lời của Phan Ngọc. Bằng chứng sinh động là câu đối lại của ông TLV (Đồng Nai) mà chúng tôi đã giới thiệu trên Kiến thức ngày nay, số 255 và nhiều câu của nhiều bạn đọc khác mà vì khuôn khổ của chuyên mục nên không phải lúc nào chúng tôi cũng có thể giới thiệu được: nhiều người vẫn còn quan tâm đến nó đấy!

Ở đây Phan Ngọc có lẽ vì quá say mê với câu đối lại của bạn mình mà đã quên mất rằng câu này chẳng có ăn nhập gì với câu ra, cả về nghĩa đen của từng yếu tố lẫn về hàm nghĩa của toàn câu. Ai cũng biết rằng trẻ con thời xưa ở bên Tàu cũng như bên ta, trước và/hoặc trong khi học sách vở của thánh hiền thì còn học cả làm câu đối mà tiếng Hán gọi là đối liên (đôi câu đối) và muốn làm được đối liên thì trước nhất phải làm được đối tự (đối một vài chữ). Thầy ra “kim chung” thì phải tập đối lại bằng “ngọc khánh”, không “ngọc khánh” thì cũng phải “thiết đỉnh”, không “thiết đỉnh” thì cũng phải “đồng cổ”, không “đồng cổ” thì cũng phải “trúc địch”, v.v.. Thầy ra “kim chung” mà đối lại bằng những “địch vũ” (lông đuôi chim trĩ), “điêu vĩ” (đuôi một loại chồn có lông quý), v.v. thì đã là kém. Đến như đối lại bằng những “kê cốt” (xương gà), “mã vĩ” (đuôi ngựa), v.v. thì chẳng còn ra cái thể thống gì nữa. “Da trắng” không đối bằng “má hồng”, “môi son”, “mắt huyền”, “máu đỏ” v.v. thì thôi, chứ làm sao lại đối bằng “rừng sâu” được? “Rừng” mà đối được với “da” thì chẳng hóa ra ở trên cõi đời này tất cả các loại sự/vật đều cùng một ca-tê-gô-ri? Và người ta có thể đối “cánh tay” với “cái bàn”, “cục phấn” với “đám mây”, “cây chổi” với “giọt nước”, “tiếng chim” với “cục đất” v.v.? “Mưa” mà đối được với “vỗ” thì “nắng” tất phải đối được với “sờ” trong “sờ mó”, “tạnh” tất phải đối được với “xoa” trong “xoa bóp”, “chớp” tất phải đối được với “vê” trong “vê râu” v.v.. Nghệ thuật đối mà đạt được đến những kết quả cụ thể như thế thì chẳng còn gì thảm não cho bằng! Nhưng đó chỉ là mới nói đến nghĩa đen của chữ thôi chứ chưa nói đến hàm nghĩa của cả câu.

Về hàm nghĩa thì cái bối cảnh để hiểu đúng nó đã được chính Phan Ngọc phân tích như sau: “Nó (giai thoại – AC) có thể không có trong thực tế, nhưng để cho câu đối thành hấp dẫn, nó cứ xuất hiện. Chính vì vậy, bối cảnh thích hợp nhất cho vế ra “Da trắng vỗ bì bạch” là một cô gái đang tắm, rồi có một anh chàng hay chữ nghịch ngợm muốn vào xem. Bối cảnh này thực sự là tối ưu. Sau đó, cô gái và anh học trò đều phải là dân hay chữ. Rồi cô gái ấy phải là cô Điểm, và anh chàng ấy phải là trạng Quỳnh thì giai thoại mới hoàn mỹ. Thực tế rất có thể không có chuyện này, nhưng đây là một giai thoại sẽ sống mãi vì tìm một bối cảnh thích hợp như thế đâu phải chuyện dễ dàng” (Sđd, tr. 56 – 57).

Điểm mấu chốt của giai thoại này đã được Hoàng Hồng Việt nói rõ hơn như sau: “Bà Điểm đang tắm… Quỳnh xuất hiện mong được chiêm ngưỡng thì câu đối của bà Điểm đố Trạng rơi ngay vào thực cảnh. Vậy, “da trắng vỗ bì bạch” ở đây không phải chỉ có vỗ da trắng mà còn có nghĩa khác sâu kín hơn”*.

Xét bối cảnh của giai thoại mà Phan Ngọc đã nhắc lại và Hoàng Hồng Việt đã thuyết minh thêm, thì câu “Rừng sâu mưa lâm thâm” là hoàn toàn lạc lõng. Bất cứ người nào của thời nay, nếu muốn đối lại câu ra của nàng Điểm, đều phải tự đặt mình vào hoàn cảnh của Trạng Quỳnh thì may ra mới có thể tìm được một câu đối lại thích hợp – chứ chưa nói đến hay – mà thôi. Vì vậy mà câu “Da trắng vỗ bì bạch” vẫn còn treo ở đấy. Nó vẫn còn hấp dẫn như thường!

§ 431. Kiến thức ngày nay, số 257, ngày 10-9-1997

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết thực chất thì “húy” trong “kiêng húy”, “kỵ húy” nghĩa là gì.

AN CHI: Mới đây, Ngô Đức Thọ đã có lời giải thích chi tiết về từ húy như sau:

“Húy 諱 theo Thuyết văn có nghĩa là khuyên răn (諱, 誋也 húy, kỵ dã). Có lẽ về sau từ này đã chuyển nghĩa, cho nên các tự điển cổ như Quảng vận, Ngọc Thiên không thấy ghi nghĩa trên đây của Thuyết văn. Theo Quảng vận: húy 諱 nghĩa là tránh (諱,避也 húy, tị dã); theo Ngọc thiên: húy nghĩa là giấu, tránh (諱,隱也 ,忌也 húy, ẩn dã, kỵ dã).

“Từ hai nghĩa nói trên, húy 諱 còn có nghĩa mở rộng là tên của người đã quá cố: “Nhập môn nhi vấn húy / Vào nhà phải hỏi tiếng cần tránh của chủ nhà” (Lễ ký, Đàn cung). Trịnh Huyền chú thích: “Húy là tên của gia tiên chủ nhà”. Sở dĩ như vậy là vì theo tục lệ từ đời Chu, người Trung Quốc tuy mỗi người đều có tên riêng (danh 名), nhưng trong giao tiếp người ta thường xưng hô bằng họ, còn tên chỉ dùng khi cần kê khai sổ sách giấy tờ v.v. để tiện phân biệt. Sau khi chết, đến lễ tốt khốc thì người nhà viết chữ tên riêng ấy vào bài vị để thờ, và cũng từ lúc ấy tránh không nói đến tên người đã quá cố (…) vì thế gọi là tên húy.

“Nghĩa thường dùng của “húy 諱” như vậy nên các tự điển đời sau như Khang Hi, Từ hải đều ghi thẳng nghĩa: húy là tên người đã chết (Khang Hi: Sinh viết danh, tử viết húy / Tên người khi còn sống gọi là danh, sau khi chết, gọi là húy; hoặc Từ hải: Tử giả chi danh viết húy / Tên người đã chết gọi là huý). Gần đây soạn giả Từ nguyên (bản hợp đính, bộ mới) có lẽ nhận thấy cách giải thích như trên của Khang Hi và Từ hải là quá nhấn mạnh vào nghĩa “tên người đã chết”, trong khi đó chính trong Lễ ký đã dùng chữ húy 諱 cả với tên người đang sống như: Lễ bất húy hiềm danh / Theo Lễ, không kiêng húy chữ đồng âm (Lễ ký, khúc lễ, thượng). Do đó, về nghĩa thứ 3, Từ nguyên (bộ mới) phân biệt làm hai trường hợp: (a) Tên của vua chúa và các bậc tôn trưởng mà tránh không nói thẳng ra. (b) Chữ đặt lên trước tên người đã chết để tỏ ý kính trọng. Theo giải thích này thì húy 諱 không hạn chế ở nghĩa là tên người đã chết. Các soạn giả Quốc dân thường dụng tiêu chuẩn tự điển xuất bản ở Đài Loan phát hiện được cứ liệu cho thấy húy cũng dùng để chỉ tên của người đang sống (…).

“Có thể do đó mà Quốc dân thường dụng tiêu chuẩn tự điển ghi riêng một định nghĩa có hàm ý “luận chiến” với Khang Hi, Từ hải: tên của bậc tôn trưởng hiện còn sống, gọi là húy (Hiện tồn trưởng thượng chi danh viết huý). So sánh có thể thấy cách định nghĩa này tương đồng với Từ nguyên (bộ mới).

“Phối hợp ý kiến của các nhà, có thể coi húy 諱 có 3 nghĩa: 1. Tránh, kiêng; 2. Giấu; 3. Tên người. Do đặc điểm của Hán văn, danh từ có thể làm động từ và ngược lại, cho nên trong thư tịch có không ít trường hợp húy 諱 được dùng làm động từ với nghĩa là kiêng húy, tức là kiêng tên người, có nghĩa là tránh (nói, viết) tên người”.

Trở lên là những lời khảo chứng và giải thích của Ngô Đức Thọ về chữ/từ húy mà chúng tôi đã dẫn từ quyển sách mới xuất bản của ông nhan đề Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại (Nxb. Văn hóa, 1997, tr. 17 – 18). Chúng tôi muốn nhân tiện trao đổi thêm với tác giả như sau. Ông đã cho rằng chữ húy 諱 được Thuyết văn giảng bằng chữ kỵ 誋, có nghĩa là khuyên răn và rằng về sau thì nghĩa này đã mất đi nên Quảng vận và Ngọc thiên mới không ghi nhận lại nó. Xin mạn phép lưu ý ông mấy điểm sau đây:

1. Chúng tôi đang sử dụng Hiệu chính Tống bản Quảng vận do Nghệ văn ấn thư quán ấn hành tại Đài Bắc năm 1967, là bản hiệu chính trên cơ sở quyển Quảng vận hiệu khám ký của Chu Tổ Mô. Tại bản Quảng vận này, chữ húy 諱 vẫn được giảng bằng chữ 誋 theo Thuyết văn.

2. Thuyết văn giải tự chú của Đoàn Ngọc Tài (Nghệ văn ấn thư quán, Đài Bắc, 1965) giảng: “諱,忌也 (húy, kỵ dã)”, nghĩa là đã giảng chữ húy bằng chữ kỵ 忌 bộ tâm chứ không phải chữ kỵ 誋 bộ ngôn như Ngô Đức Thọ đã nhận xét. Vậy, cũng là Thuyết văn nhưng có bản giảng chữ húy bằng chữ 誋, có bản lại giảng bằng chữ 忌.

3. Tình trạng bất nhất như thế về tự dạng có thể làm cho người ta băn khoăn nhưng thực ra, suy đến cùng, thì 誋 và 忌 lại đồng nghĩa với nhau. Chứng thực là hệ nghĩa của cả hai chữ đó trong Hán ngữ đại tự điển căn bản trùng nhau. Quyển từ điển này cũng đã khẳng định ngắn gọn rằng 誋同忌 (chữ kỵ bộ ngôn là một với chữ kỵ bộ tâm).

4. Vậy chữ 誋 dùng để giảng chữ húy mà ông Ngô Đức Thọ đã thấy trong bản Thuyết văn mà ông sử dụng cũng là một với chữ 忌 mà ông đã thấy trong Ngọc thiên. Nghĩa của nó là: a. tránh, b. cái cần phải tránh (Tại chữ 忌, Hán ngữ đại tự điển, nghĩa 4, đã giảng như sau: cấm kỵ, kỵ húy (…) Hựu chỉ sở cấm kỵ đích sự tình). Hai nghĩa trên đây của chữ kỵ cũng chính là những nghĩa của chữ húy. Quả đúng như thế: tại chữ húy, Hán ngữ đại tự điển đã giảng như sau: a. tị kỵ “xa lánh, tránh né” (nghĩa 1); b. sở ẩn húy hoặc tị kỵ đích sự vật “cái cần xa lánh hoặc tránh né” (nghĩa 3).

5. Liên quan đến vấn đề “kiêng húy và tị húy học” mà ông Ngô Đức Thọ bàn đến ở mục B, chương I trong sách của ông, thì cái cần tránh ở đây chính là tên cần kiêng kỵ củabậc trưởng thượng trong gia tộc, trong hương đảng hoặc quốc gia. Vậy húy là “tên cần kiêng kỵ” đúng như đã cho trong Dictionnaire classique de la langue chinoise của F. S. Couvreur (“nom qu’on s’ abstient de prononcer et d’ écrire”) chứ không phải là “tên người” chung chung như ông đã suy diễn rồi kết luận tại tiểu mục 3, đoạn cuối, trang 18 trong sách của ông. Tên người mà không cần kiêng kỵ thì không gọi là húy. Vả lại, trong quyển sách của mình, ông Ngô Đức Thọ chủ yếu bàn về tị húy học và những chữ húy của Việt Nam, vậy nếu chỉ dừng lại ở cái nghĩa “tên người” của chữ húy thì liệu đã thỏa đáng chưa?

§ 432. Kiến thức ngày nay, số 258, ngày 20-9-1997

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 247 rồi số 251, ông đã khẳng định rằng “vang” trong “vang bóng (một thời)” là vị từ chứ không phải là danh từ. Nhưng xin lưu ý ông rằng ngoài Vang bóng một thời, ở một tác phẩm khác, chính nhà văn Nguyễn Tuân cũng đã dùng từ “vang” hẳn hoi như một danh từ mới viết “vang và bóng ngày ký vãng” (Một chuyến đi). Vậy về trường hợp này, ông có ý kiến như thế nào và theo ông giữa “vang bóng” trong Vang bóng một thời với “vang và bóng” trong Một chuyến đi, có mối quan hệ nào hay không?

AN CHI: Xin thưa rằng “vang và bóng” cũng là một lối diễn đạt không chuẩn vì liên từ “và” không thể nối một vị từ (vang) với một danh từ (bóng) được (nó chỉ có thể nối những từ cùng từ loại mà thôi) và vì, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 247 và đã nhắc lại trên Kiến thức ngày nay, số 251, “vang” chưa bao giờ là một danh từ. Nó không hề có những đặc trưng cú pháp của danh từ như: 1. có thể đứng liền sau những từ chỉ vị trí (trên, dưới, trong, ngoài, v.v.); 2. có thể có định ngữ chỉ quan hệ sở thuộc; 3. có thể đứng liền sau số từ mà không cần trung gian của danh từ chỉ đơn vị; 4. có thể đứng trước đại từ chỉ định (này, kia, ấy, v.v.); 5. không thể trực tiếp làm vị ngữ; v.v.. Còn “bóng” thì lại có tất cả các đặc trưng này. Ngược lại, đặc trưng chủ yếu của vị từ là có thể trực tiếp làm vị ngữ thì “vang” lại có mà “bóng” thì tuyệt nhiên không. Vậy, “vang” hiển nhiên là một vị từ còn “bóng” cũng hiển nhiên là một danh từ và hai từ thuộc hai từ loại đối lập hẳn với nhau như thế thì không thể được nối với nhau bằng liên từ “và” như Nguyễn Tuân đã làm. Khi mà ngữ pháp đã quy định rằng liên từ chỉ có thể nối hai từ cùng từ loại mà thôi thì chỉ có thể nói máu và lửa hoặc chảy và cháy chứ không thể nói “chảy và lửa” hoặc “máu và cháy”, chỉ có thể nói cơm và nước hoặc ăn và uống chứ không thể nói “cơm và uống” hoặc “ăn và nước” được.

Tóm lại, “vang” không phải là danh từ cho nên nếu muốn diễn đạt cái tương ứng với écho (Pháp) và echo (Anh) thì phải nói “tiếng vang”. Người ta có thể phản bác mà nói rằng đây là lĩnh vực của tư duy hình tượng chứ phải đâu của tư duy luận lý mà hòng đem quy tắc ngữ pháp ra để “kè” chữ và lời của người sáng tác, cho nên có nhất nhất cứ phải nói “tiếng vang” mới được hay không? Thưa rằng dù là thứ tư duy nào thì phương tiện biểu hiện của nó vẫn cứ là ngôn ngữ chung của cả cộng đồng với một hệ thống quy tắc ngữ pháp thống nhất. Trong trường hợp này thì giữa công chúng và nhà văn, chính nhà văn mới là người phải nhượng bộ chứ không phải là ngược lại. Vả lại, chính Nguyễn Tuân cũng đã rất “luận lý” vì chỉ ngay ở câu trước của cái cấu trúc “vang và bóng ngày ký vãng” trong Một chuyến đi thì ông đã viết: “Nó làm ấm lại một linh hồn đang cảm thấy sự (Chúng tôi nhấn mạnh – AC) thui thủi mênh mông” Chính cái danh từ “sự” của Nguyễn Tuân ở đây mới là “luận lý” thuộc hàng number one, cái danh từ mà nhiều người chịu ảnh hưởng văn phạm của tiếng Tây vẫn xem là tương đương với những -ation, -ement, -itude, v.v. là những hậu tố để tạo ra danh từ trừu tượng. Vậy đã viết được “sự thui thủi” thì tiếc gì danh từ “tiếng” mà không nói “tiếng vang?”

Ông đã hỏi chúng tôi rằng giữa “vang bóng” trong Vang bóng một thời với “vang và bóng” trong Một chuyến đi có mối quan hệ nào hay không, có lẽ để gợi ý rằng “vang” trong “vang và bóng” đã là danh từ thì vang trong “vang bóng” ắt cũng phải thuộc từ loại đó. Nhưng như đã nói ở trên, “vang” chưa bao giờ là danh từ, vì vậy mà tất nhiên trong “vang bóng” nó cũng không thể là danh từ được. Do đó không thể xem “vang bóng” là một từ tổ ghép đẳng lập. Nhưng cứ giả định rằng đó là một từ tổ đẳng lập thì nó cũng không nhất thiết là danh từ. Lý do: người khác đã võ đoán căn cứ vào từ loại của từ bóng đích thực là một danh từ mà luận ra rằng vang cũng là danh từ thì tại sao chúng tôi lại không thể căn cứ vào từ loại của từ vang đích thực là một vị từ để nhận ra rằng bóng cũng là vị từ? Nếu phản bác rằng bóng chưa bao giờ là vị từ thì không nên quên rằng vang cũng chưa bao giờ là danh từ. Và khi mà cả vang lẫn bóng đều là động từ thì vang bóng tất nhiên là một ngữ động từ ghép đẳng lập. Vậy nếu thừa nhận rằng vang bóng là một từ tổ ghép đẳng lập thì khả năng nó là động từ và khả năng nó là danh từ đều có giá trị ngang nhau. Đây là một điều dứt khoát. Còn sự thật thì bóng dứt khoát là danh từ chứ không phải động từ cũng như vang dứt khoát là động từ chứ không phải danh từ cho nên vang bóng chỉ có thể là một từ tổ động từ, nghĩa là một từ tổ vị từ mà thôi.

Người ta lại có thể phản bác mà nói rằng hiểu như thế thì không đúng với dụng ý của Nguyễn Tuân. Xin thưa rằng lỗi ở đây không tại người đọc mà tại chính nhà văn vì ông đã dùng từ ngữ không đúng với quy tắc của ngữ pháp và trong trường hợp này, như đã nói ở trên, chính tác giả là người phải nhượng bộ chứ không phải là độc giả. Người ta lại còn có thể cố biện bạch thêm rằng dù sao thì cũng có người hiểu đúng dụng ý của Nguyễn Tuân, chẳng hạn Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại khi nhà phê bình văn học này đã diễn ý cái tiêu đề “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân rằng đó là “cái tiếng vang của thời đã qua, cái bóng của thời đã qua, mà ngày nay người ta tưởng như còn văng vẳng và thấp thoáng”. Vậy rõ ràng là Vũ Ngọc Phan đã hiểu được ngữ pháp của Nguyễn Tuân chứ chẳng có lẽ cả hai ông đều không biết ngữ pháp tiếng Việt? Chúng tôi không hề nghĩ rằng hai ông không biết ngữ pháp tiếng Việt mà chỉ xin nhấn mạnh rằng riêng trong trường hợp này thì Nguyễn Tuân đã viết sai ngữ pháp còn Vũ Ngọc Phan thì lại bất chấp ngữ pháp khi diễn ý như trên. Nhân tiện, chúng tôi xin nhắc lại mẩu tin nhan đề “Ca sĩ không biết đọc nốt nhạc” trên trang 12 của báo Tuổi trẻ ngày 24-7-1997, nguyên văn như sau: “Đó là chuyện có thật 100% của ngôi sao opera, giọng ca tenor hàng đầu thế giới Luciano Pavarotti. Trong một nhạc hội tại thành phố Castello, ngôi sao này xác nhận: “Vâng, tôi không biết đọc nốt nhạc… Bản nhạc là một chuyện, còn hát lại là chuyện khác (…). Ngay sau đó, một tờ báo chộp lấy điều này và phê phán “lỗ hổng” trong giáo dục âm nhạc của Pavarotti”. Vậy có lẽ nào chúng ta lại bắt chước ngôi sao opera này mà nói rằng ngữ pháp là một chuyện còn viết văn, bình văn lại là chuyện khác?

Sự thật là sau khi Vang bóng một thời ra đời hơn nửa thế kỷ, cho đến nay, trong tiếng Việt, vang cũng chưa trở thành danh từ; nó vẫn chỉ là một vị từ, một động từ mà thôi. Vì thế cho nên mặc dù Nguyễn Tuân đã cố gò nó và danh từ bóng vào trong một cấu trúc mà ông muốn xem là đẳng lập thì một bộ phận công chúng thật sự nhạy bén về ngữ pháp vẫn cứ điều chỉnh cái dụng ý và cái cấu trúc vi phạm quy tắc đó của nhà văn vào khuôn khổ ngữ pháp chung của cộng đồng mà xem nó là một từ tổ vị từ, nghĩa là một từ tổ do vị từ vang làm thành tố chính còn thành tố phụ thêm nghĩa cho nó là danh từ bóng. Đó là một cách xử lý đúng đắn và tất yếu về mặt ngữ pháp. Chỉ có một điều đáng nói là vì không nắm vững nội dung của Vang bóng một thời nên người ta mới hiểu sai lệch về hàm nghĩa mà cho rằng vang bóng là nổi tiếng mà thôi*. Thực ra trong tác phẩm này, Nguyễn Tuân chỉ miêu tả, ca ngợi và nuối tiếc nhiều nét sinh hoạt tao nhã, tài hoa, cầu kỳ có khi đến lập dị trong đời sống vật chất và tinh thần của một số nho sĩ bình dân mà thời vàng son đã tàn lụi. Vậy vang bóng một thời là đã từng có một thời vàng son, huy hoàng nay đã qua đi. Còn nếu cứ nhất quyết khẳng định rằng vang bóng một thời là tiếng vang và cái bóng của một thời đã qua thì dứt khoát cũng phải thừa nhận thêm cái hệ luận tất yếu sau đây: vang bóng là một cấu trúc khập khiễng vì người viết muốn đặt vào một thế đẳng lập hai từ thuộc hai từ loại đối lập hẳn với nhau, điều mà ngữ pháp tiếng Việt không cho phép nên cũng không bao giờ thừa nhận.

Chúng tôi sắp chấm hết cho câu trả lời này thì lại may mắn được đọc trên trang 33 của báo Tuổi trẻ chủ nhật số 30-97 ra ngày 3-8-1997, bài viết của Vương Trí Nhàn nhan đề “Vang và bóng, biết tìm đâu”. Trong bài này, còn có câu: “Sớm muộn ngôi nhà ông (Nguyễn Tuân – AC) ở sẽ trở thành một nhà lưu niệm (…) để những ai có lòng ngưỡng mộ có chỗ mà đến tìm lại vang và bóng của cái con người đã từng là tiêu điểm chú ý của một thời đó”. Nhưng tiêu đề và câu trích dẫn trên đây không hề chứng tỏ rằng “vang” đã trở thành danh từ. Ở đây chẳng qua là tác giả đã chơi chữ bằng cách nhắc lại cả lời lẫn ý của chính Nguyễn Tuân để nói về Nguyễn Tuân mà thôi. Chúng tôi chưa thấy bất cứ một văn cảnh nào khác trong đó “vang” được dùng hẳn hoi như một danh từ có 5 đặc trưng cú pháp đã liệt kê ở trên.

§ 433. Kiến thức ngày nay, số 259, ngày 1-10-1997

ĐỘC GIẢ: Năm 1991, trên Kiến thức ngày nay, số 56, trong một bài viết rất “bác học” nhan đề “Chung quanh câu thơ thứ 32 của Truyện Kiều”, ông Huệ Thiên đã bác bỏ hai tiếng “Ngải Trương” trong bài “Một trương hay Ngải Trương?” của ông Phan Khắc Khoan, đăng trên Kiến thức ngày nay, số 49. Nhưng sau đó, tạp chí Bách Khoa văn học (BKVH) số 8, tháng 8-1991, chỉ cần một bài rất ngắn trong mục “Trao đổi” (tr. 94), đã bác bỏ hẳn lập luận của ông Huệ Thiên mà khẳng định rằng đó đúng là “Ngải Trương” và câu 32 của Truyện Kiều là “Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm Ngải Trương”. Sau đó, không thấy ông Huệ Thiên bày tỏ ý kiến gì thêm. Vậy phải chăng im lặng là… đồng ý với lời bác bỏ của người khác? Lần này xin ông An Chi cho biết cao kiến.

AN CHI: Chuyện xảy ra cách đây đã sáu năm. Trong 6 năm đó, đã có thêm nhiều bản Truyện Kiều tiếp tục ra mắt mà chẳng có nhà phiên âm nào chịu chấp nhận hai tiếng “Ngải Trương” của ông Phan Khắc Khoan và của người trông nom BKVH. Nhưng lần này ông đã hỏi thì chúng tôi cũng xin lĩnh ý mà quay trở lại vấn đề đó.

Người trông nom BKVH đã viết: “Trong bản Kiều chữ Nôm in kèm theo cuốn Kim Vân Kiều của Abel des Michel (xin sửa là Michels – AC) do nhà Ernest Leroux xuất bản tại Paris năm 1884, chúng tôi gặp câu thơ đó viết bằng chữ Nôm là: Nghề riêng ăn đứt hồ cầm Ngải Trương”. Và để chứng minh rằng chữ thứ 7 trong câu thơ trên đúng là “ngải” chứ không phải “một”, tác giả đã cho in bản fac-similé đoạn lục bát bằng chữ Nôm sao từ sách của Abel des Michels trong đó có chữ mà tác giả đã đọc thành “ngải”*. Rồi ở số tiếp theo, khi trả lời cho độc giả Minh Thư, người trông nom BKVH lại biện luận thêm: “Ông cho rằng chữ Ngải (tức chữ – AC) trong trang sách đã dẫn (tức bản fac-similé nói trên – AC) phải đọc là một thay vì ngải; vì ông cho chữ đó do viết tắt (từ chữ – AC) mà ra. Theo chúng tôi, tại sao lại bảo đó là chữ viết tắt được. Trong trang sách ấy có đến ba chữ một (tức chữ 沒 – AC) và một chữ ngải (tức chữ – AC), sao ba chữ một ở trên lại viết đầy đủ rồi đến chữ một trương lại viết tắt? Rõ ràng ở đây không thể nào cho là chữ một viết tắt được mà thật sự nó là chữ ngải (…) như vậy chúng ta phải nghiêm chỉnh (Chúng tôi nhấn mạnh – AC) đọc là Ngải Trương chứ không thể một trương hay một trang được đâu”.*

Người trông nom BKVH đã biện luận như trên mà không hề ngờ đến bốn điểm sau đây:

1. Trong cùng một trang có bốn chữ một mà ba chữ được viết đầy đủ còn một chữ được viết tắt, chuyện này hoàn toàn không có gì đáng lấy làm lạ. Nó hoàn toàn giống với chuyện ngay trên BKVH số 8, trang 91 – 92, quý vị có nhắc đến tên của nhà văn Jim Harrison đến 5 lần mà 4 lần kia thì viết Jim còn lần thứ 4 thì chỉ viết “J” Hoặc như trên BKVH số 9, trang 90, quý vị có nhắc đến tên nhà tương lai học Alvin Toffler 2 lần mà lần đầu thì chỉ viết “A”, còn lần thứ hai thì lại viết “Alvin”. Xin quý vị vui lòng cho biết tại sao.

2. Người trông nom BKVH đã thật lòng không ngờ rằng mình lại làm cái chuyện đọc tác 作 thành tộ 祚, đọc ngộ 遇 thành quá 過 vì chữ thực ra chỉ là dạng tắt (lược bỏ ba chấm thủy 氵) của chữ một , còn chữ ngải thì lại là * mà nếu viết đúng nguyên dạng thì phải là 艾 (Xem chữ 490 trong Bảng tra chữ Nôm của Viện ngôn ngữ học, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1976). Thật là chuyện hy hữu trong lịch sử của việc phiên âm chữ Nôm vì có người đã đọc chữ : thành “ngải”, mà lại là để “giải đáp” cho lời góp ý rất chính xác của bạn đọc Minh Thư.

3. Người trông nom BKVH có lẽ không hề ngờ rằng người viết chữ Nôm cho Kim Vân Kiều tân truyện, tome II, 2e partie, của Abel des Michels đã “xài” đến sáu dạng khác nhau cho chữ một: 沒 như trong các câu 27, 28 và 34, như trong câu 32, như trong câu 447, 沒 như trong câu 450, như trong câu 478 và 没 như trong câu 2171 (Số thứ tự của các câu trên đây là theo bản của A. des Michels). Trong sáu dạng trên đây thì hai dạng gốc của chữ Hán được mượn theo giả tá để làm Nôm là 沒 và 没. Còn là một chữ Nôm rất đặc biệt nên mới làm cho người trông nom BKVH ngỡ là chữ ngải.

4. Người trông nom BKVH càng không ngờ rằng người viết chữ Nôm cho bản của A.des Michels lại còn xài dạng cho chữ một trong câu 448 (Tóc mây một món, dao vàng một đôi), câu 579 (Vơ chằng một lão một trai), câu 826 (Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa). Nếu phiên âm theo lời “giải đáp” của người trông nom BKVH thì câu 448 sẽ là:

Tóc mây ngải món, dao vàng ngải đôi;

câu 579 sẽ là:

Vơ chằng ngải lão ngải trai;

còn câu 826 sẽ là:

Ngải cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa!

Đến Thượng đế cũng chẳng hiểu được “ngải” trong mấy câu đó có nghĩa là gì.

Trở lên là chỉ mới nói đến cái âm “ngải” của chữ một chứ sự táo bạo của người trông nom BKVH đâu đã dừng lại ở đó vì ông còn khẳng định thêm một điều giật gân khác nữa như sau: “Trong Hán thư cũng có câu Ngải như trương nãi thiên hạ Hồ cầm đệ nhất danh”. Câu này chắc chắn chỉ là “nói theo” ông Phan Khắc Khoan mà thôi. Còn ông Phan thì khẳng định rằng trong Hán thư có “Ngải Như Trương truyện” nói về nhân vật “Ngải Trương”*. Thực ra ông Phan đã chắp vá một cách vụng về rồi đem râu ông nọ cắm cằm bà kia chứ Hán thư chẳng làm gì có “Ngải Như Trương truyện”! Phần “Liệt truyện” của bộ sử lớn này gồm có 70 thiên mà thiên thứ nhất nói về Trần Thắng và Hạng Tịch, rồi đến các thiên nói về nhiều nhân vật khác trong đó có những nhân vật quen thuộc như: Hàn Tín (thiên thứ tư), Trương Lương (thiên thứ mười), Giả Nghị (thiên thứ mười tám), Đổng Trọng Thư (thiên thứ hai mươi sáu), Tư Mã Tương Như (thiên thứ hai mươi bảy, thượng và hạ), Tư Mã Thiên (thiên thứ ba mươi hai), Đông Phương Sóc (thiên thứ ba mươi lăm), Dương Hùng (thiên thứ năm mươi bảy, thượng và hạ), Khổng An Quốc (thiên thứ năm mươi tám), Vương Mãng (thiên thứ sáu mươi chín, thượng, trung, hạ) v.v.. Không làm gì có “Ngải Như Trương truyện” trong 70 thiên “liệt truyện” của Hán thư*. Ông Phan Khắc Khoan đã khéo thêu dệt mà… nhiễu sự văn chương! Ngải nhi trương (nhi chứ cũng không phải “như”) chẳng qua chỉ là tên của một khúc nao ca về đời nhà Hán như Huệ Thiên đã chứng minh trên Kiến thức ngày nay, số 56 còn người trông nom BKVH chẳng qua cũng chỉ “nói theo” một điều hoàn toàn vô căn cứ mà thôi!

Cuối cùng xin nói về chữ trang 張 mà người trông nom BKVH cho rằng phải đọc thành “trương” mới đúng. Người trông nom này viết: “Ông Huệ Thiên kết luận trương có thể đọc thành trang (trương sách hay trang sách, đương thành đang, phương thành phang, cương thường thành cang thường). Thế tại sao mang không thành mương, quang không thành qương (sic), gương không thành gang? Nếu đọc Kiều trong bản chữ Nôm thì trương không thể viết và đọc là trang như ông Huệ Thiên đã tưởng”.*

Trước nhất, xin lưu ý là Huệ Thiên không hề nêu trường hợp “phương” đọc thành “phang” còn các trường hợp trang sách là “trương sách”, đang là cách phát âm phổ biến thay cho “đương” dùng để chỉ thể tiến hành, cang thường chính là “cương thường”, thì ai ai cũng biết nên bất tất phải chứng minh. Bây giờ xin nói về các trường hợp còn lại. Sở dĩ mang không thành “mương”, quang không thành “qương” (theo cách viết của BKVH), gương không thành “gang” thì chỉ là vì những trường hợp này không nằm trong giới hạn của vấn đề đang bàn. Trong bài của mình trên Kiến thức ngày nay, số 56, Huệ Thiên chỉ bàn về âm Hán Việt của những chữ Hán thuộc vận bộ “dương” 陽 (như: lượng, trường, trương) và vận bộ “đường” 唐 (như: cương, đương, đường, khương), nói chung là những chữ thuộc nhiếp “đãng” 宕, chứ đâu có phải là nói tràn lan, “đại trà” về tất cả mọi tiếng có vần -ang hoặc -ương. Vậy mang nếu là “Nôm” thì phải bị gạt ra; còn nếu là Hán Việt mà Hán tự là 忙 thì xin thưa rằng nó thuộc vận bộ đường 唐 đấy, nghĩa là về lý thuyết thì nó hoàn toàn có thể được đọc thành mương. Bằng chứng hiển nhiên về vận -ương của chữ mang này là từ mường trong mường tượng mà màng là một điệp thức hãy còn tồn tại trong từ ghép đẳng lập mơ màng hoặc trong cấu trúc không màng đến. Ở đây, cả ba âm mang, màng và mường đều bắt nguồn từ chữ 忙 (với nghĩa là “bận rộn” như trong mang nguyệt thì chữ này còn cho ra màng trong mùa màng nữa). Sở dĩ không có âm mương trong thực tế là do sự phát triển không đồng đều của những chữ vốn cùng thuộc một vận bộ. (Vì không thấy được sự không đồng đều này mà có người ký tên là “Hòa Lạc” còn đòi đổi âm hướng thành âm “háng”!) Đây là hiện tượng bình thường và thường thấy trong ngữ âm học lịch sử. Vả lại, chính Huệ Thiên cũng chỉ nói rằng “ương và ang là hai khuôn vần có thể chuyển đổi với nhau trong rất nhiều trường hợp” (Bđd, tr. 14), chứ không hề nói là trong tất cả mọi trường hợp. Về chữ quang 光, sở dĩ nó không chuyển thành “qương” thì là vì tuy cũng thuộc vận bộ đường 唐 nhưng nó lại vốn thuộc loại “hợp khẩu hô” nghĩa là có giới âm [w] nên đã phát triển theo một hướng khác với những chữ trên kia vốn thuộc loại “khai khẩu hô” nghĩa là không có giới âm [w]. Đến như gương mà không nói thành “gang” thì chỉ là vì nó chẳng có dây mơ rễ má gì với hai vận bộ dương, đường và nhiếp đãng cả: nó bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ kính 鏡, thuộc vận bộ canh 庚 và nhiếp cảnh 梗. Gương là âm xưa của kính mà âm chính thống hiện đại là cánh, giống hệt như ngượng trong ngượng ngùng là âm xưa của ngạnh 硬 trong ngang ngạnh. Nó thuộc một vận bộ khác và một nhiếp khác thì đâu có thể vơ đũa cả nắm mà bắt nó phải có âm “gang”!

Trở lại với chữ 張 mà Huệ Thiên đọc thành trang, xin lưu ý rằng trong bài “Về cách đọc hai âm đàng và đường trong Truyện Kiều của Nguyễn Du”*, Bùi Thiết đã chứng minh rằng vần của những chữ có vần -ương như đường, trương, trường, nương, v.v., trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ XVII đến thời của Nguyễn Du, chính là -ang. Vậy có gì là lạ nếu chữ đó đã được đọc thành trang?

§ 434. Kiến thức ngày nay, số 260, ngày 10-10-1997

ĐỘC GIẢ: Xin hỏi về ngày húy kỵ chính xác của vua Quang Trung. Ông Hoa Bằng nói là ngày 29-7-1792. Ông Nguyễn Phan trên báo Sài Gòn giải phóng nói là ngày 16-9-1792. Còn lịch năm nay (1997) ghi là ngày 15-9-1792. Vậy ngày chính xác mà vua Quang Trung qua đời là ngày nào?

AN CHI: Xin trích dẫn quyển Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung của Đỗ Bang (Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên, 1988) để trả lời ông như sau. Sách này đã chép:

“Sử sách dưới triều Nguyễn như Đại Nam chính biên liệt truyện và Tây Sơn thủy mạt khảo đều ghi (ngày mất của vua Quang Trung – AC) là ngày 29 tháng 9 năm Nhâm Tý.

Triều đình Tây Sơn báo tang với nhà Thanh cũng ngày 29 tháng 9. Trong khi đó các sách như Tây Sơn thực lục, Lê quý dật sử ghi là ngày 30 tháng 7. Phan Huy Ích trong bài thơ Thu phụng quốc tang cảm thuật, phần nguyên dẫn của Phan có ghi là ngày 30 tháng 7 thì vua Quang Trung về chầu trời.

(…)

Ngày 21 tháng 12 năm 1792, ông Longer có thư viết rằng người ta đồn vua đã chết vì bệnh nhưng cũng cần xác nhận lại nguồn tin đó.

Ngày 10 tháng 2 năm 1793, ông Longer lại gửi thư cho ông Blandin như sau: “Ông Lamothe cũng báo cho tôi rằng cái chết của Quang Trung được giữ bí mật gần hai tháng trời, bây giờ mới được công bố bởi một sắc lệnh bắt buộc toàn quốc phải chịu tang vị Hoàng đế anh minh của mình”.

Như vậy ông Lamothe đã trao cho chúng ta cái chìa khóa góp phần tìm ra mã số về ngày mất của vua Quang Trung. Ngày mất đối ngoại công bố rộng rãi và báo tang tới nhà Thanh là ngày 29 tháng 9 năm Nhâm Tý. Còn ngày mất thực sự thì trước đó gần hai tháng.

Vậy cái ngày mà Tây Sơn thực lục, Lê quý dật sử và Phan Huy Ích ghi: 30 tháng 7 là ngày mất của vua Quang Trung (Chúng tôi nhấn mạnh – AC).

(…)

Có điều là việc sử dụng lịch lúc đó không thống nhất: lịch Tây Sơn, lịch Nguyễn, lịch Trung Quốc có khác nhau đôi chút về tháng nhuận, tháng thiếu và tháng đủ.

Nếu đối chiếu với dương lịch theo cuốn Niên biểu Việt Nam thì tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) là tháng thiếu, nghĩa là không có ngày 30. Ở đây chúng ta không thể nghi ngờ người như Phan Huy Ích mà có thể nhầm lẫn về ngày chết của vua Quang Trung được.

Nếu tháng 7 năm Nhâm Tý đó có cả ngày 30 như Phan Huy Ích đã ghi, thì ngày vua Quang Trung từ trần là ngày 16 tháng 9 năm 1792.

Nếu tháng 7 đó chỉ có 29 ngày mà thôi (do tháng thiếu) thì tính ra dương lịch là ngày 15 tháng 9 năm 1792. Ngày mất đó của vua Quang Trung cũng được giáo sĩ Longer ghi lại. Trong bức thư đề ngày 4 tháng 9 năm 1801, Longer gởi cho hai ông Boiret và Descourvrières đã tiết lộ như sau:

“Ông đâu phải không biết rằng bạo chúa Quang Trung cha của Cảnh Thịnh mất vào ngày 15 tháng 9 năm 1792”.

Như cách viết của Longer, có thể là vua Quang Trung mất vào đêm 15 rạng ngày 16 tháng 9 năm 1792 chăng?” (Sđd, tr. 114 – 117).

Rồi ở cuối quyển sách của mình, Đỗ Bang đã khẳng định rằng vua Quang Trung mất ngày 15 tháng 9 năm 1792 (Sđd, tr. 215).

Sách Các triều đại Việt Nam của Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng (Nxb. Thanh niên, 1995) ghi nhận: “Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) vào khoảng 11 giờ khuya, Quang Trung từ trần” (tr. 232) nhưng không quy ra ngày tháng dương lịch. Còn sách Thế thứ các triều vua Việt Nam của Nguyễn Khắc Thuần thì ghi nhận Quang Trung “mất ngày 16 tháng 9 năm 1792” (tr. 108).

Cứ như trên thì, tư liệu dùng để khảo chứng của Đỗ Bang tuy nhiều nhưng rất tiếc là ông đã không được rạch ròi trong việc xác định ngày chết của vua Quang Trung. Ở phần trên, ông đã khẳng định rằng một người như Phan Huy Ích không thể lầm lẫn về ngày chết của vua là ngày 30 tháng 7 năm Nhâm Tý (tức ngày 16 tháng 9 năm 1792). Nhưng ở phần dưới và về cuối sách thì ông lại dựa vào thư từ của các giáo sĩ người Pháp để khẳng định rằng đó là ngày 15-9-1792. Một cách lập luận như thế rõ ràng là không nhất quán. Vì vậy mà, trước mắt, chúng tôi xin tán thành cách xác định ngày tháng của ông Nguyễn Khắc Thuần trong Thế thứ các triều vua Việt Nam, rằng ngày mất của vua Quang Trung là 16-9-1792. Tuy chúng tôi không rõ tác giả Nguyễn Khắc Thuần đã căn cứ vào đâu nhưng ít nhất cách xác định đó cũng thống nhất với lời khẳng định của Phan Huy Ích, người mà chính tác giả Đỗ Bang cũng phải nhận rằng không thể lầm lẫn về ngày mất của vua Quang Trung được.

§ 435. Kiến thức ngày nay, số 260, ngày 10-10-1997

ĐỘC GIẢ: Ông Phạm Khắc Hòe, tác giả quyển Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc có nói đến việc nhà Nguyễn qui định “ngũ bất” (năm không): không phong vương, không thái tử, không hoàng hậu, không tể tướng, không trạng nguyên. Đã là không phong vương thì sao con trai của vua Minh Mạng lại là Tùng Thiện Vương? Còn trong bài “Chuyện ấn kiếm và thê thiếp của Bảo Đại vị vua cuối cùng nhà Nguyễn” (An ninh thế giới số 37), ông Mai Thanh Hải lại nói rằng bốn vua đầu triều Nguyễn (1802 – 1882) thực hiện chuyên chế cực đoan bằng “bốn không”: không tể tướng, không nội các, không trạng nguyên, không phò mã. Xin ông cho biết ý kiến.

AN CHI: Về việc không phong vương thì sách Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1884 do Đỗ Bang chủ biên (Nxb. Thuận Hóa, 1997) đã viết như sau: “Các quan lại cao cấp cũng chỉ phong đến các tước bá, tử, nam, ít người được phong tước hầu. Ngay cả hoàng thân là trọng thần cũng chỉ phong đến tước công mà thôi; không ai được ban tước vương lúc còn sống” (tr. 15). Vậy theo các tác giả này thì nhà Nguyễn chỉ không phong tước vương cho ai trong hoàng thân lúc người đó còn sống mà thôi, chứ vẫn có thể truy phong tước đó cho người đã chết. Điều này hoàn toàn đúng với trường hợp mà ông đã nêu: Nguyễn Phúc Miên Thẩm (1819 – 1870) con vua Minh Mạng, chỉ được truy tặng Tùng Thiện Vương năm 1924, dưới triều Khải Định, nghĩa là 54 năm sau khi chết. Còn có thể kể ra nhiều trường hợp giống như Tùng Thiện Vương. Tuy nhiên, theo ghi chép trong Nguyễn Phúc tộc thế phả của Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc (Huế, 1995) thì cũng đã có người được phong vương lúc còn sống. Chẳng hạn, Nguyễn Phúc Miên Định, cũng con vua Minh Mạng, được phong Thọ Xuân Vương năm 1878, dưới triều Tự Đức, nhân tiết ngũ tuần đại khánh của vị vua này, nhưng đến năm 1886 mới mất (Xem sđd, tr. 287). Nguyễn Phúc Miên Trinh, cũng con vua Minh Mạng, được phong Tuy Lý Vương năm 1894, dưới triều Thành Thái, nhưng đến năm 1897 mới mất (Xem sđd, tr. 295). Vậy ý kiến cho rằng nhà Nguyễn không phong vương nói chung, hoặc không phong vương cho người đang sống rõ ràng là không đúng, ít nhất cũng là theo Nguyễn Phúc tộc thế phả.

Về việc nhà Nguyễn có lập thái tử hay không, xin trích dẫn sách trên đây như sau: “Mùa xuân năm Quí Sửu (1792) các quan tâu xin lập ông (hoàng tử Cảnh – AC) làm Thái tử, Thế Tổ (Gia Long – AC) sách lập ông làm Đông Cung Cảnh Quận công, ban ấn Đông cung, phong nguyên suý, đặt các quan làm việc tại Suý phủ, chọn các đại thần giúp đỡ để ông quen việc chính trị. Thế Tổ lại cho dựng nhà Thái học, đặt chức Phụ đạo đốc học, Hàn lâm thị học để giảng dạy kinh sử cho Thái tử” (Sđd, tr. 253).

Nếu cho rằng đây chỉ là hành động của Nguyễn Ánh lúc chưa lên ngôi, nghĩa là lúc chưa thiết lập được vương triều, thì xin hãy đọc tiếp: “Năm Bính Tý (1816) ngài (Gia Long – AC) được 55 tuổi, cho ban dụ về việc lập Thái tử và cho lập hoàng tử thứ tư Nguyễn Phúc Đảm làm Thái tử, chế áo mũ và ban kim sách, kim bửu” (Sđd, tr. 217 – 218). Thế là trong đời mình, Gia Long đã hai lần lập thái tử: Nguyễn Phúc Cảnh (chết năm 1801), trước khi lên ngôi, rồi Nguyễn Phúc Đảm, sau khi lên ngôi. Vậy nói rằng các vua đầu triều Nguyễn không lập thái tử là không đúng.

Bảo rằng triều Nguyễn không lập nội các lại càng sai. Sau đây là lời của Nguyễn Minh Tường: “Minh Mạng hiểu rằng để tổ chức một triều đình mạnh có đủ khả năng chỉ đạo mọi hoạt động chính quyền trên toàn quốc thì không thể duy trì bộ máy hành chính trung ương như cũ (…). Minh Mạng cho rằng cần phải thiết lập một cơ quan mới có đầy đủ quyền hạn thay mặt nhà vua giải quyết mọi công việc của các trấn trên phạm vi toàn quốc, cơ quan ấy luôn luôn chịu sự lãnh đạo của nhà vua. Đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc thành lập Nội Các (Chúng tôi nhấn mạnh – AC) vào năm Minh Mạng thứ 10”.*

Đến như nói rằng bốn vị vua đầu triều Nguyễn vì thực hiện chuyên chế cực đoan mà không “lấy”… phò mã thì có khác nào nói rằng họ đã bắt tất cả – mà riêng Minh Mạng cũng đã có đến 64 – những người con gái của mình phải… “ở vậy” suốt đời! May mắn thay, phần lớn các hoàng nữ đều… có chồng!

Cứ như trên thì vương triều Nguyễn Phúc không những không thực hiện “ngũ bất” mà cũng chẳng thực hiện “tứ bất” vì thực tế chỉ có “tam bất” mà thôi. Đó là: không lập hoàng hậu, không đặt tể tướng và không lấy trạng nguyên. Nhưng đây chỉ là chuyện thực tế. Còn nhà Nguyễn có quy định hay không qui định (vì chỉ là ngẫu nhiên) về chuyện “tam bất” thì chúng tôi không dám khẳng định.

§ 436. Kiến thức ngày nay, số 261, ngày 20-10-1997

ĐỘC GIẢ: Tôi có mua được quyển Việt sử diễn âm của Hội khoa học lịch sử Việt Nam và Trung tâm văn hóa Văn miếu Quốc tử giám, do Nguyễn Tá Nhí sưu tầm, giới thiệu và biên dịch (Nxb. Văn hóa Thông tin, 1997). Đọc qua thấy nhiều chỗ khó hiểu, câu thơ có nhiều chỗ trúc trắc. Vậy đây là do có nhiều từ cổ và do thể thơ lục bát chưa thuần thục như có nói trong “Lời giới thiệu” hay cũng có phần là do việc phiên âm? Nếu có chỗ phiên âm sai thì đề nghị ông cải chính cho chúng tôi được rõ.

AN CHI: Thực ra, sở dĩ Việt sử diễn âm có những chỗ khó hiểu thì đúng là vì nó có nhiều từ cổ và vì cách diễn đạt có những chỗ không hoàn toàn giống như cách diễn đạt hiện nay, tóm lại vì nó là một tác phẩm cổ. Tuy nhiên việc phiên âm và chú giải, đặc biệt là phiên âm, vẫn có khá nhiều sai sót mà vì khuôn khổ của Chuyện Đông chuyện Tây nên chúng tôi cũng chỉ có thể nêu lên một số để làm bằng mà thôi.

Trước hết xin nêu một số sai sót về phiên âm. Để tiện việc đối chiếu, sau mỗi chữ Nôm được trích dẫn chúng tôi sẽ ghi chú trong ngoặc đơn số thứ tự (với ký hiệu N = Nôm) của trang có chữ Nôm đó trong phần văn bản Nôm mà người giới thiệu đã cho in ở cuối sách Việt sử diễn âm.

Câu 198 được phiên là “Hiềm vì đao đoản thiển tài”. Nhưng mặt chữ ở đây rõ ràng là 力 (tr. 11N), tức chữ lực chứ không phải đao 刀! Lực đi chung với tài thì mới xứng chứ “đao” thì lại lạc lõng. Vậy câu này là: Hiềm vì lực đoản thiển tài.

Câu 833 được phiên là “Lại còn oán phụ ca huynh chẳng hiền” và “ca huynh” được chú giải là “giết anh”. Nhưng mặt chữ ở đây lại là * (tr. 41N), tức là chữ 戕 bị viết sai. Âm của chữ này là tường chứ không phải “ca” (có lẽ nhà phiên âm đã nhầm nó với chữ ca 牁 là cái cọc để buộc thuyền). Tường có nghĩa là giết hại và tường huynh là giết anh. Vậy câu này là: Lại còn oán phụ tường huynh chẳng hiền.

Câu 934 được phiên là “Bèn mới lập làm thành tây”. Mặt chữ ở đây thật ra là 墀 (tr. 46N) và đây chính là chữ trì (khác với chữ 犀 mà âm xưa là tây còn âm nay là tê). Vậy câu này là: Bèn mới lập làm thành trì.

Câu 973 được phiên là “Vua sai Lê Phụng trục không tồi tàn”. Nhưng mặt chữ ở đây lại là 搉 (tr. 48N) và đây là chữ xác chứ không phải chữ tồi 摧. Xác là đánh, gõ. Vậy câu này là: Vua sai Lê Phụng trục không xác tàn.

Các câu 982, 985 và 986 (lần lượt) được phiên là “Vợ nó là nàng Ổn Mỵ”, “Vời Ổn Mỵ lại ái ân động phòng”, “Ổn Mỵ lòng hãy thờ chồng”. Đây là tên của hoàng hậu Chiêm Thành, vợ của Xạ Đẩu, mà sử xưa nay vẫn chép là Mỵ Ê. Hiềm một nỗi là văn bản Nôm lại ghi hai chữ này thành 醖 媚 (tr. 49N). Thực ra đây là hai chữ Mỵ Ê 媚醯 (âm chính xác của chữ này đúng ra phải là “hê”) bị viết sai, lẽ ra phải hiệu đính thì nhà phiên âm cứ để “nguyên xi” như thế mà phiên thành “Ổn Mỵ”(đúng ra phải là “Uẩn Mỵ”). Nhưng cũng chính hai chữ viết sai đó lại được phiên thành “Mỵ Ê” ở hai câu 994 (Tả hữu rằng miếu Mỵ Ê) và 999 (Thấy Mỵ Ê lạy tiêu hao khóc rằng) mặc dù chữ Nôm vẫn viết là 醖 媚. Một điều gây ngạc nhiên nữa là phần chú giải cho các câu 982, 985 và 986 lại có nói rõ rằng “Ổn Mỵ” “tức Mỵ Ê, vợ Xa Đẩu”. Người ta phải tự hỏi tại sao ở ba câu trước thì phiên thành “Ổn Mỵ” và chú giải rằng đó là Mỵ Ê còn ở hai câu sau cũng hai chữ bị viết sai đó lại được phiên thành “Mỵ Ê”. Có lẽ đây là công việc phiên âm và chú giải của nhiều người “ráp” lại chứ không phải của một người.

Vế đầu của câu 1129 được phiên là “Giả vuốt ông Từ”, nhắc đến việc, theo truyền thuyết, thì Lý Thần Tông là hóa thân của Từ Đạo Hạnh và thuở cùng học đạo thì Từ Đạo Hạnh đã giả làm hổ để dọa Nguyễn Minh Không. Nhưng mặt chữ ở đây là * (tr. 57N); đây là chữ lốt còn vuốt thì viết là *. Giả lốt là đội lốt, mang lốt. Vậy vế này là: Giả lốt ông Từ. Lẽ nào vì có liên quan đến hùm, đến hổ mà phải phiên lốt * thành “vuốt”?

Câu 1305 được phiên là “Bạn cùng bô ý thiền tăng xa gần” và “bô ý” được giảng một cách võ đoán là “áo của nhà sư!” Thực ra mặt chữ ở đây là 哺衣 và hai chữ này phải được đọc thành “phô ấy” mới đúng. Về chữ phô 哺, có thể xem ở Lạc Thiện, Sách tra chữ Nôm thường dùng, Hội Ngôn ngữ học Thành phố Hồ Chí Minh, 1991, trang 31 và 122 hoặc Huình-Tịnh Paulus Của, Đại Nam quấc âm tự vị, tại chữ “phô”. Quyển từ điển này giảng “phô” là “tiếng xưng hô nhiều người” với các thí dụ: phô ông là “các ông”, phô ngươi là “các ngươi”, phô đoàn ấy hoặc phô loài ấy là “các đoàn ấy, loài ấy, giống ấy”. Vậy phô ấy thiền tăng là các vị thiền tăng ấy và câu này là: Bạn cùng phô ấy thiền tăng xa gần.

Câu 1556 được phiên là “Cho nên dương sự bấy chừ teo đi”, nói về việc Trần Dụ Tông thuở bé có lần vì nghịch ngợm khi chèo thuyền nên ngã xuống Hồ Tây rồi cũng vì chuyện đó mà bị liệt dương. Mặt chữ ở đây là 劣 (tr. 79N) và đây rõ ràng là chữ “liệt”. Huống chi cái “sự” chỉ có thể liệt chứ không teo; chỉ có cái… “vật” mới có thể teo mà thôi. Vậy câu này là: Cho nên dương sự bấy chừ liệt đi.

Câu 1565 được phiên là “Cho thơ thất trảm dâng lên”. Nhưng mặt chữ ở đây là 固疎 (tr. 79N) và đây hẳn hoi là hai chữ “có sớ”. Vậy câu này là: Có sớ thất trảm dâng lên, nói về việc dâng Thất trảm sớ của Chu (Văn) An mà ai thuộc sử nước nhà cũng đều biết. Vả lại, đã có “cho” mà còn có cả “dâng” thì có sợ là thừa hay không và văn bản của bề tôi dâng lên vua thì có được phép gọi là “thơ”?

Câu 1896 được phiên là “Hiệu là Thiên Khánh trợ dân đại loàn” và “trợ dân đại loàn” được chú giải là “giúp dân dẹp loạn”. Tuy mặt chữ ở đây đúng là đại 代(tr. 95N) nhưng đại chỉ có nghĩa là đời, là thay thế chứ không thể là “dẹp” được. Đây chắc chắn là chữ phạt 伐 đã bị viết sai. Phạt mới có nghĩa là dẹp. Và câu này là: Hiệu là Thiên Khánh trợ dân phạt loàn.

Câu 1932 được phiên là “Là Lê Văn Luật trốn vào Ai Lao”, nói về một tên quản tượng trong đạo nghĩa quân của Lê Lợi. Mặt chữ ở đây là 路 (tr. 97N), chữ này dứt khoát không thể đọc thành “lê”. Nó đã được dùng để ghi âm “lò” mà Lò là họ của người Thái. Do đó, chữ 律 (tr. 97N) cũng không thể đọc thành “luật” vì không hợp với đặc điểm ngữ âm của tiếng Thái mà phải đọc thành “lọt” hoặc “lụt”. Vậy câu này là: “Là Lò Văn Lọt (Lụt) trốn vào Ai Lao” biết rằng nghĩa quân của Lê Lợi không chỉ gồm có người Kinh mà thôi.

Câu 1967 được phiên là “Điều binh tử chiến phá vây”. Nhưng mặt chữ ở đây là 調 共 và đây là hai chữ “đều cùng”. Việc động viên quân sĩ và việc điều binh của Lê Lợi đã được nói xong từ những câu trên còn câu này thì lại nói về việc mọi người đều cùng nhau liều chết để phá vòng vây. Vả lại, đây rõ ràng là chữ cùng 共 còn chữ binh thì viết là 兵. Vậy câu này là: Đều cùng tử chiến phá vây.

Bốn chữ đầu của câu 2195 được phiên là “quân thời nghĩa cả”. Nhưng chữ Nôm ở đây là 臣 (tr. 108N) và đây là chữ thần, có nghĩa là bề tôi của vua. Vậy bốn chữ này là: quân thần nghĩa cả (= nghĩa vua tôi là nghĩa lớn) chứ “quân thời nghĩa cả” thì lại chẳng có… nghĩa gì cả!

Câu 2262 được phiên là “Đuốc khắp xa gần cùng phục triều đông”. Chữ Nôm ở đây là * (tr. 110N). Chữ này có thể đọc là “đuốc” hoặc “đúc” nhưng ở đây mà đọc thành “đuốc” thì vô nghĩa nên phải đọc thành “đúc”. Đúc là tụ lại, gom lại, họp lại như trong chung đúc, đông đúc. Vậy câu này là: Đúc khắp xa gần cùng phục triều đông.

Câu 2325 được phiên là “Cùng vầy một đám đài xuân.” Nhưng chữ Nôm ở đây rõ ràng là 盎 (tr. 114N). Âm của nó là áng và mặc dù áng là một từ cổ có nghĩa là “đám” (áng mây = đám mây) nhưng ở đây phải theo cả âm lẫn nghĩa và mặt chữ mà phiên thành “áng” chứ không thể hiện đại hóa mà phiên… “đại” thành “đám” được! Vậy câu này là: Cùng vầy một áng đài xuân.

Mặc dù còn nhiều sai sót khác về phiên âm nhưng chúng tôi xin tạm dừng để nói sang một số sai sót về chú giải.

Hai chữ lai tân ở câu 589 được giảng là “đến làm khách, ý nói các sứ quân đều quy phục theo”. Thực ra lai tân không phải là “đến làm khách” mà chính là đến để quy phục vì ngoài cái nghĩa là “khách” thì tân còn có nghĩa là quy phục, hàng phục nữa. Rồi hai tiếng tân thiên ở câu 801 cũng được giảng là “làm khách nhà trời, ý nói bị chết”. Thực ra, ở đây cũng chính là cái nghĩa quy phục đó thôi, tân thiên là “chầu” trời, là lên mà hầu trời chứ chẳng phải là “làm khách nhà trời” một cách ngon lành.

Từ hà ở câu 173 (Vá tấm lụa trắng chập chờn hà bay) được giảng là “con bươm bướm” chỉ vì câu chuyện có liên quan đến con bướm. Thực ra, hà ở đây là ráng mây (chiếc áo có vá tấm lụa trắng của Tự Minh chập chờn, lơ lửng như làn mây bay) chứ nào phải là con bướm.

Bốn tiếng thần thái ngưng tú ở câu 1511 được giảng là “sắc mặt tươi đẹp như ngưng đọng tinh tú”. Thật khó lòng mà tưởng tượng ra nổi thế nào là “tươi đẹp như ngưng đọng tinh tú”! Huống chi chữ tú ở đây lại không phải 宿 là ngôi sao, mà lại đích thị là chữ 秀 (tr. 76N) có nghĩa là đẹp. Ngưng tú thực ra chẳng qua chỉ có nghĩa là cực kỳ xinh đẹp mà thôi. Ngưng ở đây chỉ đơn giản là rất, là cực kỳ, là đến cực điểm. Ngưng tường là đại hạnh phúc. Ngưng minh là cực kỳ rực rỡ. Ngưng diễm là cực kỳ diễm lệ. Ngưng trang là trang điểm đến mức không còn có thể trang điểm thêm được nữa, như đã nói ở Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 211 (chứ không phải là ngừng trang điểm!). Vậy ngưng tú thì chỉ là… rất đẹp.

Bốn tiếng được mười năm điệp trong câu 2058 (Được mười năm điệp đổi là Diên Ninh) được giảng là “được 10 năm sử dụng” (!). Câu này thực ra phải được ngắt theo nhịp 3-5. Được mười năm/điệp đổi là Diên Ninh, nghĩa là niên hiệu Thái Hòa sử dụng được mười năm thì có sắc (điệp là sắc của vua) ban ra cải hiệu thành Diên Ninh. Chứ điệp đâu có nghĩa là “sử dụng”!

Cuối cùng xin nói rằng trong bản phiên âm của mình, sau câu 1543, nhà phiên âm đã bỏ sót ba câu sau đây của tr. 78N:

Đều được tiến p hụng nước ta thuở này

Tháng mười hồng thủy cả thay

Nhật thực địa chấn đêm ngày tối tăm.

Vậy tác phẩm Việt sử diễn âm có tất cả là 2334 câu chứ không phải 2332 như đã nói trong “Lời giới thiệu” (Bản phiên âm của Nguyễn Tá Nhi thực tế chỉ có 2331 câu vì đoạn 1540-1545 thiếu mất một câu cho nên phải đôn lên: 1545 thành 1544, và 2332 thành 2331; vậy 2331 + 3 = 2334). Còn hai câu 956 (Tống phong Giao Chỉ quốc vương) và 957 (Đã nên Nam Việt phong cương bản đồ) bị “nhồi” lại làm một thành “Tống phong Nam Việt phong cương bản đồ” thì có lẽ là do lỗi ấn loát.

§ 437. Kiến thức ngày nay, số 262, ngày 1-11 -1997

ĐỘC GIẢ: Về chữ nho 儒 trong Nho giáo, xưa nay có mấy cách giải thích khác nhau. Ông Phan Văn Các (Viện Hán Nôm) cho rằng chữ nho 儒 do chữ nhân 亻 và chữ nhu 需 hợp lại mà thành. Nó chỉ có ý nghĩa liên quan đến phạm trù con người. Ông còn cho rằng chữ nhu 需 là thành phần biểu âm vì âm “nho” gần giống âm “nhu”*. Nhưng Trần Trọng Kim trong quyển Nho giáo (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr. 43) thì lại giải thích khác: rằng chữ nhân có nghĩa là người còn chữ nhu có nghĩa là cần dùng. Xin ông An Chi cho biết ý kiến.

AN CHI: Trong chữ “nho” 儒 thì chữ “nhân” 亻 là nghĩa phù (chỉ phạm trù con người) còn chữ “nhu” 需 là thanh phù (thành phần biểu âm), đúng như ông Phan Văn Các đã phân tích. Điều này đã được khẳng định trong từ điển. Nhưng chữ nhu lại có nghĩa là cần dùng (còn nhân là người) nên Trần Trọng Kim mới căn cứ vào đó mà đưa ra một định nghĩa theo kiểu “duy danh”, rằng nhà nho “là một hạng người bao giờ cũng cần-dùng đến để giúp cho nhân-quần xã-hội biết đường mà ăn-ở và hành-động cho hợp lẽ trời”*. Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển của Cao Thụ Phiên (Chính Trung thư cục, Đài Bắc, 1974) cũng có cho một lời giảng tương tự, rằng “học giả nãi nhân quần trung sở tối nhu yếu giả, cố nho 儒 tùng nhu 需 thanh” nghĩa là học giả (nhà nho) là người tối cần thiết trong nhân quần, do đó mà chữ “nho” theo âm của chữ “nhu”.

Vậy xét theo cấu tạo của chữ thì nho 儒 là một hình thanh tự mà nghĩa phù là nhân 亻 còn thanh phù là nhu 需 và sự phân tích của ông Phan Văn Các là hoàn toàn chính xác còn cách phân tích của Trần Trọng Kim thì chỉ là một lối giảng có tính chất phụ trợ theo kiểu duy danh để giúp cho người ta dễ tiếp cận hơn với nội hàm của khái niệm “nho” trong “Nho giáo” chứ đó không phải là một định nghĩa đầy đủ cho khái niệm đang xét.

§ 438. Kiến thức ngày nay, số 262, ngày 1-11 -1997

ĐỘC GIẢ: So sánh quyển Hán-Việt tự điển của cụ Thiều Chửu với quyển Hán-Việt từ điển của cụ Đào Duy Anh, trong bài Trả lời bài “Trả lời…” của Nguyễn Quảng Tuân đăng trên báo Văn nghệ (Hà Nội) số 40 năm 1997, ông Đào Thái Tôn có viết như sau: “Ông đừng nên chỉ dựa vào cuốn Từ điển của Thiều Chửu, vì cuốn này sơ lược lắm. Ông nên dùng thêm ít ra là Từ điển của Đào Duy Anh thì hơn”. Có ngờ đâu việc tranh luận giữa hai nhà nghiên cứu lại đụng chạm đến cả công trình của hai vị tiền bối. Xin cho biết đây chỉ là giận cá chém thớt hay quả thực quyển tự điển của cụ Thiều Chửu còn “sơ lược lắm”.

AN CHI: Chúng tôi hoàn toàn không dám nghĩ rằng Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu là một quyển sách “sơ lược”. Riêng với mấy thí dụ mà ông Đào Thái Tôn đã đưa ra trong bài viết của ông thì chúng tôi thấy rằng Thiều Chửu đã cẩn thận hơn và đúng hơn Đào Duy Anh. Xin phân tích cụ thể như sau.

1. Về chữ 膾 thì Đào Duy Anh phiên là “khoái” còn Thiều Chửu lại phiên là “quái” nhưng chính cách phiên của Thiều Chửu mới đúng với phiên thiết. Theo Khang Hy tự điển thì Đường vận, Tập vận, Vận hội, Chính vận đều cho âm của nó là “cổ ngoại thiết”, vậy nó phải được đọc là “quái”. Âm mà Đào Duy Anh cho là âm Hán Việt thông dụng còn âm mà Thiều Chửu cho lại là âm Hán Việt chính thống vì nó theo sát cách phiên thiết trong tự thư vốn phản ánh cách phát âm của đời Đường. Rất có thể là k(w), viết thành q(u), của quái 膾 (trong quái chá nhân khẩu) đã biến thành kh dưới áp lực của một từ vừa cận âm vừa cận nghĩa với nó là khoái 快 trong khoái lạc, sảng khoái.

2. Về chữ 炙, Đào Duy Anh phiên là “chá” và có chú thích là xem thêm âm “chích”, rồi tại âm “chích” thì ông viết: “Cũng đọc là chá, như chá-khoái, hoặc đọc là cứu (Chúng tôi nhấn mạnh – AC), như châm-cứu”. Còn Thiều Chửu thì ghi âm của chữ này là “chích” và giảng là “nướng”. Đúng là với nghĩa này thì chữ đang xét có hai âm: chích và chá. Cả hai âm này đều được ghi nhận trong từ điển của Trung Hoa. Chẳng hạn, Khang Hy tự điển ghi: “chi thạch thiết, âm chích (…) hựu chi dạ thiết, nghĩa đồng”, ý rằng chữ này có âm chích, lại có âm chá và với cả hai âm này nó đều có nghĩa là nướng. Vậy, về điểm này, cả Đào Duy Anh lẫn Thiều Chửu đều đúng. Nhưng Thiều Chửu đã dừng lại đúng chỗ cần dừng còn Đào Duy Anh thì lại đi xa hơn nên mới sai vì ông còn nói thêm rằng chữ 炙 “hoặc đọc là cứu, như châm-cứu”. Thực ra, ở đây Đào Duy Anh đã nhầm chữ chá 炙 với chữ cứu 灸 do tự dạng na ná với nhau, như chữ tác 作 với chữ tộ 祚 hoặc chữ ngộ 遇 với chữ quá 過. Tuy cả hai đều có chữ hỏa 火 ở dưới nhưng phần trên của chữ chá (chích) là chữ nhục 肉 viết thành (Đây là một dạng đặc biệt của chữ nhục 肉) còn phần trên của chữ cứu thì lại là chữ cửu 久. Vậy chữ 炙 không bao giờ có âm “cứu” như Đào Duy Anh đã nhầm lẫn.

3. Về chữ 僣, Đào Duy Anh phiên là “tiếm” còn Thiều Chửu thì phiên là “thiết” rồi giảng rõ như sau: “Thiết thoát 僣侻 giảo hoạt, tục mượn (chữ 僣 – AC) dùng làm chữ tiếm 僭. Vì vậy mà sách của Thiều Chửu ghi nhận cả chữ 僭 còn sách của Đào Duy Anh thì không có chữ này mặc dù chính nó mới đúng là chữ “tiếm” chánh gốc. Thiều Chửu đã xử lý rất đúng vì 僣 và 僭 là hai chữ hoàn toàn riêng biệt, thanh phù của chữ trước là thế 替 còn thanh phù của chữ sau lại là tiếm 朁(cũng đọc tiềm hoặc thảm), có khi cũng được dùng thay cho 僭.

Về chữ 僣, sau khi cho âm “thiết”, Khang Hy tự điển còn ghi rõ: “Tục dĩ 僣侻 chi 僣 vi 踰僭 chi 僭 phi thị: nghĩa là “tục lấy chữ thiết 僣 trong thiết thoát làm chữ tiếm 僭 trong du tiếm là không đúng”. Từ hải cũng lưu ý như sau: “Thích yết thiết, âm thiết, tiết vận; dữ 僭 dị”, nghĩa là “thiết âm là thích yết, đọc là thiết, thuộc vận tiết, khác với chữ 僭”.Từ nguyên cũng cho âm thiết rồi ghi thêm: “Tục dĩ vi 踰僭 chi 僭 phi: nghĩa là “tục lấy (chữ thiết) làm chữ tiếm trong du tiếm là sai”. Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển, tại chữ tiếm 僭,cũng đã chú rằng “僭, 僣 hình tự nhi âm nghĩa quýnh biệt”, nghĩa là “chữ tiếm, chữ thiết tự hình na ná nhau nhưng âm và nghĩa khác hẳn”.

Cứ như trên thì 僭 và 僣 là hai chữ hoàn toàn khác nhau cho nên lấy chữ sau thay cho chữ trước là sai và tuy thực tế vẫn có người làm như thế nhưng đó rõ ràng là một cách dùng không chuẩn. Từ điển của TrungQuốc hiện nay vẫn dùng hình thức chuẩn là 僭 cho chữ tiếm. Trong khi Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh đã lấy chữ thiết 僣 làm chữ tiếm 僭 và bỏ qua hẳn chữ tiếm chánh gốc thì Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu đã phân biệt rõ ràng hai chữ đó và đã dùng đúng hình thức chuẩn cho chữ tiếm. Điều này chứng tỏ là nó không “sơ lược” chút nào.

Ngay cả so với Từ điển Hán Việt hiện đại (Nxb. Thế giới, Hà Nội 1994) mà Đào Thái Tôn có nhắc tới, với những thí dụ mà tác giả này đã nêu ra là chữ 宏 và chữ 弘 thì Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu vẫn chính xác hơn. Theo lời của Đào Thái Tôn thì trong Từ điển Hán Việt hiện đại, “các nhà từ điển đọc cả hai chữ là hoằng, chú âm Bắc Kinh là hóng”. Nhưng âm của chữ trước là “hoành” vì thiết âm của nó là “hộ manh”, “hồ manh” (đều = hoành) còn của chữ sau lại là “hoằng” vì thiết âm của nó là “hồ quăng” (= hoằng), đọc là “hoặc bình thanh” (cũng = hoằng). Chính vì âm của hai chữ thực sự khác nhau cho nên trong Quảng vận chữ 宏 mới thuộc vận bộ canh 耕 mà chữ 弘 thì lại thuộc vận bộ đăng 登. Còn hiện tượng âm Hán Việt khác nhau đã trở thành đồng âm trong âm Bắc Kinh là chuyện hoàn toàn bình thường. Thí dụ: âm Bắc Kinh của 6 chữ 磨, 末, 莫, 陌, 墨, và 没 đều là mò nhưng âm Hán Việt của chúng lại là: ma, mạt, mạc, mạch, mặc và một. Có thể kể ra hàng loạt thí dụ như thế. Vì âm Hán Việt của chúng khác nhau hẳn hòi như đã chứng minh nên Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu mới ghi âm hoành cho chữ trước và hoằng cho chữ sau và chính từ điển của Đào Duy Anh cũng đã làm như thế. Vậy rõ ràng là trong trường hợp đang xét thì Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu chính xác hơn Từ điển Hán Việt hiện đại.

Tóm lại, Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu không hề “sơ lược”, càng không phải là “sơ lược lắm”. Còn sở dĩ nó không có nhiều mục từ bằng Hán-Việt từ-điển của Đào Duy Anh thì chỉ là vì tính chất của hai quyển lại khác nhau. Thiều Chửu gọi sách của mình là tự điển nên ông chỉ giảng các chữ lẻ (đơn tự) mà thôi còn Đào Duy Anh thì gọi sách của mình là từ điển nên ngoài 5.000 đơn tự ra, ông còn giảng thêm đến 40.000 từ ngữ nữa. Quyển sau nhiều hơn quyển trước chính và chỉ là nhờ ở điểm này chứ nếu chỉ kể đơn tự thì Thiều Chửu đã giảng đến hơn 8.000 chữ trong khi Đào Duy Anh chỉ giảng có 5.000. Còn nếu xét theo lời giảng đối với từng đơn tự thì dứt khoát Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu không thua Hán-Việt từ-điển của Đào Duy Anh.

§ 439. Kiến thức ngày nay, số 263, ngày 10-11-1997

ĐỘC GIẢ: Nếu tôi nhớ không lầm thì sau giải phóng, từ “thiếu đói” mới xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng và cả lúc thuyết trình (trước đó miền Nam không dùng). Ban đầu tôi nghĩ từ này có lẽ rút ngắn từ cụm từ “thiếu thốn đói nghèo” mà ra. Nhưng rồi liên tưởng đến những từ: thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tiền, thiếu gạo, thiếu tình thương… thì thấy ngờ ngợ vì không biết có phải thiếu đói cũng cùng kiểu với các cách cấu tạo trên đây hay không. Vậy “thiếu đói” có phản nghĩa với nghĩa mà người ta muốn nói không?

AN CHI: Một từ có thể tham gia nhiều kiểu cấu trúc khác nhau. Chẳng hạn, đủ có thể có mặt trong: đủ ăn, đủ mặc, đủ tiền, đủ gạo, v.v., là những cấu trúc chính phụ trong đó nó là thành tố chính còn thành tố phụ là động từ (ăn, mặc) hoặc danh từ (tiền, gạo) đứng sau. Nhưng nó cũng có thể tham gia các cấu trúc đẳng lập trong đó hai thành tố đều cùng một từ loại và một phạm trù ý nghĩa, chẳng hạn: no đủ, đầy đủ, đông đủ, v.v.. Cũng thế đối với từ thiếu. Thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tiền, thiếu gạo, v.v., là những cấu trúc chính phụ trong đó thiếu là thành tố chính và ăn, mặc, tiền, gạo là những thành tố phụ. Còn thiếu đói là một cấu trúc gồm hai thành tố cùng một phạm trù ý nghĩa (đói = thiếu ăn hoặc hoàn toàn không có cái ăn), đồng thời cũng là hai thành tố cùng một phạm trù ngữ pháp là vị từ. Vậy đây là một cấu trúc đẳng lập, khác hẳn với: thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tiền, thiếu gạo, thiếu tình thương, thiếu lương tâm, thiếu đạo đức, v.v., là những cấu trúc chính phụ trong đó thiếu là thành tố chính còn thành tố phụ luôn luôn chỉ cái sở cầu (ăn, mặc, tiền, gạo) hoặc cái có ý nghĩa tốt đẹp, tích cực (lương tâm, đạo đức) chứ không thể là cái người ta không cần, không thích hoặc cái có ý nghĩa tiêu cực, xấu xa. Đói là hiện tượng tiêu cực, là cái mà ai cũng muốn tránh, không ai muốn tìm. Vậy thiếu đói không thể là một từ tổ chính phụ như thiếu ăn, thiếu gạo, v.v.. Đó chỉ thể là một cấu trúc đẳng lập mà hai thành tố (thiếu, đói) đều cùng từ loại về mặt ngữ pháp và đều cùng một phạm trù ý nghĩa như đã nói ở trên mà thôi.

§ 440. Kiến thức ngày nay, số 263, ngày 10-11-1997

ĐỘC GIẢ: Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh đã chiếu bộ phim truyền hình 40 tập của Trung Quốc nhan đề “Tể tướng Lưu gù” trong đó có một nhân vật gian thần tên là “Hòa Thân”. Nhưng trong bài của Vũ Thị Thùy Dương nhan đề “Chuyện Hòa Khôn hay mối tình “đồng tính luyến ái” của Càn Long hoàng đế” đăng trên Thế giới mới, số 258 (20-101997) thì tên của nhân vật đó lại được đọc là “Hòa Khôn”. Vậy đây là “Hòa Thân” hay “Hòa Khôn”? Hay là nhân vật này có hai tên? Nếu chỉ có một tên thì hẳn là trong hai tên đó có một tên bị phiên âm nhầm lẫn. Vậy làm thế nào để tránh nhầm lẫn trong khi phiên âm?

AN CHI: Tên của nhân vật đó là Hòa Thân, chữ Hán là 和珅, chứ không phải “Hòa Khôn”. Chữ 珅 cũng chỉ có một âm duy nhất là “thân”, thiết âm của nó là “thăng nhân thiết, âm thân” (升人切,音申) như đã được cho trong Khang Hy tự điển và Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993). Sở dĩ Vũ Thị Thùy Dương phiên âm chữ đó thành “Khôn” có lẽ là vì tác giả này đã nhầm nó với chữ “khôn” đích thực mà tự dạng là 坤. Tuy cả hai đều là những hình thanh tự mà thanh phù là thân 申 nhưng trong chữ thân 珅 (tên của nhân vật đang xét), thì nghĩa phù là chữ ngọc 玉 (viết thành 王) vì 珅 là tên của một thứ ngọc còn trong chữ khôn 坤, nghĩa phù lại là chữ thổ 土 (= đất) vì, trong bát quái (tám quẻ) thì khôn là tên của quẻ tượng trưng cho đất (càn khôn = trời đất).

Vậy hai chữ thân 珅 và khôn 坤 chỉ khác nhau ở cái nét ngang trên cùng bên trái của chữ 珅 mà thôi, nếu không để ý thì rất dễ nhầm lẫn. Và tên của nhân vật gian thần dưới triều vua Càn Long nhà Thanh là Hòa Thân chứ không phải “Hòa Khôn”. Trong bài “Một vài mẩu chuyện về việc chơi chữ của người Trung Hoa” (Kiến thức ngày nay, số 52) chúng tôi cũng có nhắc đến nhân vật Hòa Thân. Thái Trọng Lai có nói rằng tên của nhân vật này “còn được sử ta dịch là Hòa Khôn”*. Cách diễn đạt này có thể làm cho người ta hiểu lầm rằng “Hòa Khôn” cũng là một cách phiên âm đúng. Thực ra, đọc thân 珅 thành “khôn” chẳng qua cũng như đọc tác 作 thành tộ 祚, đọc ngộ 遇 thành quá 過 mà thôi. Cách đây ngót 80 năm, trong Việt-Nam sử lược (chương VI, mục 5), sử gia Trần Trọng Kim cũng đã phiên âm chính xác tên của nhân vật này là Hòa Thân. Tương ứng với âm Hán Việt thân, âm của chữ 珅 trong tiếng Bắc Kinh là shén chứ nếu là “khôn” thì âm Bắc Kinh tương ứng phải là kún.

Để tránh nhầm lẫn khi phiên âm chữ Hán thì, theo chúng tôi, không có cách nào hữu hiệu bằng việc tra cứu nơi tự thư và vận thư, tóm lại là trong các loại từ điển. Nếu từ điển cỡ nhỏ không có thì phải tra ở những quyển tự điển lớn hơn. Tuy nhiên, cũng có những quyển tự điển nhỏ, nhưng mà lại “bé hạt tiêu”, chẳng hạn Thực dụng học sinh tự điển của Phương Nghị, Lục Nhĩ Khuê và Mã Doanh. Quyển này đã thâu thập chữ 珅 trong khi Từ nguyên, Từ hải và Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển lại không ghi nhận chữ đó. Thực dụng học sinh tự điển, khổ 9,5x17 (cm), 253 trang chính văn, đã cung cấp trên 13.000 chữ trong khi Hán Việt tự-điển của Thiều Chửu chỉ có hơn 8.000 còn Hán-Việt từ-điển của Đào Duy Anh chỉ có 5.000. Tóm lại là cần có nhiều quyển và/hoặc nhiều loại tự điển khác nhau còn khi chưa tìm được âm chính xác cho chữ cần thiết thì có lẽ tốt nhất là không nên khẳng định theo “cảm nhận” chủ quan.

§ 441. Kiến thức ngày nay, số 263, ngày 10-11-1997

ĐỘC GIẢ: Em nhớ sách Lịch sử lớp 7 nói Toa Đô bị chém đầu tại trận và sách Lịch sử lớp 4 (cải cách giáo dục) có kể chuyện bắt sống Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng. Nhưng tại sao trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi lại viết:

“Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”

Phải chăng tác giả hay người dịch đã nhầm lẫn?

AN CHI: Trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi quả đã viết:

“Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,

Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải”

nghĩa là:

Toa Đô đã bị bắt ở cửa Hàm Tử

Ô Mã lại chết ở biển Bạch Đằng.

Vì nguyên văn của Nguyễn Trãi như thế cho nên trong Nguyễn Trãi toàn tập (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1969), Văn Tân đã căn cứ theo đó mà dịch là:

“Toa Đô bị bắt ở cửa Hàm Tử,

Ô Mã bị giết ở sông Bạch Đằng”.

(Sđd, tr. 63)

Không thấy dịch giả tỏ ra quan tâm đến sự nhầm lẫn mà em đã nêu lên vì tại phần chú thích bản dịch “Bình Ngô đại cáo” trong sách đã dẫn (tr. 475 – 476), Văn Tân đã không hề bình luận gì về hai sự kiện đang xét. Khi sách Nguyễn Trãi toàn tập được tái bản (in lần thứ hai, có sửa chữa và bổ sung) năm 1976 (cũng do Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội) thì hai câu dịch trên đây vẫn được giữ nguyên và cũng chẳng có chú thích gì (Xem tr. 77 và 483 – 484).

Trong Đại Việt sử ký toàn thư, tập III, in lần thứ hai có sửa chữa (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1972), Đào Duy Anh cũng đã dịch như sau;

“Toa-đô bị bắt ở Hàm-tử quan;

Ô-mã lại chết ở Bạch-đằng hải”.

(Sđd, tr. 51)

Và Đào Duy Anh cũng chỉ chú thích rằng Toa Đô và Ô Mã Nhi là “hai tướng của nhà Nguyên xâm lược nước ta ở đời Trần”, còn Hàm Tử quan là “cửa quan trên sông Hồng, ở phía trên bãi Mạn-trù cách 6 cây số, về huyện Khoái-châu tỉnh Hưng-yên (Sđd, tr. 339, chth. 104). Không thấy ông đặt vấn đề gì về sự sai biệt của các chi tiết trên đây so với những điều thông thường mà lịch sử đã ghi chép.

Duy có Bùi Kỷ thì đã đảo ý của Nguyễn Trãi mà dịch như sau:

“Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô;

Sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã”.*

Nhưng Bùi Kỷ cũng không giải thích tại sao ông lại “đổi ý” của Nguyễn Trãi như thế. Còn Trần Trọng Kim, khi đưa bản dịch Bình Ngô Đại cáo vào Việt Nam sử lược (in và phát hành tại Sài Gòn năm 1949, tr. 229 – 232), cũng không hề ghi chú gì về những chuyện bất nhất đang xét.

Vậy nếu quả như vẫn được biết cho đến nay, rằng Toa Đô bị chém đầu còn Ô Mã Nhi bị bắt sống, thì đúng là Nguyễn Trãi đã nhầm lẫn khi viết “Bình Ngô đại cáo”. Tuy nhiên theo chúng tôi thì sự thật có lẽ không hoàn toàn đơn giản như thế vì ít ra Nguyễn Trãi cũng đã đúng khi viết rằng Ô Mã Nhi đã chết (ế 殪 = chết). Thật vậy, Đại Việt sử ký toàn thư đã chép như sau về việc trao trả Ô Mã Nhi về nước sau khi y bị bắt sống:

“Mùa xuân, tháng 2 (năm Kỷ Sửu, 1289 – AC), sai nội thư gia là Hoàng Tá Thốn đưa bọn Ô-mã-nhi về nước, dùng kế của Hưng-đạo vương cho người giỏi bơi lội sung làm phu thuyền, ban đêm dùi thuyền cho chìm, bọn Ô-mã-nhi đều chết đuối cả”.*

Vậy phải chăng Nguyễn Trãi muốn nói đến sự việc này?

Còn về việc Toa Đô “bị bắt” thì chúng tôi cho rằng có lẽ cũng nên xét lại văn bản một chút. Như đã dẫn ra ở trên, phần đầu của hai câu hữu quan là như sau:

“Toa Đô ký…

Ô Mã hựu…”

nghĩa là

“Toa Đô đã…

Ô Mã lại…”

Cứ theo cấu trúc trên thì rất có thể là trong nguyên cảo của Nguyễn Trãi, động từ đứng sau “ký” ( = đã) đã là một từ đồng nghĩa với động từ đứng sau “hựu” (= lại), nói một cách khác, đó cũng có thể là một động từ có nghĩa là chết hoặc bị giết. Và động từ đó biến thành cầm (= bị bắt) như đang thấy hiện nay thì có lẽ chỉ là do tam sao thất bản mà ra.

Chúng tôi thiển nghĩ như trên còn thực hư như thế nào thì chúng tôi không dám lạm phần của các nhà chuyên môn. Xin hoan nghênh và cám ơn em đã nêu một thắc mắc thú vị và bổ ích.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3