Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2: Câu hỏi 379 - 400
§ 379. Kiến thức ngày nay, số 236, ngày 10-2-1997
ĐỘC GIẢ: Kiến thức ngày nay, số 231 có bài “U em” (tr. 22, 23) làm tôi rất cảm động. Xin được chia sẻ với tác giả một cách chân thành và sâu sắc về “một chút Hà Nội xưa”. Nhưng tôi cũng xin nêu một ý kiến để quý báo xem xét. Ở cuối bài (tr. 23) có chú thích số 2:
“Đốc”: có nghĩa là “đốc học” (thầy giáo).
Theo tôi được biết thì ở miền Bắc, chữ “đốc” cũng có nghĩa là bác sĩ nữa, còn ở miền Nam, bác sĩ cũng gọi là “quan thầy” (trước đây nội tôi thường dùng). Riêng chữ “đốc học” mà giải nghĩa là thầy giáo thì tôi e rằng chưa sát. Nhưng riêng ở địa phương tôi, có hai ông Đốc. Một vị là ông Đốc Hợi, thời cha tôi còn đi học, ông là ông Đốc (chức vụ lớn nhất ở trường tiểu học); một vị nữa là ông Đốc Giáp, người có chức vụ lớn nhất ở trường Nam tiểu học Gò Công, vào những năm tôi học lớp Nhứt và lớp Tiếp liên. Đó là hai vị sau cùng được gọi là Đốc ở quê tôi mà tôi được biết. Ông Đốc Hợi và ông Đốc Giáp nay đều đã qua đời.
Vậy “đốc học” theo thiển ý là hiệu trưởng thì đúng hơn.
AN CHI: Liên quan đến từ đốc, Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967) đã cho như sau:
“Đốc – 1. Hiệu trưởng một trường học (cũ) – 2. Giáo sư trung học (cũ) – 3. Y sĩ và thú y sĩ (cũ)”
Còn Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên thì cho như sau:
“Đốc 1. Đề đốc (gọi tắt).
Đốc 2. Đốc học (gọi tắt).
Đốc 3. (cũ; khẩu ngữ. Đốc tờ (gọi tắt)).
Phối hợp các nghĩa đã cho trên đây lại thì chúng ta có:
Đốc 1, liên quan đến ngành giáo dục, chỉ: a. hiệu trưởng một trường học; b. giáo sư (nay thì gọi là giáo viên) trung học.
Đốc 2, liên quan đến ngành y tế, chỉ: a. bác sĩ (nói chung); b. Y sĩ và thú y sĩ.
Đốc 3, liên quan đến ngành quân sự, chỉ đề đốc.
Vậy nghĩa đã chú trong bài của tác giả Đặng Anh Đào là một nghĩa có thật; chỉ có cách diễn đạt là có phần mơ hồ vì “thầy giáo” thì có thể chỉ là giáo viên tiểu học.
Nhân ý kiến của bạn, chúng tôi cũng xin nêu hai nhận xét liên quan đến bài “U em”.
1. Động từ cù đã được chú thích như sau: “Trong Nam gọi là thọc lét” (trang 23. chth. 1). Viết “lét” thì không đúng vì đúng ra phải là léc (nghĩa là với [k] cuối chứ không phải [t]), đúng như đã ghi trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của (tập 1, tr. 150); Dictionnaire annamite-français của J. F. M. Génibrel (2e éd., p. 130), Tự điển Việt-Nam phổ thông của Đào Văn Tập (tr. 591), Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức (quyển thượng, tr. 309. Tr. 229, cột 1, ghi “lét” có lẽ là do lỗi ấn loát), Từ điển tiếng Việt1992 (tr. 117), Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên (tr. 535). Cá biệt như Tự-điển Việt-Nam của Ban tu thư Khai Trí hoặc Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên thì ghi “lét” có lẽ vì cho rằng đây là một yếu tố của phương ngữ Nam Bộ mà Nam Bộ thì đã lẫn lộn [t] cuối thành [k] cho nên muốn tầm nguyên thì phải viết “lét”. Lập luận như thế là sai vì léc là một hình vị gốc Khmer, mượn ở danh từ kliêk có nghĩa là cái nách (chọc léc = chọc nách). Xin nói rõ thêm rằng khẩu ngữ Nam Bộ còn nói chọc (thọc) cà léc nữa và cà léc tất nhiên không phải gì khác hơn là hình thức phiên âm của kliêk. Vậy nếu muốn “phục nguyên” thì vẫn cứ phải viết léc, đúng như đã viết tại dòng 12, trang 20, Kiến thức ngày nay, số 233, bài “Người về soi bóng mình” của BS. Đỗ Hồng Ngọc.
2. Ở cuối bài, có câu: “Mỗi lần tàu hỏa đi qua Thái Bình, tôi nhìn qua cửa sổ: một vùng đồng lúa đơn điệu”. Chi tiết này không xác thực. Trong thời gian ở miền Bắc (1955 – 1975), chúng tôi đã ở Thái Bình gần 9 năm mà không hề thấy có đường xe lửa chạy qua bất cứ nơi nào của tỉnh này. Hay là ở thời tác giả còn thơ ấu thì có chăng? Cũng vô lý vì tàu Thanh, tàu Nghệ (xe lửa Hà Nội – Thanh Hóa, xe lửa Hà Nội – Nghệ An) chỉ chạy ở phía hữu ngạn sông Hồng còn tỉnh Thái Bình thì lại nằm bên tả ngạn. Mỗi lần muốn đi Hà Nội bằng tàu hỏa, chúng tôi phải đi một chặng xe ca (xe đò) Thái Bình – Nam Định qua phà Tân Đệ, rồi mới đáp tàu từ Thanh Hóa ra mà đi từ ga Nam Định về đến ga Hàng Cỏ (Hà Nội) là ga cuối cùng. Vậy làm sao tàu hỏa có thể đi qua Thái Bình được vì ngay cả tàu hỏa Hà Nội – Hải Phòng cũng chỉ chạy qua Hải Hưng (nay đã chia lại thành Hưng Yên và Hải Dương) mà thôi. Ý kiến này cũng được ông Đặng Hương (P. 13 N4 T28, Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội) – một cộng tác viên cao tuổi của Kiến thức ngày nay chia sẻ. Ông Đặng Hương viết: “Tôi vốn là dân Thái Bình, gắn bó với quê hương từ nhỏ, có thể khẳng định chưa bao giờ đường xe lửa chạy qua Thái Bình”.
§ 380. Kiến thức ngày nay, số 237, ngày 20-2-1997
ĐỘC GIẢ: Một học sinh ở Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh khi đào đất đã bắt gặp một con voi bằng đồng, dưới đế có khắc mấy chữ Hán “Đại Tuyên niên, Minh Đức chế”. Xin cho biết năm Đại Tuyên là năm thứ mấy của triều vua nào ở Việt Nam hoặc Trung Quốc.
AN CHI: Không một ông vua nào của Trung Quốc hoặc Việt Nam có niên hiệu là “Đại Tuyên”.
Trong lịch sử Trung Hoa, có tất cả 22 niên hiệu của 18 vị vua bắt đầu bằng chữ/tiếng Đại 大 nhưng không có niên hiệu nào là “Đại Tuyên”. Đại Hanh là niên hiệu thứ tư của Tấn An Đế (397 – 419). Đại Minh là niên hiệu thứ hai của (Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế (454 – 465). Đại Thông là niên hiệu thứ ba và Đại Đồng là niên hiệu thứ năm của Lương Vũ Đế (502 – 550). Đại Bảo là niên hiệu duy nhất của Lương Giản Văn Đế (550 – 551). Đại Kiến là niên hiệu duy nhất của Trần Tuyên Đế (569 – 583). Đại Thống là niên hiệu duy nhất của Tây Ngụy Văn Đế (535 – 552). Đại Thành là niên hiệu thứ hai của Bắc Chu Tuyên Đế (578 – 580). Đại Tượng là niên hiệu thứ nhất và Đại Định là niên hiệu thứ hai của Bắc Chu Tịnh Đế (580 – 589). Đại Nghiệp là niên hiệu duy nhất của Tùy Dưỡng Đế (605 – 617). Đại Túc là niên hiệu thứ mười lăm của Võ Hậu (684 – 705) tức Võ Tắc Thiên. Đại Lịch là niên hiệu thứ ba của Đường Đại Tông (763 – 780). Đại Thuận là niên hiệu thứ hai của Đường Chiêu Tông (889 – 905). Đại Đồng là niên hiệu thứ ba của Liêu Thái Tông (927 – 947). Đại Khang là niên hiệu thứ ba và Đại An là niên hiệu thứ tư của Liêu Đạo Tông (1055 – 1101). Đại Trung là niên hiệu thứ ba của Tống Chân Tông (998 – 1023). Đại Quan là niên hiệu thứ tư của Tống Huy Tông (1101 – 1126). Đại Định là niên hiệu duy nhất của Kim Thế Tông (1161 – 1190). Đại An là niên hiệu thứ nhất của Kim Vệ Thiệu Vương (1209 – 1213). Đại Đức là niên hiệu thứ hai của Nguyên Thành Tông (1295 – 1308). Không một vị vua nào có niên hiệu là “Đại Tuyên”.
Trong lịch sử Việt Nam, có tất cả 6 niên hiệu của 6 vị vua bắt đầu bằng chữ/tiếng Đại 大 nhưng cũng không có niên hiệu nào là “Đại Tuyên”. Đại Định là niên hiệu thứ hai của Lý Anh Tông (1138 – 1175). Đại Khánh là niên hiệu thứ nhất của Trần Minh Tông (1314 – 1329). Đại Trị là niên hiệu thứ hai của Trần Dụ Tông (1341 – 1369). Đại Định là niên hiệu duy nhất của Dương Nhật Lễ (1369 – 1370) khi ông ta chiếm ngôi của nhà Trần. Đại Bảo là niên hiệu thứ hai của Lê Thái Tông (1433 – 1442). Đại Chính là niên hiệu duy nhất của Mạc Thái Tông Đăng Doanh (1530 – 1540). Có ý kiến cho rằng Lý Nam Đế (542 – 548) đã lấy niên hiệu là Đại Đức nhưng cũng có sách chép rằng đó là Thiên Đức (chữ thiên 天 nhiều hơn chữ đại 大 một nét).
Dù sao đi nữa thì trong 6 (hoặc 7) niên hiệu đó cũng không có niên hiệu nào là “Đại Tuyên”.
Trở lại với sáu chữ Hán “Đại Tuyên niên Minh Đức chế” mà ông đã nói, chúng tôi cho rằng có thể đã có một sự nhầm lẫn trong cách đọc. Rất tiếc rằng ông đã không cho biết cách sắp xếp các chữ Hán đó. Vì vậy mà chúng tôi đành phải suy luận rằng cách sắp xếp đó là như sau (Xin ghi bằng chữ quốc ngữ cho tiện):
Ông đã cho rằng sáu chữ Hán đó làm thành hai hàng ngang đọc từ phải sang trái nên mới thành ra “Đại Tuyên niên Minh Đức chế”. Thực ra, nếu sáu chữ đang xét được sắp xếp đúng như chúng tôi đã suy luận thì chúng làm thành ba hàng dọc đọc từ trên xuống như sau: “Đại Minh, Tuyên Đức niên chế” nghĩa là “làm vào niên hiệu Tuyên Đức nước Đại Minh”. Nước Đại Minh tất nhiên là nước Trung Hoa thời nhà Minh (1368 – 1644) còn Tuyên Đức là niên hiệu (duy nhất) của vua Tuyên Tông (1426 – 1436) nhà Minh. Vậy con voi mà em học sinh kia đã đào được là một con “voi Tàu” và nó đã có tuổi thọ từ 560 đến 570 năm. Đó rất có thể là một cổ vật quý mà người Minh hương trong đoàn di dân của Trần Thượng Xuyên (Trần Thắng Tài) đã đem đến vùng Sài Gòn xưa (mà nay là Chợ Lớn) sau khi họ rời bỏ Cù lao Phố (Biên Hòa) hồi cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII.
Tuy nhiên đó cũng có thể là một cổ vật giả, một con voi tân thời mà kẻ gian manh cho khắc vào đế 6 chữ Hán đã nói rồi phao tin là mới đào được để gạt những người hám đồ cổ mà vớ bở. Cho dù có thật là trên đế đã có sẵn 6 chữ kia khi em học sinh vừa mới đào được con voi thì cũng chẳng có gì bảo đảm rằng đó không phải là những chữ đã được khắc vào cách đây chỉ mới năm bảy năm mà thôi.
§ 381. Kiến thức ngày nay, số 237, ngày 20-2-1997
ĐỘC GIẢ: Người ta thường gọi cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm là TrạngTrình. Là trạng thì điều nàydễ hiểu vì cụ đỗ trạngnguyên. Là Trạng Trình thì cũng dễ hiểu vì cụ được phong Trình quốc công. Nhưng tại sao lại là Trình quốc công mà không phải là Nguyễn quốc công? Vậy chữ “Trình” do đâu mà ra?
AN CHI: Trước khi được phong là Trình quốc công thì Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được phong là Trình Tuyền hầu. Chữ “Trình” trong Trình quốc công chính là chữ “Trình” trong Trình Tuyền, là hiệu mà ông đã thụ nhận khi được phong tước hầu. Về chữ “Trình” này, ta có thể thấy được mấy cách giải thích như sau.
Nguyễn Tá Nhí đã dịch “Trình Trạng nguyên hựu thi nhất thủ” là “lại chép thêm một bài thơ của ông Trạng nguyên họ Trình”*. Cứ theo lời dịch trên đây thì “Trình” cũng là họ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đây là một điều bất ngờ lớn vì xưa nay không có sách nào chép rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm lại có họ Trình.
Một số người khác thì lại gắn chữ “Trình” đó với họ của hai ông Trình Di và Trình Hạo ở bên Tàu. Hoàng Trung Thông đã đặt vấn đề như sau: “Có phải ông giống Trình Tử nên mới được phong Trình quốc công không?”*. Không trực tiếp khẳng định nhưng vẫn gắn chữ “Trình” với họ của Trình Tử, Trần Quốc Vượng viết: “Trong Tống Nho có Lý học. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm trở thành Trạng Trình (theo dòng Lý học của Trình Tử đời Tống)…”*
Một số người khác đã trực tiếp khẳng định như sau. GS. Bùi Duy Tân viết: “Vì thế mà vua Mạc phong cho ông tước Trình tuyền hầu (đời gọi ông là Trạng Trình), ý muốn đề cao ông như một người nối được cái học của Trình Di, Trình Hạo, những nhà lý học nổi tiếng đời Tống”*.
GS. Lê Trí Viễn viết: “Nhà Mạc đã coi Trạng nguyên làng Trung Am là một người thông thạo thuyết lý học của hai ông Trình và Chu đời Tống, điều mà phương Bắc cũng công nhận bằng câu “An Nam lý học hữu Trình Tuyền”, nên lấy họ của hai ông Trình (Trình Di, Trình Hạo) mà phong tặng cho ông.*
Thái Hồng cũng viết: “Nguyễn Bỉnh Khiêm (…) xin về trí sĩ rồi sau đó dù ở tại quê nhà nhưng vẫn được phong Thượng thư, Trình Tuyền hầu rồi Trình quốc công. Tước phong này có ý nói đến tài riêng của ông, rằng ông là người khơi dòng lý học của Trình Hiệu, Trình Di đời Tống như Chu Xán, xứ nhà Thanh đã nhận: An Nam lý học hữu Trình Tuyền”.*
Cách dịch của Nguyễn Tá Nhí không đúng đã đành nhưng cách giải thích của các tác giả còn lại cũng không phù hợp với sự thật. Đơn giản là khi phong tước cho Nguyễn Bỉnh Khiêm thì người ta đã lấy tên đất làm hiệu để gọi. Trình Tuyền là tên đất chỉ quê gốc của ông. Sổ tay địa danh Việt Nam của Đinh Xuân Vịnh (Nxb. Lao Động, 1996) đã ghi rõ như sau:
“Trình Tuyền: làng ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, trấn Hải Dương, sau đổi tên là làng Trung Am, xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, nay thuộc thành phố Hải Phòng. Quê Nguyễn Bỉnh Khiêm” (tr. 552).
Chính vì vậy mà khi thụ phong tước hầu, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới được gọi là Trình Tuyền hầu. Chu Xán gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng tước do triều đình Đại Việt ban cho còn nhiều vị giáo sư và học giả người Việt Nam ngày nay thì cứ ngỡ rằng đó là họ của ông Trình Di và ông Trình Hạo ở tít tận bên Tàu.
§ 382. Kiến thức ngày nay, số 238, ngày 1-3-1997
ĐỘC GIẢ: Chuyện Đông chuyện Tây thường dẫn Từ điển tiếng Việt 1992 của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên. Xin cho biết lý do của việc vận dụng đó. Có phải là vì nó “được biên soạn trên cơ sở gần ba triệu phiếu tư liệu của Viện Ngôn ngữ học” và vì nó không có nhược điểm, khuyết điểm gì hay không?
AN CHI: Thực ra chúng tôi vẫn có dẫn những quyển từ điển tiếng Việt khác chứ không riêng gì Từ điển tiếng Việt 1992 của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên. Còn sở dĩ chúng tôi vẫn dẫn quyển từ điển này thì chỉ vì đó là một quyển từ điển dễ tìm (đã được in lại đến lần thứ 4 đợt 2 năm 1996) nên bạn đọc dễ có điều kiện để kiểm chứng hơn chứ không phải vì nó không có khuyết điểm hoặc nhược điểm.
Một trong những nhược điểm của cuốn từ điển này mà bạn đọc ở Nam Bộ dễ thấy nhất là nó đã viết sai nhiều từ đặc biệt của phương ngữ Nam Bộ. Sau đây là một số thí dụ.
1. “Bánh ếch (là) bánh ít”. Lời giảng này tất nhiên là rất đúng nhưng cái bất hợp lý đập ngay vào mắt là -ch cuối ở “ếch” và -t cuối ở “ít”. Ai cũng biết rằng êch ~ ich là một cặp biến thể ngữ âm: mếch (lòng) = mích (lòng); (mốc) thếch = (mốc) thích, v.v.. Và êt ~ it là một cặp biến thể ngữ âm khác: (giống) hệt = (giống) hịt, (rắn) rết = (rắn) rít, v.v.. Vậy nếu “ếch” đúng thì phải viết “bánh ích” còn nếu “ít” đúng thì phải viết “bánh ết”. Có lẽ đại đa số đều cho rằng “ít” đúng. Vậy cái “bánh ếch” của Từ điển tiếng Việt 1992 phải được đổi thành “bánh ết”. Tuy nhiên, nếu không có chứng cứ nào khác mà chỉ kết luận suông như trên thì chỉ là cảm tính. Rất may mắn là chúng ta còn có cứ liệu dân tộc học. Bánh ết (= bánh ít) là biểu hiện của một nét văn hóa ẩm thực Tày – Thái mà ngữ liệu còn lưu giữ được cả trong tiếng Dioi ở Quý Châu (Trung Quốc) với mục từ sau đây: “et¹ (haou₃ et¹) gâteau de riz gluant écrasé, dans lequel on a mis un peu de sucre ou de viande et qu’on a enveloppé dans un morceau de feuille de bananier” (Jos. Esquirol et Gust. Williatte, Essai de Dictionnaire Dioi₃-français, Hongkong, 1908) nghĩa là “bánh bằng gạo nếp nghiền nhuyễn bên trong người ta có cho một ít đường hoặc thịt và gói bằng một miếng lá chuối”.
Nhân tiện, xin nói thêm rằng không chỉ bánh ết (= bánh ít) mới là một nét văn hóa ẩm thực Tày – Thái mà cả bánh ú cũng thế. Quyển từ điển trên còn có mục từ: “ou³ (haou₃ ou³) gâteau tricorne de riz glutineux, enveloppé dans des feuilles de bambou” nghĩa là “bánh hình ba góc bằng gạo nếp gói trong lá tre”. Cứ như trên, thì phụ âm cuối -t trong từ đang xét không chỉ tồn tại trong tiếng Việt mà cả trong tiếng Dioi. Vậy cái bánh của Từ điển tiếng Việt 1992 phải được ghi bằng chữ “ết”.
2. “Cà ròn. Bao nhỏ đan bằng cói”. Thực ra, đây là cái bao cà roòng và là một từ của phương ngữ Nam Bộ mà người Nam Bộ đã phiên âm từ tiếng Mã Lai karong (tiếng Khmer cũng có mượn từ này). Vì vậy nên không thể “Bắc hóa” mà viết thành “ròn” được khi mà trong nguyên ngữ nó lại có âm cuối là “ng”. Tiếc rằng một quyển từ điển có tính chất từ nguyên như Tầm-nguyên tự-điển Việt-Nam của Lê Ngọc Trụ (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993) cũng viết là “cà ròn” như từ điển do Hoàng Phê chủ biên.
3. “Giàng. Thần (theo cách gọi của một số dân tộc thiểu số). Cúng giàng. Giàng Trời. Giàng Đất”. Ba thí dụ trong mục từ này là hoàn toàn giả tạo. Về thí dụ thứ nhất, xin nhấn mạnh rằng người Việt không bao giờ nói “cúng giàng” với nghĩa là cúng thần mà người thiểu số cũng không dùng động từ “cúng” của tiếng Việt. Người Việt chỉ nói “cúng dàng” = cúng dường do cung dưỡng 供養 mà ra và cung dưỡng có nghĩa gốc là dâng lên để nuôi. Về thí dụ thứ hai, thì không có dân tộc thiểu số nào nói “Giàng Trời” vì “Giàng” là tiếng của họ mà “Trời” thì lại là tiếng Việt. Còn người Việt cũng chưa bao giờ nói “Giàng Trời” với nghĩa thần trời hoặc ông trời. Chỉ có người Việt miền Nam mới nói “dàng trời” nhưng “dàng” ở đây là một biến thể ngữ âm của “dường” trong “dường như”. Vậy “dàng trời” = như trời = quá xá = dữ tợn (chỉ mức độ); thí dụ: Thằng đó nói ẩu viết ẩu dàng trời mây. Về thí dụ thứ ba, xin nói rằng đó chỉ là do soạn giả sáng tác ra theo cái mẫu “Giàng Trời” mà thôi. Có “Giàng Trời” mà không có “Giàng Đất” thì làm sao thăng bằng được! Tóm lại, “cúng dàng” và “dàng trời” phải viết với “d” còn “Giàng Đất” thì không hề tồn tại trong tiếng Việt.
4. “Hôn₂ (dùng ở cuối câu hỏi). Không”. Đây cũng là một lối viết “Bắc hóa” vì cái từ và cái chữ chánh cống ở trong Nam phải là “hôông”, một biến thể ngữ âm của “hông” mà chính Từ điển tiếng Việt 1992 cũng có ghi nhận thành một mục từ là “hông₃”.
5. “Nghen. Nhé”. Cũng là một lối viết “Bắc hóa” vì đúng ra thì đó là “ngheng”. Ngheng là một từ bao gồm trong bản thân nó đến hai từ vì đó là kết quả của một lối nói ríu từ hai tiếng “nghe không”. Phụ âm cuối -ng ở trong ngheng chính là “hiện thân” của “không”. Nếu từ “phỏng” = “phải không” của phương ngữ Bắc Bộ mà cũng phải “tái Bắc hóa” thành “phỏn” thì có sợ là vô duyên hay không?
§ 383. Kiến thức ngày nay, số 238, ngày 1-3-1997
ĐỘC GIẢ: Chữ “dược” 藥 gồm có hai phần: một bộ và một chữ.
– Bộ thảo 草 viết tắt thành 艹, lá cỏ, cây cỏ,
– Chữ lạc 樂 là vui mừng, hoan lạc, lạc quan.
Vậy trong chữ “dược” 藥, không có “tượng thanh”, không có “tượng hình” mà là “hàm ý”: cây cỏ làm vui mừng, hoan lạc, tức là thuốc trị bệnh. “Dược học” là một ngành nghiên cứu về cây cỏ dùng để chữa lành bịnh, khiến tinh thần vui vẻ, hoan lạc. “Dược thảo” là “cây cỏ” dùng để làm thuốc.
Xin ông cho biết chiết tự như trên có đúng hay không.
AN CHI: Xin nói rằng sách vở cũng có chỗ đã phân tích đúng như bạn trình bày nhưng vì không phủ nhận được tính chất hài thanh của chữ dược 藥 nên người ta đành phải nói theo kiểu nước đôi rằng nó vừa hội ý vừa hài thanh*. Riêng cá nhân chúng tôi thì cho rằng ngay từ đầu, đó đã là một hình thanh tự mà nghĩa phù là thảo 艹 còn thanh phù là lạc 樂. Tất nhiên là khi chữ dược được đặt ra thì chữ lạc có thể đang còn có tổ hợp phụ âm đầu mà yếu tố thứ hai là phụ âm bên [l] còn yếu tố thứ nhất là một phụ âm đầu lưỡi và phụ âm này có thể là [ʂ] về sau đã trở thành [ʈʼ] ở trong thuốc. Việc chữ lạc hài thanh cho một chữ mà âm Hán Việt xưa đọc thành thuốc là một hiện tượng hoàn toàn bình thường vì chính nó cũng còn hài thanh cho chữ thước 爍, 鑠, là chữ cũng có phụ âm đầu [ʈʼ] ghi bằng chữ th-. Bản thân chữ dược, với nghĩa khác, cũng có âm thước và lược. Vậy, theo chúng tôi thì chữ dược là một hình thanh tự trong chữ Hán còn trong tiếng Việt thì thuốc là dược là hai điệp thức bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 藥 mà dược là âm chính thống hiện nay.
Chữ lạc, thanh phù của chữ dược, là một chữ có quá trình diễn biến ngữ âm phức tạp nên chúng tôi không tiện trình bày chi tiết tại đây.
§ 384. Kiến thức ngày nay, số 238, ngày 1-3-1997
ĐỘC GIẢ: 1. Với căn bệnh kinh niên kéo dài, hiện nay có hai cách dùng từ: – một số bác sĩ dùng từ “mạn tính”; – một số bác sĩ dùng từ “mãn tính”. Cá nhân tôi cho là “mạn tính” mới chính xác còn “mãn” thì có nghĩa là kết thúc rồi. Vậy theo ông, cách dùng nào là chính xác?
2. Trong toán học, khi so sánh 2 số, dấu > đọc là “lớn hơn” thì chính xác rồi, thí dụ: x > y đọc là “x lớn hơn y”. Nhưng đối với trường hợp x < y thì lại có hai cách đọc: một số người đọc dấu < là “nhỏ hơn”; một số người đọc là “nhỏ thua”, nghe sao kỳ quặc quá. Xin ông cho biết ý kiến.
AN CHI: 1. Đúng như ông đã nói, dùng “mạn tính” thì mới chính xác vì hai tiếng đó trong chữ Hán là 慢性 mà trong âm Hán Việt thì chữ 慢 chỉ có thanh khứ (mạn) chứ không có thanh thượng (mãn). Còn mãn, đúng như ông nói, là đầy, đủ, tròn, xong, v.v., thì viết 滿 (mãn nguyệt là tròn một tháng hoặc trăng tròn; mãn kỳ là hết hạn, v.v.).
2. Cũng đúng như ông nói, phải nói “nhỏ hơn” thì mới là tiếng Việt chứ “nhỏ thua” thì không phải là tiếng Việt nữa rồi. Còn nếu có người vẫn cứ muốn dùng lối nói đó thì có thể trả lời rằng “nhỏ thua” có nghĩa là “không nhỏ bằng” mà “không nhỏ bằng” thì chỉ có nghĩa là “lớn hơn”. Cũng như “lớn thua” (!) có nghĩa là “không lớn bằng” mà “không lớn bằng” thì chỉ có nghĩa là “nhỏ hơn” mà thôi.
§ 385. Kiến thức ngày nay, số 239, ngày 10-3-1997
ĐỘC GIẢ: Việt Nam tự điển của ông Lê Văn Đức, quyển hạ, phần II, ghi “Xôi kinh nấu sử”. Xin cho biết “xôi” đúng hay “sôi” mới đúng. Chữ “sôi” (hoặc “xôi”) này có liên quan gì đến chữ “sôi” trong “nước sôi”, chữ “sôi” trong “sanh sôi nảy nở” (mà từ điển Lê Văn Đức cũng ghi là “xôi”) và cả chữ “xôi” trong “xôi chè”?
AN CHI: Trước nhất xin nói về từ “sôi” trong “sanh sôi nảy nở” mà Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức, quyển hạ, mục “sanh”, lại ghi là “xôi”, trong khi các quyển từ điển khác cũng như đại đa số những người viết đều ghi “sôi”. Không biết nhà biên soạn Việt-Nam tự-điển có quan tâm đến nguồn gốc hay không nhưng viết x- là hoàn toàn phù hợp với từ nguyên: “xôi” là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 出 có nghĩa là ra, phát ra, sanh ra, nhô lên, mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là xuất nhưng cũng còn có một âm nữa là “xúy”*. Đây là một chữ thuộc thanh mẫu xuyên 穿 cho nên viết với x- thì chẳng có gì sai. Còn về mối quan hệ ôi ~ uy thì ta cũng có không ít cứ liệu: – chữ đôi 堆 hài bằng chuy 隹; -chữ 推 vừa đọc suy vừa đọc thôi; – chữ 壘 vừa đọc lỗi vừa đọc lũy; – chữ quỷ 鬼 hài thanh cho chữ côi 瑰; v.v.. Lại nói về mối tương ứng giữa thanh ngang (không dấu) và thanh sắc, thì đó cũng là một hiện tượng hoàn toàn bình thường: – (thể) thao = (thể) tháo; – chữ 供 vừa đọc cung vừa đọc cúng; – (thống) kê chính là kế 計(trong “kế toán”), v.v.. Do đó xôi ~ xúy là hoàn toàn bình thường và viết “sanh xôi”, theo chúng tôi, thì không sai.
Tuy nhiên, từ lâu và với đại đa số người viết thì “xôi” trong “sanh xôi nảy nở” đã bị s- của “sanh” đồng hóa về phụ âm đầu cho nên hiện nay, viết “sanh sôi” mới là bình thường còn “sanh xôi” thì lại có nhiều phần lạ lẫm, nếu không nói là kỳ quặc. Vì vậy cá nhân chúng tôi cũng muốn theo số đông mà viết với s- thành “sanh sôi” cho “đẹp đôi”. Huống chi, hiện nay “sôi” chỉ còn là một yếu tố phụ thuộc vào động từ “sanh sôi” chứ không còn (hoặc không hề) được dùng một cách độc lập. Chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh điều sau đây: sanh sôi dứt khoát không phải là một từ láy vì hai thành tố của nó đều có nghĩa riêng biệt và cụ thể.
Sôi (< xôi) trong “sanh sôi nảy nở” không có liên quan gì đến sôi trong “sôi kinh nấu sử” mà Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức đã viết với x-. Thực ra, chẳng riêng gì quyển từ điển này mới viết như thế mà Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của, Dictionnaire annamite-français của J. F. M. Génibrel (mục “nấu”), Tự-điển Việt-Nam của Ban tu thư Khai Trí (tại mục “nấu”), Việt ngữ chánh tả tự vị của Lê Ngọc Trụ và Từ điển thành ngữ Việt Nam của Viện Ngôn ngữ học do Nguyễn Như Ý chủ biên (mục “nấu sử xôi kinh”) cũng viết “xôi”. Tự-điển Việt-Nam phổ-thông của Đào Văn Tập (mục “sôi kinh nấu sử”), Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (mục “nấu sử sôi kinh”) và Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (mục “nấu sử, sôi kinh”) lại viết với s- thành “sôi”. Còn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên thì chấp nhận cả hai cách nên đã ghi: “nấu sử sôi kinh. Cũng nói nấu sử xôi kinh”. Vậy đây là “xôi” hay “sôi”?
Xin bắt đầu bằng việc phân tích về mặt ngữ nghĩa. Trừ Từ điển thành ngữ Việt Nam, các quyển từ điển ghi chữ đang xét bằng x- và Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đều có ghi nhận động từ xôi và giảng là nấu hoặc nấu bằng hơi nước. Riêng Việt ngữ chánh tả tự vị của Lê Ngọc Trụ còn chỉ rõ rằng xôi ~ thổi và do xuy 炊 có nghĩa là đun nấu mà ra. Ý kiến này hoàn toàn xác đáng. Nhưng chúng tôi còn muốn nói thêm rằng chữ xuy 炊 bộ hỏa 火 mà Lê Ngọc Trụ nêu ra này, xét về từ nguyên, chỉ là một nghĩa phái sinh của chữ xuy là thổi, tức là chữ 吹 bộ khẩu 口. Động tác thổi (lửa) là một động tác thường thấy khi nấu nướng nên được xem là một khâu hoặc một dấu hiệu của quá trình đó. Vì vậy mà chính nó cũng còn có một cái nghĩa phái sinh theo hoán dụ là thổi nấu và vì vậy mà Khang Hy tự điển mới ghi: “吹 (…) đồng 炊 dã” nghĩa là “吹 (…) cũng là một với 炊 vậy”. Ở một số vùng của phương ngữ Bắc Bộ, thổi cơm có nghĩa là nấu cơm.
Vậy xôi ~thổi ~xuy 吹(炊 ). Nhưng mối tương ứng này chưa dừng lại ở đây vì xôi còn ~ sôi và thổi còn ~ sủi nữa. Thật vậy, sôi trong “nước sôi”, “sôi sục” chính là một biến thể của xôi trong “xôi kinh nấu sử” và đây là một điều hoàn toàn bình thường vì ngay trong hệ thống Hán-Việt thì có những chữ thuộc thanh mẫu xuyên 穿 cũng đã được phát âm với s-: chữ 充 đã đọc thành “sung” trong “sung sướng”, “sung mãn” mặc dù nó vốn là “xung”; chữ 叱 từ lâu đã đọc thành “sất” mặc dù nó vốn là “xất”; v.v.. Còn sủi trong “sủi bọt” thì chính là một biến thể tiền kỳ của thổi (nước sủi = nước đã “thổi” bọt), biết rằng -ui là tiền thân của -ôi, nghĩa là cổ hơn như vẫn còn thấy được ở nhiều vùng thổ ngữ miền Bắc Trung Bộ, và cá biệt ở cả Nam Bộ nữa: túi = (đêm) tối; thúi = (hôi) thối; (trốc) cúi = (đầu) gối; tui = tôi (đại từ nhân xưng ngôi 1), v.v.. Về s ~ th thì ta có: (sôi) sục ~ thục = (chín); suy 推 cũng đọc thôi; rồi hiện tượng thổ ngữ hiện nay, “cây súng” thành “cây thúng” hoặc “cái thúng” thành “cái súng”, v.v.. Còn chữ “xôi” trong “xôi chè” thì lại có liên quan về nguồn gốc với “sôi” trong “nước sôi” và “xôi” trong “xôi kinh nấu sử”: đó là kết quả của một sự thay đổi từ loại của từ sôi/xôi, có nghĩa là “nấu chín bằng hơi nước”, từ động từ thành danh từ (xôi là một món ăn bằng nếp nấu chín bằng hơi nước).
Về cách viết thì chúng tôi cho rằng chữ “xôi” trong “xôi kinh nấu sử”, vốn là cùng gốc với “sôi” trong “sôi sục” – là một chữ đã được tuyệt đối nhất trí viết với s- cho nên có thể thống nhất viết thành “sôi”. Còn chữ “xôi” trong “xôi chè” thì từ lâu đã thống nhất viết với “x” nên vẫn giữ nguyên như thế.
Tóm lại, xét về nguồn gốc thì liên quan đến chữ xuy 吹 là thổi, nấu (炊) tiếng Việt có một dãy điệp thức (doublets) sau đây: – sôi (trong sôi sục, sôi kinh nấu sử) – xôi (trong xôi chè) – thổi (trong gió thổi) – sủi (trong sủi bọt) – sùi (trong sùi bọt mép) – xì (trong xì hơi) – xi (= mạ, phủ mặt ngoài bằng một lớp kim loại mỏng). Bảy điệp thức này ra đời, theo một lý thuyết đã bắt đầu trở nên phổ biến, là do phương thức “biến âm cấu tạo từ”. Nhưng theo từ nguyên thì phương thức này thực chất chỉ là một sự phân công ngữ nghĩa cho các điệp thức xuất xứ từ một nguyên từ (étymon) chung mà thôi.
§ 386. Kiến thức ngày nay, số 240, ngày 20-3-1997
ĐỘC GIẢ: Tôi đã đọc quyển “Đất nước Lào – lịch sử và văn hóa” của GS. Lương Ninh (chủ biên), PGS. Nghiêm Đình Vỳ và PGS. Đinh Ngọc Bảo, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, ấn hành. Tôi có mấy thắc mắc sau đây: 1. Tại trang 36, sách này có giảng rằng “Sip Soong Pản Na” là “mười hai thửa ruộng”. Tại sao vùng quần cư có tính chất quốc gia của cả một cộng đồng người đông đảo mà lại chỉ gồm có “mười hai thửa ruộng”? 2. Tại trang 41, sách đó cho rằng “Mương Xoa” là “xứ người Java”. Cách giải thích này thiếu sức thuyết phục – vì Java ở tận Indonesia – nhưng nếu không phải như thế thì “Xoa” ở đây nghĩa là gì?
AN CHI: 1. Cách giải thích trên đây của các tác giả về hai tiếng “pản na” là không đúng. Sip Soong Pản Na hiện nay nằm ở tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và người Trung Quốc đã phiên âm hai tiếng “pản na” thành “bản nạp” 版納, âm Bắc Kinh là băn nà. Còn toàn bộ danh xưng “Sip Soong Pản Na” thì đã được họ phiên âm thành “Tây Song Bản Nạp” 西双版納, âm Bắc Kinh là xì shuãng băn nà. Vì “sip soong” có nghĩa là mười hai cho nên cũng có tác giả và có sách dịch nghĩa hai tiếng đầu và phiên âm hai tiếng sau của “Sip Soong Pản Na” thành Thập nhị bản nạp. Nghĩa xác tạc của từ gốc “pản na” đã được ghi nhận trong nghĩa của hai tiếng “bản nạp” mà thư tịch của Trung Hoa vẫn còn lưu giữ. Chẳng hạn Hiện đại Hán ngữ từ điển (Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 1992) đã giảng hai tiếng “bản nạp” như sau: “Đơn vị khu vực hành chính thuộc châu tự trị của người Thái ở Sip Soong Pản Na, Vân Nam, tương đương với huyện. Năm 1960 bản nạp đổi thành huyện, như bản nạp Chiềng Rủng đổi thành huyện Chiềng Rủng”. Cứ theo lời giảng này thì danh từ “pản na” (bản nạp) vẫn còn được sử dụng để gọi một cấp đơn vị hành chính tại Trung Quốc cho đến cách đây chưa đầy 40 năm thì mới bị bãi bỏ. Nghĩa của nó đã được ghi nhận một cách rõ ràng. Chẳng những thế mà mười hai “pản na” đó có tên gọi cụ thể là gì thì thư tịch của Trung Quốc vẫn còn ghi chép rành mạch và đầy đủ, mặc dầu các sách có ghi không thống nhất. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu danh sách mà sách Văn hiến thông khảo đời nhà Thanh đã liệt kê. Mười hai “pản na” đó là: 1. Xa Lý, 2. Lục Khốn (tức Lục Thuận), 3. Ỷ Bang, 4. Dịch Võ, 5. Phổ Đằng, 6. Mãnh Vượng, 7. Chỉnh Đổng, 8. Mãnh Ô, 9. Mãnh Lạp, 10. Mãnh Già, 11. Mãnh Lung, 12. Mãnh Vãng*. Sách này còn nói rõ rằng một số bản (chữ “bản” này hoàn toàn khác chữ “bản” trong “bản nạp”) hợp lại thành mường, một số mường hợp lại thành một bản nạp (pản na), cũng có khi một mường lớn tự làm thành một bản nạp, gọi là bản nạp đổn (đổn 躉 có nghĩa là trọn vẹn, không lẻ), mười hai bản nạp hợp lại thành một nước (Xem tr. 89), tức là nước Xa Lý trong lịch sử. Rõ ràng nghĩa của hai tiếng “pản na” vẫn còn được ghi nhận một cách cụ thể và chính xác trong thư tịch và “na” ở đây không hề có nghĩa là ruộng.
Nhưng “pản na” là tiếng gì? Danh từ này chẳng những không phải là tiếng Lào gốc mà cũng chẳng phải là tiếng gốc bản ngữ trong bất cứ một ngôn ngữ Tày Thái nào khác vì nó là một danh từ phiên âm. Lý Phất Nhất cho rằng đây là phiên âm danh từ bara của tiếng Pali, có nghĩa là phủ hoặc châu (Sđd, tr. 2). Nhưng xin thành thật thú nhận rằng chúng tôi không tìm ra được danh từ “bara” với nghĩa đó trong tiếng Pali. Còn cái mà chúng tôi tìm được thì lại là pālana, có nghĩa là chính quyền, hoặc bang, tỉnh. Đây là một danh từ phái sinh từ căn tố PĀL, có nghĩa là chăm sóc, che chở, bảo vệ. Pālana mà phiên thành “pản na” thì hoàn toàn thích hợp về mặt âm lý (còn về mặt “nghĩa lý” thì, như đã thấy, cũng rất thích hợp). Xin nói thêm rằng pāl trong danh từ ghép raṭṭhapāla (= chính quyền) của tiếng Pali cũng được tiếng Lào phiên thành “ban” trong “lát tha ban”. Vậy pāl (ana) mà phiên thành pản (na) thì cũng chẳng có gì để bắt bẻ.
Vậy rõ ràng Sip Soong Pản Na là mười hai đơn vị hành chính lớn ngang ngửa với cấp huyện chứ không thể là “mười hai thửa ruộng”.
2. Chúng tôi cũng thấy như ông rằng sự giải thích đó không có sức thuyết phục. Xin dẫn lại nguyên văn lập luận của các tác giả : “Mặt khác, từ những quan hệ nào đó với dân hải đảo (…) mà dân nói tiếng Thái thấy văn hóa của người Xiềng Đông – Xiềng Thoong (…) có những nét giống người Java, nên đã gọi họ là người Java (Xoa) và gọi xứ sở của họ là Mương Xoa” (Sđd, tr. 41). Lập luận này, như các tác giả đã ghi rõ nơi cước chú, là xuất phát từ luận điểm của Louis Finot, học giả kỳ cựu người Pháp mà một vài luận điểm quan trọng gần đây cũng đã bị đặt thành vấn đề. Nói riêng về luận điểm đang xét, chúng tôi e là khi chủ trương như trên, L. Finot có lẽ đã quên mất rằng Lào là một nước nằm lọt tõm trong lục địa và là nước duy nhất không có biển ở Đông Nam Á. Một hoàn cảnh địa lý như thế này làm cho cơ hội có “những quan hệ nào đó với dân hải đảo” của “dân nói tiếng Thái” tại đất Lào thời bấy giờ trở nên rất mỏng manh nếu không phải là ảo tưởng! Sở dĩ Finot phải lập luận một cách khiên cưỡng như thế thì chỉ là vì ông muốn gắn cái âm “Xoa” của tiếng Lào với tên của đảo Java ở Indonesia mà thôi: ông nghĩ rằng âm đầu của từ “Xoa” trong tiếng Lào được ghi bằng chữ thứ 7 trong bảng ghi phụ âm truyền thống của chữ Lào mà chữ thứ 7 này lại chuyên dùng để ghi chữ j của tiếng Sanskrit (hiểu ngầm rằng địa danh Java là gốc Sanskrit); vậy “Xoa” mà dùng để phiên âm Java thì rất thích hợp. Hình như là ngay cả ở điểm này, L. Finot cũng còn quên: – rằng tiếng Lào có sává và saová (Chúng tôi ghi theo Marc Reinhorn trong Dictionnaire laotien-français, CNRS, Paris, 1970) để phiên âm tiếng Sanskrit java (= mau lẹ) còn tên của đảo Java thì lại được phiên thành sávā; – rằng swā (Xoa) dùng để phiên âm địa danh ức đoán Javā mà nguyên âm trong âm tiết thứ hai là một a dài khác với a ngắn trong tên đảo Java của Indonesia nên không thể đánh đồng Javā với Java được; – rằng chữ thứ 7 đang xét cũng dùng để ghi phụ âm đầu cho rất nhiều từ không phải gốc Sanskrit hoặc những từ gốc Sanskrit đã “Lào hóa”, nghĩa là đã đồng hóa theo hệ thống âm vị của bản ngữ, đến độ nhiều khi rất khó mà tìm lại được từ nguyên.
Tóm lại việc gắn từ “Xoa” trong “Mường Xoa” với Javā chỉ là kết quả của một sự ức đoán không có căn cứ. Còn theo chúng tôi thì nếu bằng vào những cứ liệu ngôn ngữ khác và cả những cứ liệu “ngôn ngữ chi ngoại” thì may ra có thể tìm được xuất xứ và nghĩa gốc của từ “Xoa”. Theo truyền thuyết của người Thái và người Lào thì quê hương gốc mà họ phải rời bỏ để đi về phía Nam tìm đất mới mà sinh cơ lập nghiệp, quê hương đó chính là Mường Trời. Khái niệm “Mường Trời” lúc bấy giờ luôn luôn là một nỗi ám ảnh trong tâm thức của họ và khi người Lào chọn được địa bàn định cư ở phương Nam, nhất là khi họ đã thiết lập được một điểm quần cư có tính chất trung tâm của cả cộng đồng thì để kỷ niệm và tôn vinh quê hương cũ, họ bèn đặt tên cho nơi đó là Mường Trời, mà tiếng Lào là Mương Xoa. Sau L. Finot, các chuyên gia về lịch sử của nước Lào đều mặc nhiên nhất trí cho rằng địa danh “Mường Xoa” chỉ còn tồn tại trong truyền thuyết mà thôi và nhiều người đã thản nhiên xem rằng “Xoa = Javā” là một đẳng thức tuyệt đối chính xác. Paul Lévy đã viết không cần dè dặt gì hết rằng “cái tên cổ xưa nhất của Luang-Prabang vốn là Mương Xua, tức là Mường Java mà Java là cái tên mà người Ấn Độ đã đặt cho một hòn đảo của Indonesia”.*
Không bận tâm đến cả cái tên Mường Xoa, G. Coedès đã đề cập thẳng đến “Javá” như là vị trí địa lý của kinh đô Luang-Prabang tương lai*. Thực ra, địa danh Mường Xoa tuy chỉ còn tồn tại trong truyền thuyết nhưng hiện thân của nó với tính cách là tên của một vùng địa lý và một khu vực hành chính hiện đại của nước Lào thì vẫn còn đó và đó là địa danh bằng tiếng Sanskrit Svargaloka – mà cách phát âm theo kiểu Lào là Sa vẳn kha lốc – trong đó svarga có nghĩa là trời còn loka (= không gian, thế giới) thì tương đương với “mường”. Vậy Svargaloka có nghĩa là Mường Trời, tức Mương Xoa, biết rằng “xoa” là hình thái Lào hóa của svar trong svarga, rằng svarga cũng có dạng rút ngắn là svar và rằng người Khmer cũng có mượn danh từ Sanskrit svar mà phát âm thành xuô, thí dụ than xuô là cõi trời, cõi tiên (than = nơi, chốn, v.v.). Vậy Xoa có nghĩa là trời và Mương Xoa tất nhiên là Mường Trời, nghĩa là Svargaloka. Người ta có thể phản bác mà cho rằng về mặt ngữ âm thì Sanskrit sva chỉ có thể cho ra Lào xuô [suo] còn svā mới cho ra xoa [swa] vì vậy sva(r) không thể cho ra xoa được. Xin trả lời rằng thực ra tiếng Lào đã xử lý một cách không nhất quán a và ā của tiếng Sanskrit, rằng chính các học giả đó cũng không phân biệt a với ā nên có người thì ghi Java mà có người lại ghi Javā; rằng địa danh Mường Xoa xuất hiện lần đầu tiên là trên bia Ram Khăm Heng (1292) của Xiêm (chứ không phải của Lào) mà lúc đó văn tự Xiêm cũng chưa phải đã định hình một cách hoàn toàn có quy củ như hiện nay; rằng r trong svar đã tạo ấn tượng như a đứng trước nó là một a dài (ā), nhất là khi mà nó lại không được phiên (nên càng có thể xem như đã được nhập vào oa của xoa); và cuối cùng, rằng đây dù sao cũng chỉ là một cách phiên âm đã “dân gian hóa” nên không thể (hoặc không còn) mang tính chất bác học và vì vậy mà không nên đem luật tương ứng ngữ âm chặt chẽ ra để bắt bẻ tại đây. Tóm lại, xoa [swa] của tiếng Lào, theo chúng tôi, chính là cùng một gốc với xuô [suo] của tiếng Khmer và đều do svar (= trời) của tiếng Sanskrit mà ra. Vậy Mương Xoa chính là Svargaloka, nghĩa là Mường Trời.
Lịch sử đã cho biết rằng Mương Xoa là vùng mà về sau đã trở thành kinh đô Luang Prabang. Kinh đô xưa này hiện nay vẫn còn có một vùng ngoại ô mà tên bằng tiếng Sanskrit là Svargaloka phát âm theo kiểu “Phạn-Lào”, như đã nói, thành Sa vẳn kha lốc. Đây không phải là gì khác hơn là chính Mương Xoa trong truyền thuyết. Tất nhiên là không thể đòi hỏi vị trí của Luang Prabang phải chồng khít lên vị trí cũ của Mương Xoa = Svargaloka vì đó là một điều không thực tế. Sài Gòn của thế kỷ XX đã được thiết lập trên vị trí của Bến Nghé còn Sài Gòn của thế kỷ XVIII thì lại thuộc vùng Chợ Lớn mà người Hoa vẫn còn gọi bằng cái tên cũ của nó là Thầy Ngòn (phiên âm từ Sài Gòn). Vậy có lẽ nào vị trí của hai thành phố (hoặc phần của thành phố) không chồng khít lên nhau mà cho rằng Sài Gòn không có liên quan gì đến lịch sử của Thầy Ngòn?
§ 387. Kiến thức ngày nay, số 241 , ngày 1- 4 -1997
ĐỘC GIẢ: Tôi không thỏa mãn với đoạn ông trả lời về từ “đốc” cho ông bạn Dương Văn Thanh Quì trên Kiến thức ngày nay, số 236, nhất là ông lại đưa ra hai quyển từ điển tiếng Việt (1967 và 1992) để làm căn cứ vì theo tôi hai quyển từ điển trên giảng không rõ ràng.
Chữ “đốc” nguyên là âm Hán Việt có nghĩa là xem xét. Nếu tôi không lầm thì nó là “directeur” trong tiếng Pháp có nghĩa là trưởng, như:
directeur d’une école = hiệu trưởng,
directeur des écoles = đốc học,
directeur d’un service = giám đốc, cục trưởng.
Từ “đốc” cũng thấy ghép thành “đốc công”, “giám đốc”, “đề đốc” (binh nghiệp), v.v.. Thời Pháp thuộc, dân chúng dùng từ “đốc” để chỉ chức trưởng như hiệu trưởng trường tiểu học, y sĩ trưởng bệnh xá trong khi nói một cách thân mật. Người ta ghép từ “đốc” với tên người có chức vụ mà không nói họ, thí dụ: ông đốc Tri, ông đốc Lý và không gọi tắt ông đề đốc là ông đốc vì ông đề là một chức quan, đâu phải chức thầy. Còn nếu không nói “đốc” mà nói đầy đủ “đốc học” hay “đốc tờ” thì phải nói đầy đủ họ và tên, như: ông đốc học Lê Hữu Tri, ông đốc tờ Nguyễn Văn Lý, mới khỏi bị chê là ăn nói xách mé, thiếu lịch sự.
AN CHI: Chúng tôi không thông thạo về hệ thống học chính thời Pháp thuộc nhưng, theo chúng tôi, nếu đã đủ điều kiện để làm “directeur des écoles” thì đã là inspecteur (thanh tra). Còn danh ngữ “đốc học” thì lại đồng nghĩa với “hiệu trưởng” trong tiếng Việt hiện đại. Danh ngữ trước bây giờ đã là một ngữ cũ còn danh ngữ sau là một ngữ hiện hành chứ không phải hiệu trưởng là directeur d’ école còn đốc học là “directeur des écoles”.
Chúng tôi nhất trí với ông rằng chữ đốc 督 có nghĩa là trông coi (nên mới thuộc bộ mục 目) và đốc học có nghĩa là trông coi về dạy học nói chung, rằng do nghĩa đó mà ở Trung Quốc và Việt Nam trước đây đã từng có một chức quan gọi là đốc học, có chức năng và quyền hạn trông coi việc dạy học ở cấp hành chính mà mình được bổ nhiệm. Nhưng đây là chuyện trước kia chứ trong nền học chính của Pháp tại Việt Nam thì “đốc học” chỉ còn có nghĩa là “directeur d’ école” (= hiệu trưởng) mà thôi.
Nhiều quyển từ điển đã ghi rằng “đốc” cũng là hình thức nói tắt của “đề đốc” chứ không phải là trong lĩnh vực quân sự (mà ông gọi là “quan”) thì không nói tắt thành “đốc” và chỉ trong lĩnh vực giáo dục hoặc y tế (mà ông gọi là “thầy”) thì mới nói tắt như thế. Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức chẳng hạn, cũng ghi: “Đốc (…) Đề-đốc, đô-đốc,…”. Đặc biệt là, cũng bộ từ điển đó, quyển thượng, phần III (nhân danh và địa danh), có các mục từ sau đây:
“Đốc Lựa: một đốc-binh của Bình-Tây đại-nguyên-soái Trương-Định”.
“Đốc Tòng: nt”
“Đốc Thu: một đốc-binh của Đề-Thám (…)”
“Đốc Vàng: một đốc-binh triều Nguyễn (…)”
Vậy rõ ràng là ngay cả trong lĩnh vực quân sự thì người ta vẫn có gọi tắt thành “đốc”.
Cuối cùng, chúng tôi cho rằng ông đã nhầm lẫn vì đã đánh đồng tiếng “đốc” trong “đốc học”, “đề đốc”, v.v. với tiếng “đốc” trong “đốc tờ”. Tiếng trước là một hình vị tiếng Việt gốc Hán mà Hán tự là 督 còn tiếng sau thì chỉ là một âm tiết vô nghĩa dùng để phiên âm âm tiết thứ nhất (doc-) trong danh từ docteur của tiếng Pháp mà thôi.
§ 388. Kiến thức ngày nay, số 241 , ngày 1-4-1997
ĐỘC GIẢ: Trong dịp chuẩn bị kỷ niệm năm thành lập Thành phố Sài Gòn nay là Thành phố Hồ Chí Minh, theo tôi được đọc trên một số báo chí, thì cho đến nay, có 2 ý kiến lấy mốc thời gian khác nhau.
Ý kiến thứ nhất là của ông Nguyễn Duy Cách đăng trên báo Sài Gòn giải phóng Xuân Đinh Sửu và trong tạp chí Kiến thức ngày nay, số 236, đại ý như sau: Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập Thành phố Sài Gòn ngày 8-1-1877. Sắc lệnh này được ban hành ngày 16-5-1877. Theo ý kiến này thì đến năm nay(1997), Thành phố Sài Gòn thành lập được 120 năm. Ý kiến này lấy văn bản pháp lý làm căn cứ.
Ý kiến thứ hai của ông Nguyễn Đăng Sơn, giám đốc dự án quốc gia VIE 95-051 về việc nâng cao năng lực quản lý và qui hoạch đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh, đăng trên báo Sài Gòn giải phóng ngày thứ tư 19-2-1997 thì “có thể lấy mốc thời gian lập ra Thành phố Sài Gòn trước đây (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) là từ năm 1698, khi xuất hiện huyện sở Tân Bình”. Theo ý kiến này thì đến năm 1998, thành phố Sài Gòn thành lập được 300 năm. Ý kiến này lấy việc xây dựng huyện sở làm căn cứ.
Vậy Thành phố Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) chính thức được thành lập năm nào? Căn cứ để định mốc thời gian nào là đúng và có còn mốc thời gian thành lập nào khác nữa không? Sao không thấy nói đến việc thành lập Phiên Trấn Gia Định thành?
AN CHI: Kể ra thì cũng có mốc thời gian khác nữa, chẳng hạn năm 1790 là năm mà Nguyễn Ánh quyết định biến Sài Gòn làm kinh đô, gọi là Gia Định kinh và cho làm đồ án để xây thành kiểu Vauban của Pháp. Nhưng trước năm 1790 thì Sài Gòn đã là một đô thị sầm uất từ lâu vì theo lời của Nguyễn Đình Đầu thì “các nhà nghiên cứu địa lý lịch sử xét thấy rằng Sài Gòn đã là “thành phố” từ khi Nguyễn Cửu Đàm xây lũy Bán Bích năm 1772, khi ấy thị trấn phố xá không phải mọc xung quanh một thành quách mà xung quanh một thương cảng và được bảo vệ bởi một vách thành dài 15 dặm”.*
Vậy khi mà tổng thống Pháp ra sắc lệnh ngày 8-1-1877 thành lập “thành phố Sài Gòn” thì Sài Gòn đã là một thành phố từ lâu. Sắc lệnh này do đó chỉ có ý nghĩa và tác dụng trong phạm vi hệ thống hành chính mà thực dân Pháp đã thiết lập tại nước ta mà thôi. Và có lẽ nào dân Sài Gòn lại có thể coi đó là một vinh dự để lấy năm đó làm năm mốc mà kỷ niệm?
Vì vậy mà chúng tôi tán thành ý kiến của Nguyễn Đình Đầu cho rằng “1698 là năm chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh (cũng đọc Kính) vào Nam kinh lược, (…) lấy đất Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn; mỗi dinh đặt chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để cai trị. Từ đây mới chính thức có chính quyền của chúa Nguyễn ở vùng đất mới bấy lâu nay do lưu dân Việt Nam tự động đến sinh sống khai hoang lập ấp và tự quản. Ta lấy năm 1698 làm mốc đầu tiên của Sài Gòn là vì vậy, vì từ đó mới có phủ sở Gia Định, huyện sở Tân Bình thuộc phủ Gia Định, từ đó xứ Sài Gòn mới chánh thức là đất Việt Nam và huyện sở, phủ sở đó không phải ở cô độc trên đồi Tân Khai ngó xuống sông Bến Nghé, mà ở giữa một nơi đô hội khá phồn thịnh được tạo lập từ nhiều chục năm rồi bởi hàng vạn lưu dân. Nói một cách khác, không phải Sài Gòn mới mọc lên từ 1698 mà trước 1698 đã có một sự phát triển chắc là lâu dài mà nhà làm sử phải tìm biết”.*
Cùng một quan niệm như trên, Trần Văn Giàu đã viết: “Như vậy, năm 1698, xứ Sài Gòn trở thành huyện Tân Bình, huyện sở đặt trên gò Tân Khai ngó xuống Bến Nghé. Đây cũng là trụ sở của dinh Phiên Trấn. Ta có thể lấy năm lập huyện Tân Bình, dinh Phiên Trấn làm năm khai sinh cho thành phố Sài Gòn, một điểm cư dân đã khá trù mật từ nhiều chục năm, cũng là một điểm thương mãi đang ở trong thế thịnh đạt”.*
Cứ như trên thì chỉ có năm 1698 mới là cái mốc thời gian hợp lý nhất để đánh dấu sự ra đời của Sài Gòn và bộ sách Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh ra mắt độc giả trong mấy năm gần đây cũng chính là theo tinh thần của quan điểm đó: chuẩn bị kỷ niệm 300 năm tuổi của Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) vào năm 1998.
§ 389. Kiến thức ngày nay, số 242, ngày 10-4-1997
ĐỘC GIẢ: Tết Bính Tý (1996), tôi có đọc bài “Ngày Tết bàn chuyện rượu và thơ” của tác giả Bùi Đẹp đăng trên tạp chí Cẩm Thành số 7 do ngành Văn hóa thông tin tỉnh Quảng Ngãi ấn hành. Trong bài (trang 19) có đoạn nguyên văn như sau:
“Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu,
Thi kiến đồng tâm bán cú đa.
Nghĩa là:
Uống rượu gặp người tri kỷ ngàn chén vẫn ít,
Làm thơ vắng bạn đồng tâm nửa câu vẫn nhiều”.
“Thi kiến 見 đồng tâm” mà dịch là “làm thơ vắng bạn đồng tâm” thì có đúng hay không? Tôi có gởi thắc mắc đến ban biên tập mà mãi không thấy trả lời.
AN CHI: Đúng ra thì phải là:
Thi khiếm đồng tâm bán cú đa.
Khiếm 欠 là thiếu, vắng. Thí dụ: khiếm diện là vắng mặt, khiếm nhã là thiếu lịch sự, khiếm đồng tâm là thiếu bạn đồng tâm. Có lẽ do hai tiếng phát âm na ná với nhau nên tác giả đã nhầm khiếm thành “kiến” chăng? “Kiến đồng tâm” là thấy bạn đồng tâm, gặp bạn đồng tâm, hoàn toàn trái ngược với “khiếm đồng tâm”. Đã “kiến đồng tâm” thì phải để cho nguồn thơ lai láng tuôn trào chứ sao lại là “bán cú đa”?
Sách Tục ngữ Hoa – Việt do Nguyễn Lập Sơn và Dư Phát Linh sưu tầm và biên soạn (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993) có cho một dị bản như sau:
“Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu
Thoại bất đầu cơ bán cú đa
Rượu gặp tri âm nghìn chén ít
Chuyện chẳng hợp nhau nửa câu cũng rườm”.
(Sđd, tr. 228)
Cùng một nội dung với hai câu mà tác giả Bùi Đẹp đã nêu, Tục ngữ Hoa – Việt còn có hai câu theo thể ngũ ngôn như sau:
“Tửu phùng tri kỷ ẩm
Thi hướng hội nhân ngâm.
Rượu uống với tri kỷ,
Thơ ngâm cùng bạn thơ”
(Sđd, tr. 228)
Trong Tăng quảng hiền văn* hai câu trên còn được nối bằng hai câu sau đây:
“Tương thức mãn thiên hạ,
Tri tâm năng kỷ nhân.
nghĩa là:
Biết nhau đầy thiên hạ,
Hiểu lòng nhau mấy người?”.
§ 390. Kiến thức ngày nay, số 242, ngày 10-4-1997
ĐỘC GIẢ: Ông vua nào của nước ta đã đặt tên nước là Đại Ngu? Chữ “Ngu” có liên quan gì đến “ngu” trong “ngu đần”? Sách nào có ghi chép điều này?
AN CHI: Sử Việt Nam nhiều quyển có ghi chép chuyện này vì đây là sự kiện lịch sử xảy ra vào năm 1400 tại nước ta mà quốc hiệu trước đó là Đại Việt. Người đã đổi tên nước thành Đại Ngu là Hồ Quý Ly vì họ Hồ vốn là dòng dõi của nhà Ngu ở bên Tàu. Sách Việt-Nam sử-lược của Trần Trọng Kim, chẳng hạn, đã chép như sau: “Quí-Ly bỏ Thiếu-đế (nhà Trần – AC) nhưng vị tình cháu ngoại cho nên không giết, chỉ giáng xuống làm Bảo-ninh đại-vương rồi tự xưng làm đế (…) Nguyên họ Hồ là dòng dõi nhà Ngu bên Tàu cho nên Quí-Ly đặt quốc hiệu là Đại-Ngu”*. Chữ “Ngu” ở đây chỉ là đồng âm với chữ “ngu” trong “ngu đần” mà thôi.
§ 391. Kiến thức ngày nay, số 242, ngày 10-4-1997
ĐỘC GIẢ: Xin giải thích câu “Hổ phụ sanh hổ tử” và viết ra chữ Hán. Có người cãi rằng câu đó đúng ra phải là “Hảo phụ sanh hảo tử”, có thật như thế không?
AN CHI: Sách vẫn chép: Hổ phụ sanh hổ tử 虎父生虎子 (cha cọp sanh con cọp) ý nói “cha nào con nấy” nhưng cha ở đây, vì được ví với hổ, cho nên phải thuộc hàng dũng mãnh, cao quý (chứ không phải hạng tầm thường). Cái từ chính trong câu ngạn ngữ đích thị là hổ (chứ không phải hảo 好)vì vậy nên mới có thêm một vế đối lại nữa là: Lân mẫu xuất lân nhi (mẹ lân đẻ con lân) mà thực chất cũng là đồng nghĩa với câu trên. Tuy nhiên nói “Hảo phụ sanh hảo tử” (cha tốt sanh con tốt) thì vẫn có nghĩa. Có điều là nói như thế thì đã “cải biên” câu ngạn ngữ quen thuộc, làm cho cái ẩn dụ về tính oai hùng hoặc sự cao quý gởi gắm trong danh từ “hổ” cũng tan biến đi luôn!
§ 392. Kiến thức ngày nay, số 242, ngày 10-4-1997
ĐỘC GIẢ: Hai tiếng “tranh vanh” 崢嶸 trong tiếng Hán (đọc theo âm Hán Việt) có phải đã chuyển sang tiếng ta thành “chênh vênh” hay không? Có phải đó cũng đúng là hai chữ “tranh vanh” trong câu đầu “Tranh vanh xích vân Tây” ở bài thơ “Khương thôn” của Đỗ Phủ không?
AN CHI: Chúng tôi cho rằng hai tiếng chênh vênh đúng là bắt nguồn ở một nguyên từ tiếng Hán ghi bằng hai chữ 崢 嶸 mà âm Hán Việt hiện đại là tranh vanh, (đúng như ông đã nghĩ) và đây đúng là hai chữ của câu thơ:
Tranh vanh xích vân Tây
trong bài “Khương thôn” của Đỗ Phủ. Trần Trọng Kim dịch câu này thành:
Mé tây mây đỏ bầng bầng.
Nhưng câu thơ dịch này đã không cho thấy được cái nghĩa của hai tiếng “tranh vanh” là cao ngất, chênh vênh.
§ 393. Kiến thức ngày nay, số 242, ngày 10-4-1997
ĐỘC GIẢ: Sau khi đánh thắng quân Minh, Nguyễn Trãi đã viết bài “Bình Ngô đại cáo”. Tại sao lại là “bình Ngô” mà không phải “bình Minh”?
AN CHI: Chu Nguyên Chương tức Minh Thái Tổ, người sáng nghiệp của nhà Minh đã từng có lúc tự xưng Ngô quốc công, rồi Ngô Vương, trước khi giành lại được đất nước từ tay thống trị ngoại tộc nhà Nguyên để lên ngôi hoàng đế. Vậy khi nói đến tiếng Ngô là đã nói đến nhà Minh. Có người đã chứng minh một cách chi tiết và công phu rằng tiếng “Ngô” là một từ mà từ lâu dân ta đã dùng để chỉ người Tàu (như trong “trò Ngô”), nhưng chúng tôi không tin ở thuyết đó vì không tin rằng Nguyễn Trãi chỉ chơi chữ một cách tầm thường đến thế.
§ 394. Kiến thức ngày nay, số 243, ngày 20-4-1997
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 226, ông có trả lời rằng phu khiêng đòn đám ma phải nói và viết là “đồ tì” mới chính xác. Tôi nghe trong Nam Bộ còn gọi là “đạo tì”. Tại sao ông không nêu lên? Hay là ông không biết?
AN CHI: Thực ra trên Kiến thức ngày nay, số 226, chúng tôi chỉ hạn chế vấn đề trong phạm vi của những chữ Hán dùng để phiên âm danh từ śavya của tiếng Sanskrit mà thôi. Còn nếu liên hệ rộng ra thì ở trong Nam, người ta không chỉ còn gọi phu khiêng đòn đám ma là đạo tùy – chứ không phải là đạo tì như ông đã nhắc – mà còn gọi đó là những người họ đạo hoặc đạo hò nữa.
Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của đã ghi nhận và giảng ba cách nói đó như sau:
“Đạo tùy. Họ đạo, đạo hò, những người làm nghề đi khiêng quan cữu”.
“Đạo hò. Bọn lãnh việc đi khiêng quan cữu”.
“Họ đạo. Bọn lãnh việc đi khiêng quan cữu (đám ma)”.
Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức, một bộ từ điển đã thâu thập nhiều từ ngữ quan trọng và độc đáo của phương ngữ Nam Bộ, tiếc thay, cũng chỉ ghi nhận có họ đạo mà không có đạo tùy và đạo hò. Còn Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên thì lại chẳng ghi nhận trường hợp nào.
§ 395. Kiến thức ngày nay, số 243, ngày 20-4-1997
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 238, ông có trả lời bạn đọc rằng “bánh ít” phải được viết thành “bánh ết”. Tôi thấy nhiều quyển từ điển đều viết là “bánh ếch”. Theo tôi, từ này do dân gian gọi và viết đã quen cho nên đâu phải lúc nào cũng là quan hệ ngữ âm.
AN CHI: Chẳng những nhiều quyển từ điển ghi “ếch” thay vì ết, như ông đã nói, mà có quyển, như Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của còn ghi nhận và giảng rõ như sau: “Bánh ếch. Bánh giống hình con ếch, cũng kêu là bánh ít”. Với lối giảng theo từ nguyên dân gian như thế này – nghĩa là không cần đến từ nguyên học đích thực – thì phần đông đều sẵn sàng thừa nhận rằng cái bánh của Từ điển tiếng Việt 1992 phải được ghi bằng chữ “ếch”. Chúng tôi chỉ áy náy có một điều là không biết những người đó có chấp nhận con rít ở trong Nam là con “rếch” ở ngoài Bắc hay không, rằng trong Nam nói “giống hịt” thì ngoài Bắc có chịu nói “giống hệch” hay không. Lý do của chúng tôi rất rõ ràng: nếu rít – rếch không xứng đôi, hịt – hệch cũng chẳng xứng đôi thì ếch cũng không làm sao xứng đôi với ít được. Nếu cố tình cưỡng duyên chúng với nhau thì đó cũng chỉ có thể là những “đôi đũa lệch so sao cho bằng” mà thôi.
§ 396. Kiến thức ngày nay, số 243, ngày 20-4-1997
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 236, ông có nói về hai tiếng “tì khưu”. Tôi có đọc cuốn Tầm-nguyên từ-điển của Lê Ngọc Trụ (1993) thì sách này giải thích như sau: “Tỳ-kheo (ông gọi là “tì khưu”). Nam tu sĩ Phật giáo đã thọ giới đầy đủ (250 giới), chính thức đứng vào hàng tăng. Tỳ-kheo có 3 nghĩa: khất-sĩ, phá-ác và bố-ma. Xin cho biết giải thích như vậy có đúng không.
AN CHI: Trước nhất chúng tôi xin nói rằng tì khưu, tì khâu và tì kheo chỉ là những biến thể ngữ âm mà thôi. Tì kheo là một cách đọc hai chữ 毘丘 xuất phát từ việc kiêng kỵ tên cúng cơm của Đức Thánh Khổng vì tên của ngài chả là Khâu 丘, cũng đọc Khưu. Theo Phật-học từ-điển của Đoàn Trung Còn thì “tỳ-kheo”, cũng đọc “tỳ khưu”, có đến 4 “nghĩa” (chứ không phải là 3): 1. Tịnh khất thực (tức là cái mà Lê Ngọc Trụ gọi là “khất sĩ” – AC), 2. Tịnh phiền não (tức là cái mà Lê Ngọc Trụ gọi là “phá ác” – AC), 3. Tịnh trì giái, 4. Năng bố ma (có sức làm cho ma-tà sợ sệt). Còn giữa Đoàn Trung Còn và Lê Ngọc Trụ, ai đúng ai sai hoặc ai đủ ai thiếu, thì chúng tôi xin nhường lời cho các bậc thức giả, đặc biệt là các nhà Phật học.
§ 397. Kiến thức ngày nay, số 243, ngày 20-4-1997
ĐỘC GIẢ: Bài “Giang Nam xuân” của Đỗ Mục có câu:
Thiên lý oanh đề lục ánh hồng
mà có sách (chẳng hạn Trần Trọng San) chép là “thập lý”. Theo thiển ý thì “thiên lý” hay hơn “thập lý” vì đất Giang Nam rộng lớn, phải là “ngàn dặm” mới tương xứng. Nhưng nguyên văn của tác giả là quan trọng hơn cả; vậy các bản Đường thi trước nay của Trung Hoa chép thế nào?
AN CHI: Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ông rằng phải tả “ngàn dặm” thì mới tương xứng với cả một vùng trời đất bao la ở Giang Nam. Bài thơ này có thể được xem là một thiên tuyệt cú của thi ca đời Đường. Ấy thế mà về chữ đầu tiên của câu đầu tiên là chữ “thiên” thì lại có người cho là không được hay. Dương Thận đời Minh đã nhận xét trong “Thăng Am thi thoại” rằng chữ “thiên” nên thay bằng chữ “thập” vì đã là ngàn dặm (thiên lý) thì chẳng còn nghe thấy được tiếng oanh mà cũng chẳng còn nhìn thấy được sắc lục sắc hồng nơi hoa cỏ. Còn người biên soạn “Lịch đại thi thoại” đời nhà Thanh là Hà Văn Hoán thì phản bác rằng cứ cho là “thập lý” đi nữa cũng chẳng nghe thấy được và nhìn thấy được, rằng thiên tứ tuyệt này có ý nghĩa khái quát, không riêng chỉ một nơi nào, vì vậy nên mới gọi là “Giang Nam xuân”. Hà Văn Hoán rất có lý: “oanh đề” là chim oanh hót khắp cả một miền Giang Nam chứ có phải chỉ là một con chim oanh cụ thể và cá biệt nào đâu, “lục ánh hồng” cũng là màu xanh ánh màu đỏ ở khắp cõi chứ có riêng ở một chốn nào. Cái không gian phải bao la bát ngát đến “thiên lý” thì mới gồm chứa được “Nam triều tứ bách bát thập tự” (bốn trăm tám mươi ngôi chùa của Nam triều – tức các nhà Tống, Tề, Lương, Trần) ở câu thứ ba chứ nếu chỉ có “thập lý” thì những ngôi chùa đó chắc thế nào cũng phải bị dồn nén kích cỡ để trở thành những ngôi chùa mini mà thôi.
Nhưng điều quan trọng phải là chính tác giả đã viết như thế nào và ông đã viết “thiên”. Dương Thận cho rằng nên đổi thành “thập” nhưng chính Đỗ Mục thì lại muốn nói đến những “bách thập”. Vậy tưởng cứ phải tôn trọng ý và văn của tác giả mà ghi chữ đầu tiên của bài thơ là “thiên”. Chúng tôi không có được nhiều bản Đường thi để xem có bản nào ghi thành “thập” hay không nhưng bộ Trung Quốc danh thi phân loại đại điển mà chúng tôi đang có, quyển 1, trang 373, thì ghi “thiên”. Còn Toàn Đường thi đại từ điển mà chúng tôi vẫn dùng để tra cứu thì chỉ có “thiên lý” mà không có “thập lý” mặc dù trong bộ từ điển này, những từ tổ hai tiếng mà tiếng đầu là “thập” thì rất nhiều: thập tam, thập thượng, thập tử, thập ngũ, thập nhật, thập nguyệt, thập phân, thập lục, thập phương, thập địa, thập bách, thập niên, v.v..
Tóm lại, theo chúng tôi thì câu đầu trong bài “Giang Nam xuân” của Đỗ Mục là:
Thiên lý oanh đề lục ánh hồng
đúng như ông đã nêu.
§ 398. Kiến thức ngày nay, số 243, ngày 20-4-1997
ĐỘC GIẢ: “Xích bích xang bang” hay “xất bất xang bang”? Từ này xuất xứ từ đâu?
AN CHI: Chúng tôi rất tiếc rằng không một quyển từ điển nào có ghi nhận từ này ở dạng đầy đủ như bạn đã hỏi. Ngay cả Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994) cũng không ghi nhận nó mặc dù nó có “tính gợi tả” cao và là một đơn vị từ vựng thực sự thông dụng ở Nam Bộ. Bộ từ điển tương đối lớn là Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức cũng không ghi nhận nó.
Xất bất xang bang – chứ không phải “xích bích xang bang” – là một từ láy giả hiệu vì xuất xứ đích thực của nó là thành ngữ thất quốc tha bang của tiếng Hán, có nghĩa là mất nước (về tay) nước khác. Từ nguyên dân gian đã biến thành ngữ mà thành tố nào cũng có ý nghĩa rành mạch này (thất = mất, quốc = nước, tha = người khác, bang = nước) thành một từ mà chắc chắn có người sẽ hứng chí mà cho là một từ láy tư độc đáo và rất ư sinh động. Cái “sinh động” và cái “tính chất gợi tả” ở đây thực ra chẳng qua là nhờ vào ý nghĩa đích thực của cả câu thành ngữ đã nói, nghĩa là vào nghĩa của từng thành tố đã cấu tạo nên nó mà thôi. Cứ tưởng tượng xem một ông vua hoặc những người dân mà nước đã mất vào tay nước khác, nếu muốn phục quốc, hoặc cần chạy nạn sang một nước khác nữa, thì phải bôn ba tất bật, phải “thân sơ thất sở”, phải “bái xái bài xai”… như thế nào thì sẽ ra… cái nghĩa của xất bất xang bang đó thôi.
Vậy xất bất xang bang là một trường hợp độc đáo và sinh động có thể góp phần chứng minh rằng cái gọi là phương thức đối và phương thức điệp trong từ láy cũng như cái gọi là biểu trưng ngữ âm thực chất chỉ là kết quả của sự vay mượn cả âm lẫn nghĩa của những từ đích thực, đương nhiên cũng có nghĩa đích thực, rằng biểu trưng ngữ âm chẳng qua chỉ là cái phần hồn vật vờ, phải phụ vào cái xác của những từ khác được giữ nguyên hoặc đã bị làm cho méo mó đi mà thôi. Xin nêu một vài thí dụ đơn giản khác: mềm mại, mảnh mai, v.v.. Người chủ trương biểu trưng ngữ âm sẽ không đếm xỉa đến từ nguyên đích thực của các thành tố trong những “từ láy đôi” này mà lo cất công đi tìm ý nghĩa biểu trưng của những khuôn vần “êm-ai”, “anh-ai” xem chúng diễn đạt (những) tính chất gì hoặc (những) hình ảnh nào. Trong khi đó thì mềm mại chẳng qua là mềm như con cá… mại còn mảnh mai thì chỉ là mảnh như cái cây… mai mà thôi (So sánh “mình hạc xương mai”). Cũng có thể hiểu mại là âm xưa của chữ mị 靡 có nghĩa là nhỏ nhắn, xinh đẹp. Nhưng đằng nào thì mềm mại cũng chẳng phải là một từ láy.
§ 399. Kiến thức ngày nay, số 244, ngày 1-5-1997
ĐỘC GIẢ: Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin vừa ấn hành (1997) quyển Ngũ thiên tự đề là do Vũ Văn Kính và Khổng Đức biên soạn. Theo chỗ tôi biết thì tác giả của sách này là vô danh. Chính các “nhà biên soạn” cũng đã khẳng định trong “Lời nói đầu” ở trang VI rằng “sách do ai viết hay soạn không thấy nêu ra”. Nhưng nhà xuất bản đã ghi rõ ràng ngay đầu bìa sách là sách này do Vũ Văn Kính và Khổng Đức biên soạn và chính các vị này cũng nói rằng sách này do chính họ biên soạn (“Chúng tôi phải biên soạn và hiệu đính lại cho thật đúng…”). Vậy xin cho biết sách Ngũ thiên tự có phải do Vũ Văn Kính và Khổng Đức biên soạn hay không và trong sách mà Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin vừa ấn hành này thì đâu là những chỗ hiệu đính của các “nhà biên soạn” Vũ Văn Kính và Khổng Đức.
AN CHI: Để cho thực sự chính xác và công minh thì phải đề rằng Ngũ thiên tự, bản in của Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin năm 1997, là do Vũ Văn Kính và Khổng Đức phiên âm vì hai vị này không phải là những người đã biên soạn ra nó. Còn họ đã hiệu đính được những chỗ nào thì xin thú thật là chúng tôi không có điều kiện để khẳng định vì chính các nhà phiên âm đã không hề ghi chú rõ đâu là những chỗ do họ hiệu đính.
Chúng tôi chỉ xin nói rằng phần chính văn gồm có 186 trang mà trừ khoảng mươi trang, còn lại hơn 170 trang thì không có bất cứ trang nào là không có những sai sót đáng tiếc. Các nhà biên soạn đã viết tại “Lời nói đầu” rằng quyển Ngũ thiên tự của họ “có thể nói là một giáo trình Hán Nôm tốt nhất, đầy đủ nhất”, nhưng chúng tôi tìm thấy trong đó đến 600 (sáu trăm) chỗ sai sót thuộc các loại sau đây: 1. lỗi chính tả (chữ quốc ngữ); 2. lỗi viết sai chữ Hán; 3. lỗi đọc sai âm của chữ Hán; 4. lỗi phiên âm sai các chữ Nôm; 5. lỗi nhầm chữ Nôm thành chữ Hán hoặc ngược lại và 6. lỗi ngắt câu sai nên làm cho lời văn càng tối nghĩa. Một “giáo trình” như thế thì không thể nói là “tốt nhất” được. Còn nói đầy đủ nhất thì nó cũng không đạt được tiêu chuẩn này. Đó là còn chưa kể đến những yêu cầu khác nữa. Tuy nhiên đây không phải là lỗi của người xưa vì tác giả vô danh của Ngũ thiên tự đâu có quảng cáo nó bằng những lời lẽ như thế.
Không thể nêu ra đầy đủ 600 chỗ sai đã nói – mà thực ra chúng tôi cũng chưa có đủ thời gian để “nghiền ngẫm” kỹ hơn – sau đây chỉ xin nêu một số ít làm tin, khởi sự từ những lỗi chính tả (chữ in nghiêng là âm của chữ Hán, chữ in thường là âm của chữ Nôm dùng để diễn nghĩa cho chữ Hán đứng trước đó).
– Tr. 9, d. 2: “Tịch: nước dật (xuống)”. Đúng ra phải là “nước giật”.
– Tr. 20, d. 10: “Ma chác: dùi mài”. Đúng ra phải là “trác”. Đây là chữ “trác” trong “Ngọc bất trác bất thành khí; nhân bất học bất tri lý” hoặc trong “Như thiết như tha, như trác như ma”.
– Tr. 21, d. 8: “Trĩ: bừa; giêu: a”. Chính tả Việt Nam hiện đại không có chữ “giêu” mà chỉ có chữ “diêu”. Vả lại, thiết âm của chữ đang xét 銚 là “dĩ chiêu thiết” hoặc “dư chiêu thiết”, chứng tỏ nó thuộc thanh mẫu “dụ”. Vậy phải viết với d.
– Tr. 27, d. 14: “Chi thừ: mảy trút” Đúng ra phải là “chút” vì đây là chút trong “chút ít, chút đỉnh” nên mới đi chung với mảy cũng có nghĩa là “một lượng rất nhỏ”.
– Tr. 29, d. 8: “Sỉ: răng; thiệt: lưỡi”. Ai cũng biết “xỉ” là răng phải viết với x. Huống chi thiết âm của nó lại là “xương lỹ thiết” hoặc “xủ chỉ thiết” chứng tỏ nó thuộc thanh mẫu “xuyên”. Vậy làm sao lại không viết bằng x cho được?
– Tr. 36, d. 2: “Giong: thuê”. Chữ 傭 là thuê phải viết dong (hoặc dung) vì thiết âm của nó là “dư phong thiết, âm dung”, chứng tỏ nó thuộc thanh mẫu “dụ”. Vậy phải viết với d.
– Tr. 37, d. 2: “Vu: vu; ngụy : rối”. Đây chính là chữ dối trong “dối trá”, “giả dối”. Không biết các nhà phiên âm nghĩ như thế nào mà lại viết với r.
– Tr. 42, d. 10: “Đống: dường”. Đây là chữ “rường” trong “rường cột”, không thể viết với d được.
– Tr. 42, d. 14: “Hãn: mái; dai: thềm”. Đúng ra phải viết là “giai” vì đây là chữ giai trong “giai cấp, “giai đoạn”. Đây là một chữ vốn thuộc thanh mẫu “kiến” nên phải viết với gi-, hoàn toàn đúng với kết luận của ngữ âm học lịch sử.
– Tr. 51, d. 6: “Riệu: cầu neo”. Hệ thống âm Hán Việt chính thống hiện đại không có r. Vả lại, thiết âm của chữ 艞 là “dực chiếu thiết” hoặc “dực tiếu thiết”, chứng tỏ nó thuộc thanh mẫu “dụ”. Vậy phải viết “diệu”.
Thứ hai là việc phiên âm sai chữ Hán. Sau đây là một số thí dụ:
– Tr. 7, d. 6: chữ 甃 được phiên thành “thíu”. Hệ thống âm Hán Việt chính thống hiện đại không có vận “iu”, mà chỉ có “ưu”. Vả lại, đây là một chữ thuộc thanh mẫu “trang” vì thiết âm của nó là “trắc cứu thiết”. Vậy âm của nó là “trứu”.
– Tr. 15, d. 12: chữ 宗 được phiên thành “tôn” Thực ra, đây là chữ “tông” trong “tông miếu: “tổ tông: v.v.. Có lẽ nào cho đến bây giờ mà cũng còn phải tị húy để đọc thành “tôn”?
– Tr. 16, d. 4: chữ 媵 được phiên thành “đằng”. Đây chỉ là một cách đọc theo kiểu loại suy từ những chữ “đằng” đích thực như: 滕, 螣, 騰,v.v., mà không tra cứu thiết âm cho chính xác. Thiết âm của chữ đang xét thực ra là “dĩ chứng thiết, âm 孕 ”, Vậy nó phải được đọc là “dựng”. Đây cũng chính là chữ dựng trong “dựng vợ gả chồng” mà chúng tôi đã có nói đến trong một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây.
– Tr. 16, d. 12: chữ 妤 được phiên thành “chư”. Thực ra, thiết âm của nó là “vũ chư thiết: “vân cư thiết” hoặc “dương chư thiết” nhưng một số chữ vốn có phụ âm đầu v đã nhập vào d nên nó phải được đọc là “dư”.
Không thể kéo dài miên man cho từng loại sai sót hoặc cho đủ các loại sai sót, chúng tôi xin phân tích một số sai sót độc đáo – số này rất nhiều:
– Tr. 29 có chữ Hán 怎 được giảng bằng chữ Nôm . Hai nhà phiên âm đã phiên chữ Hán này thành “mân” và chữ Nôm này thành “nhao”. Nhưng ai mới học tiếng Hán (Quan thoại) cũng đều có thể biết được rằng chữ Hán đó là chữ chẩm, nghĩa là “thế nào”, vì vậy mà nó mới được giảng là “sao” ghi bằng chữ Nôm đã thấy. Vậy hai chữ đó phải được đọc là “chẩm: sao” (chữ in nghiêng là âm của chữ Hán, chữ in thường là âm của chữ Nôm”). Phiên thành “mân: nhao” thì chỉ có Trời mới biết hai nhà phiên âm muốn nói cái gì!
– Tr. 27 có chữ đoạn 斷 được giảng bằng chữ Nôm 窒 mà hai nhà phiên âm đã phiên thành “rất”. Thực ra, ai cũng biết rằng đoạn có nghĩa là “đứt” và đây mới là âm Nôm của chữ 窒. “Đoạn: đứt” là điều hiển nhiên chứ đoạn làm sao lại có nghĩa là “rất” được?
– Tr. 32 có chữ tiếu 肖 được giảng bằng chữ Nôm 賢 mà hai nhà phiên âm đã phiên thành “hiền”. Thực ra chữ Hán đang xét có nghĩa là “nhỏ”, “mọn”(bên cạnh các nghĩa khác) mà Dictionnaire classique de la langue chinoise dịch là “petit”, “peu considérable”. Vậy chữ Nôm đang xét phải được phiên thành “hèn” (trong “hèn mọn”), chứ không phải “hiền”.
– Tr. 45 có chữ Hán 霤 được giảng bằng chữ Nôm * mà hai nhà phiên âm đã lần lượt phiên thành “lưu: mảng”. Đây thực ra là “lựu: máng” vì ai cũng biết rằng lựu là cái máng xối. Chính các tác giả là những người sửa bản in nên nếu đây là lỗi ấn loát thì họ đã phải sửa rồi.
– Tr. 60 có bốn chữ 醴錮丐* mà hai nhà phiên âm đã cho rằng hai chữ đầu là những chữ Hán được giảng bằng hai chữ Nôm tiếp theo nên họ mới phiên thành: “lễ lưu: cái ngọt”. Thật là hết biết các vị muốn nói gì vì ở đây chỉ có một chữ Hán được giảng bằng ba chữ Nôm và đó là: “lễ: rượu cái ngọt” (hiểu ngầm là “rượu nếp cái”).
– Tr. 57 có bốn chữ 圖庄 唁. Các nhà phiên âm đã xem chữ thứ nhất là một chữ Hán được giảng bằng chữ thứ hai là một chữ Nôm, rồi chữ thứ ba cũng là một chữ Hán được giảng bằng chữ thứ tư, tất nhiên là một chữ Nôm. Và họ đã phiên thành: “cữu: đồ; trang: ngon”. Nhưng trong lịch sử của tiếng Hán thì chữ “trang” chưa bao giờ có nghĩa là “ngon” còn chữ “cữu” cũng không có nghĩa là “đồ đạc” mà chỉ có nghĩa là thức ăn vô vị, nhạt nhẽo. Vì vậy mà nó mới được giảng: “cữu: đồ chăng ngon” (chăng = không). Vậy ở đây chỉ có chữ thứ nhất mới là chữ Hán còn ba chữ sau thì lại đều là Nôm, trong đó chữ chăng 庄 đã bị hai nhà phiên âm phiên thành “trang” mà xem là một chữ Hán!
Cứ như đã thấy thì Ngũ thiên tự do Vũ Văn Kính và Khổng Đức “biên soạn” chưa đạt yêu cầu của một giáo trình bình thường. Vậy làm sao có thể nói đó là “một giáo trình Hán Nôm tốt nhất, đầy đủ nhất”? Huống chi thực chất thì đó chỉ là một quyển từ vựng chứ đâu có phải là một giáo trình!
§ 400. Kiến thức ngày nay, số 245, ngày 10-5-1997
ĐỘC GIẢ 1: Cụ Đào Tấn có viết:
“Lao xao sóng vỗ ngọn tùng,
Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.
Nhưng sóng thì ở dưới nước còn tùng thì ở trên núi, vậy làm sao sóng vỗ được ngọn tùng? Chẳng có lẽ cụ sơ ý? Hay là cụ dùng ẩn dụ nào mà chúng tôi chưa biết được? Gần đây, theo thông tin trên một vài trang báo, người ta vừa tìm ra một loại cây quí hiếm có tên là thủy tùng. Phải chăng đây là một loài rong loài tảo nào mà cụ Đào Tấn muốn nhắc đến trong hai câu thơ của cụ?
ĐỘC GIẢ 2: Trong một bài viết vào những năm 70 mà tôi đã quên tên tác giả và xuất xứ, người viết có tả cảnh mình được ngắm từ trên cao cánh rừng thông trong một ngày có gió. Nhìn ngọn cây rừng nhấp nhô lên xuống như những con sóng khi gió thổi qua, tác giả nhớ đến hai câu thơ của cụ Đào Tấn:
“Lao xao sóng vỗ ngọn tùng,
Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.
Tác giả nói rằng nhờ được ngắm cảnh trên nên mới thấy được cái đẹp của câu thơ, cái độc đáo của cụ Đào khi cụ liên hệ nỗi gian nan của người anh hùng với cảnh cây tùng bị sóng gió vùi dập. Rồi năm 1990, tôi có mua một cuốn lịch bàn của Nhà xuất bản Văn hóa, trong đó có một tờ cũng in hai câu thơ trên đây của cụ nhưng chữ “tùng” đã bị đổi thành “trùng”.
“Lao xao sóng vỗ ngọn trùng,
Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.
Xin gởi kèm theo đây tờ lịch đó để làm bằng (tờ ngày thứ sáu, 6 tây tháng Bảy nhằm ngày 14-5 âm lịch). Gần đây tôi lại được đọc bài “Ghi chép ở từ đường Đào Tấn” của tác giả Thúy Vi đăng trên báo Sài Gòn giải phóng ngày 28-5-1994, trong đó tác giả cũng có dẫn hai câu thơ trên như sau:
“Lao xao sóng vỗ ngọn tùng,
Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.
Lại xin gởi kèm theo đây mẩu báo có in hai câu thơ trên đây để làm bằng, trong đó chữ thứ 6 của câu sau rõ ràng là chữ “tùng”. Vậy cụ Đào đã dùng “tùng” hay “trùng” trong hai câu tuyệt tác trên đây?
ĐỘC GIẢ 3: Xin cho biết trong hai câu thơ lục bát của cụ Đào Tấn nói về cây tùng và người anh hùng, có phải cụ muốn nói đến cây tùng cụ thể nào mọc gần nước mà cành nhánh sà xuống thấp nên mới bị sóng vỗ hay không (nếu ở trên núi cao thì làm sao có sóng vỗ). Lại nói đến câu tám, cụ có dùng chữ “vay”: tại sao không là “nợ phải trả” mà lại là “nợ phải vay”? Có phải là vì âm điệu hay không?
AN CHI: Nguyên văn của cụ Đào Tấn là:
“Lao xao sóng vỗ ngọn tùng,
Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.
Người làm lịch năm 1990 của Nhà xuất bản Văn hóa, vì không biết được xuất xứ của chữ tùng trong hai câu thơ trên đây nên mới tự tiện thay nó bằng chữ “trùng”, ngỡ rằng phải sửa như thế thì câu thơ mới hợp lý mà không ngờ rằng chính mình đã làm cho nó trở thành vô vị và tầm thường. Đúng thế, nếu hiểu “trùng” ở đây là “trùng dương” và “ngọn trùng” là “ngọn sóng” thì ý của câu thơ chỉ là sóng vỗ ngọn sóng lao xao mà thôi. Nhưng sóng vỗ sóng thì có liên quan gì đến chuyện người anh hùng phải gánh nợ gian nan? Thực ra, ở đây cụ Đào đã dùng chữ tùng vì cây tùng, ngoài việc tượng trưng cho tuổi thọ, lại còn được dùng để tượng trưng cho sự chịu đựng nữa. Chẳng thế mà tiếng Hán lại có câu “tiết tháo phương tùng quân” nghĩa là tiết tháo (kiên cường) như cây tùng và (dẻo dai) như cật tre. Truyện Kiều, câu 901 cũng có hai chữ “tùng quân” (Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân). Vậy chữ tùng của câu sáu trong hai câu lục bát của Đào Tấn đã gây liên tưởng rất hợp lý đến người anh hùng trong câu tám và thể hứng kết hợp với thể tỉ (trong ca dao) đã được cụ thực hiện một cách rất đắc địa trong hai câu thơ tuyệt cú đã trở thành phương châm, thậm chí nguyên tắc sống cho nhiều đấng nam nhi.
Nhưng trở lên là mới chỉ làm chuyện “cãi lý” mà thôi, còn sở dĩ cụ Đào Tấn lại dám để cho sóng vỗ lên cao tới tận ngọn tùng ở trên rừng trên núi là vì thực ra cụ đã nắm vững từ ngữ ở trong tay: tiếng Hán có từ tổ chính phụ cố định “tùng đào” 松濤, có nghĩa đen là “sóng trên ngọn cây tùng”, mà văn thơ Trung Hoa đã dùng để chỉ tiếng gió rì rào qua những cây tùng trong rừng trên núi. Hai tiếng đó đã được Từ hải giảng là “tùng lâm phong động chi thanh” (tiếng gió lay động rừng tùng) còn Mathews’ Chinese-English Dictionary, nơi chữ tùng, thì dịch là “the soughing of the wind in the pines compared with the roar of the surf” (tiếng rì rào của gió qua những cây tùng, so sánh với tiếng gào của sóng cồn) hoặc, nơi chữ đào, là “wind in the pines” (gió qua những câytùng). Thơ Âu Dương Nguyên Công đời Nguyên có câu:
“Hạ liêm nguy tọa thính tùng đào
nghĩa là:
Buông rèm ngồi nghiêm lắng nghe tiếng sóng tùng.”
Sóng tùng ở đây chính là tiếng gió thổi qua những ngọn tùng.
Vậy “sóng” của cụ Đào Tấn chính là “gió”, nghĩa là danh từ sóng cũng được cụ dùng theo ẩn dụ như trong câu thơ trên đây của họ Âu Dương, chứ không phải là theo nghĩa đen. Do đó câu:
“Lao xao sóng vỗ ngọn tùng”
chẳng có gì là phản luận lý hay phi luận lý cả. Và ở đây cũng chẳng có cây tùng cụ thể nào mà cành nhánh sà xuống sát mặt nước cả vì hai tiếng “tùng đào” chỉ là một lối nói đã trở thành ước lệ.
Đến như cây thủy tùng, mà tên khoa học là Codium macronatum – loại cây này thực ra cũng đã được biết đến từ lâu – vốn chỉ là một giống tảo, thì làm sao địch nổi với cây tùng cây bách trên rừng trên núi, và làm sao xứng đáng để so sánh với người anh hùng trong cuộc đời!
Bây giờ xin nói về chữ “vay”, chữ “trả”. Vâng, cũng có thể là do âm điệu vì nếu dùng “trả” thì câu:
“Gian nan là nợ anh hùng phải trả”
đâu còn là thơ nữa.
Nhưng vấn đề là dùng “trả” thì lại không hay bằng dùng “vay”: trong những người không muốn mang công mắc nợ thì nhiều người đã chủ động không vay để khỏi trả. Còn cụ Đào Tấn thì khẳng định:
“Gian nan là nợ anh hùng phải vay”
cho nên dứt khoát phải trả, không trả không được vì đó là định mệnh. Đã sinh ra là anh hùng thì phải chấp nhận gian nan. Đó là cái hay của chữ “vay” vậy!