Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2: Câu hỏi 401 - 426
§ 401. Kiến thức ngày nay, số 245, ngày 10-5-1997
ĐỘC GIẢ: Tôi cùng một nhóm bạn có tranh cãi về ngày Độc lập của nước Mỹ. Tất cả đều nói là ngày 14-7. Chỉ có một mình tôi nói là ngày 4-7 thôi. Xin cho biết ngày nào đúng và xin cho biết tại sao có ngày đó.
AN CHI: Dù chỉ có một mình, bạn vẫn cứ đúng như thường: đó đúng là ngày 4-7. Đây là ngày mà các thuộc địa của Anh tại Bắc Mỹ tuyên bố độc lập, tách ra khỏi mẫu quốc Anh. Trong khi tiến hành cuộc chiến tranh giành độc lập (1775 – 1783) thì ngày 4-7-1776, 13 thuộc địa đã tuyên bố độc lập dưới cái tên Hợp chúng quốc châu Mỹ là cái tên đã được dùng cho đến tận ngày nay. Còn 14-7 thì lại là ngày Quốc khánh của nước Pháp.
§ 402. Kiến thức ngày nay, số 245, ngày 10-5-1997
ĐỘC GIẢ: Trong sách lễ Công giáo có câu: “Lạy chúa, chúc tụng Chúa là Chúa tể càn khôn”. Xin cho biết hai tiếng “càn khôn” có nghĩa là gì.
AN CHI: Càn và khôn là tên của hai quẻ trong bát quái (tám quẻ) là: càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Càn tượng trưng cho trời, khôn tượng trưng cho đất. Vậy càn khôn có nghĩa là trời đất, vũ trụ.
§ 403. Kiến thức ngày nay, số 246, ngày 20-5-1997
ĐỘC GIẢ: Tại một bài viết in trong tập kỷ yếu của Hội nghị khoa học về vấn đề “Chữ quốc ngữ và sự phát triển chức năng xã hội của tiếng Việt”, (Thành phố Hồ Chí Minh, 3-1997) tác giả Hồ Lê có khẳng định rằng từ “ba hoa” của tiếng Việt là do tiếng Pháp “bavard” mà ra (tr. 126). Xin cho biết có phải từ nào của tiếng Việt có âm na ná với âm của một tiếng Pháp nào thì đều do tiếng Pháp đó mà ra hay không?
AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 107, khi nhận xét về ý kiến của Lê Trung Hoa cho rằng tên đệm “Văn” của nam giới và “Thị” của nữ giới trong tiếng Việt có thể là do hai tiếng “ben” và “binti” do các chú lái buôn người Á Rập đem đến, chúng tôi có viết: “Nói ben có thể cho ra văn còn binti có thể cho ra thị chẳng khác nào nói rằng tiếng Pháp petit đã cho ra tiếng Việt bé tí còn colosse thì đã cho ra khổng lồ, chẳng khác nào nói rằng tiếng Ý ciao đã cho ra tiếng Việt chào còn tiếng Tây Ban Nha nino thì đã cho ra nhỏ nhí.” Trên Kiến thức ngày nay, số 170, chúng tôi cũng đã chứng minh rằng từ ba (trong “ba má”) không phải do tiếng Pháp papa mà ra, mà lại bắt nguồn ở danh từ pá 爸 của tiếng Quảng Đông. Vậy vấn đề không phải ở chỗ thuần túy có sự trùng hợp về ngữ âm. Cái thí dụ đã trở thành cổ điển trong ngữ học so sánh là tính từ bad của tiếng Anh và tính từ bad trong tiếng Ba Tư hoàn toàn không có liên quan gì đến nhau mặc dù đó là những từ cùng nghĩa và hơn thế nữa, mặc dù tiếng Anh và tiếng Ba Tư có họ hàng với nhau.
Bây giờ trước khi nói về hai tiếng ba hoa, chúng tôi xin nói một chút về hai tiếng bá láp mà một số người biết tiếng Pháp cũng cho là do tiếng Pháp palabre (= cuộc nói chuyện dông dài) mà ra. Palabre > bá láp là chuyện xem ra rất có lý. Nhưng sự thật lại hoàn toàn chẳng phải như thế vì trước khi người Việt Nam chính thức tiếp xúc với tiếng Pháp thì hai tiếng bá láp đã tồn tại trong tiếng Việt… tự bao giờ. Và tiếng Việt chẳng những có bá láp mà còn có: láp, tam láp, láp giáp, đều là những hình thức có liên quan với nó về mặt ngữ nghĩa cũng như về mặt cấu tạo từ*. Hoặc như từ đía (= phét lác, lắm mồm) trong phương ngữ Nam Bộ thì nhiều người biết tiếng Pháp cũng cho là do động từ dire (= nói) mà ra. Thực ra, đó là một từ Việt gốc Hán cận đại bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 喋, có nghĩa là nói nhiều, nói luôn mồm, mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là điệp còn âm Bắc Kinh là dié.
Trở lại với hai tiếng ba hoa, và nếu không cần đếm xỉa đến những điều kiện khác, thì bavard > ba hoa có vẻ như rất có lý. Nhưng tính hữu lý sẽ lung lay khi người ta xét từ ba hoa về mặt trọng âm: trọng âm của từ này được thể hiện theo mô hình [11] mà Cao Xuân Hạo gọi là spondée trong khi một từ hai âm tiết phiên âm từ tiếng Pháp sẽ phải có mô hình [01] mà Cao Xuân Hạo gọi là iambe, thí dụ: ét-xăng; ga-ra; xú-chiêng; xi-măng; bê-tông, v.v.. Rõ ràng là vì tuyệt đại đa số người viết đều nhận thức rằng ba hoa có mô hình trọng âm [11] và không phải là kết quả của một sự phiên âm từ tiếng Pháp nên chẳng có ai dùng gạch nối (-) mà viết thành “ba-hoa” cả. Trong khi đó thì những từ song tiết phiên âm từ tiếng Pháp đều được viết có gạch nối. Ngoài những thí dụ đã thấy ở trên, còn có thể kể ra hàng loạt thí dụ khác: ty-p ô, li-tô, cà-rốt, ca-rô, đề-pô, v.v.. (Ở đây không kể đến những người chủ trương không dùng gạch nối hoặc những người dùng gạch nối một cách “đại trà” và vô nguyên tắc, cái gì cũng nối!) Đó là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai, nếu ba hoa là một từ phiên âm từ tiếng Pháp, thì khó mà có được những kiểu kết hợp như: ba hoa chích chòe, ba hoa thiên địa, ba hoa xích đế, vốn là những lối nói đã có từ lâu đời trong khẩu ngữ của dân gian. Cũng giống như nếu bá láp là một hình thức phiên âm từ tiếng Pháp thì chẳng làm sao có được kiểu kết hợp như bá xàm bá láp hoặc bá láp bá xàm, có khi cũng biến đổi thanh điệu mà nói thành ba láp ba xàm, vốn là những lối nói lâu đời đã có từ trước khi tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Pháp.
Điểm thứ ba là v- của tiếng Pháp vẫn được phiên âm một cách bình thường thành v- của tiếng Việt chứ không thành hw-. Thí dụ: valise > va-li; valse > (điệu) van; vareuse > va-rơi; vecteur > véc-tơ; veine > ven; vert > ve; vernis > véc-ni; veste > (áo) vét; vitamine > vi-ta-min; volée > vô-lê; v.v.. Vậy (ba)vard không thể thành (ba) hoa.
Vì ba điểm trên đây nên chúng tôi khẳng định rằng ba hoa không phải do bavard mà ra. Đó có thể là một danh ngữ đẳng lập gồm có hai thành tố gốc Hán cận nghĩa (nên mới có mô hình trọng âm [11]) mà quá trình thành hình có thể đã diễn ra như sau. Thoạt đầu người ta có từ láy Hán Việt ba ba 吧 吧, cũng viết 巴巴, có nghĩa là nói nhiều, ba hoa (Mathews’ Chinese-English Dictionary: “loquacious”). Bên cạnh ba ba, người ta còn có từ ghép Hán Việt huyên hoa, cũng có nghĩa là nói nhiều (hoặc ồn ào). Chúng tôi cho rằng ở đây đã xảy ra một kiểu sự cố ngôn ngữ (accident linguistique) là sự đan xen hình thức (croisement de formes), như đã có lần nói đến trên Kiến thức ngày nay, số 106, nên mới tạo ra một từ mới là ba hoa để diễn đạt cái nghĩa đang dùng hiện nay, trong đó ba vốn là của ba ba còn hoa vốn là của huyên hoa. Hoặc cũng có thể, nếu không phải là kết quả của một sự đan xen hình thức, thì đây là một từ tổ mà tự người Việt Nam đã cấu tạo bằng hai thành tố ba và hoa của tiếng Hán nên ba hoa mới không có trong thư tịch của Trung Hoa.
Nhưng dù con đường sản sinh ra từ ba hoa trong tiếng Việt có như thế nào, thì từ này, theo chúng tôi, cũng không thể do tiếng Pháp bavard mà ra.
§ 404. Kiến thức ngày nay, số 246, ngày 20-5-1997
ĐỘC GIẢ: “Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần” (Truyện Kiều, câu 439).
Xin cho biết thực chất mấy tiếng “đỉnh Giáp non thần” ở đây chỉ ý gì. Bốn tiếng trên có phải là do tiếng Hán “Giáp đỉnh thần sơn” mà ra?
AN CHI: Tiếng Hán không có thành ngữ “Giáp đỉnh thần sơn”. Còn về bốn tiếng “đỉnh Giáp non Thần” thì xin trích lời giảng ở các sách như sau.
Thuý-Kiều truyện tường chú của Chiêm Vân Thị, quyển thượng, do Trúc-Viên Lê Mạnh Liêu phiên dịch và phụ chú (tái bản lần thứ nhất, Sài Gòn, 1973) giảng như sau: “Thơ vịnh người đẹp ngủ của Vương Xứng đời Minh có câu: Thần du bồng đảo tam thiên giới, mộng nhiễu vu sơn thập nhị phong: thần đi chơi khắp ba ngàn cõi Bồng-đảo, mộng đi quanh khắp mười hai núi Vu-sơn. Đỉnh Giáp là Vu-sơn. Non Thần là núi Tam-thần, tức là Bồng-đảo trong thơ trên” (Sđd, tr. 160 – 161, chth. 15).
Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh giảng: “Do điển bài tựa Cao-đường phú của Tống Ngọc nói rằng tiên vương nước Sở chơi đất Cao-đường nằm mơ thấy một người đàn bà đẹp, hỏi là người ở đâu, người ấy xưng là thần nữ ở núi Vu-giáp; non thần tức nhân núi ấy mà nói là núi có thần. Câu này ý nói Kim Trọng đương chợp ngủ thấy Kiều đến thì mơ màng như thấy thần nữ đến” (Xem chữ đỉnh, trang 130). Nguyễn Quảng Tuân cũng giảng đại ý như Đào Duy Anh*. Nguyễn Thạch Giang cũng dẫn điển trên đây mà nói rằng “đây mượn điển này để nói cuộc hội ngộ thần tiên Kim Trọng – Thúy Kiều*. Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim thì giảng về hai tiếng “đỉnh Giáp” là “Sở Tương Vương nằm mơ thấy một người đàn bà đẹp lắm, hỏi là người ở đâu, thì thưa rằng: Thiếp là thần nữ núi Vu giáp, sớm làm mây, tối làm mưa” và về hai tiếng “non Thần” là “Thần châu là núi tiên ở”. Câu này nói lúc bấy giờ Kim Trọng mới tỉnh dậy còn ngơ ngác, hình như hồn vía vẫn còn ở đâu cõi thần tiên”.*
Gần đây, có một kiến giải khác về bốn tiếng “đỉnh Giáp non thần” mà người đề xuất là Lê Tuyên. Tác giả này cho rằng đỉnh giáp là “đứng đầu, đứng trên hết trong khoa giáp, chỉ ba người đỗ đầu trong khoa thi Đình (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) và bốn tiếng “đỉnh giáp non thần” nói đến giấc mơ thi đậu cao và lấy vợ đẹp. Tác giả viết: “Lúc này Kim Trọng đang ở trọ học để đi thi, nếu có mộng thì phải mộng như vậy, chứ không thể mộng theo kiểu dung tục, chỉ mơ ái ân mà không mơ đỗ đạt (…) Lúc này Kim Trọng đang là một nho sinh có lễ giáo và Thúy Kiều đang là một thục nữ, mà hai người cũng chỉ mới gặp gỡ sơ qua, lẽ nào Kim Trọng lại dám nghĩ tới điều tình dục bậy bạ (sex) như vậy”*. Chúng tôi chỉ xin lưu ý rằng đây là một cô “thục nữ” đã dám và đã biết lợi dụng tình thế cả nhà đi vắng để đi “tìm trai”, chẳng những thế, sau khi trở về mà thấy cả nhà vẫn chưa về đến, lại còn tức khắc “cửa ngoài vội rủ rèm the, xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để đi “gặp trai” một lần nữa. Còn “cậu nho sinh có lễ giáo” kia chỉ sau đó giây lát thì đã lâm cảnh “sóng tình dường đã xiêu xiêu, xem trong âu yếm có chiều lả lơi” khiến cho bạn tình của mình phải nhắc nhở “vội chi liễu ép hoa nài”. Nguyễn Du mà không thắng (= phanh, hãm) gấp thì… “sex” liền ngay tức thì ấy đi chứ!
Nhưng cái lý chính mà chúng tôi muốn dẫn ra để bác cách giải thích của Lê Tuyên chẳng phải là ở chỗ đó mà lại là ở chỗ sau đây: Theo chúng tôi, Nguyễn Du chưa bao giờ nói đến tiếng “giáp” trong câu 439. Chữ mà ông dùng là hiệp 峽. Chữ này không bao giờ có âm “giáp” cả. Chẳng qua là các nhà phiên âm từ cuối thế kỷ trước đến nay có sự nhầm lẫn mà phiên nó thành “giáp” thôi. Chữ đang xét thực ra chỉ có âm hiệp (hoặc hạp ) như chúng tôi cũng đã có phiên ở câu:
“Vu sơn Vu hạp (hiệp) khí tiêu sâm”
trong bài Thu hứng thứ nhất của Đỗ Phủ*. Vậy câu Kiều thứ 439 là:
“Bâng khuâng đỉnh Hiệp non Thần.”
Câu thơ do đó chẳng có liên quan gì đến chuyện “đứng đầu, đứng trên hết trong khoa giáp” cả. Và đỉnh Hiệp non Thần là một tích duy nhất chứ cũng không phải hai tích khác nhau như Chiêm Vân Thị hoặc nhóm Bùi Kỷ – Trần Trọng Kim đã chú giải. Đây là tích núi Vu, kẽm Vu (Vu hiệp) có miếu thờ Thần Nữ, là người đẹp mà tương truyền là Sở Tương Vương đã từng nằm mộng thấy. Vậy nói đến đỉnh Hiệp non Thần là nói chuyện tơ tưởng, mơ màng đến người đẹp chứ có phải luôn luôn chỉ là chuyện… mây mưa, chuyện sex mà thôi đâu!
§ 405. Kiến thức ngày nay, số 247, ngày 1-6-1997
ĐỘC GIẢ: Nói về năm kỷ niệm thành phố Sài Gòn, Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 241 đã khẳng định như sau: “Chỉ có năm 1698 mới là cái mốc thời gian hợp lý nhất để đánh dấu sự ra đời của Sài Gòn và bộ sách Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh ra mắt độc giả trong mấy năm gần đây cũng chính là theo tinh thần của quan điểm đó: chuẩn bị kỷ niệm 300 năm tuổi của Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh, vào năm 1998”. Nhưng trong một bài phỏng vấn thuộc mục “Tài trí Việt Nam” nhan đề “Không thể nói Sài Gòn 300 tuổi” do Dương Kiều Linh thực hiện, đăng trên Thế giới mới, số 234 (5-5-1997). GS. Trần Quốc Vượng đã nói nguyên văn như sau: “Mặc dù chưa đồng tình với cách đặt vấn đề kỷ niệm 300 năm Sài Gòn, bởi theo tôi, phải nói một cách chính xác rằng kỷ niệm sự hình thành ổn định cơ cấu hành chính của Sài Gòn, bằng sự kiện 1698 khi Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đóng dinh Trấn Biên ở Biên Hòa. Còn ở khía cạnh khảo cổ học và lịch sử hình thành vùng đất, không thể nói là Sài Gòn 300 năm được”. Xin ông An Chi cho biết ý kiến.
AN CHI: Trước nhất, chúng tôi xin lạm phép nhắc lại câu chuyện về nhân vật La Palice trong lịch sử của nước Pháp. Đây là một viên thống chế đã từng tham dự những cuộc chiến tranh ở Ý của Louis XII và François đệ nhất. Ông ta qua đời năm 1525 và binh lính đã đặt một bài hát để tôn vinh ông. Bài hát có câu “Một khắc đồng hồ trước khi chết thì tướng quân hãy còn sống” (Un quart d’ heure avant sa mort, Il était encore en vie). Do những lời ca ngộ nghĩnh – vì chỉ được hiểu theo nghĩa đen – này mà về sau người Pháp đã đặt ra thành ngữ vérité de La Palice để chỉ những sự thật ngây ngô. Trần Quốc Vượng nói rằng “ở khía cạnh khảo cổ học và lịch sử hình thành vùng đất, không thể nói là Sài Gòn 300 năm được” thì, suy đến cùng, cũng chỉ là phát biểu một vérité de La Palice mà thôi! Vì cái vérité rất đơn giản này mà Ban biên tập bộ Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, thực ra, cũng đã viết như sau: “Thành phố của chúng ta tuổi rất trẻ, chưa đầy 300 năm. Thành phố của chúng ta không phải mọc lên giữa một vùng đầm lầy mới được sông ngòi bồi đắp, chưa được con người đến cải tạo thiên nhiên, mà hình thành ở giữa một vùng văn hóa rất xưa, có di chỉ khảo cổ dày đặc, niên đại nhiều thiên niên kỷ trước công nguyên (…) Lê Trung Khá nói về “Sài Gòn thời tiền sử”; Võ Sĩ Khải sẽ tiếp theo nói về “Sài Gòn thời sơ sử”. Hai tác giả cố gắng tập hợp thành hệ thống những thành quả của khoa học khảo cổ, nhân chủng, địa chất nhằm đem lại một ít ánh sáng rọi qua những thời hãy còn khá mờ mịt cho tuyệt đại đa số người Sài Gòn: trước khi có Sài Gòn thì ở vùng này có gì, diễn biến lịch sử ra sao?”*. Thì cũng giống như ý kiến của Trần Quốc Vượng đó thôi. Nói cho chính xác và công bằng hơn, thì ý kiến của Trần Quốc Vượng cũng… y chang ý kiến của Ban biên tập bộ Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, vì ông Vượng phát biểu năm 1997 còn Ban biên tập của sách đã dẫn thì lại phát biểu từ năm 1985, nghĩa là trước ông những mười hai năm.
Ông Trần Quốc Vượng lại nói: “… kỷ niệm 300 năm Sài Gòn, theo tôi, phải nói một cách chính xác rằng kỷ niệm sự hình thành ổn định cơ cấu hành chính của Sài Gòn, bằng sự kiện 1698 khi Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đóng dinh Trấn Biên ở Biên Hoà”. Thì những người biên soạn bộ Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh cũng có nói khác thế đâu, mà họ còn nói trước ông Vượng những 10 năm (1987). Và họ đã nói chính xác vì họ đã gắn Sài Gòn với huyện Tân Bình và dinh Phiên Trấn còn ông thì lại gắn nó với dinh Trấn Biên ở tít… miệt Biên Hòa ngày nay nên đã nói sai. Chúng tôi đã có trích dẫn trên Kiến thức ngày nay, số 241 nhưng vẫn xin trích dẫn lại để đối chiếu cho thuận tiện:
“1698 là năm chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh (cũng đọc Kính) vào Nam kinh lược, (…) lấy đất Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn; mỗi dinh đặt chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để cai trị. Từ đây mới chính thức có chính quyền của chúa Nguyễn ở vùng đất mới bấy lâu nay do lưu dân Việt Nam tự động đến sinh sống khai hoang lập ấp và tự quản. Ta lấy năm 1698 làm mốc đầu tiên của Sài Gòn là vì vậy, vì từ đó mới có phủ sở Gia Định, huyện sở Tân Bình thuộc phủ Gia Định, từ đó xứ Sài Gòn mới chánh thức là đất Việt Nam”.*
Còn Trần Văn Giàu thì viết: “Năm 1698, xứ Sài Gòn trở thành huyện Tân Bình, huyện sở đặt trên gò Tân Khai ngó xuống Bến Nghé. Đây cũng là trụ sở của dinh Phiên Trấn. Ta có thể lấy năm lập huyện Tân Bình, dinh Phiên Trấn, làm năm khai sinh cho thành phố Sài Gòn, một điểm cư dân đã khá trù mật từ nhiều chục năm, cũng là một điểm thương mãi đang ở trong thế thịnh đạt”.*
Cứ như trên thì rõ ràng là giới nghiên cứu của Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có cả nhà sử học lão thành Trần Văn Giàu, đã nói trước từ lâu những điều mà đến năm 1997 mới thấy Trần Quốc Vượng phát biểu. Chúng tôi phải trình bày kỹ như trên để tránh ngộ nhận rằng những lời phát biểu của Trần Quốc Vượng là những ý kiến mới mẻ. Chúng tôi cũng xin mạo muội phát biểu thêm rằng đối với năm khai sinh của thành phố Sài Gòn thì cái năm mà cơ cấu hành chính chính thức của Việt Nam được thiết lập tại đó mới là cái mốc thời gian thực sự có ý nghĩa chứ những cái mốc “khảo cổ” và “lịch sử hình thành vùng đất” thì có lẽ chủ yếu chỉ có thể gây hứng thú cho các nhà khảo cổ học và các nhà địa chất học mà thôi.
§ 406. Kiến thức ngày nay, số 247, ngày 1-6-1997
ĐỘC GIẢ: Tên thật của Bao Công là gì?
AN CHI: Trong bài “Bao Thanh Thiên và những điều chưa biết” của Ngọc Cúc đăng trên báo Người lao động thứ hai 5-5-1997, tác giả đã cho biết như sau:
“Theo giáo sư Huỳnh Lứa – Ủy viên Hội đồng Khoa học thuộc Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh – thì Bao Chuẩn mới là tên tục (cũng là tên thật – AC) của nhân vật này”.
Ông Huỳnh Lứa đã nhầm: tên thật của Bao Công là Bao Chửng với chữ chửng viết là 拯 và có nghĩa là cứu vớt, giúp đỡ. Thiết âm của chữ này là “chi sửng thiết”, “chưng thượng thanh”*. Sở dĩ chửng biến thành “chuẩn” chỉ là do một sự “hiệu đính” tuy bác học nhưng lại sai lầm vì ở chỗ này thì nhà bác học đã bị người ít học chơi khăm một cách gián tiếp.
Người ít học ở trong Nam nhiều khi phát âm mấy tiếng chuẩn bị thành “chửng bị”, tiêu chuẩn thành “tiêu chửng”, nghĩa là phát âm chuẩn thành “chửng”. Nhà bác học đã bị lối phát âm không “chửng” này của người ít học ám ảnh nên khi nghe đến tên thật của Bao Công là Bao Chửng thì cứ ngỡ rằng đây chẳng qua chỉ là “Bao Chuẩn” đã bị phát âm trại bẹ đi nên mới tự động sửa lại (thành “Bao Chuẩn”). Có ngờ đâu rằng Bao Chửng mới chánh cống là tên thật của Bao Công, rằng vì chính mình không hề biết đến chữ 拯 nên cứ ngỡ rằng tên ông ta là “Chuẩn” chứ không phải “Chửng”, như người bình dân đã phát âm sai!
§ 407. Kiến thức ngày nay, số 247, ngày 1-6-1997
ĐỘC GIẢ: Lâu nay tôi thường nghe người ta dùng thành ngữ “vang bóng một thời” như một tính từ đồng nghĩa với từ “nổi tiếng”. Tôi nghĩ rằng Vang bóng một thời là tên của một tập truyện ngắn hồi trước kể lại một số sự việc của thời xưa nay không còn nữa mà chỉ còn lại tiếng vang và cái bóng mờ mờ ảo ảo. Vậy thì vang và bóng là hai danh từ chứ không phải là một tính từ để ca tụng một sự việc nào đó. Xét về mặt xuất xứ của thành ngữ là như thế. Còn xét về mặt nghĩa của từ thì đã là “bóng” thì không thể “vang” được, mà cái gì đã “vang” thì phải là một thứ tiếng gì đó. Cho nên ghép “vang” với “bóng” để làm một tính từ là không đúng.
AN CHI: Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức cũng có ghi nhận hai tiếng “vang bóng” như là một danh ngữ ghép đẳng lập, có nghĩa là “tiếng vang và cái bóng”. Nhưng kết luận và lời giảng này không có cơ sở vì từ “vang” chưa bao giờ là một danh từ. Vả lại, khi nói đến “vang bóng”, người ta vẫn cảm nhận được rằng “vang” là từ chính – và là một vị từ – còn “bóng” là từ phụ thêm nghĩa cho nó để tạo ra một từ tổ vị từ, và rằng về mặt thành phần cú pháp thì vang bóng cũng có cấu trúc giống hệt như nổi tiếng.
Tuy “vang” vốn là một vị từ dùng để nói về âm thanh nhưng nó vẫn có thể chuyển nghĩa để nói về hình ảnh và đây không phải là hiện tượng cá biệt. “Nghe” là một vị từ liên quan đến âm thanh nhưng vẫn chuyển nghĩa để nói về sự cảm nhận liên quan đến hương vị như trong “nghe cũng thơm thơm”, “mùi gì mà nghe hôi hôi…”, v.v.. “Thấy” thoạt tiên chỉ là một vị từ liên quan đến thị giác nhưng đã chuyển nghĩa để nói về cả các giác quan khác và người ta không chỉ nói “nhìn thấy” mà còn nói “nghe thấy”, “ngửi thấy”, “cảm thấy”, v.v.. Vậy chẳng có lẽ Nguyễn Tuân lại không có quyền nói “vang bóng” để dùng vị từ vang theo ẩn dụ mà chỉ sự diễn tiến kéo dài và lan rộng của sự việc này sự việc khác trong thời gian và trong không gian, nhất là khi mà ông lại là nhà văn nổi tiếng về cách dùng từ độc đáo?
§ 408. Kiến thức ngày nay, số 248, ngày 10-6-1997
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 130, ông An Chi đã khẳng định rằng tên của thành phố Hồ Chí Minh phải viết bằng chữ t hoa thành “Thành phố Hồ Chí Minh” mới đúng chứ không phải bằng chữ thường như Phó Tiến sĩ Lê Trung Hoa đã viết. Sau đó trên Kiến thức ngày nay, số 139, độc giả Nguyễn Ngọc Trang Đài đã góp ý cho cách viết của ông mà nói rằng phải viết như ông Lê Trung Hoa mới đúng vì trong năm tiếng “thành phố Hồ Chí Minh” thì “thành phố” là một danh từ chung và là một thành phần riêng biệt, chỉ có “Hồ Chí Minh” mới là địa danh. Ngay trên số tạp chí 139, để trả lời cho độc giả Trang Đài, ông An Chi đã dành hết ba trang Chuyện Đông chuyện Tây để biện luận thêm bằng các thứ tiếng Tây (Anh, Pháp, Nga), cũng chỉ để nhắc lại kết luận trên số 130 là chữ “t” phải được viết hoa vì danh từ “thành phố” không thể tách khỏi địa danh – mà ông gọi là “nhân danh” – “Hồ Chí Minh”, cũng như “grad”, “town” và “ville” không thể tách khỏi “Leningrad”, “Georgetown” và “Brazzaville”. Nhưng rõ ràng là đã có người gạt bỏ hẳn danh từ chung “thành phố” mà dịch mấy tiếng “thành phố Hồ Chí Minh” sang tiếng Anh thành “Ho Chi Minh”, chẳng cần gì đến các danh từ “town” hoặc “city”. Đó lại là một cơ quan giáo dục đầy đủ uy tín: Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh. Trường Đại học này đã dịch tên của mình sang tiếng Anh thành “Ho Chi Minh Open University” và đã cho tô đắp tên này thành một hàng chữ to đậm ngay ở mặt tiền trường, ông An Chi cứ đi qua đường Võ Văn Tần (Quận 3) thì có thể nhìn thấy rõ ràng. Xin cho biết ông nghĩ sao về cách dịch này so với lời khẳng định của chính ông. Cách đây khá lâu tôi đã có mách nhỏ điều này với ông để xem ông có ý kiến như thế nào. Từ bấy đến nay, ông cứ giữ im lặng nên lần này tôi phải mạn phép nhắc lại câu hỏi kẻo ông thì quên mà những chữ “Ho Chi Minh Open University” ở mặt tiền Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh thì vẫn cứ còn đó.
AN CHI: Không chỉ những chữ Anh “Ho Chi Minh Open University” vẫn còn đó mà vẫn còn đó cả những chữ Hoa 胡志明開放大學 “Hồ Chí Minh Khai phóng Đại học” nữa. Nghĩa là ngay cả trong tiếng Hoa, trường đại học này cũng phớt lờ chữ “thị” 市 có nghĩa là thành phố mà dịch “Thành phố Hồ Chí Minh” thành 胡志明 “Hồ Chí Minh”. Tất nhiên là cả hai cách dịch sang tiếng Anh và sang tiếng Hoa trên đây đều sai vì hai cấu trúc “Ho Chi Minh Open University” và “Hồ Chí Minh Khai phóng Đại học” lại có nghĩa là “Đại học Mở Hồ Chí Minh”, hiểu ngầm là Đại học Mở mang tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xin thú thật với ông rằng lần đầu tiên nhìn thấy những chữ Anh và những chữ Hoa to và đậm đó ở mặt tiền Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh trên đường Võ Văn Tần thì chúng tôi đã phải giật thót người mà tự hỏi rằng trường đại học này đã được mang tên của Chủ tịch từ lúc nào và nó có xứng đáng được như thế hay không.
Trên đây tất nhiên chỉ là bất giác mà tự hỏi như thế chứ làm gì có quyết định nào của nhà nước cho phép Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh mang tên vị Chủ tịch. Chẳng qua những người đã dịch tên của trường này sang tiếng Anh thành “Ho Chi Minh Open University” và sang tiếng Hoa thành “Hồ Chí Minh Khai phóng Đại học” chỉ là những dịch giả thiếu cẩn trọng nên mới ra nông nỗi như thế mà thôi. “Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh” mà dịch sang tiếng Anh thì phải là “Ho Chi Minh City Open University” và sang tiếng Hoa phải là 胡志明市開放大學 “Hồ Chí Minh Thị Khai phóng Đại học” mới đúng, nghĩa là phải có danh từ City (tiếng Anh) hoặc 市 “Thị” (tiếng Hoa) ở trong đó. Cấu trúc “Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh”, với địa danh “Thành phố Hồ Chí Minh” làm định ngữ, cũng y hệt như các cấu trúc “Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh”, “Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh”, “Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh”, v.v., cho nên nếu muốn diễn tên của các trường đó thành tiếng nước ngoài thì dứt khoát phải dịch sang tiếng nước đó cả cái danh từ “Thành phố” vốn dĩ là một thành tố không thể thiếu được trong những cái tên đó. Quyết không thể nào phớt lờ được danh từ đó trong khi dịch.
Ông đã hỏi chúng tôi nghĩ như thế nào thì xin trả lời ông rằng chúng tôi nghĩ như đã trình bày ở trên. Còn sở dĩ chúng tôi vẫn giữ im lặng sau lần hỏi thứ nhất của ông thì chỉ là vì chúng tôi thấy rằng mình đã phân tích khá đầy đủ cách viết địa danh “Thành phố Hồ Chí Minh” với chữ t hoa (= T) trên Kiến thức ngày nay, số 139 rồi nên bất tất phải nói thêm. Lần này ông lại nhắc lại câu hỏi để chất vấn chúng tôi thì chúng tôi buộc phải trả lời rõ ràng để ông thấy rằng chính mình đã không ngờ một trường đại học mà lại có thể dịch sai đến như thế một cấu trúc tiếng Việt không lấy gì làm phức tạp.
§ 409. Kiến thức ngày nay, số 248, ngày 10-6-1997
ĐỘC GIẢ: Ngay từ khi đọc thấy trên Kiến thức ngày nay, số 238, ông trả lời bạn đọc về cách viết hai chữ bánh ít và bánh ếch, tôi đã định viết thư cho ông. Nay lại thấy trên Kiến thức ngày nay, số 243, vấn đề này lại được nhắc đến nên tôi xin kể lại một câu chuyện như sau: Số là vào khoảng 1976 – 1977, tôi ở huyện Bù Đăng thuộc tỉnh Sông Bé (cũ), có lần vào chơi nhà một bà cụ người Nam Bộ. Lúc đó, cụ đang bắt bột nếp với cơm dừa ngào đường làm bánh ít trần (loại bánh ít không gói kín, chỉ cắt một mảnh lá chuối vuông 4cm x 4cm để lót bên dưới), vừa làm cụ vừa hỏi đố tôi: “Tao đố thằng Hai, chớ làm sao mà kêu là bánh ít?”. Tôi chịu chết không sao trả lời được và xin cụ cắt nghĩa. Cụ cười khoái chí và bảo: “Ông bà mình thâm thúy lắm con, bánh này làm ra bao nhiêu, lũ trẻ cũng kêu ít nên gọi là bánh ít…”. Khi bánh chín, cụ cho tôi ba, bốn cái gì đó, tôi ăn hết ngay và cảm thấy… ít thật! Nay xin kể lại và trộm nghĩ: chữ nào, tiếng nào cũng có nguồn gốc riêng của nó, nhưng cứ tìm tòi theo lối bác học thì có nhiều khi bí vì nó rất bình dân, quê mùa tỉ như chữ “bánh ít” này vậy.
AN CHI: Cách giải thích của bà cụ người Nam Bộ mà ông đã kể lại thực chất chỉ là một cách giải thích theo lối từ nguyên dân gian (étymologie populaire, folk etymology) mà chúng tôi cũng đã có nhiều dịp nói đến tại mục Chuyện Đông chuyện Tây. Lối giải thích này thường xem ra rất hợp lý, nhiều khi y như thật, mà thực chất thì lại không có liên quan gì đến từ nguyên đích thực của từ ngữ đang xét cả. Xét theo tâm lý của trẻ con, thì chẳng riêng gì thứ bánh này, làm nhiều bao nhiêu cũng bị chúng kêu là ít, mà nhiều thứ bánh khác cũng vậy. Đồng thời, không phải đứa trẻ con nào cũng thích ăn bánh ít mà nhiều đứa lại thích những thứ bánh khác. Vậy điều gì khiến cho cái tên “ít” rơi vào thứ bánh này mà lại không phải là thứ bánh khác? Đây là điều khó giải thích cho thuận lý. Hơn nữa, như chúng tôi đã nêu, cái bánh ít là biểu hiện của một nét văn hóa ẩm thực Tày – Thái và từ “ít” có quan hệ với từ “et¹” trong “haou³ et¹” của tiếng Dioi ở Quý Châu. Vậy nếu đúng là ít phản nghĩa với nhiều thì et¹ cũng phải có đặc điểm ngữ nghĩa này trong tiếng Dioi. Nhưng sự thật thì lại chẳng phải như thế. Điểm nhận xét thứ hai này rất quan trọng: nó cho phép người ta dứt khoát tách từ ít trong bánh ít ra khỏi từ ít trong ít nhiều vì đây là hai từ độc lập đối với nhau. Tóm lại, từ nguyên đích thực của từ ít trong bánh ít không phải như lời của bà cụ người Nam Bộ mà ông đã kể lại vì đó là một từ có nguồn gốc Tày – Thái.
§ 410. Kiến thức ngày nay, số 249, ngày 20-6-1997
ĐỘC GIẢ: Trong sách Đất nước Lào – lịch sử và văn hóa (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996) trang 44 – 45, các tác giả GS. Lương Ninh, PGS. Nghiêm Đình Vỳ, PGS. Đinh Ngọc Bảo có khẳng định rằng từ “khún” (trong: Khún Khét, Khún Kan, Khún Bolom, Khún Lo,…) là “tiếng cổ Đông Nam Á”. Xin cho biết lời khẳng định này có đúng hay không.
AN CHI: Đó là một lời khẳng định khó chấp nhận. Nó bắt nguồn từ ý kiến sai lầm ban đầu của Trần Quốc Vượng cho rằng “khun” (mà các tác giả của Đất nước Lào phiên thành “khún”) là một từ chung (= cùng một từ gốc trong ngữ hệ) của nhiều ngôn ngữ Môn – Khmer, Tày- Thái, v.v. (mà các tác giả này đã nói gộp thành “tiếng cổ Đông Nam Á”), phát biểu tại Hội nghị lần thứ 3 nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương, sau đó được in trong Hùng Vương dựng nước, tập III (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973, tr. 353 – 355) dưới nhan đề “Về danh hiệu Hùng Vương”. Thực ra, xuất phát điểm ở đây là một từ gốc Pali mà người Thái và một số tộc người khác ở Tây Bắc Việt Nam đã mượn từ tiếng Lào, còn người Mường thì đã mượn lại của người Thái như sẽ nói ở một phần sau. Trong bài “Hùng Vương hay Lạc Vương?”*, Huệ Thiên đã phản bác lập luận của Trần Quốc Vượng và cho rằng đó là một từ Lào bắt nguồn ở danh từ guru của tiếng Pali, có nghĩa là người thầy hoặc người được sùng kính. Huệ Thiên đã viết như sau:
“Tiếng Pali guru cho ra tiếng Lào khũn là một hiện tượng hoàn toàn đúng quy luật.
Trước hết, Pali g > Lào kh là một hiện tượng phổ biến: gaja > khásá (con voi); gamma > khămmá (bình thường, thông tục); gini > khíní (lửa); gutti > khút, dạng tắt, và khúttì, dạng đầy đủ (sự bảo vệ, sự trông nom); geha > khêhà (nhà); nagara > nákhon (thành phố, xứ sở), v.v..
Thứ đến, cũng là bình thường hiện tượng r của Pali, sau nguyên âm của âm tiết trước, trở thành n trong tiếng Lào mà làm thành âm cuối của âm tiết đó khi nào âm tiết tiếp theo của tiếng Pali do nó khởi đầu bị tiếng Lào lược bỏ; sự lược bỏ này nói chung đã cho ra thanh thấp đi lên trong tiếng Lào. Thí dụ: sara > sõn (nguyên âm); sira > siễn (đầu, người đứng đầu); vihāra > vihãn (tu viện, chùa chiền); ghora > khỗn (quỷ, yêu ma); kesara > kaysõn (nhụy hoa); v.v..”.*
Hai luật tương ứng ngữ âm mà Huệ Thiên đã nêu ra trên đây là những chỗ dựa để khẳng định nguồn gốc Pali của từ khũn trong tiếng Lào: g(uru) > kh(ũn) và (g)ur(u) > (kh)ũn. Từ này đã được Trần Quốc Vượng ghi là “khun” còn các tác giả của Đất nước Lào thì ghi là “khún”. Nhưng thực ra, trong tiếng Lào, nó mang thanh điệu thấp đi lên (ton grave ascendant) nên Huệ Thiên đã tạm ghi một cách quy ước bằng dấu ngã (~) thành khũn để phân biệt với một từ vừa cận âm vừa cận nghĩa nhưng lại hoàn toàn khác gốc với nó là khun, mang thanh điệu ngang (không ghi dấu) và bắt nguồn từ tiếng Paliguna. Trong tiếng Lào, khun có nghĩa gốc là ân huệ, công đức, rồi chuyển nghĩa để đứng trước một số danh từ chỉ người mà làm cho cách xưng hô trở nên trang trọng, tôn nghiêm. Thí dụ: khun phò (đức Cha), khun mè (đức Mẹ), v.v. trong lối xưng hô của người Công giáo.
Vậy, tiếng Lào có hai từ vừa cận âm vừa cận nghĩa nhưng lại hoàn toàn khác từ nguyên: khũn < Pali guru và khun < Pali guna. Trong hai từ này, thì khũn mới chính là từ được dùng làm tước hiệu cho một số nhân vật trong truyền thuyết, thí dụ Khũn Borôm, mà Trần Quốc Vượng và các tác giả của Đất nước Lào đã đề cập. Chúng tôi xin đặc biệt nhấn mạnh rằng chẳng những khũn mới có gốc Pali mà ngay cả tên của nhân vật đó là Borôm cũng có gốc Pali: đó không phải gì khác hơn là parama, có nghĩa là tối thượng, tối cao. Và Khũn Borôm chẳng phải gì khác hơn là hình thái Lào hóa của paramaguru (= tối cao tôn sư hoặc tông chủ). Ngay cả cái tên của truyền thuyết về nhân vật này trong tiếng Lào, Nithan Khũn Borôm, thì cũng lại là một cấu trúc mà toàn bộ các thành tố đều có gốc Pali vì ngay cả nithan cũng là một từ Lào bắt nguồn ở tiếng Pali nidãna, có nghĩa là truyện kể.
Rồi chẳng những khũn mới có nguồn gốc Pali mà nhiều từ chỉ tước hiệu khác trong tiếng Lào cũng có nguồn gốc Pali hoặc Sanskrit, trực tiếp hoặc gián tiếp:
– phá, có người ghi “pha: “phà” < Xiêm phrá < Sanskrit – Pali vara;
– phánha < Xiêm phrájaa < Sanskrit varya;
– àtnha < Sanskrit ājñā;
– đặc biệt, phia thường được ghi thành phìa < Khmer pria < Sanskrit varya.
Những tước hiệu hoặc tôn hiệu trên đây của tiếng Lào đã đi vào tiếng Thái và ngôn ngữ của một số tộc người thuộc các ngữ hệ khác nhau ở Tây Bắc Việt Nam (nghĩa là đã được những tộc người này vay mượn), làm cho nhiều học giả và chuyên gia cứ ngỡ rằng đó là những từ cùng một cội nguồn chung trong ngữ hệ. Chẳng hạn, khi nói về các từ: phìa, phya, phánhá, á nhá, á nha, át nhá, v.v., trong tiếng Thái, thì Cầm Trọng, một nhà Thái học người Thái, đã viết như sau: “Thực ra nếu các tên gọi này chỉ có trong ngôn ngữ Tày – Thái, có lẽ sự chú ý của chúng ta có mức độ. Ngược lại, trong số tên gọi ấy, ta lại bắt gặp ở trong tiếng nói của các dân tộc thuộc hệ ngôn ngữ Malayô-Pôlynêxia, Môn-Khơme, Việt-Mường cổ (…) Điều đó khiến người nghiên cứu suy nghĩ và đi tới một sự nghi vấn: phải chăng chúng có chung một cội nguồn?”.*
Thực ra, những từ Thái mà Cầm Trọng đã nêu chính là những từ bắt nguồn ở những từ tiếng Lào mà chúng tôi đã đưa ra ở trên. Vậy tưởng nên trả cho Cæsar cái gì của Cæsar mà thừa nhận gốc Pali (hoặc Sanskrit) của những từ Lào kia và gốc Lào của những từ Thái này. Sự giống nhau giữa những từ tương ứng về âm và nghĩa trong nhiều ngôn ngữ khác nhau không nhất thiết có nghĩa rằng chúng dứt khoát thuộc về một cội nguồn chung trong ngữ hệ vì đó hoàn toàn có thể chỉ là do vay mượn lẫn nhau mà ra.
Trở lại với từ khũn của tiếng Lào, xin nói rằng từ này đã đi vào tiếng Thái với hai biến thể ngữ âm là khun và cun như đã được ghi nhận trong Từ điển Thái-Việt của Hoàng Trần Nghịch và Tòng Kim Ân (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991). Lại xin nói thêm rằng cả từ tháo của tiếng Lào cũng đã đi vào tiếng Thái dưới hình thái tạo (trong “phìa tạo”) rồi cả hai từ cun và tạo của tiếng Thái đã được người Mường mượn để chỉ chức vị trong hệ thống nhà lang của họ: lang cun, dùng để chỉ con trưởng ngành trưởng nhà lang và lang tạo (đã bị “Kinh” hóa thành “lang đạo”), dùng để chỉ con trưởng ngành thứ nhà lang, như các nhà dân tộc học đã từng miêu tả.
Từ trên đây suy ra, Mường (lang) cun < Thái cun/khun < Lào khũn < Pali guru, tất nhiên chẳng có liên quan gì đến từ quân 君 của tiếng Hán mà âm Hán Việt xưa cũng là cun, mà có người cho rằng tiếng Mường đã mượn qua tiếng Việt hoặc mượn thẳng từ tiếng Hán, mặc dù tiếng Mường cũng có trực tiếp mượn từ của tiếng Hán một cách độc lập mà không qua trung gian của tiếng Việt*.
Tuy nhiên, xin nhân tiện nói rằng theo chúng tôi thì tiếng Mường cũng có một từ cun gốc Hán và đó là cun trong “choọng Cun”, có nghĩa là dốc Cun, mà Trần Từ có ý muốn gắn với cun trong “lang cun”*. Thực ra, cun trong “lang cun” là một từ Mường gốc Thái như đã phân tích còn cun trong “choọng Cun” thì lại là một từ Mường gốc Hán, cùng gốc với từ côi của tiếng Việt, có nghĩa là cao, như trong “côi cả”, “lên côi”, “trên côi”, v.v.. Đây là một từ Việt cổ, vẫn còn tồn tại trong phương ngữ Bắc Trung Bộ với nghĩa là “trên”. Mối tương ứng ngữ âm Mường cun ~ Việt côi hoàn toàn có thể giải thích được một cách chắc chắn vì âm xưa của côi là cui (từ côi trong “côi cút” vẫn còn được Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của ghi là cui) và vì -n cuối của Mường ~ -i /j/ cuối của Việt là một điều đã được ngữ âm học lịch sử khẳng định*. Vậy cun (Mường) ~ côi (Việt) và đây là hai từ gốc Hán bắt nguồn ở một nguyên từ tiếng Hán ghi bằng chữ 傀 mà âm Hán Việt chính thống hiện đại cũng là… côi (Đường vận: “công hồi thiết”; Tập vận, Vận hội, Chính vận: “cô hồi thiết”), có nghĩa là to, lớn hoặc dáng trời cao. Và choọng Cun là dốc Côi, nghĩa là dốc Cao: chính Trần Từ đã cho biết rằng “dốc cao nhất trong tỉnh Hòa Bình được người Mường gọi là choọng Cun” (Xem chỗ đã dẫn).
Tóm lại, không làm gì có chuyện khun/cun là “tiếng cổ Đông Nam Á” như các tác giả của Đất nước Lào đã nói. Đó là một từ gốc Pali mà người Lào – và cả người Xiêm nữa – đã vay mượn mà đọc thành khũn rồi các tộc người khác ở Việt Nam mới mượn lại của người Lào một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (= qua ngôn ngữ của một tộc người khác nữa). Cuối cùng xin nhấn mạnh rằng “tiếng cổ Đông Nam Á” là một khái niệm rất mơ hồ vì khu vực Đông Nam Á có nhiều ngữ hệ khác nhau và mặc dù nhiều người đã cố gắng xác lập mối quan hệ cội nguồn cho một số ngữ hệ ở khu vực này nhưng đó là một việc làm vội vã vì hai lý do: một là từ nguyên của nhiều từ được sử dụng làm cứ liệu so sánh chưa được xác lập riêng cho nó một cách hoàn toàn chắc chắn và hai là lịch sử của nhiều ngôn ngữ được đưa vào ngữ hệ cũng chưa được khảo tả đầy đủ và thỏa đáng.
* Các dấu thanh điệu của tiếng Lào ở đây đã được ghi theo: Marc Reinhorn, Dictionnaire laotien-français, CNRS, Paris, 1970. Riêng thanh thấp đi lên thì ghi bằng dấu ngã vì chữ quốc ngữ không có dấu giống như dấu mà Reinhorn sử dụng. Trong một vài dẫn chứng, để cho giản tiện, âm tắc yết hầu cũng đã không được ghi.
§ 411. Kiến thức ngày nay, số 250, ngày 1-7-1997
ĐỘC GIẢ: Chuyện Đông chuyện Tây trên một kỳ Kiến thức ngày nay có giải thích về nguồn gốc của địa danh “Cochinchine” nhưng không thấy ông An Chi đề cập gì đến “Sự tích Cochinchine” tức chuyện “Bà Ngọc Vạn làm hoàng hậu Chân Lạp” trong quyển Chuyện các bà trong cung Nguyễn của Nguyễn Đắc Xuân, tập 3, do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành. Xin cho biết tại sao.
AN CHI: Chúng tôi đã có giải thích về nguồn gốc của địa danh Cochinchine trên Kiến thức ngày nay, số 186 và cách giải thích của chúng tôi hoàn toàn khác cách giải thích của Nguyễn Đắc Xuân trong Chuyện các bà trong cung Nguyễn, tập 3 (Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 5 – 15). Tác giả này đã viết như sau: “Từ đó (nghĩa là từ lúc mà, theo lời Nguyễn Đắc Xuân, bà Ngọc Vạn đến lập chùa tại vùng Prey Nokor – AC), người Việt, người Chiêm, người Khơme và thêm một số người Tàu đều gọi bà Ngọc Vạn với cái tên hết sức thân mật cô Chín (…) Cô Chín khuyến khích dân trồng tiêu, trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm ươm tơ theo kỹ thuật Việt. Người Tàu Minh hương giúp cho dân Prey Nokor buôn bán với nước ngoài. Người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hòa Lan, Pháp Lang Sa đến truyền đạo và buôn bán. Thấy Cô Chín vừa thông thạo hai tiếng Việt, Khơme, biết chữ Hán, giỏi kinh kệ của hai tôn phái Đại Thừa và Tiểu Thừa. Bà là một bậc quý nhân ở vùng đất mới Prey Nokor. Nhiều người ngoại quốc cũng sinh lòng mến mộ bà. Họ gọi bà là “Cô Chín Chine” (Cô Chín Tàu). Về sau người phương Tây qua buôn bán gọi vùng Thủy Chân Lạp là vùng Cô Chín Chine. Có lẽ tên Cochinchine sau này đã có nguồn gốc từ Cô Chín Chine” (Sđd, tr. 12 – 13). Ở đây tác giả đã dùng hai tiếng “có lẽ” nhưng trong tiêu đề thì ông đã khẳng định “Bà Ngọc Vạn làm hoàng hậu Chân Lạp hay sự tích Cochinchine” (Sđd, tr. 5).
Chúng tôi xin đặc biệt nhấn mạnh rằng nhiều chi tiết trong chuyện “Bà Ngọc Vạn” mang nặng tính chất giai thoại chứ không phải là sử liệu xác thực, mà độc đáo nhất là cái tên “Cô Chín Chine”. Thuở nhỏ, khi còn học tiểu học, các bạn đồng học và chúng tôi đã từng “Việt hóa” địa danh Cochinchine thành “cô chín chị nẹ”, hoặc danh từ “vocabulaire” (từ vựng) thành “giỏ (vỏ) cá bự lại rẻ”, danh từ “chocolat” thành “chó có lác” (lác = hắc lào – trong Nam phát âm “lát” thành “lác”). Còn người bình dân thì gọi con đường Legrand de la Liraye ở Sài Gòn (nay là một phần đường Điện Biên Phủ thuộc Quận 1 và Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh) là đường “cái răng thằng Tây lung lay”. “Cô Chín Chine” chẳng qua cũng chỉ là một kiểu “Việt hóa” và bình dân hóa như thế không hơn không kém. Đó là một điều chắc chắn mà sau đây là hai lý do không thể bác bỏ được:
Một là người ta đã tìm thấy các dạng khác nhau của địa danh Cochinchine trên bản đồ của Alberto Contino năm 1502, của Nicolo de Canerio năm 1503, trong một bức thư của Jorge de Albuquerque gởi cho vua Bồ Đào Nha năm 1515, trong bức địa đồ của anh em Van Lagran năm 1595, trong địa đồ của J. Hondius năm 1613,…* Còn bà Ngọc Vạn chỉ đến Prey Nokor “vào khoảng năm 1646” theo lời của Nguyễn Đắc Xuân (Sđd, tr. 11), nghĩa là cô Chín Chine đến Cochinchine sau khi địa danh này ra đời ít nhất là 33 năm và nhiều nhất là 143 năm. Vậy nói rằng tên Cochinchine có nguồn gốc từ “Cô Chín Chine” là đã phát biểu một điều nghịch lý.
Hai là, như chúng tôi đã viết, “xét về lịch sử của nó thì Cochinchine là một địa danh đã từng được dùng để chỉ miền Bắc, miền Trung rồi cuối cùng mới được dùng để chỉ miền Nam (Nam Bộ) chứ không phải vốn chỉ được dùng để gọi Nam Bộ ngay từ đầu như người ta vẫn thường nghĩ”*. Thế là khi địa danh Cochinchine hãy còn được dùng để chỉ miền Bắc (Đàng Ngoài) thì chắc chắn là Cô Chín Chine cũng chưa ra đời ở Đàng Trong (Miền Nam). Vậy cũng như trên, nói rằng tên Cochinchine có nguồn gốc từ “Cô Chín Chine” là đã phát biểu một điều nghịch lý.
§ 412. Kiến thức ngày nay, số 250, ngày 1-7-1997
ĐỘC GIẢ: Tôi tìm trong tiếng Pháp nhưng không thấy danh từ “bít tất” (= vớ) do đâu mà ra. Chỉ có “bas” (vớ dài) và “chaussette” (vớ ngắn) mà thôi.
AN CHI: Sở dĩ ông không tìm thấy nguồn gốc của từ “bít tất” trong tiếng Pháp thì chỉ vì đó là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một nguyên từ ghi bằng hai chữ 蔽厀 mà âm Hán Việt hiện đại là tế tất, có nghĩa là cái tạp-dề (đây mới là do tiếng Pháp tablier mà ra), còn nghĩa đen là cái tấm che (tế) đầu gối (tất). Tế là âm thông dụng hiện đại của chữ thứ nhất trong hai chữ Hán trên đây nhưng âm chính thống của nó lại là bế hoặc bí (“bút nghệ thiết” hoặc “bút nghị thiết”). Và tế tất xưa đã từng được đọc là bế tất hoặc bí tất rồi bí trong bí tất mới bị đồng hóa theo phụ âm đầu t- trong tất mà trở thành bít trong bít tất. Sự chuyển nghĩa của tế tất < bí(bế) tất từ tạp-dề trong tiếng Hán sang vớ, bít tất trong tiếng Việt là một điều hoàn toàn có thể giải thích được. Nó cũng tương tự như sự chuyển nghĩa của hàng loạt từ khác, chẳng hạn: khố trong tiếng Hán là cái quần nhưng sang tiếng Việt thì lại là cái khố; quần trong tiếng Hán là cái váy nhưng sang tiếng Việt thì lại là cái quần; bàn trong tiếng Hán là cái mâm nhưng sang tiếng Việt thì lại là cái bàn, v.v.. Vậy chẳng có gì lạ nếu bí tất có nghĩa là cái tạp-dề trong tiếng Hán nhưng lại là… bít tất trong tiếng Việt.
§ 413. Kiến thức ngày nay, số 250, ngày 1-7-1997
ĐỘC GIẢ: Trong phim “Bao Thanh Thiên”, khi đến phần xử trảm các phạm nhân, có các loại bàn xắt thuốc, xắt cây cỏ mang hình đầu rồng, đầu cọp và đầu chó (long đầu, hổ đầu và cẩu đầu) mà theo chữ Hán là 鍘 (zhá). Khi thuyết minh thì chữ này thường được dịch là “đao: “trảm”. Vậy chữ 鍘 (zhá) này đọc theo âm Hán Việt như thế nào mà trong một số từ điển Hán Việt tôi không tìm thấy? Một số bạn bè của tôi cũng thắc mắc như tôi và mong được giải đáp.
AN CHI: Hán-Việt tân từ-điển của Nguyễn Quốc Hùng đã ghi nhận âm trát cho chữ 鍘 và giảng như sau: “Cái liềm cắt cỏ. Ta có người đọc trắc”. Âm của chữ này đúng là trát nhưng nghĩa của nó thực ra không phải là “cái liềm cắt cỏ” như nhà biên soạn này đã giảng. Đó là con dao xắt thuốc, xắt cây cỏ đúng như ông đã viết, một đầu thì cố định còn đầu kia thì có cán, có thể nhấc lên, đè xuống được. Vì con dao để xử trảm tội nhân cũng có hình dạng như thế nên nó cũng được gọi là trát (long đầu trát, hổ đầu trát, cẩu đầu trát: lóngtóuzhá, hŭtóuzhá, gŏutóuzhá). Chữ trát 鍘 vốn là một động từ có nghĩa là xắt thành lát mỏng hoặc khúc nhỏ, rồi có nghĩa rộng là chặt. Nó đã được kết hợp với danh từ đao thành từ tổ danh từ trát đao để chỉ con dao xắt thuốc, từ tổ này về sau lại nói tắt thành trát với tính cách là một danh từ (để chỉ con dao đã nói). Vậy khi Bao Công hô “kāizhá” (khai trát = mở tấm vải đậy và nhấc lưỡi dao lên) là ông dùng danh từ zhá (trát) còn khi ông ném cái thẻ về phía trước và hô “zhá” (trát, chứ không phải “trảm” = chặt, chém) là ông dùng động từ “zhá” (trát). Cuối cùng xin nói thêm rằng xét theo từ nguyên thì chữ trát 鍘 này chỉ là một với chữ trát 札 có nghĩa là cái thẻ, là công văn, giấy tờ. Cái nghĩa gốc xa xôi của nó không phải gì khác hơn là cái lát mỏng được “trát” (= xắt) từ một vật dày hơn mà ra (Vậy lát là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 札 mà âm Hán Việt hiện đại đọc là trát).
§ 414. Kiến thức ngày nay, số 251 , ngày 10-7-1997
ĐỘC GIẢ: Khi đọc câu hỏi về từ “vang bóng” và câu trả lời của ông trên Kiến thức ngày nay, số 247, tôi cảm thấy trong lòng nao nao và muốn góp chút ý nhỏ vào câu trả lời này.
Trước hết, hãy lướt qua các từ “âm-thanh” và “hình-ảnh” là hai từ mà trong nghề điện tử dân dụng của mình, tôi đã tìm hiểu rất sâu. Sau nhiều năm hành nghề, tôi đã hiểu như sau:
1. Về từ “âm-thanh”, người Hoa nói là “thanh-âm”. Theo chiết tự mà tìm nghĩa, thì thấy chữ thanh 聲 có bộ nhĩ 耳, nói lên “thanh” là một thực thể được cảm nhận bằng tai. Tai là cơ quan cảm nhận sóng âm của động vật. Chữ âm 音 có bộ viết 曰, nói lên “âm” là thực thể được phát ra bằng miệng. Miệng là cơ quan phát ra sóng âm, mang trong nó một thông tin xác định của động vật. Từ điển chữ Hoa định nghĩa âm thanh là “sóng chấn động phát ra từ một vật thể và được cảm nhận bằng thính giác”. Cặp chữ này cũng là một phạm trù lớn trong ngành “thính học”: sóng âm là một thực thể khách quan được chúng ta phát ra từ miệng hay nhận biết do cảm nhận của tai, trong hai cái, cái nào mới là cái cần cho sự hình thành nhận thức về tiếng nói của con người?
2. Hai từ “thanh” và “hình” có hai từ liên hệ kéo theo như sau:
“Thanh” thì có “thanh-hưởng” (echo); ta quen Việt hóa từ “thanh-hưởng” là âm-hưởng, âm-vang hay tiếng-vang. Vậy “hưởng” hay “vang” là từ kéo theo, chỉ cái kết quả, cái thành tựu có được từ “thanh”: có thanh mới có hưởng, có tiếng mới có vang, không thể ngược lại, không thể có vang mà trước đó không có thanh. Âm-vang được nhận biết bằng tai.
Cũng tương tự, “hình” có “hình-ảnh”, ta quen dịch là hình-bóng. Vậy “bóng” hay “ảnh” là từ kéo theo, chỉ cái kết quả, cái thành tựu có được của từ “hình”; có hình mới có bóng, không thể có bóng không của một hình nào (có câu: Hình ảnh bất ly). Hình-bóng được nhận biết bằng mắt.
Có thể nhận thấy: âm → vang và hình → bóng (Đây là cơ sở của lý thuyết môn ánh xạ). Nói nôm na: “vang” là cái phải gắn với “tiếng” và “bóng” là cái phải gắn với “hình”. Bây giờ cho phép đẳng lập từ “vang” với từ “bóng”, chúng ta có từ ghép đẳng lập “vang-bóng” thay vì “bóng-vang” (Trong ngữ âm tiếng Việt, chọn chữ “vang-bóng” không lấy chữ “bóng-vang” chỉ vì sự thuận khẩu). Trong vốn từ chữ Hoa chúng ta tìm gặp từ “ảnh hưởng”, có nghĩa là “vang-bóng”, nghĩa là sự vang dội làm cho mắt phải thấy, tai phải nghe; nó dùng để chỉ sự nổi tiếng, sự thành danh, có tiếng tăm… đã được nhiều người biết đến.
AN CHI: Xin chân thành hoan nghênh và cám ơn ông đã góp ý cho câu trả lời của chúng tôi để làm sáng tỏ thêm vấn đề và xin trân trọng giới thiệu để bạn đọc rộng đường tham khảo. Tuy nhiên, chúng tôi thấy cần trao đổi thêm với ông như sau.
1. Sự chiết tự không phải là biện pháp hữu hiệu nhờ đó mà người ta có thể tìm ra được nghĩa gốc đích thực của từ. Huống chi các lối hội ý và hình thanh trong lục thư chỉ là những biện pháp tạo tự mà việc thể hiện từ nghĩa chỉ có tính chất phiến diện và/hoặc ước lệ nên không thể biểu minh nội hàm của khái niệm một cách viên mãn và chính xác. Thêm vào đó, lối khải thư hiện hành lại không phải bao giờ cũng cho thấy được nguồn gốc đích thực của nhiều chữ mà biến thể tiền kỳ lại có cấu tạo không hoàn toàn giống với nó. Chẳng hạn chữ thanh 聲 mà ông đã nêu hiện nay thuộc bộ nhĩ 耳 (= tai) nhưng cổ văn của nó lại chỉ là 殸 mà không có nhĩ 耳 (Xin xem Khang Hy tự điển). Xem ra, ở đây, cổ nhân chẳng cần gì đến cái tai để thể hiện rằng “sóng âm là một thực thể khách quan được nhận biết do cảm nhận của tai”. Cứ như trên thì rõ ràng là không thể dựa vào tự dạng rồi chiết tự mà luận ra tự nghĩa một cách thích đáng được. Vả lại, người thất học, một chữ cắn đôi không biết, vẫn biết rõ rằng tiếng nói phải được phát ra từ miệng (khẩu 口)và phải được nghe bằng tai (nhĩ 耳). Vậy có nhất thiết cứ phải chiết tự như ông đã làm hay không?
2. Ông đã nhấn mạnh rằng “vang” là cái phải gắn với “tiếng” còn “bóng” là cái phải gắn với “hình” để khẳng định rằng “vang bóng” là “đồng đẳng” của hai tiếng “ảnh hưởng” trong đó “vang” có nghĩa là tiếng vang với tính cách là một danh từ. Thực ra, ở đây ông đã nhầm lẫn về đặc điểm ngữ pháp của từ vì, như chúng tôi đã thưa trên Kiến thức ngày nay, số 247, “vang” chưa bao giờ là một danh từ. Vả lại, khi nói đến “vang bóng”, người ta vẫn cảm nhận được rằng “vang” là từ chính – và là một vị từ – còn “bóng” là từ thêm nghĩa cho nó để tạo ra một từ tổ chính phụ. Dù biệt tài sử dụng từ ngữ của Nguyễn Tuân có cao siêu đến đâu, nhà văn này cũng không thể nào tạo ra một từ tổ “đẳng lập” mà lại gồm có một vị từ (vang) và một danh từ (bóng), nghĩa là gồm có hai tiếng thuộc hai từ loại khác nhau vì hiện tượng này trái hẳn với quy tắc của tiếng Việt. Một vị từ đi với một danh từ chỉ có thể cấu thành một từ tổ vị từ mà thôi, thí dụ: sáng giá, rỡ tiết, lừng danh, ngát hương, v.v..
Vang bóng thực chất cũng là một từ tổ vị từ có cấu tạo giống hệt như ngát hương, lừng danh, rỡ tiết, sáng giá, v.v.. Sở dĩ ông không sẵn sàng thừa nhận điều này thì chỉ là vì, theo ông, “vang” chỉ có thể là thuộc tính của âm thanh chứ không thể của hình ảnh. Xét theo cái “lý của vật” thì điều này hoàn toàn đúng. Nhưng nếu đem cái lý đó mà áp đặt cho ngôn ngữ, thì tiếng nói sẽ nghèo đi và trở thành xơ cứng rồi người sử dụng nó cũng chẳng còn điều kiện và cơ hội để sáng tạo những lối nói bóng bẩy, độc đáo. Rất may là trong thực tiễn ngôn ngữ, người ta đã không chỉ sử dụng từ ngữ theo cái “lý của vật” mà còn sử dụng chúng theo các nghĩa bóng, trong đó có những nghĩa phái sinh bằng ẩn dụ. Theo cái “lý của vật”, thì chỉ có mùi vị mới thơm chứ tiếng tăm thì thơm thế nào được! Thế nhưng để ca ngợi một chí sĩ, chẳng hạn, người ta vẫn có thể nói rằng người ấy đã để lại tiếng thơm muôn đời. Theo cái “lý của vật”, thì “bùi” chỉ là thuộc tính của thức ăn được cảm nhận bằng lưỡi là cơ quan của vị giác chứ cái tai dùng để nghe thì có liên quan chi? Thế nhưng người ta chỉ nói bùi tai mà chẳng thấy ai nói “bùi miệng”, “bùi lưỡi”! Theo cái “lý của vật” thì “chói” là thuộc tính của ánh sáng và màu sắc, nói rộng ra là hình ảnh, chứ âm thanh thì có liên quan chi? Thế nhưng, người ta vẫn tạo ra được từ tổ chói tai bên cạnh từ tổ chói mắt! Hình ảnh và âm thanh vốn đã có duyên nợ với nhau như thế thì tại sao Nguyễn Tuân lại không thể dùng vị từ vang theo ẩn dụ mà nói vang bóng để chỉ sự diễn tiến kéo dài và lan rộng của sự việc này sự việc khác trong thời gian và trong không gian, như chúng tôi đã thưa trên Kiến thức ngày nay, số 247? Mà đây nào có phải chỉ là một mối duyên hờ vì về thực chất thì giữa âm thanh và hình ảnh đã tồn tại một đặc tính chung là chúng đều có thể được phát đi, truyền đi xa, bằng vô tuyến (radio) hoặc bằng đường dây. Vậy có gì lạ nếu bên cạnh cấu trúc vang tiếng đã từ vựng hóa thành một từ tổ cố định, Nguyễn Tuân đã lăng-xê từ tổ vị từ tự do vang bóng, mà ngày nay cũng đang có xu hướng cố định hoá?
§ 415. Kiến thức ngày nay, số 251 , ngày 10-7-1997
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết xuất xứ và ý nghĩa của hai câu viết bằng chữ Hán tại cổng trường Đại học Tổng hợp Đà Lạt mà tôi đã được đọc từ cuối 1975:
Thập niên chi kế, thụ mộc
Bách niên chi kế, thụ nhân.
AN CHI: Tại mục từ thập 十 (shí), mục từ phụ thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân (shí nián shù mù, băi nián shú rén), Hiện đại Hán ngữ từ điển (Bắc Kinh, 1992) đã giảng như sau: “Vun trồng cây cối thì cần mười năm, hun đúc nhân tài thì cần trăm năm, ý nói rằng bồi dưỡng nhân tài là kế lâu dài, cũng diễn tả rằng bồi dưỡng nhân tài thực không dễ dàng”.
Câu trên đây bắt nguồn từ lời của thiên “Quyền tu” trong sách Quản Tử của Quản Trọng: “Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc; thập niên chi kế, mạc như thụ mộc; chung thân chi kế, mạc như thụ nhân. Nhất thụ nhất hoạch giả cốc dã; nhất thụ thập hoạch giả mộc dã; nhất thụ bách hoạch giả nhân dã”, nghĩa là “kế một năm không kế nào bằng trồng lúa; kế mười năm không kế nào bằng trồng cây; kế trọn đời không kế nào bằng trồng người. Cái trồng một được một là lúa vậy, cái trồng một được mười là cây vậy, cái trồng một được trăm là người vậy”. Về câu này, xin xem thêm Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 209.
§ 416. Kiến thức ngày nay, số 252, ngày 20-7-1997
ĐỘC GIẢ: Trước đây, có lẽ từ 1950 trở về trước, có bài thơ “Con trâu” mở đầu bằng câu “Mài sừng cho lắm cũng là trâu”. Xin cho biết tên tác giả, sơ lược tiểu sử tác giả, hoàn cảnh ra đời của bài thơ, ý nghĩa và điển tích của câu 5 và 6.
AN CHI: Trước hết, chúng tôi xin chép lại cả bài như sau:
Con trâu
Mài sừng cho lắm cũng là trâu
Gẫm lại mà coi thật lớn đầu.
Trong bụng lam nham ba lá sách,
Ngoài cằm lém đém một chòm râu.
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,
Làm lễ bôi chuông dớn dác sầu.
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ,
Năm dây đờn khảy biết nghe đâu?
Tác giả bài thơ này là Nguyễn Văn Lạc, thường gọi là Học Lạc (1842 – 1915), hiệu là Sầm Giang, người làng Mỹ Chánh, Định Tường (nay là Tiền Giang). Nhà nghèo, được nhà nước (triều Nguyễn) tuyển vào ngạch học sanh (nên mới thường được gọi là Học Lạc), được cấp lương và học tại trường của quan đốc học. Ông học giỏi nhưng không đỗ đạt gì, chỉ làm nghề dạy học và hốt thuốc ở địa phương.
Theo lời kể của tác giả Tông Sơn N. T. Q trên báo Phụ nữ tân văn thì trước khi làm bài “Con trâu”, Học Lạc đã làm bài “Ông làng” để đả kích các hương chức trong làng nên bị những người này thù ghét. Biết thế, Học Lạc mới làm tiếp bài “Con trâu” để châm chọc thêm cho bõ ghét. Câu 5 dẫn tích “Điền Đan lập hỏa ngưu trận” nên trâu bị đốt đít còn câu 6 thì nhắc tích xưa đúc chuông, hễ chuông bị nứt thì lấy máu trâu mà bôi vào những đường nứt.*
§ 417. Kiến thức ngày nay, số 252, ngày 20-7-1997
ĐỘC GIẢ: Tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) có một đặc khu kinh tế mà các phương tiện thông tin đại chúng của Việt Nam vẫn gọi là “Thẩm Quyến”. Nhưng mới đây (6-6-1997) VTV đã khởi chiếu bộ phim truyền hình dài 20 tập của Trung Quốc mà nhan đề có liên quan đến tên gọi của đặc khu này, bộ phim “Người Thâm Quyến” và có lưu ý khán giả truyền hình rằng tiếng thứ nhất trong tên của đặc khu này phải đọc là “Thâm” mới đúng. Vậy xin cho biết đây là “Thẩm Quyến” hay “Thâm Quyến”?
AN CHI: Tên của đặc khu kinh tế này bằng chữ Hoa là 深 圳. Chữ thứ nhất có hai âm: thâm (thức châm thiết) với nghĩa là sâu (tính từ) và thấm (thức cấm thiết) với nghĩa là thăm dò nông sâu (động từ). Chữ này không hề có âm “thẩm”. Còn giữa hai âm thâm và thấm thì ở đây nó phải được đọc là thâm vì trong địa danh đang xét, nó có nghĩa là sâu như sẽ nói thêm ở một phần sau. Tối 27-6, trước khi phát hình tiếp tập 7 và tập 8 của bộ phim đó, phát thanh viên của VTV cũng có đọc lời giải thích thêm của ban biên tập cho biết tại sao lại phải đọc là “thâm”. Tuy nhiên, chữ rắc rối, theo chúng tôi, không phải là chữ trước trong địa danh đó, mà lại là chữ sau, chữ 圳.
Có thật chữ này đọc là “quyến” hay không? Khang Hy tự điển ghi âm của nó là thù (thị lưu thiết). Từ hải thì cho biết rằng 圳 là tục tự của chữ 甽 và cũng là một với chữ 畎 mà chữ này thì có âm là quyển (cử khuyển thiết). Vậy đây là một chữ thuộc thanh thượng chứ không phải thanh khứ, nghĩa là không phải “quyến”. Quảng vận là một quyển vận thư rất xưa cũng đã xếp nó vào thanh thượng. Tương ứng với âm quyển của chữ 畎 là âm Bắc Kinh quăn và âm Quảng Đông hün (chữ ü đọc như u của tiếng Pháp). Còn chữ 圳 thì lại không hề có âm quăn trong tiếng Bắc Kinh và âm hün trong tiếng Quảng Đông. Âm của nó trong tiếng Bắc Kinh là zhèn còn trong tiếng Quảng Đông là chắn, đọc theo giọng Bắc hoặc chánh, đọc theo giọng Nam*. Không chỉ trong tiếng Bắc Kinh và tiếng Quảng Đông, hai chữ 畎 và 圳 không đồng âm với nhau mà trong các phương ngữ khác của tiếng Hán cũng thế. Chẳng hạn trong tiếng Phúc Kiến thì chữ 圳 đọc là siû còn chữ 畎 thì lại đọc là khián*. Xem ra mối quan hệ giữa các chữ 圳, 甽 và 畎 thực sự không đơn giản như người ta vẫn tưởng và có lẽ chính vì thế nên Từ nguyên đã tránh né hai chữ trước mà chỉ ghi nhận có chữ 畎. Vậy khẳng định như Từ hải rằng 圳 là tục tự của chữ 畎 là không có căn cứ. Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng ghi âm “quyến” cho chữ 圳 có lẽ đã căn cứ vào Từ hải nên mới lấy âm của chữ 畎 mà phiên âm cho nó chăng? Nhưng, như đã nói, âm của chữ 畎 là quyển chứ cũng không phải “quyến”. Huống chi sự so sánh âm của chúng trong tiếng Bắc Kinh, tiếng Quảng Đông và tiếng Phúc Kiến lại cho thấy rằng 圳 và 畎 là hai chữ riêng biệt. Địa danh ghi bằng hai chữ 深圳 lại là một địa danh thuộc tỉnh Quảng Đông nên việc căn cứ vào âm Quảng Đông để luận ra âm Hán Việt mới là cần thiết và hợp lý. Âm của chữ 圳 trong tiếng Quảng Đông là chắn còn trong tiếng Bắc Kinh là zhèn. Vừa ứng với âm chắn của tiếng Quảng Đông vừa ứng với âm zhèn của tiếng Bắc Kinh thì chỉ có thể là âm Hán Việt chấn hoặc trấn mà thôi. Vậy theo chúng tôi, tên của đặc khu kinh tế đang xét là Thâm Chấn hoặc Thâm Trấn. Chấn hoặc trấn 圳 là con ngòi nhỏ chảy trong đồng ruộng còn thâm là sâu. Thâm chấn (hoặc trấn) là con ngòi sâu chảy trong đồng ruộng. Thoạt đầu đó chỉ là tên của một vùng đất không lấy gì làm rộng lớn vì chỉ là một làng chài nhỏ, ngày nay nó đã trở thành tên của một khu kinh tế trọng yếu ở miền Nam Trung Quốc.
§ 418. Kiến thức ngày nay, số 253, ngày 1-8-1997
ĐỘC GIẢ: Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, bản do các cụ Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính và chú giải (nhan đề Truyện Thúy Kiều) do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành năm 1995, đã in câu 2658 như sau:
“Tu là cỗi phúc, tình là dây oan”
Nhưng trong băng video Thúy Nga 56, chương trình Paris by night 39, một nhạc cảnh lấy nội dung từ Truyện Kiều (cảnh Hoạn Thư hành hạ Kiều) lại có tên “Tu là cõi phúc, tình là dây oan”. Giới thiệu tiết mục này, nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn đã nói rõ ràng “Tu là cõi phúc…”. Cuối tiết mục, các giọng ca nam và nữ cũng hát rõ ràng “Tu là cõi phúc,…”. Tôi cho rằng “cõi” mới đúng và hay: người ta vẫn nói “cõi đời”, “cõi tiên”, “cõi trên”, “cõi sống”, “cõi chết”… Chính cụ Nguyễn Du cũng viết “cõi người ta”, “cõi hồng trần”… Vậy có lẽ bản của các cụ Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành đã in sai cõi thành “cỗi” chăng?
AN CHI: Trừ nhạc cảnh “Tu là cõi phúc, tình là dây oan” của chương trình Paris by night 39 do Lam Phương soạn nhạc và Ái Vân đạo diễn, và trừ cả Nguyễn Ngọc Ngạn trong chương trình Paris by night 36 (trong chương trình này, khi giới thiệu nhạc phẩm Đường đi trọn kiếp của Lam Phương, ông cũng nói “Tu là cõi phúc,…”), không có bất cứ bản Kiều quốc ngữ quen thuộc nào lại ghi “Tu là cõi phúc, tình là dây oan”. Tất cả đều ghi cỗi hoặc cội. Bản của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, bản của Trúc Viên Lê Mạnh Liêu (phiên âm từ Thúy Kiều truyện tường chú của Chiêm Vân thị), bản của Nguyễn Thạch Giang, bản của Đào Duy Anh (trong Từ điển Truyện Kiều) ghi “cỗi”. Còn bản của Nguyễn Quảng Tuân, bản của Vũ Văn Kính và Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế thì ghi “cội”. Nói cho chính xác thì cũng có một bản ghi là “cõi” và đó là bản của Nguyễn Thạch Giang do Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp ấn hành năm 1972 tại Hà Nội:
“Tu là cõi phúc, tình là dây oan” (tr. 307). Nhưng xin nói ngay rằng đó hoàn toàn là do lỗi ấn loát: phần chú thích của bản này (tr. 341 – 483) vẫn in đúng là “cỗi phúc” (tr. 468). Cũng bản đó của Nguyễn Thạch Giang do Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp in lần thứ sáu năm 1986 vẫn in đúng:
“Tu là cỗi phúc, tình là dây oan” (tr. 206).
Vậy chữ đang xét là cỗi (hoặc cội) chứ không phải là “cõi” như trong lời nhạc của Lam Phương và trong nhan đề mà các nhà dàn dựng đã đặt cho nhạc cảnh đang xét. Cỗi và cội chẳng qua chỉ là hai biến thể ngữ âm và có nghĩa gốc là cái gốc cây. Thí dụ: Cây có cội; nước có nguồn (tục ngữ) – Tiếc cây cội lớn không tàn; Tiếc vườn cúc rộng có hàng không bông (ca dao). Từ nghĩa gốc đã thấy, cỗi/cội mới có nghĩa phái sinh là nguồn gốc, căn nguyên. Thí dụ: nền nhân cội đức (= nền tảng của nhân và nguồn gốc của đức). Nghĩa của cỗi/cội trong “cỗi (cội) phúc” chính là nghĩa phái sinh này. Và cỗi (cội) phúc là nguồn gốc, là nguyên nhân tạo ra mọi phúc lành, đúng như các bản đã chú giải và đúng như lời của Tam Hợp đạo cô đã nói với vãi Giác Duyên trong nguyên bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân:
“Phàm người ở trên đời, tu đức thì gặp phúc, vướng tình thì chịu khổ”.*
Vả lại, ngay trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thì từ cỗi/cội trong cỗi (cội) phúc ở câu 2658 cũng là nhắc lại để nói rõ về hai tiếng cỗi (cội) nguồn ở câu 2656:
“Cỗi (cội) nguồn cũng ở lòng người mà ra”.
Vậy từ đang xét hiển nhiên là cỗi/cội.
§ 419. Kiến thức ngày nay, số 253, ngày 1-8-1997
ĐỘC GIẢ: Dưới tiêu đề “Bahasa: ngôn ngữ chung cho ASEAN?”, báo Tuổi trẻ ngày thứ năm 3-7-1997 đã đưa tin như sau: “Malaysia đã đưa ra đề nghị dùng tiếng Bahasa của Malaysia và Indonesia làm ngôn ngữ chung cho các nước thành viên ASEAN bên cạnh tiếng Anh”. Xin cho biết tiếng Bahasa là ngôn ngữ nào ở Malaysia và Indonesia.
AN CHI: Bahasa không phải là ngôn ngữ nào của Malaysia hoặc Indonesia cả. Trong tiếng Mã Lai và tiếng Indonesia thì bahasa là một danh từ chung (chứ không phải danh từ riêng) có nghĩa là tiếng nói, là ngôn ngữ. Thí dụ: bahasa Mělayu là tiếng Mã Lai, bahasa Indonésia là tiếng Indonesia, bahasa Inggeris là tiếng Anh, v.v.. Tiếng Indonesia thực chất cũng chỉ là tiếng Mã Lai nói ở Indonesia cũng như tiếng Mỹ (cho đến nay vẫn còn) là tiếng Anh nói ở Mỹ mà thôi. Khác nhau chỉ là ở chỗ tiếng Mỹ khác tiếng Anh nhiều hơn là tiếng Indonesia khác tiếng Mã Lai. Sở dĩ phải gọi thành hai là tiếng Mã Lai và tiếng Indonesia thì căn bản chỉ là vì Malaysia và Indonesia là hai quốc gia độc lập và riêng biệt. Vậy có thể nói mà không sợ sai rằng cả người Indonesia lẫn người Malaysia đều nói tiếng Mã Lai (Mělayu). Và bahasa là một danh từ của tiếng Mã Lai bắt nguồn ở danh từ bhāṣā của tiếng Sanskrit, có nghĩa là tiếng nói, ngôn ngữ, thổ ngữ; danh từ này, về phần nó, lại là phái sinh từ căn tố BHĀṢ- có nghĩa là nói, gọi tên, nói nhiều, v.v.. Danh từ Sanskrit này cũng chính là nguyên từ (etymon) của danh từ phiasa của tiếng Khmer và phasa của tiếng Lào, đều có nghĩa là tiếng nói.
Tóm lại, bahasa chỉ là một danh từ có nghĩa là tiếng nói, là ngôn ngữ trong tiếng Mã Lai và tiếng Indonesia chứ đó không phải là tên của bất cứ ngôn ngữ nào tại các quốc gia Malaysia và Indonesia cả. Chúng tôi không biết nguyên văn của nguồn tin nước ngoài hữu quan ra sao, chỉ biết chắc chắn là người đưa tin bằng tiếng Việt đã dịch sai. Ngôn ngữ mà Bộ trưởng Thông tin Malaysia Mohamad Ramad đề nghị lấy làm ngôn ngữ chung cho ASEAN trong lời tuyên bố ngày 1-7-1997 chính là ngôn ngữ chính thức của hai quốc gia Malaysia và Indonesia, nghĩa là tiếng Mã Lai, mà người Malaysia gọi là bahasa Mělayu còn người Indonesia thì gọi là bahasa Indonésia.
§ 420. Kiến thức ngày nay, số 253, ngày 1-8-1997
ĐỘC GIẢ: Hán-Việt tự-điển của Thiều Chửu nói “sửa mình trong sạch để thờ Phật gọi là tu hạnh”. Tôi thấy như vậy là đúng quá (tu = sửa, hạnh = đức hạnh); chẳng hiểu vì sao thiên hạ cứ nói là tu hành (động từ + động từ).
AN CHI: Hai chữ 修行 đúng ra phải đọc là tu hạnh như đã được ghi nhận trong Hán-Việt tự-điển của Thiều Chửu. Chữ 行 có bốn âm: hành, hạnh, hàng và hạng. Ở đây nó phải được đọc theo âm thứ hai là hạnh (như trong “đức hạnh”). Tu hạnh thực ra có nghĩa gốc là trau giồi đức hạnh nói chung. Nghĩa này đã được Mathews’ Chinese-English Dictionary dịch là “to cultivate morality”.
Từ lâu, hai chữ Hán đang xét đã bị đọc thành “tu hành” nên cũng chẳng có ai thiết tìm xem đọc như thế có đúng với âm gốc hay không, kể cả Nguyễn Du. Vâng, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng nó hai lần:
“Quy sư quy Phật tu hành bấy lâu” (câu 2044).
“Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền” (câu 3052).
Ở vị trí thứ 6 của câu 2044 và vị trí thứ 2 của câu 3052 thì chỉ có thể là vần bằng chứ không thể là vần trắc được vì nếu đọc thành vần trắc (hạnh) thì sẽ thất luật. Vậy chính Nguyễn Du cũng đã đọc là tu hành.
Với sự “lệch giọng” từ dấu nặng (thanh điệu 6) sang dấu huyền (thanh điệu 2) của tiếng thứ hai, hai tiếng “tu hành” từ lâu cũng đã chuyển nghĩa từ “trau giồi đức hạnh” thành “xa lánh cuộc đời phàm tục mà sống theo những giới luật của một tôn giáo nhất định”. Cái nghĩa mà Thiều Chửu đã nêu chính là nghĩa sau cùng này mà tác giả muốn ứng dụng cho Phật giáo đó thôi.
Nhân tiện, chúng tôi cũng muốn lưu ý rằng ứng với âm Hán Việt hạnh của chữ 行, trước kia âm Bắc Kinh là xìng (thuộc khứ thanh) còn ứng với hành thì lại là xíng (thuộc dương bình thanh) nhưng ngày nay thì xìng (ứng với hạnh) cũng đã nhập làm một với xíng vốn chỉ ứng với hành mà thôi.
§ 421. Kiến thức ngày nay, số 254, ngày 10-8-1997
ĐỘC GIẢ: “Bưng tai giả điếc”: bưng là nâng lên, bợ lên; vậy bưng tai là dùng tay mà nâng tai lên một cách trân trọng để nghe chứ sao lại “bưng tai giả điếc”?
AN CHI: Bưng ở đây không phải là nâng lên, bợ lên mà là che, là bịt. Bưng là âm xưa của phong 封 (trong niêm phong, phong tỏa, v.v.) cũng có nghĩa là che, bít. Bưng miệng cười là bụm miệng, che miệng lại mà cười. Bưng trống là bịt trống. Với nghĩa này của bưng, tiếng Việt có ngữ động từ ghép đẳng lập bưng bít và các thành ngữ kín như bưng, tối như bưng. Vậy bưng tai là che tai, bịt tai.
§ 422. Kiến thức ngày nay, số 254, ngày 10-8-1997
ĐỘC GIẢ: Tiếp theo Kiến thức ngày nay, số 238, trên số 248, quý vị lại trao đổi thêm về từ “ít” (bánh ít) nhưng theo tôi vẫn chưa ổn.
Chữ “ít” ở đây cũng chưa phải là từ đọc trại từ “et” của tiếng Dioi hay từ mượn, từ Việt hóa gì cả, mà là một từ để chỉ sự hiếm hoi, không phải là ít về trọng lượng mà là số lượng. Tôi xin kể lại sự tích cái bánh ít mà bình sinh cha tôi đã kể cho nhiều người nghe như sau:
Xưa kia, xứ ta đã có hai loại bánh dẻo bằng bột nếp, lá gai và đường gói bằng lá chuối nhưng kỹ thuật thời ấy còn kém: người ta chưa biết phơi hoặc trụng nước sôi cho lá chuối mềm nên hễ gói xong không ràng dây lại, tức thì lá bung ra giống như con ếch ngóc đầu nên gọi là bánh ếch.
Về sau có một hàn sĩ, được dân làng quý trọng, thường được mời dự kỵ lạp, lễ hội. Khác với những người già cả ở trong làng thường lấy phần bánh ếch về cho con cháu, vị hàn sĩ này lại đem cái bánh ếch về dâng cho mẹ. Vì gương hiếu kính đối với mẹ lúc bấy giờ còn hiếm hoi (mới có vị hàn sĩ này là người đầu tiên) nên người ta mới gọi cái bánh ếch thành bánh ít.
AN CHI: Đó chẳng qua cũng chỉ là một cách giải thích theo lối từ nguyên dân gian, như chúng tôi đã thưa trên Kiến thức ngày nay, số 248 mà thôi. Đó là còn chưa nói đến chuyện câu chuyện mà ông kể có hai điểm rất sơ hở. Một là cái bánh ít mà lá không bung ra thì may ra mới còn có phần giống với con ếch chứ lá mà đã bung ra thì e rằng sẽ giống con chim xòe cánh chăng? Hai là cái sự ít về số lượng kia chỉ thuộc về vị hàn sĩ chứ có phải thuộc về cái “bánh ếch” đâu mà gọi nó thành “bánh ít”? Nếu lấy đặc điểm của vị hàn sĩ kia mà gán cho cái “bánh ếch” thì lẽ ra phải gọi nó là “bánh nhiều” vì xem ra vị ấy đi dự kỵ lạp và lễ hội hơi… nhiều! Vả lại, dù là ở thời đó, lòng hiếu thảo chắc chắn cũng chẳng phải là độc quyền của vị hàn sĩ này.
§ 423. Kiến thức ngày nay, số 254, ngày 10-8-1997
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguyên văn và lời dịch bài thơ của Lý Bạch làm về Bến Nghé.
AN CHI: Bến Nghé mà ông nói chắc chắn phải ở bên Tàu chứ không phải bên ta và đó tất nhiên không thể là Sài Gòn. Nhưng có lẽ cũng là… Ngưu Chử?
Vậy thì xin chép hầu ông bài “Dạ bạc Ngưu Chử hoài cổ” mà Trần Trọng Kim đã dịch trong Đường thi (Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, 1950). Nếu không đúng ý ông thì cũng xin ông nhín chút thì giờ đọc cho… yui (chúng tôi không viết “dzui” vì “dz” không phản ánh được bán nguyên âm [j]). Sau đây là nguyên văn:
Ngưu Chử Tây giang dạ,
Thanh thiên vô phiến vân.
Đăng chu vọng thu nguyệt,
Không ức Tạ tướng quân.
Dư diệc năng cao vịnh,
Tư nhân bất khả văn.
Minh triêu quải phàm khứ,
Phong diệp lạc phân phân.
Trần Trọng Kim đã dịch như sau:
Đêm đậu thuyền ở bến Ngưu Chử (= Bến Nghé – AC) nhớ chuyện xưa.
Đêm Ngưu Chử, bến sông Tây,
Trời xanh chẳng có đám mây xa gần.
Lên thuyền đứng ngắm bóng ngân,
Vẩn vơ nhớ Tạ tướng quân ngày nào.
Ngâm thơ ta cũng nghêu ngao,
Người kia nay ở chỗ nào mà nghe.
Sáng mai buồm kéo thuyền đi,
Lá phong rụng xuống bộn b ề khắp nơi.
(Sđd, tr. 178 – 179).
§ 424. Kiến thức ngày nay, số 254, ngày 10-8-1997
ĐỘC GIẢ: “Kiềng thiềng trà châm nhị tuần”, “kiềng thiềng trà châm chung tuần”. Các nhà sư hoặc thầy cúng thường tụng câu ấy trong khi cúng. Xin cho biết “kiềng thiềng” nghĩa là gì và bắt nguồn từ tiếng Sanskrit nào?
AN CHI: Kiền thiềng (chứ không phải “kiềng”) không bắt nguồn từ tiếng Sanskrit nào cả vì đó là hai tiếng Hán Việt mà Hán tự là 虔誠. Kiền là kính cẩn còn thiềng – mà âm thông dụng hiện nay là thành (trong thành kính, chân thành, v.v.-) là thật lòng, hết lòng. Vậy kiền thiềng là kính cẩn và thật lòng, đồng nghĩa với thành kính, kính cẩn, v.v..
§ 425. Kiến thức ngày nay, số 254, ngày 10-8-1997
ĐỘC GIẢ: Nói về nhân vật Bát Hiền Vương trong phim Bao Thanh Thiên của Đài Loan, trong bài “Bác Hiền Vương là ai?” đăng trên Thế giới mới, số 242, tác giả Phan Trọng Hiền đã viết: “Tống Thái Tông lên ngôi, phong Đức Chiêu làm Bác Vương (Bác hàm nghĩa đức hạnh, không phải Bát là tám)” (tr. 64). Xin cho biết thực ra đây là Bát hay Bác?
AN CHI: Cứ theo nội dung của phim thì nhân vật đang xét không phải là “Bác Vương” mà đúng là Bát Hiền Vương. Phụ đề của phim đã nhất quán ghi 八賢王. Ba chữ này phải được đọc là Bát Hiền Vương và chữ bát 八 ở đây rõ ràng có nghĩa là tám. Cảnh trong phim cũng ghi đúng mấy chữ đó. Chẳng hạn, trên một chiếc lồng đèn ở trước phủ của Bát Hiền Vương (trong Bản tấu thứ chín, phần hai, phát chiều 16-7-1997) có ghi rõ ràng bốn chữ 八賢王府 = Bát Hiền Vương phủ. Trong lời thoại của nhân vật bằng tiếng phổ thông (Bắc Kinh), chữ đang xét cũng được phát âm nhất quán là bá (= Hán Việt bát); nếu là bác thì phải phát âm thành bò. Vì đây là bá chứ không phải bò, nên giọng Bắc của người thuyết minh phim bằng tiếng Việt mới đọc thành bát chứ không phải “bác”.
Vậy trong phim Bao Thanh Thiên, thì nhân vật đang xét là Bát Hiền Vương.
§ 426. Kiến thức ngày nay, số 254, ngày 10-8-1997
ĐỘC GIẢ: Tại sao lại gọi thủ đô Paris của nước Pháp là “Kinh đô Ánh sáng?” Có phải là do sự tích về một ngọn đèn đặc biệt nào đó trong lịch sử thành phố này không?
AN CHI: Ánh sáng, tiếng Pháp là lumière. Nhưng ngoài nghĩa “ánh sáng” ra, danh từ này còn có một số nghĩa khác, trong đó có một nghĩa liên quan đến câu hỏi của ông. Nghĩa đó là: kiến thức. Danh từ lumière đã được dùng theo phép ẩn dụ: kiến thức đã được xem như là cái ánh sáng soi rọi vào để mở mang đầu óc của con người. Với nghĩa này, người Pháp đã tạo ra các từ tổ như: siècle des Lumières, thế kỷ ánh sáng – mà thực chất là thế kỷ kiến văn – để chỉ thế kỷ XVIII, là thế kỷ mà kiến văn nở rộ, và được truyền bá rộng rãi so với trước kia (les Lumières cũng là một cách nói để chỉ trào lưu triết học chi phối tư tưởng châu Âu thế kỷ XVIII); ville de lumières, thành phố ánh sáng – mà thực chất là thành phố của kiến văn, của trí tuệ – để chỉ thành phố mà kiến văn nở rộ và được phổ biến rộng rãi. Ở thế kỷ XVIII, siècle des Lumières, thì Paris là một ville de lumières, vì quả thật lúc đó nó là kinh đô của trí tuệ và của sự thanh lịch trên toàn cõi châu Âu. Vì Paris được xem là ville de lumières nên người ta mới dịch mấy tiếng này ra tiếng Việt mà gọi nó là “Kinh đô Ánh sáng”.
Có một giai thoại bình dân nói rằng trước kia Paris rất tối tăm về đêm. Rồi có người đã có sáng kiến thắp những ngọn đèn đường cho thành phố này vào ban đêm. Từ đó Paris mới trở thành “Kinh đô ánh sáng”. Tất nhiên đây trước sau cũng chỉ là một giai thoại bình dân mà thôi!