Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 2: Câu hỏi 366 - 378

§ 366. Kiến thức ngày nay, số 224, ngày 10-10-1996

ĐỘC GIẢ: Từ điển tiếng Việt 1992 của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên có mục từ: “nỏ.p. (ph). Chẳng. Nỏ được. Nỏ biết”. Chữ “nỏ” ở đây mà đánh dấu hỏi như quyển từ điển này đã làm thì có đúng hay không? Nếu là nõ (dấu ngã) thì tiếng “nõ” này có liên quan gì với “nõ” trong “nõ nường”, và cả “nõ” trong “nõ điếu”, “nõ cối”? Có phải “nõ nường” cũng nói thành “nõn nường”? “Nõn nường” ở đây có phải cũng là một với “nõn nường” trong “đẹp nõn nường” hay không? Tại sao?

AN CHI: Chữ do ông nêu mà đánh dấu hỏi (?) như đã làm trong Từ điển tiếng Việt 1992 của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên chỉ là một biến thể. Chính tả của nó phải là nõ, đúng như đã ghi trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của, Dictionnaire annamite-français của J. F. M. Génibrel, Việt-Nam tự điển của Lê Văn Đức, Tự điển Việt-Nam của Ban Tu thư Khai trí và Việt-ngữ chánh-tả tự-vị của Lê Ngọc Trụ.*

Nõ là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 卵 mà âm Hán Việt hiện đại là noãn, có nghĩa là: 1. trứng, 2. tinh hoàn (Danh từ anda của tiếng Sanskrit cũng có hai nghĩa y hệt như thế). Trong tiếng Việt, âm xưa của noãn là nõn (So sánh hoàn ~ hòn; đoàn ~ tròn; quan 菅 ~ gon). Nghĩa gốc của từ này trong tiếng Việt có xê dịch một tí so với nghĩa của nguyên từ trong tiếng Hán; nõn là dương vật như đã được ghi nhận trong Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên, tại mục “nõn nường”: “Từ chỉ vật làm bằng gỗ, tượng trưng cho dương vật (nõn) và âm hộ (nường) do nhân dân ở miền Dị-nậu và Khúc-lạc (Phú-thọ) xưa làm ra để rước thần; khi rước, những người khiêng kiệu vừa đi vừa hát: Ba mươi sáu cái nõn nường, Cái để đầu giường cái để đầu tay. Khi kiệu đến chỗ thờ thần, người ta tung nõn và nường cho mọi người cướp; con trai cướp được nường, con gái cướp được nõn là điềm tốt”.

Nõn có một biến thể ngữ âm là nõ mà Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên cũng đã ghi nhận và giảng là “bộ phận sinh dục của đàn ông”. Chính vì vậy mà hai tiếng nõn nường cũng còn được ghi là nõ nường trong một số bài nghiên cứu, chẳng hạn: “Những tàn dư của sinh hoạt kinh tế sơ khai và tín ngưỡng nông nghiệp ở Vĩnh Phú” của Khổng Diễn*, v.v.. Và cũng chính vì vậy mà từ điển do Văn Tân chủ biên mới ghi nhận nõ nường như là một biến thể của nõn nường. Vậy nõ là một biến thể ngữ âm của nõn do rụng -n cuối mà nên.

Nõ là dương vật còn nường là âm hộ. Trong khẩu ngữ của tiếng Việt, một vài từ chỉ sinh thực khí hoặc chỉ động tác có liên quan đến bộ phận này của thân thể đã chuyển nghĩa và chuyển loại mà trở thành từ hoặc phó từ phủ định. Chính vì mang đặc điểm từ nguyên như thế mà chúng có sắc thái thô tục, suồng sã nên không dùng trong phong cách ngôn ngữ nghiêm túc. Hiện tượng trên đây cũng thấy ở ngôn ngữ khác. Trong tiếng Anh, fuck là một động từ, và cả danh từ, chỉ động tác tính giao, vẫn bị xem là đứa con lăng loàn của từ vựng. Nó đã được ghép với từ “all” để tạo ra từ ghép “fuck-all”, có nghĩa là “đếch có gì cả”, “đếch ra gì cả”. Trong tiếng Pháp, động từ “(se) foutre (de)” có nghĩa là “cóc cần”, “đếch cần”, lại bắt nguồn từ động từ futuere của tiếng La Tinh, có nghĩa là “giao cấu”. Các từ nõ, đách (đếch), đéo, đấm trong tiếng Việt cũng trở thành phó từ hoặc từ phủ định theo lối chuyển nghĩa như thế. Thí dụ: nõ cần, nõ biết, đách cần, đách nghe, đéo ăn, đấm thèm; v.v..

Từ nõ đã được phân tích ở trên. Còn đếch là một biến thể ngữ âm của đách, mà Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên giảng là “cơ quan sinh dục của đàn bà”. Đéo là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 屌 mà âm Hán Việt hiện đại là điếu, có nghĩa là sinh thực khí nam. Từ nghĩa gốc này, trong tiếng Việt và tiếng Quảng Đông (âm của chữ đó trong phương ngữ này của tiếng Hán là tíu), nó đã chuyển nghĩa và chuyển loại thành động từ để chỉ động tác tính giao… do nam giới thực hiện. Đấm cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 抌 mà âm Hán Việt hiện đại là đảm, có nghĩa là đánh, đấm, đâm, thọc. Đây chính là chữ mà âm Quảng Đông là “tẩm” trong bài “Quâ… ấ..t!” của Hoàng Ly đăng trên Kiến thức ngày nay, số 219, trang 16 – 20. Còn “quất” là nói trại tiếng Quảng Đông “quắt” (đọc theo âm miền Bắc) hoặc “quách” (đọc theo âm miền Nam), âm Hán Việt là cốt, có nghĩa là xương. Vậy “tẩm quất” là “đấm xương”. Nhưng xuất phát điểm của lối phủ định bằng từ đấm trong tiếng Việt tất nhiên không phải là việc “đấm xương” mà lại là cử chỉ trỏ vào cái chỗ không được phép gọi “đích danh” của cả hai giới để bày tỏ cái ý “đếch cần”. Rồi từ những lối nói như “ông đấm b… vào”, “ông thì… đấm c… vào”, v.v. dần dần người ta đã loại bỏ mấy danh từ có thể làm cho người khác phải đỏ mặt kia mà biến đấm thành một từ phủ định như có thể thấy trong “đấm thèm”, “ông đấm màng đến chuyện đó”, v.v..

Cứ như trên thì rõ ràng là phó từ phủ định nõ có liên quan về nguồn gốc với danh từ nõ có nghĩa là dương vật. Xuất phát từ nghĩa gốc này, người ta cũng đã dùng nõ theo ẩn dụ mà nói: nõ điếu, nõ cối, nõ mít, nõ na, v.v., giống như nói cặc bần (rễ ngắn đâm chĩa lên của cây bần), dái mít, l… xa (để kéo vải), bòi chuông, v.v..

Tóm lại, nguồn gốc của phó từ phủ định nõ là danh từ nõ trong nõ nường, có nghĩa như đã nói ở trên. Còn về từ nguyên của nường thì chúng tôi chưa có bằng chứng chắc chắn nhưng theo chúng tôi thì nó hẳn phải có liên quan đến chữ 娘 có nghĩa là con gái, phụ nữ, mẹ, vợ, mà âm Hán Việt xưa là nàng, cũng đọc nường còn âm Hán Việt thông dụng hiện đại là nương. Nghĩa là người ta đã dùng từ nường có nghĩa là sinh thực khí nữ, mà âm xưa là nàng, theo hoán dụ để chỉ những người mà bộ phận đó là một đặc trưng của giới tính. Giống hệt như người ta đã dùng từ hĩm có nghĩa gốc là “âm hộ trẻ con” để chỉ “con gái còn nhỏ tuổi” (Xem mục “hĩm” trong Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên). Và cũng giống hệt như cu trong cu Tí, cu Tèo, v.v., là một lối dùng theo hoán dụ để chỉ con trai ít tuổi mà xuất phát điểm là danh từ cu có nghĩa là sinh thực khí nam*. Đó là điểm liên hệ thứ nhất. Điểm liên hệ thứ hai là tiếng La Tinh có danh từ vulva vừa có nghĩa là bìu, bọc, bao, v.v., vừa có nghĩa là âm hộ. Nếu trong tiếng Hán cũng có một sự chuyển nghĩa như thế, thì cái nghĩa “âm hộ” tuy đã mất đi, nhưng cái nghĩa “bao, túi, đãy” vẫn còn trong chữ 囊 mà âm Hán Việt xưa là nàng, có thể chuyển thành nường (âm Quảng Đông hiện nay là noòng), còn âm Hán Việt thông dụng hiện đại là nang. Phối hợp hai điểm liên hệ trên đây lại thì có thể giả thiết rằng nường trong nõ(n) nường là một từ Việt gốc Hán có liên quan đến chữ nương 娘 và chữ nang 囊 mà âm xưa đều là nàng. Đây có thể là một trường hợp đồng từ dị tự (cùng từ khác chữ) và tự/từ này vốn có nghĩa là sinh thực khí nữ. Cái nghĩa này đã tuyệt tích trong tiếng Hán (ít nhất cũng là trong tình hình tư liệu hiện có) nhưng nó vẫn còn tồn tại thoi thóp trong tiếng Việt hiện nay với âm nường, ít nhất cũng là ở một số vùng của tỉnh Phú Thọ. Nghĩa cổ của một số từ Hán đã tuyệt tích từ thời cổ đại nhưng vẫn còn được tìm thấy trong tiếng Việt hiện đại mà vi 為 (= voi) là một trường hợp điển hình, không xa lạ gì với giới Hán ngữ học*.

Bây giờ xin nói đến mối quan hệ giữa nõn nường trong ba mươi sáu cái nõn nường (ký hiệu là nn1) với nõn nường trong đẹp nõn nường (ký hiệu là nn2). Nghĩa của từng thành tố trong nn1 đã được phân tích ở trên. Còn nõn trong nn2 là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 嫩 mà âm Hán Việt hiện đại là nộn, có nghĩa là non, mềm, mịn, nhuyễn. Nường trong nn2 cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 孃 mà âm Hán Việt hiện đại là nang, xưa hơn nữa là nàng (Dictionnaire annamite-français của J. F. M. Génibrel vẫn còn ghi nõn nàng thay vì nõn nường), có nghĩa là to, mập, mẩy (nang trong từ tổ đẳng lập nở nang cũng chính là chữ nang này). Vậy nõn nường có nghĩa là vừa mịn vừa mẩy và căn bản là đồng nghĩa với nõn nà (nà cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở chữ 娜 mà âm Hán Việt hiện đại là nã, có nghĩa là mềm mại, uyển chuyển). Nn2 đã được Từ điển tiếng Việt 1992 giảng như sau: “Như nõn nà (nhưng thường dùng với ý mỉa mai)”. Từ điển từ láy tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên (Hà Nội, 1994) cũng giảng và chú y hệt như thế. Vậy tại sao nn2 lại thường dùng với ý mỉa mai? Liên quan đến vấn đề này, Cao Xuân Hạo có viết như sau:

“Trong tiếng Việt, đơn vị để chơi chữ kiểu calembour (một lối chơi chữ dựa trên sự khác nghĩa của các từ hoặc nhóm từ đồng âm – AC) là tiếng trong khi ở các ngôn ngữ Âu châu đơn vị đó là từ, vì ở đây từ mới có được một diện mạo ngữ âm có thể được lẫn lộn một cách hài hước với một từ có nghĩa khác hay với những âm tiết không có nghĩa (…) Người Việt nhận diện ra các tiếng tục ngay cả khi không hề có calembour và trong những ngữ cảnh ít thuận lợi cho việc nhận diện nhất trong các tên riêng ngoại quốc đa âm tiết chẳng hạn. Những tiếng như cu, đít, ghe ngay trong bối cảnh này cũng bị hiểu như tiếng tục và do đó thường được ghi trẹ đi để tránh cách hiểu đó trong khi một từ tục như con trong tiếng Pháp (đọc là [kɔ̃ ] và có nghĩa là l… – AC) khó lòng được người bản ngữ nhận ra trong condor, fécond, réconcilier (= kền kền Nam Mỹ, mắn đẻ, hòa giải – AC) nếu sự trùng hợp không được nêu bật lên bằng một trò chơi chữ kiểu calembour”.*

Chính vì đặc điểm mà Cao Xuân Hạo đã phân tích cho nên khi dùng từ tổ tính từ đẳng lập nn2 thì người ta tức khắc và tự nhiên liên hệ đến danh ngữ đẳng lập nn1 trong đó nõn lại chỉ dương vật còn nường thì lại chỉ âm hộ. Nn2 thế là gắn liền với nn1 như hình với bóng và người ta luôn luôn bị ám ảnh bởi hai vật mà nn1 diễn đạt khi phải phát âm hai tiếng của nn2. Vì vậy tốt nhất là không nên dùng đến nó để khỏi phải mang tiếng là bất nhã còn hễ đã dùng đến thì tất phải có ẩn ý. Ẩn ý đó chính là sự mỉa mai mà Từ điển tiếng Việt 1992 và Từ điển từ láy tiếng Việt đã ghi chú. Ngày nay, không mấy ai còn biết đến nghĩa gốc của nõn và của nường trong nn1 nhưng cái sắc thái mỉa mai thì vẫn cứ đeo đẳng nn2 một cách dai dẳng.

Và cũng chính vì nghĩa gốc của danh từ nõ đã mất đi cho nên ngày nay, ở miền Bắc Trung Bộ, người ta đã dùng phó từ phủ định nõ, phát âm thành nỏ, một cách bình thường và tự nhiên như dùng không hoặc chẳng mà không sợ mang tiếng là bất nhã, vì nó chỉ còn là một phó từ có sắc thái trung hòa.

Cái nghĩa gốc tuy đã mất nhưng danh từ nõ vẫn còn sống và có mặt trong những từ tổ như nõ điếu, nõ cối, v.v.. Nếu từ nõ này mang thanh điệu nào thì phó từ phủ định nõ cũng mang thanh điệu đó vì, như đã thấy, từ sau là do từ trước chuyển nghĩa và chuyển loại mà thành. Vậy làm như Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên mà đánh dấu ngã cho từ trước (nõ cối, nõ điếu) nhưng lại đánh dấu hỏi cho từ sau (“nỏ” được, “nỏ” biết) là không nhất quán vì như thế chỉ là ghi từ nỏ theo cách phát âm có tính chất địa phương của miền Bắc Trung Bộ mà thôi.

§ 367. Kiến thức ngày nay, số 225, ngày 20-10-1996

ĐỘC GIẢ: Chữ “chiềng” trong câu Kiều thứ 773 đã được nhiều nhà chú giải cho là do tiếng “trình” mà ra. Vậy đây là một cách phiên âm gượng để cho tạm “hợp vần” với chữ “vàng” ở câu dưới hay là thực tế người ta vẫn có dùng âm “chiềng” theo nghĩa “trình”? Có phải đây cũng là chữ “chiềng” trong câu “Chiềng làng, chiềng chạ” hay không?

AN CHI: Chiềng là âm xưa của chữ 呈 mà âm Hán Việt hiện đại là trình, có nghĩa là thưa, bẩm. Vậy nói rằng “trình” do “chiềng” mà ra thì đúng hơn. Có thể chứng minh cho mối quan hệ này bằng nhiều cứ liệu cụ thể. Về tương ứng ch ~ tr, người ta có: (che) chắn ~ trấn (thủ); chìm ~ trầm; (chóng) chầy ~ trì (hoãn); (ăn) chay ~ trai (giới); (dính) chấu ~ trảo (nha), v.v.. Về mối quan hệ iêng ~ inh, người ta cũng có không ít cứ liệu: (trống) chiêng ~ chinh (cổ); kiêng (nể) ~ kinh (hãi); (bản) lĩnh ~ (vốn) liếng; thiêng liêng ~ tinh linh 精 靈; điếng (hồn) ~ đính 酊 (say đến không còn biết gì nữa), v.v.. Trở lên là nói về ngữ âm. Còn về ngữ nghĩa thì nhiều quyển từ điển đã ghi nhận rằng chiềng có nghĩa là thưa, trình: Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của, Dictionnaire annamite-français của J. F. M Génibrel, Việt-ngữ chánh-tả tự-vị của Lê Ngọc Trụ, Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên, Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, v.v.. Xưa nhất là Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh của A. de Rhodes (1651) cũng đã ghi nhận: “Chiềng. Lời mở đầu thưa với người trang trọng”. Chiềng làng là một từ tổ động từ thông dụng ở nông thôn thời xưa có nghĩa là trình làng. Nhưng dẫn chứng hùng hồn nhất có lẽ vẫn là câu mở đầu cho lời rao của mõ làng:

Chiềng làng, chiềng chạ.

Đây là một câu rất thông thường và quen thuộc đối với người dân ở làng quê nước Việt ngày xưa. Rất tiếc là có tác giả, như Phan Huy Lê, chẳng hạn, đã hiểu một cách sai lệch mà cho rằng chiềng ở đây là một hình thức của công xã nông thôn cuối thời Hùng Vương! Phan Huy Lê viết:

“Trong tiếng Việt, những công xã nông thôn đó sau này được gọi là làng, xã, nhưng trước đó còn có những tên gọi cổ hơn như kẻ, chạ, chiềng (…). Tiếng chạ, chiềng còn để lại dấu ấn trong câu rao của seo mõ hay câu giáo đầu của hát chèo: Chiềng làng, chiềng chạ…”.*

Ý kiến trên đây hoàn toàn võ đoán và vô căn cứ. Hình như Phan Huy Lê đã không để ý rằng cái câu rao của seo mõ hay câu giáo đầu của hát chèo mà ông đã nêu ra lại còn có nhiều dạng thức đại đồng tiểu dị khác nhau, trong đó chiềng dứt khoát chỉ là trình, có khi lại còn được thay thế bằng thưa nữa, chứ tuyệt đối không thể là chiềng trong chiềng mường được.

Để xem chiềng ở đây có phải là một kiểu công xã nông thôn như Phan Huy Lê đã hiểu hay không, xin hãy đọc lại những lời giáo đầu trong các buổi biểu diễn hoặc các lễ hội thời xưa thì sẽ rõ.

Câu “Chiềng làng, chiềng chạ” thực ra còn đọc là “Trình làng, trình chạ” như có thể thấy được ở đoạn sau đây:

“Sách Hí phường phả lục viết về một vị tổ sư của Hát chèo là Từ Đạo Hạnh như sau: “Tôn sư Từ Đạo Hạnh húy là Lộ, con vị tăng quan đô sát Từ Vinh. Thường kết bạn với nho sinh Phí Sĩ, đạo sĩ Lệ Toàn và con hát Sai Át, ban ngày cùng các bạn thổi sáo, đánh trống bàytrò vui, tối đến lại đọc sách thâu đêm. Ngày nay còn truyền lại bài giáo trò của ông:

Trình làng, trình chạ,

Thượng hạ, tây đông

Tứ cảnh hòa trung,

Tôi xin giáo trống (…)”*

Tiếng “trình” trong câu “Trình làng, trình chạ” trên đây còn được nghe thấy trong lời giáo đầu của trò cướp kén hoặc lễ rước kén (nên cũng gọi là “giáo kén”) ở làng Dị Nậu, huyện Tam Nông, tỉnh Vĩnh Phú:

Trình các quí quan,

Lẳng lặng mà nghe,

Tôi xin “giáo kén”,

Đệ niên thường lệ,

Mồng bốn tháng giêng,

Chư vị đại vương,

Giá ngự đình tiền,

Thính văn ca võ…”*

Lời giáo đầu có khi không mang hình thức vè 4 tiếng mà lại là thơ lục bát, như trong bài hát “Lễ trình” của Chèo tàu:

Chắp tay vào lạy long trì,

Chúng tôi một bộ ca nhi lễ trình

(…)

Mấy lời dâng suốt cao xa,

Trình rồi tôi bước chân ra chèo tàu.*

Ngoài tiếng “trình” trong các câu giáo đầu trên đây, người ta còn thấy được một âm trung gian khác giữa trình và chiềng là tiếng triềng trong câu giáo đầu của chèo Chái hê ở thôn Lũng Giang, xã Vân Tương, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc:

Kính triềng bọn quan,

Náu lặng cho an,

Nghe tôi giáo roi:

Song song có đôi,

Cho hòa đủ lệ…”*

Xin nhấn mạnh rằng đây không phải là viết sai chính tả mà là ghi đúng đặc điểm phát âm của địa phương trong đó có tr- của trình và -iêng của chiềng.

Còn âm và từ chiềng thì cũng còn được thấy trong lời giáo trò Tắc kè như sau:

“Kính chiềng thượng hạ

Khắp tuyết gần xa,

Năm cũ đã qua

Bước sang năm mới…”*

Có khi không phải là động từ chiềng hoặc trình, mà động từ “thưa” như trong lời giáo đầu của hát Rô:

“Bước chân vào đám ban xưa,

Bốn bề vắng lặng, tôi thưa nhời này”.*

Hoặc như trong bài hát sắc bùa Lý tháng Giêng ở Bến Tre:

“Kính thưa cô bác mấy thầy,

Lắng tai nghe lý cái bài tháng Giêng”*

Cuối cùng, xin trở lại với tiếng “chiềng” và câu “Chiềng làng, chiềng chạ”. Câu này cũng thấy được trong lời giáo đầu tiết mục múa hát giả cá, mó cá hay mò cua mó cá, gọi là giáo cá:

“Chiềng làng chiềng chạ

Thượng hạ hai hàng

Dẹp trống vào tang

Để tôi giáo cá”*

hoặc:

“Chiềng làng chiềng chạ

Đại bạ hai hàng…”*

Chỉ cần đặt một số câu giáo đầu trên đây bên cạnh nhau, chẳng hạn:

– Chiềng làng, chiềng chạ;

– Trình làng, trình chạ;

– Trình các quí quan;

– Kính triềng bọn quan;

– Kính chiềng thượng hạ; v.v.

mà so sánh về cách dùng từ, về ngữ nghĩa, về cấu trúc ngữ pháp, về vị trí trong toàn bộ lời giáo đầu, v.v., thì sẽ lập tức thấy rằng chiềng ở đây có nghĩa là thưa, trình chứ tuyệt nhiên chẳng có liên quan gì đến kiểu công xã nông thôn cuối thời Hùng Vương như Phan Huy Lê đã khẳng định.

Mặc dù ở thời cổ đại, người Việt đã từng có một kiểu tổ chức xã hội gọi là chiềng nhưng đây chỉ là một từ đồng âm hoàn toàn ngẫu nhiên với chiềng trong “chiềng làng, chiềng chạ” mà thôi. Một đằng là danh từ còn một đằng thì lại là động từ và giữa hai từ đã tuyệt đối không có một sự chuyển nghĩa tự nhiên nào. Vậy nếu muốn khẳng định rằng chiềng là một kiểu công xã nông thôn của người Việt vào cuối thời Hùng Vương thì tất phải chứng minh bằng cách khác chứ không nên làm cái việc đẽo chân cho vừa giày. Liên quan đến vấn đề này, có thể xem: Huệ Thiên, “Vấn đề “thành” của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng”, tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ, Thừa Thiên – Huế, số 2, 1996, trang 9 – 13. Theo bài này thì chiềng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của một mường và đây là một từ Tày – Thái gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 城 mà âm Hán-Việt hiện đại là thành. Chiềng là một kiểu tổ chức xã hội đặc trưng của các tộc người nói các ngôn ngữ Tày – Thái mà người Việt cuối thời Hùng Vương là một bộ phận.

Nhân tiện, xin nói thêm rằng các từ làng, chạ và kẻ trong đoạn văn trên của Phan Huy Lê đều là những từ Việt gốc Hán: làng là một âm rất xưa của chữ 莊 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là trang, có nghĩa là… làng. Còn chạ chẳng qua là âm xưa của chữ 社 mà âm Hán Việt hiện đại là xã (“kết chạ” chẳng qua là “kết xã”). Cuối cùng kẻ là âm xưa của chữ 界 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là giới (trong “biên giới”, v.v.). Từ này chỉ có nghĩa là “vùng nằm trong một ranh giới nhất định” chứ không chỉ đơn vị hành chính như làng và chạ.

Tóm lại, “chiềng” trong câu Kiều thứ 773 là một động từ có nghĩa là thưa, trình. Sự tồn tại hiển nhiên và công dụng rành mạch của nó chính là ở trong câu:

Chiềng làng, chiềng chạ

vốn là một câu mở đầu rất quen thuộc trong lời rao của mõ làng ở các miền quê của nước Việt Nam ngày xưa.

§ 368. Kiến thức ngày nay, số 226, ngày 1- 11 – 1996

ĐỘC GIẢ: Phu khiêng đòn đám ma là “đô tì” hay “đô tùy”? Tại sao?

AN CHI: Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của, Tự điển Việt-Nam của Đào Văn Tập, Việt Nam tự-điển của Lê Văn Đức, Tự-điển Việt-nam của Ban tu thư Khai trí, Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên và Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đều ghi là “đô tùy”. Còn Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh của A. de Rhodes (Roma, 1651) thì ghi là “đồ tuì” với dấu huyền trên chữ i (chứ không phải trên chữ u như trong “đùi”, “lùi”, “mùi”, v.v.). Cũng theo A. de Rhodes trong quyển từ điển đó, “đồ tuì” cũng nói thành “đồ tĭ”. Chúng tôi cho rằng trong hệ thống âm Hán Việt thì “đồ tì” mới chính là hình thái nguyên thủy của hai tiếng “đồ tùy” hiện nay.

Đồ tì là âm Hán Việt của những chữ Hán mà người Trung Hoa đã dùng để phiên âm danh từ śavya của tiếng Sanskrit (phái sinh từ śava = xác chết, thi hài), có nghĩa là tang lễ, lễ thiêu xác. Danh từ śavya đã được phiên âm bằng những chữ Hán sau đây:

– 闍 維, mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là xà duy;

– 茶毘, mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là trà tỳ còn âm chính thống là trà bì;

– 荼毘, mà âm Hán Việt chính thống cũng là trà bì nhưng âm thông dụng thì lại là đồ tì (chữ 荼 nhiều hơn chữ 茶 một nét; nó có nhiều âm trong đó cũng có âm trà nhưng âm thông dụng nên được biết đến nhiều nhất thì lại là đồ).

Vậy trong các hình thức phiên âm trên đây đối với danh từ śavya của tiếng Sanskrit thì hình thức cuối cùng mới là hình thức có liên quan đến danh từ mà ông đã hỏi. Từ tiếng Hán vào tiếng Việt, danh từ đồ tì không còn chỉ lễ thiêu xác nữa, mà đã chuyển nghĩa, phần chắc là do từ nguyên dân gian, để chỉ người phu khiêng đòn đám ma. Nói chung người sử dụng ngôn ngữ thường không biết đến xuất xứ của những từ ngoại lai hoặc những từ khó hiểu, đã thế lại còn lý giải chúng theo lối nghĩ chủ quan của mình, cho nên có thể là họ đã liên hệ “đồ” trong “đồ tì” với “đô” trong “đô vật” mà biến “đồ tì” thành “đô tì”. Sau đó, khi nói đến “đô tì”, tức người phu khiêng đòn đám ma, thì họ lại nghĩ đến việc đưa đám. Rất có thể vì thế mà họ đã biến “tì” thành “tùy” mà diễn đạt cái ý “đi theo sau để đưa đám” mặc dù “đô tì” mới chính là người khiêng quan tài cho những người khác đi theo mà đưa. Sự suy luận trên đây của chúng tôi dù sao cũng chỉ có tính chất gợi ý nhưng điều chắc chắn là “đô tùy” phải do “đô tì” mà ra. Xét riêng từng tiếng thì đồ/đô và tì/tùy đều là những yếu tố vô nghĩa không chỉ trong tiếng Việt mà cả trong tiếng Hán vì chúng chỉ là những yếu tố dùng để phiên âm mà thôi.

§ 369. Kiến thức ngày nay, số 227, ngày 10-11-1996

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 214, ông có trả lời câu hỏi “gác mái lúc nào?” và khẳng định rằng trong thực tế chẳng làm gì có chuyện “gác mái ngư ông về viễn phố”. Ông quên rằng “viễn phố” chưa hẳn là bến xa mà “gác mái” đâu hẳn đã lênh đênh. Về câu này ông có thể hỏi lại ông Vũ Đức Sao Biển khi ông ta giăng lưới bén ở Cà Mau như thế nào. Xin thưa ngư ông đã dự tính đường về và khi nước triều thường có gió thổi và dân ca Nam Bộ có nói rõ chuyện ấy: “Gió lên rồi căng buồm cho khoái. Gác chèo lên ta nướng khô khoai…”. Vâng, trời chiều, thuận nước thuận gió, hai ghe cặp lại căng buồm, nướng khô lai rai một xị đế thì đúng là đệ nhất ẩn nhân vậy.

AN CHI: Trong Hán tự, ít nhất cũng có bốn chữ phố khác nhau nhưng đều chỉ nơi chốn hoặc hiện tượng địa lý:

– phố 1. 圃 = vườn trồng cây, trồng rau hoặc trồng hoa;

– phố 2. 鋪, cũng viết 舖 = 1. tiệm bán hàng; 2. trạm bưu dịch;

– phố 3. 浦 = 1. bến sông, bến nước; 2. ngã ba giữa sông lớn với chi lưu; 3. vùng mặt nước ở ao, đầm; sông, hồ; 4. kênh hoặc ngòi chảy vào sông;

– phố 4. 埔 = địa danh.

Trong 8 nghĩa của 4 chữ phố trên đây, chỉ có nghĩa 1 của phố 3 là thích hợp. Đối với câu thơ đang xét mà đem phố 1 vào để giảng đã là không ổn rồi, nói gì đến phố 2 là nơi buôn bán! Lý lịch trích ngang của nhân vật thực ra cũng đã được Bà Huyện Thanh Quan “khai” rõ ngay trong câu thơ: nghề nghiệp = ngư ông; quê quán = viễn phố. Chi tiết hoàn toàn nhất quán: làm nghề đánh cá và cư ngụ tại một bến sông. Nếu bỗng dưng cao hứng mà khai rằng mình trú ngụ tại một tiệm bán hàng hay một vườn trồng cây xa xôi nào đó thì thế nào ông lão đánh cá cũng bị chính quyền địa phương quy là khai man lý lịch. Một người từng giảng về thơ Bà Huyện Thanh Quan là Hà Như Chi đã nhận xét rất đúng về nghệ thuật trong thơ của bà rằng nó đẹp ở chỗ đồng nhất (nhất quán – AC), trước sau không tương-phản, trong ngoài hoà-hợp (…)”*. Nếu giảng rằng phố ở đây là vườn trồng cây, thậm chí tiệm bán hàng, thì làm sao giữ lại được tính nhất quán về nghệ thuật và nội dung của bài thơ? Ở chỗ này, chúng tôi nhất trí với Trương Văn Quang khi tác giả này viết rằng “Hình ảnh ngư ông mà đi liền với phố thị được thì mục tử cũng không cần thiết phải về cô thôn (mà cứ về đại một khách sạn hay một sân bay nào đó cũng xong!)”*. Đó là điểm thứ nhất.

Điểm thứ hai là không khí mà 56 tiếng của bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” đã gợi lên đâu có dung nạp chuyện “gác chèo lên ta nướng khô khoai” trong lúc “hai ghe cặp lại căng buồm” mà “lai rai một xị đế”. Tuy đây có thể là “đệ nhất ẩn nhân” như ông đã viết nhưng dù sao đó cũng là “ở ẩn” tập thể và nhộn nhịp. Còn ngư ông thì lại chỉ là một nhân vật đơn độc và thầm lặng đang hối hả trở về viễn phố vì tiếng ốc và tiếng trống buổi chiều tà đang giục giã. Vả lại, ngay đến con thuyền của ông ta cũng vô hình trong bài thơ. Chỉ có đơn độc cái mái chèo thôi nhưng cũng không được “biểu niệm” một cách riêng biệt và trực tiếp mà còn phải giấu lẫn vào trong từ tổ động-bổ (động từ + bổ ngữ) “gác mái” thì nói chi đến chuyện căng buồm lên để đón gió! Cứ theo đề tài và phong cách thơ của Bà Huyện Thanh Quan, chúng tôi cho rằng chiếc thuyền của ngư ông ở đây, tuy không bé tẻo teo như chiếc thuyền trong ao thu lạnh lẽo của Nguyễn Khuyến, nhưng cũng chỉ là một chiếc thuyền câu nhỏ hoạt động ở trên sông mà thôi. Vậy đối với người khác cảnh khác thì “gác mái đâu hẳn đã lênh đênh” nhưng đối với ông lão đánh cá của Bà Huyện mà gác mái nửa chừng thì tránh sao cho khỏi nổi trôi vô định trên dòng nước?

§ 370. Kiến thức ngày nay, số 227, ngày 10-11-1996

ĐỘC GIẢ: Trả lời câu hỏi “Gác mái lúc nào?”, trên Kiến thức ngày nay, số 214, ông có khẳng định rằng “trong thực tế, chẳng làm gì có chuyện gác mái ngư ông về viễn phố nên đành phải kết luận rằng mặc dù Bà Huyện Thanh Quan viết như thế nhưng ta phải hiểu rằng ngư ông về đến bến xa rồi mới gác mái chèo bên mạn thuyền mà đi về (hoặc vào) nhà. Điều mà ông nói thì thực tế là không có vì dân đi ghe, khi về đến bến nhà rồi thì cột ghe lại, gỡ mái chèo ra khỏi cọc chèo, gỡ cọc chèo để vào ghe còn mái chèo thì đem lên nhà cất chứ không ai gác mái chèo vào mạn thuyền rồi đi về (hoặc vào) nhà. Nếu gác mái chèo vào mạn thuyền thì tay chèo sẽ đưa ra ngoài, khi gió thổi chiếc ghe lắc qua lắc lại hoặc khi nước lớn nước ròng thì ghe lên xuống tay chèo dễ bị vướng vào vật gì đó làm gãy tay chèo hoặc làm chìm ghe. Vậy chỉ còn lại việc gác mái trước hoặc đồng thời với việc về viễn phố. Đến đây, tôi xin thưa về việc gác mái.

1. Gác mái chèo lên mạn thuyền; 2. Gác mái chèo vào cọc chèo để chèo ghe.

Muốn gác mái chèo vào cọc chèo, người ta dùng sợi dây quấn lại thành vòng tròn, tròng vòng tròn vào mái chèo, xoắn vòng tròn lại như hình số 8, tức hai vòng tròn, một ôm lấy mái chèo, một tròng vào cọc chèo. Còn trong lúc thâu lưới hay dây câu, mái chèo được để trong lòng ghe cho gọn. Khi thâu xong lưới hay dây câu, ngư ông mới gác mái chèo vào cọc chèo rồi chèo ghe về viễn phố. Vậy đã rõ ngư ông gác mái trước khi về viễn phố và chuyện “gác mái ngư ông về viễn phố” là chuyện có thật.

AN CHI: Người ta vẫn hiểu “gác mái” chỉ là ngừng chèo chứ không hiểu đó là tròng mái chèo vào cọc chèo mà khởi sự chèo như ông đã diễn tả. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của ghi: “Gác mái chèo. Cất chèo, xếp chèo”. Dictionnaire annamite-français của J. F. M Génibrel ghi: “Gác mái (Phơi mái). Cesser de ramer; Déposer les rames” (Ngừng chèo; bỏ chèo xuống). Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức v ghi: “Gác mái. Gác cây chèo xuôi theo be thuyền: Chèo đà gác mái//Ngưng, không chèo nữa: Thuyền ai gác mái lững lờ, Phải duyên thì ghé, đây chờ đã lâu”. Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên ghi: “Gác (…) 3. Thu dẹp lại: “Gác mái chèo”. Sở dĩ cách giải thích của ông trái ngược với lời giảng trong các quyển từ điển trên đây, theo chúng tôi, là vì đã có một sự nhầm lẫn về ngữ nghĩa. Động từ gác vừa có nghĩa là kê lên, gác lên, lại vừa có nghĩa là xếp lại, để vào một chỗ nên các tác giả kia, theo lối nói thông dụng và thực tế, đã hiểu “gác” trong “gác mái” theo nghĩa sau còn ông thì lại hiểu theo nghĩa trước. Xin so sánh với động từ “cất” trong lời giảng của Đại Nam quấc âm tự vị (Gác mái chèo: cất chèo, xếp chèo). Ngoài cái nghĩa là để vào một chỗ ổn định, cất còn có nghĩa là nâng lên, đưa lên. Nếu hiểu theo nghĩa này, thì cất chèo tất nhiên sẽ là nâng chèo lên mà chèo, hoàn toàn trái ngược với cái nghĩa mà Huình-Tịnh Paulus Của muốn giảng. Trong vốn từ vựng chung thì các động từ “gác” và “cất” có thể có các nghĩa trái ngược như đã thấy nhưng riêng từ tổ cố định “gác mái”, dù sao cũng là một lối nói chuyên môn trong nghề ghe thuyền, thì không thể có hai cách hiểu trái ngược với nhau được. Vậy khi mà “gác mái” từ lâu đã được người ta hiểu như các từ điển đã giảng thì nó khó lòng có được cái nghĩa mà ông đã nêu. Và khi mà nó có cái nghĩa thông thường như thế thì hẳn là chính Bà Huyện Thanh Quan cũng chỉ có thể hiểu nó theo nghĩa đó mà thôi.

Vậy “gác mái”, theo chúng tôi cũng như theo các quyển từ điển đã nêu, vẫn cứ là đặt mái chèo xuống, nghĩa là dừng chèo, chứ không là gác mái chèo vào cọc chèo mà khởi sự chèo.

Về cách buộc thuyền và gỡ mái chèo ra khỏi cọc chèo mà ông đã diễn tả, chúng tôi thừa nhận rằng đó là một cái nếp thích hợp của một làng chài ven biển. Nhưng ngư ông của Bà Huyện Thanh Quan bất quá chỉ đi câu trên một chiếc thuyền nhỏ thậm chí còn không có cọc chèo nữa: đối với bài thơ đang xét, một chiếc thuyền câu nhỏ sẽ thích hợp hơn là một chiếc thuyền chài và một bến sông khuất nẻo sẽ thích hợp hơn là một làng chài rộn rịp. Vậy cũng không có chuyện tròng mái chèo vào cọc chèo hoặc gỡ nó ra khỏi đó.

Cuối cùng, động tác gác mái chèo vào mạn thuyền không nhất thiết làm cho tay chèo phải đưa ra ngoài vì mạn thuyền thì có mặt trong và mặt ngoài. Nếu để áp mái chèo theo mặt trong của mạn thuyền thì tay chèo làm sao đưa ra ngoài được? Và vì ở một bến sông khuất nẻo cho nên liệu ngư ông có cần phải vác mái chèo vào nhà sau khi đã buộc thuyền hay không?

§ 371. Kiến thức ngày nay, số 228, ngày 20-11-1996

ĐỘC GIẢ: Từ “đại trà” hiện nay được dùng khá nhiều trong sách báo, văn bản, truyền thanh, truyền hình và được hiểu là: một cách tổng quát, rộng lớn. Nhưng khi tôi tra tự điển Hán-Hán và Hán-Việt thì tuyệt nhiên không thấy có nghĩa đó. Vậy có thể là từ này hiện đang được sử dụng một cách gượng gạo và tôi nhớ có lần ông đã dùng nó trong ngoặc kép. Theo tôi, “đại tràng” thì có lý hơn bởi nó bắt nguồn từ “tràng giang đại hải”. Vậy nên dùng từ nào cho chuẩn chứ tôi thấy “đại trà” không ổn chút nào cả.

AN CHI: Từ trà trong đại trà đã được Từ điển tiếng Việt 1992 giảng như sau: “(danh từ) 1. Tập hợp những cây cùng loại cùng gieo trồng và thu hoạch trong một thời gian, một đợt. Trà lúa sớm. Trà lúa cấy cuối vụ. Trà khoai môn. 2 (phương ngữ) Lứa tuổi. Hai đứa cùng trà cùng trật với nhau. Lỡ trà con gái”. Vì không biết được từ nguyên của trà nên Từ điển thành ngữ Việt Nam của Viện ngôn ngữ học do Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành biên soạn (Văn hóa, Hà Nội, 1993) mới viết sai chính tả mà ghi “bằng chà bằng lứa” tại tr. 54 của sách này. Dạng thức đúng là bằng trà bằng lứa, đồng nghĩa với cùng trật cùng trà. Còn từ tổ đại trà thì được Từ điển tiếng Việt1992 giảng như sau: “1. (Trồng trọt) ở trên diện tích rộng, bao gồm cả cánh đồng lớn. Ruộng đại trà. Cấy đại trà. Trồng ngô đại trà. 2. (Chăn nuôi) trên quy mô lớn: Nuôi cá đại trà”. Nghĩa 2 và nghĩa 1 thực ra chỉ là một (trên quy mô lớn – đúng như ông đã nêu) nhưng đã bị Từ điển tiếng Việt 1992 xé lẻ ra một cách không cần thiết. Tuy nhiên chúng tôi muốn dẫn quyển từ điển đó để khẳng định rằng đại trà là một từ tổ có nguồn gốc xác định vì nó bắt nguồn từ nghĩa 1 của từ trà đã cho trong Từ điển tiếng Việt 1992, chứ không phải là “đại tràng”, bắt nguồn từ “tràng giang đại hải” như ông đã gợi ý. Chỉ tiếc rằng người ta đã dùng nó một cách quá rộng rãi nên mới làm cho ông cảm thấy “không ổn chút nào”. Và cũng chính vì việc sử dụng nó một cách “đại trà” là không thật ổn cho nên, đúng như ông đã nhắc lại, có lần chính chúng tôi mới phải dùng nó trong ngoặc kép.

Danh từ trà ở đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 秅 mà âm Hán Việt hiện đại cũng là… trà vì thiết âm của nó là “trạch gia thiết (…) trực gia thiết, tịnh âm trà 茶” (Xem Khang Hy tự điển). Nghĩa của nó đã được Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) cho như sau: “Danh từ đơn vị. Thời xưa (là) đơn vị dùng để tính số lượng lúa đã gặt, (cứ) bốn trăm bó là một trà”. Sự chuyển biến từ nghĩa gốc này trong tiếng Hán sang nghĩa đã thấy trong tiếng Việt là một điều hoàn toàn có thể giải thích được, vì suy đến cùng, nghĩa 1 của trà đã cho trong Từ điển tiếng Việt 1992 chẳng qua chỉ là nghĩa rộng của nghĩa đã cho trong Hán ngữ đại tự điển mà thôi.

Sở dĩ ông tìm trong một số từ điển mà không thấy là vì từ trà 秅 ít thông dụng nên một số từ điển đã không thâu thập (chẳng hạn Hán-Việt từ-điển của Đào Duy Anh, Hán-Việt tự-điển của Thiều Chửu, Mathews’ Chinese-English Dictionary, v.v.). Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ông là không nên lạm dụng từ tổ đại trà. Ngay cả trong cụm từ gặt đại trà thì người ta vẫn còn có thể thay “đại trà” bằng một từ “thuần Việt” là rộ mà nói gặt rộ mặc dù rộ cũng là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 裕 mà âm Hán Việt hiện đại là dụ, có nghĩa là nhiều, giàu có, rộng rãi, lớn v.v.. Tóm lại là không nên dùng “đại trà” một cách “đại trà”.

§ 372. Kiến thức ngày nay, số 228, ngày 20-11-1996

ĐỘC GIẢ: Tại sao lại nói “chợ búa”? Có lẽ nào “chợ búa” lại là chợ bán búa (để đóng đinh) giống như “chợ cá” là “chợ bán cá”, “chợ vải” là chợ bán vải…? Rồi lại còn có “hóc búa”. Vậy “búa” ở đây là gì và “hóc” có phải là “nghẹn”? “Nghẹn” và “nghẽn” có khác nhau không và “nghén” có phải là “nghẹn”, “nghẽn” ở chỗ bụng?

AN CHI: Về từ búa trong “chợ búa”, Lưu Trọng Văn có ghi lại câu chuyện giữa tác giả với nhà văn Nguyễn Tuân như sau:

“Một lần, tôi với bác Nguyễn cùng đi. Trên xe ôtô (…) ông say sưa phân tích vì sao gọi là “đường sá”, vì sao gọi là “chim chóc”, “chùa chiền”… Đột ngột ông hỏi tôi: “Cháu có biết vì sao người ta gọi “chợ búa” không?”. Tôi hỏi ngược lại: “Vì sao ạ?”. Bác Nguyễn rung rung râu bạc, (…): “Không biết bác mới hỏi cháu” (…) Tôi nói: “Tại các làng quê miền Bắc bất cứ đâu chợ nào cũng có cái lò rèn, khi vào chợ, âm thanh nghe đầu tiên chính là tiếng búa gõ lên đe… thế rồi người ta ghép chữ búa vào chữ chợ…”. Khi giải thích xong tôi nghĩ thế nào cụ Nguyễn cũng cười khà khà vì sự đơn giản, ngô nghê của tôi. Nhưng không ngờ (…), ông nói: “Nhiều lúc có những điều rất đơn giản mà mình lại nghĩ không ra, cứ đi tìm cái gì phức tạp ghê gớm… để giải thích”.*

Cách giải thích trên đây thực chất chỉ là từ nguyên dân gian. Còn nếu muốn dùng danh từ của D. Bolinger, thì đó là “guesstymology”, tạm dịch là từ nguyên đoán mò. Búa thực ra là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 鋪 mà âm Hán Việt hiện đại là phố, có nghĩa là cửa hàng, là nơi buôn bán. Ở Hà Tĩnh, người ta vẫn gọi cái chợ nhỏ là búa*. Vậy chợ búa chẳng qua là chợ nói chung và đây vốn là một từ tổ đẳng lập đích thực mà hai thành tố là những từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với nhau như: xe cộ, tàu bè, sông ngòi, bến bãi, v.v.. Xét theo lịch đại thì búa là một từ có nghĩa riêng biệt và cụ thể còn xét theo hiện đại thì đó chỉ là một yếu tố đã mất nghĩa, đúng hơn, đó là một từ cổ. Những từ cổ như thế rất nhiều và người ta chỉ có thể nói rằng chúng là những yếu tố đã mất nghĩa chứ quyết không nói được rằng chúng là những yếu tố vô nghĩa như vẫn thường làm chỉ vì chính mình không biết được nghĩa của chúng.

Về từ tổ hóc búa, Lê Thái Hà đã giải thích như sau:

“Xưa có một người vào ngủ trọ nhà người ta. Khi ra đi, người ấy lấy cái búa của chủ nhà và giấu búa vào gói cơm mang theo. Chủ nhà thấy mất búa liền đuổi theo và đòi khám; tất nhiên là người ấy tìm thấy. Người ngủ trọ liền chữa thẹn: – Không hiểu sao búa lại lẫn vào gói cơm này. May quá, giá bác không tìm thì hôm nay, ăn cơm, tôi đến chết hóc mất”.*

Đây quả là một kiểu từ nguyên giai thoại (étymologie anecdotique) quá dễ dãi. Sự tưởng tượng lẽ ra nên công phu hơn và chặt chẽ hơn thì mới không làm cho người ta nghi ngờ cách giải thích được đưa ra. Cách giải thích này làm cho người ta có thể liên tưởng đến cách giải thích thật thà của Nguyễn Văn Ngọc trong Nam thi hợp tuyển khi ông cho rằng bù nhìn là do tên của một người gác ruộng dưa là Bố Nhiên mà ra.

Hóc búa thực ra vốn là một lối nói của những người đốn gỗ. Ngày xưa chẳng làm gì có cưa máy cá nhân thuận tiện và mau lẹ như bây giờ. Cũng chẳng phải hễ ai đi rừng thì đều “kéo cưa lừa xẻ”. Dụng cụ gọn nhẹ và cơ động nhất lúc bấy giờ chỉ là cái búa. Và hóc búa là một sự cố trong quá trình lao động của những người đốn gỗ. Dù có dày kinh nghiệm và cẩn thận đến mấy thì cũng có lúc họ – không người này thì người khác – phải bất lực mà nhìn chiếc búa của mình bị kẹt cứng trong thân cây đang đẵn dở mà không rút nó ra được hoặc phải khó khăn lắm mới rút được nó ra. Đó chính là hiện tượng “hóc búa”. Vậy hóc búa là kẹt búa trong thân cây hoặc súc gỗ mà không rút ra được. Đây là nghĩa gốc đã cho ra nghĩa phái sinh là rắc rối, nan giải, cũng là nghĩa thông dụng hiện nay. Còn chính cái nghĩa gốc kia thì đã tuyệt tích giang hồ, nghĩa là không còn “lưu thông” trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của dân chúng nữa nên mới sanh ra cái sự người đi ngủ trọ ăn cắp búa mà lại may mắn khỏi bị búa kẹt trong cuống họng vì chưa kịp ăn (?) thì đã bị phát giác!

Cứ như trên thì hóc cũng là nghẹn nhưng đây không phải là hai từ đồng nghĩa tuyệt đối vì không phải bao giờ chúng cũng có thể thay thế cho nhau được, chẳng hạn nghẹn họng không thể thay bằng “hóc họng” mà hóc búa cũng không thể thay bằng “nghẹn búa”. Nghẹn là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 哽 mà âm Hán Việt hiện đại là ngạnh, có nghĩa là bị tắc ở cổ họng nên không nuốt hoặc không nói được. Thiết âm của nó trong Quảng vận là “ngũ tránh thiết”. Nguyên âm chính của vận -anh là e [ɛ] ; vì vậy mà từ ngạnh sang nghẹn thực ra cũng chỉ có một sự thay đổi ở âm cuối vần từ -nh thành -n mà thôi. Còn nghẽn là một biến thể hậu kỳ của nghẹn nhưng nói chung, chúng cũng không thay thế cho nhau được; chẳng hạn nghẽn đường nghẽn lối không thể nói thành “nghẹn đường nghẹn lối”, mà nghẹn lời thì cũng không thể nói thành “nghẽn lời”, v.v..

Nghén không phải là “nghẹn, nghẽn ở chỗ bụng” (đây là một từ hoàn toàn khác gốc) mà lại có nghĩa là cái mầm mang ở bụng, tức là cái thai. Đây là một âm rất xưa của chữ 仁 mà âm Hán Việt hiện đại là nhân, có nghĩa là hạt hoặc hạt giống. Chữ này thuộc thanh mẫu nhật 日, ứng với phụ âm đầu mà chữ quốc ngữ là nh-. Nhưng từ nghén của tiếng Việt lại là một bằng chứng cho thấy trước khi chuyển thành một chữ thuộc thanh mẫu nhật thì 仁 đã là một chữ/từ có phụ âm đầu ng- [ŋ], là phụ âm đầu tương ứng với thanh mẫu nghi 疑, trong sự đối lập với thanh mẫu nhật. Tuy các nhà Hán ngữ học không phục nguyên phụ âm đầu ng- cho chữ 仁 trước thời Thiết vận nhưng từ nghén của tiếng Việt là một bằng chứng cho phép tiến hành một sự tái lập như thế. Đồng thời chữ nhân 人 là người cũng có phụ âm đầu ng- trước thời Thiết vận mà ngay cái từ người đã là một bằng chứng lý thú. Chỉ tiếc là do khuôn khổ của chuyên mục và yêu cầu của câu trả lời đều không cho phép nên chúng tôi không có điều kiện để chứng minh tỉ mỉ mà thôi.

§ 373. Kiến thức ngày nay, số 229, 1-12-1996

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 225, ông có viết: “Các từ làng, chạ và kẻ (…) là những từ Việt gốc Hán: làng là âm xưa của chữ trang 莊(…) chạ là âm xưa của chữ xã 社, kẻ là âm xưa của chữ giới 界.” Làng là âm xưa của trang, chạ là âm xưa của xã thì còn tạm chấp nhận được vì dù sao thì vẫn còn gần âm chứ kẻ mà lại là âm xưa của giới thì thật là khó tin. Vả lại, các học giả đã chứng minh rằng kẻ là một từ thuần Việt thì làm sao nó lại có thể là một từ Việt gốc Hán được?

AN CHI: Vấn đề thực ra không phải là ở chỗ gần âm hay không mà lại là ở chỗ tương ứng ngữ âm có đúng quy luật hay không. Các hình thái như haryr, hawr, harkh của tiếng Armenia là cùng một nguồn gốc với các hình thái patêr, patros, pateres của tiếng Hy Lạp (lần lượt theo thứ tự đã ghi): đó đều là danh cách số ít, sinh cách số ít, danh cách số nhiều của danh từ có nghĩa là “cha” trong hai thứ tiếng đó, bắt nguồn từ một từ Ấn Âu chung. Đây là một sự thật mà tất cả các nhà Ấn Âu học đều nhất trí thừa nhận mặc dù các hình thức tương ứng đó rất xa nhau về ngữ âm.

Bây giờ xin đề cập đến từ kẻ. Thời đại Hùng Vương của Văn Tân, Nguyễn Linh, Lê Văn Lan, Nguyễn Đổng Chi, Hoàng Hưng (Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973) đã dành ra hơn 3 trang để bàn về từ kẻ này. Vì đây là một quyển sách thừa hưởng và tổng hợp những kết quả của 4 cuộc hội nghị quy mô lớn về thời kỳ “Hùng Vương dựng nước” nên chúng tôi xin lấy ý kiến trong sách này làm cơ sở để thảo luận cho thuận tiện (Phần bàn về từ kẻ là do Nguyễn Linh viết).

Nguyễn Linh cho rằng “những tên nôm với yếu tố kẻ rất nhiều: hầu hết xã thôn Việt-nam ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ (khu IV cũ) đều có. Nhưng đi quá vào Nam Trung Bộ, Nam Bộ thì ít dần đi rồi không thấy nữa. Ở vùng thượng du Bắc Bộ cũng thấy rất ít, hầu như không đáng kể” (tr. 49). Ý tác giả cho rằng vì vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ cùng với Bắc Trung Bộ là địa bàn cổ xưa của người Việt nên mới có những địa danh mang yếu tố kẻ còn Nam Trung Bộ và Nam Bộ là vùng đất mới nên không có địa danh mang yếu tố đó. Từ đây suy ra, kẻ là một yếu tố thuần Việt đã được sử dụng tại địa bàn cổ xưa của người Việt. Thực ra sở dĩ “đi quá vào Nam Trung Bộ và Nam Bộ việc sử dụng yếu tố kẻ ít dần đi rồi không thấy nữa” thì chỉ là vì khi lưu dân người Việt bắt đầu vào đến vùng đất mà ngày nay là miền Nam Trung Bộ thì từ kẻ đã không còn thông dụng nữa mà đang trở thành một từ cổ. Còn sở dĩ ở vùng thượng du Bắc Bộ cũng thấy rất ít thì vì đó là vùng cư trú của các dân tộc thiểu số chứ không phải của người Kinh (Việt). Vậy nguyên nhân của sự vắng mặt yếu tố kẻ ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ và nguyên nhân của sự vắng mặt của nó ở thượng du Bắc Bộ là hai nguyên nhân hoàn toàn khác nhau, không thể đánh đồng làm một được.

Nguyễn Linh khẳng định rằng “trong nhiều tên làng Việt-nam, từ kẻ trong những tên nôm được phiên âm ra tên Hán-Việt bằng từ cổ (viết như chữ “cổ” trong “cổ đại”). Ở Lưỡng Quảng, những địa danh có chữ cổ đứng đầu rất phổ biến, rất tập trung. Nhìn rộng ra toàn Trung-quốc thì địa danh có chữ cổ còn thấy rải rác ở Cam-túc, Tứ-xuyên, Quý-châu, Vân-nam, nhưng tập trung nhất là ở vùng Lưỡng Quảng” (tr. 49, 50).

Thực ra, làm sao mà một nguyên âm hàng trước không tròn môi như e lại có thể được phiên âm bằng một nguyên âm hàng sau tròn môi như ô? Một cuốn sách có nhiều thiếu sót trong phiên âm như An Nam dịch ngữ* cũng không hề có trường hợp nào lại phiên âm một cách bất hợp lý đến thế*. Cổ không hề là hình thức phiên âm của kẻ. Lê Văn Hoè đã chứng minh rằng nhiều địa danh Hán-Việt có yếu tố cổ 古 đứng đầu đã được đặt ra vào thời quân Minh xâm chiếm rồi cai trị nước ta mà không hề phiên âm từ một tên nôm nào bắt đầu bằng yếu tố kẻ. Ông viết: “Nghiên cứu lịch sử thời này, ta thấy có đặc điểm là quân Minh rất sính dùng chữ Cổ (là cũ, là xưa, là không theo ngày nay) để đặt tên thành, tên huyện. Ví dụ: Lộ Đông-đô có các huyện Cổ-bảng, Cổ-giả, Cổ-lễ; lộ Lạng-giang có Cổ-dũng, Cổ-lũng; lộ Đà-giang có Cổ-nông, lộ Long-hưng có Cổ-lan; lộ Hải-đông có Cổ-phí; trấn Thanh-đô có các huyện Cổ-đằng, Cổ-hoằng, Cổ-lôi, v.v.. Khi đổi tên các huyện cũ ra tên mới, họ thích lấy chữ Cổ mà đặt, như đổi huyện Đỗ gia làm Cổ-đỗ, huyện Đặng-gia làm Cổ-đặng, huyện Tư-nông làm Cổ-nông, v.v.. Sang thời nhà Lê, sau khi đánh đuổi quân giặc, giành lại đất nước, triều đình ta đã bỏ hết các tên huyện bắt đầu bằng chữ Cổ. Kiểm điểm hàng mấy trăm tên huyện thời Lê-Nguyễn, ta không thấy có tên nào có chữ Cổ trên đầu”.*

Tóm lại, việc dùng từ cổ làm yếu tố đầu trong địa danh là một cách làm của quân Minh ở nước ta cũng như của người Hán bên Trung Hoa. Chính vì vậy mà từ cổ mới hiện diện trong nhiều địa danh ở Cam Túc, Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam và Lưỡng Quảng như Nguyễn Linh ghi nhận.

Nguyễn Linh còn khẳng định rằng “Từ kẻ có thể thay thế bằng từ làng (…) nhưng (…) không thể thay thế bằng từ xã là một từ Hán Việt, cũng như không thể đặt trước một tên Hán Việt. Có thể gọi Kẻ Noi (Cổ-nhuế) hay Noi hoặc làng Noi, nhưng không ai gọi kẻ Cổ-nhuế cả” (tr. 51). Thật ra tác giả Nguyễn Linh đã không điều tra cẩn thận và chưa thống kê đầy đủ nên mới không biết được rằng kẻ chẳng những có thể tương đương với xã mà lại còn có thể đi chung với địa danh Hán Việt chánh cống, thậm chí địa danh Hán Việt hai âm tiết nữa. Sau đây mới chỉ là một số dẫn chứng ít ỏi bước đầu thấy được ở tài liệu viết tay năm 1632 của Gaspar d’ Amaral: làng Kẻ Tranh Xuyên, Kẻ Lương Trung xã, kẻ An Lãng, kẻ Vĩnh, kẻ Mộc, kẻ Gián, kẻ Vĩnh Cang, v.v..*. Vĩnh, Mộc, Gián, Tranh Xuyên, Lương Trung, An Lãng, Vĩnh Cang là gì nếu không là những địa danh Hán Việt? Và nếu kẻ không tương đương với xã thì làm sao lại có thể nói được “Kẻ Lương Trung xã”? Đó là chỉ mới nhờ vào những trang viết tay của Gaspar d’ Amaral mà biết được; nếu đi sâu vào thư tịch Hán Nôm của các địa phương thì chắc chắn là sẽ còn phát hiện được thêm nhiều chứng liệu hơn nữa về hiện tượng kẻ đi chung với địa danh Hán Việt hai âm tiết.

Còn nếu chỉ cần đến cấu trúc “kẻ + địa danh Hán Việt đơn tiết” thì riêng tác giả Lê Trọng Khánh cũng đã cung cấp cho chúng ta quá nhiều dẫn chứng khi muốn chứng minh rằng kẻ là một yếu tố “thuần Việt”, rằng “địa danh có từ kẻ hình thành từ khi dựng nước Văn Lang”! Sau đây chỉ là một số nêu làm tin vì Lê Trọng Khánh đã đưa ra quá nhiều: kẻ Đãng, kẻ Anh, kẻ Am, kẻ Bình, kẻ Đậu, kẻ Định, kẻ Độ, kẻ Đường, kẻ Hoàng, kẻ Lãm, kẻ Lãng, kẻ Lễ, kẻ Lôi, kẻ Luyện, kẻ Nông, kẻ Pháp, v.v..*

Tóm lại, khẳng định rằng từ kẻ chỉ đi chung với địa danh “thuần Việt” là đã đưa ra một ý kiến hoàn toàn không đúng với thực tế. Chúng tôi cũng rất tiếc rằng trong đoạn lập luận trên đây, Nguyễn Linh lại còn nhầm lẫn hiện tượng đồng đại với hiện tượng lịch đại. Khi từ kẻ còn thông dụng thì chữ 汭 còn được phát âm thành Noi nên tất nhiên người ta chỉ có thể nói kẻ Noi mà không thể nói thành “kẻ Nhuế” được. Đến khi chữ 汭 được đọc là thành Nhuế thì kẻ đã trở thành một từ cổ nên tất nhiên cũng chẳng có ai ghép hai từ đó lại với nhau mà nói thành “kẻ Nhuế”. Trong khi đó thì từ lâu cấu trúc “kẻ Noi” đã trở thành một từ tổ cố định trong lời ăn tiếng nói của dân gian. (Xin lưu ý rằng noi là âm xưa còn nhuế là âm nay của chữ Hán đang xét).

Tóm lại, tất cả những điều mà Nguyễn Linh đã đưa ra để chứng minh rằng kẻ là một yếu tố “thuần Việt” đều không thể đứng vững được. Kẻ là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 界 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là giới, âm Hán Việt hiện đại ít thông dụng hơn là giái còn âm Hán Việt chính thống hiện đại thì lại là cái vì thiết âm của nó trong Quảng vận là “cổ bái thiết”. Giới/cái có nghĩa gốc là lằn ranh giữa hai (hoặc nhiều) vùng đất, rồi có nghĩa phái sinh theo hoán dụ là vùng đất giới hạn trong lằn ranh đó; cuối cùng mới có cái nghĩa rộng là một vùng đất nhất định. Đây chính là nghĩa của từ cái trong thành ngữ lạ nước lạ cái (= lạ nơi lạ chốn) và nghĩa của từ kẻ trong kẻ Chợ, kẻ Noi, kẻ Sặt, v.v.. Giới/cái 界 là một chữ thuộc vận bộ quái 怪, tức vận -ai [aj] mà cách đọc xưa là e [ɛ] (không có âm cuối vần), giống với vận bộ quái 卦 mà âm xưa là quẻ, như Vương Lực đã chứng minh trong Hán ngữ sử luận văn tập (Bắc Kinh, 1958, tr. 365 – 367). Vậy kẻ (vùng đất nhất định) ~ giới/cái 界 cũng giống như: – quẻ (bói) ~ (bát) quái; – khỏe (mạnh) ~ khoái (hoạt); – ghẻ (chốc) ~ giới/cái 疥 (=ghẻ), – đặc biệt hoàn toàn giống như kẻ (trong kẻ ở người đi) ~ giới/cái 介(= người. Từ hải: 一 介 nhất giới/cái = 一人 nhất nhân). Nhưng đặc biệt hơn hết là liên quan đến chữ 界 đang xét, chúng ta còn có:

(thước) kẻ ~ giới/cái (xích)

vì giới/cái còn có nghĩa là kẻ hàng, gạch hàng nữa: giới xích là thước kẻ, giới chỉ là giấy kẻ (hàng), v.v..

Tóm lại, kẻ là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một nguyên từ ghi bằng chữ 界 như đã nói ở trên.

Cũng xin nói thêm rằng các yếu tố đơn tiết đi sau từ kẻ thường bị ngộ nhận là những địa danh “thuần Việt” trong khi mà chúng hầu hết đều là âm xưa của các chữ Hán hữu quan. Thí dụ tên của làng Chèm, gốc là Trèm, chính là âm xưa của chữ liêm 廉, là một chữ thuộc thanh mẫu lai 來. Về mối quan hệ tr ~ l, người ta có hàng loạt ví dụ: trộm (nghĩ) ~ lạm 濫 (lạm phép = trộm phép); tràn (đầy) ~ lan 瀾 (sóng lớn; dậy sóng; lan ra); (từng) trải ~ lý 履(=đạp, đi); trội ~ lỗi 磊 (= tài giỏi); v.v..

§ 374. Kiến thức ngày nay, số 230, ngày 10-12-1996

ĐỘC GIẢ: Khi đọc bài của An Chi trên Kiến thức ngày nay, số 224, thấy ông khẳng định chữ “nỏ” (tiếng miền Trung, chỉ sự phủ định) là biến âm của chữ “nõ”, tôi cảm thấy tác giả hơi vội vàng. Vậy xin có vài lời trao đổi.

Trước hết, theo tôi, chữ “nõ” (tiếng địa phương vùng Vĩnh Phú), miền Trung phát âm là “nọ”. Đó có thể là một từ Việt cổ, có nguồn gốc ngôn ngữ Môn-Khơme hoặc Chăm. Nó ít có khả năng là một từ Hán Việt. Ông An Chi đã khẳng định “nõ” là từ Việt gốc Hán, bắt nguồn từ chữ “noãn” 卵. Chữ “noãn” âm Bắc Kinh đọc là “loãn”. Nếu đúng vậy, nó đã có mấy cấp độ biến âm như sau: l → n thành “noãn: mất đuôi → noã → nõ → nỏ.

Nghiên cứu ngữ âm vùng Trung Trung Bộ, ta thấy gần như không có sự lẫn lộn âm l và n như ở miền đồng bằng Bắc Bộ. Bởi vậy, khả năng thứ nhất khó có thể xảy ra ở địa phương “tui nỏ yêu anh” này. Đối với người Việt cổ, cái “nõ nường” là vật thiêng, là sự tồn tại của nòi giống, không có ý xấu. Họ có thể không nói nó luôn miệng, dùng để văng tục, như từ “đ…” hoặc con “c…” bây giờ. Dùng nó để biểu thị một sự không đồng ý, sau quen mồm, có lẽ là suy diễn. Hơn nữa, “nỏ” của miền Trung lại là cách biểu thị sự không đồng ý nhẹ nhưng dứt khoát.

Là người xứ Nghệ, lúc nhỏ, tôi thường nghe ông bà, cha mẹ,… dùng từ “nó” (tiếng Nghi Lộc) hoặc “nỏ” (tiếng Vinh – Hưng Nguyên). Lúc đó, chưa có từ “không” trong khẩu ngữ của người vùng này. Vùng Nghi Lộc và một số vùng ven biển phát âm không rõ giữa dấu sắc và dấu huyền. Tuy nhiên nếu tìm hiểu sâu, ta thấy nó vẫn có qui luật nhất định. Đó là sự biến thanh trong hai khoảng khác giữa hỏi, sắc, không và huyền, nặng, ngã. Hai khoảng đó không lẫn lộn trong chuyển hóa, bằng trắc, nhất là trong các từ láy, ví như nõn nà (không thể là “na”), nhởn nhơ (không thể là “nhờ”). Từ đó mà suy, theo luật biến âm, ít có khả năng nó hoặc nỏ biến thành nọ hoặc nõ được.

Đối với chữ “nường”: tôi thấy ông An Chi cũng có sự khẳng định hơi vội. Tại sao ông cứ phải gò nó về nguồn gốc âm Hán Việt là “nương” 娘 mà không đi tìm nguồn gốc từ ngữ âm cổ thuần Việt? Đấy là ta chưa nói nhiều trường hợp từ Hán Việt lại chính là ghi âm của từ thuần Việt như chữ “cổ” 古 trong cổ sơ, âm nôm là Kẻ Sở,…

Tôi rất nghi ngờ sự khẳng định của ông An Chi về sự biến âm ít xảy ra là “đoàn” → “tròn” mà không có thể là “luân” → “tlòn -tròn” hoặc ngược lại “tlòn” vừa → “lun – luân” vừa → “tròn”.

AN CHI: Vì khuôn khổ của chuyên mục nên trên số 224, chúng tôi đã không có điều kiện để phân tích kỹ từ nguyên của nõ(n). Kỳ này xin nói thêm như sau. Nõ(n) là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một nguyên từ ghi bằng chữ 卵. Chữ này có hai cách đọc chính thống đã được cho trong Quảng vận là loãn (“lô quản thiết”) và lõa (“lang quả thiết”), nghĩa là một đằng thì nó thuộc vận bộ hoãn, một đằng thì nó lại thuộc vận bộ quả. Trong tiếng Quảng Đông, nó cũng có hai âm tương ứng là, lœn và [lɔ]* Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) một bộ tập đại thành về số chữ Hán và về âm, nghĩa của từng chữ, cũng đã ghi nhận đủ hai âm đã nói cho chữ đó. Sở dĩ loãn có thể đọc thành lõa là do hiện tượng âm dương đối chuyển: vốn là một chữ có vần dương (có -n cuối), nó đã mất -n cuối mà trở thành một chữ có vần âm. Khi mà vận thư đã ghi nhận hai âm cho một chữ thì hai âm đó đều có giá trị ngang nhau trong cách hợp vận bằng chữ đó. Và khi mà người Việt tiếp xúc với âm Hán đời Đường thì họ đã biết đến chữ đang xét không chỉ với âm loãn, mà cả với âm lõa nữa. Vậy trở xuống, xin ghi âm của nó là loã(n). Từ âm chính thống này, từ lâu người Việt đã đọc trại phụ âm đầu từ l- thành n- nên ngày nay các quyển từ điển Hán Việt (Đỗ Văn Đáp, Đào Duy Anh, Thiều Chửu, Nguyễn Quốc Hùng…) mới ghi âm cho nó là noãn. Vậy nõ(n) là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là loã(n) còn âm thông dụng thì lại là noã(n).

Về ngữ âm thì từ loã(n) đến nõ(n), chúng tôi đã chứng minh một phần (oan ~ on) trên số 224. Nay xin nói về mối tương ứng l ~ n. Loã(n) ~ nõ(n) cũng y hệt như: (chủng) loại ~ (giống) nòi; lãm 濫 ~ nắm (lấy); (mưu) lược ~ nước (cờ); lược 略 (= cương giới) ~ (đất) nước (trong lạ nước lạ cái, thì cả nước lẫn cái đều có nghĩa gốc là ranh giới); loan 巒 ~ (núi) non; lỗn 㤻 (= béo, mập) ~ (phì) nộn; liện * (gõ, đập) ~ nện; lung (long) 爖 (đốt) ~ nung (nấu); lũy 磊(= núi) ~ núi (non); v.v..

Đã rõ nõ(n) là do loã(n) mà ra và nõ ~ nõn là hiện tượng xảy ra trong nội bộ hệ thống âm Hán Việt (do âm dương đối chuyển, như đã nói), chứ không phải ban đầu chỉ là nõ và phải đợi sau khi kết hợp với nường thành nõ nường thì nõ mới bị n- của nường đồng hóa mà trở thành nõn. Nhân tiện xin nói thêm rằng lõa còn có một âm xưa nữa là lõi trong cốt lõi. Vậy nõ và lõi là hai điệp thức (doublets) và nõ mít, nõ na, v.v., thực chất chẳng phải gì khác hơn là “lõi, mít”, “lõi na”, v.v..

Ông đã cho rằng nõ ít có khả năng là một từ Việt gốc Hán mà có thể là một từ Việt cổ có nguồn gốc Môn-Khmer hoặc Chăm. Nếu sự thực đúng như thế thì chúng tôi sẵn sàng thừa nhận vì đây là vấn đề khoa học. Chỉ tiếc là chưa thấy ai chứng minh điều đó còn chúng tôi thì cũng không hề nhất nhất gò các từ Việt vào gốc Hán như ông đã nghĩ. Nõ < 卵 chẳng qua chỉ là một trong hơn 3.000 yếu tố Việt (kể cả những yếu tố vẫn bị xem là yếu tố láy và không kể các yếu tố Hán Việt ) gốc Hán mà chúng tôi đã ghi nhận được trong công việc khảo sát từ nguyên của mình mà thôi. Trước đó, chúng tôi cũng không hề biết là nó thuộc gốc nào. Còn sở dĩ ông đã cho rằng nó khó có khả năng là một từ gốc Hán có lẽ do nghĩ rằng nó là một từ thuộc loại cổ xưa nhất trong từ vựng cơ bản nên không thể là yếu tố vay mượn. Nghĩ như thế là đã ngộ nhận vì tất cả mọi từ đều có thể được vay mượn*. Tiếng Khmer có hai từ chỉ dương vật thì cả hai đều là vay mượn từ tiếng Pali và tiếng Sanskrit: kđo [kdɔ] > P. kāṭa, và cui [kuj] < S. guhya, P. guyha. Còn từ đầu của tiếng Việt, rất cơ bản, thì lại hẳn hoi là một từ Hán Việt, mà chữ Hán là 頭. Thú vị hơn nữa, cái từ đã từng bị nó thay thế là trốc, vẫn được xem là “thuần Việt”, thì cũng lại là một từ Việt gốc Hán nốt. Chúng tôi có ý dẫn từ này ra để luôn tiện trả lời cho sự nghi ngờ của ông về mối quan hệ đoàn ~ tròn (đ ~ tr) mà ông cho là khó xảy ra.

Sự tương ứng đ ~ tr thực ra đã từng được bàn đến từ lâu, chẳng hạn ở bài “Hán Việt ngữ nghiên cứu” (1948) của Vương Lực trong sách Hán ngữ sử luận văn tập của tác giả (Bắc Kinh, 1958) tại trang 360 – 361 khi ông bàn về “cổ thiệt đầu âm.” Gần đây, Nguyễn Tài Cẩn – Hoàng Dũng đã bàn đến kỹ hơn trong bài “Về các từ gốc Hán được tiếng Việt xử lý bằng thủy âm tắc bên (Lateral stops)”*. Trở lại với từ trốc, và để chứng minh thêm cho mối quan hệ đ ~ tr, xin nói rằng đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ * hoặc 髑, âm Hán Việt hiện đại là độc, mà thực chất thì từ xa xưa, đã từng là một (hoặc cùng gốc) với đầu 頭 (độc lâu = đầu lâu). Cái từ mà Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên ghi là “trốt” và giảng là “gió lốc”, theo ông Hoàng Dũng (Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh), chính ra là trôốc (nghĩa là có [k] cuối) và trôốc là một điệp thức của lốc. Theo chúng tôi, thì đó là những từ Việt gốc Hán bắt nguồn từ một từ ghi bằng hai chữ 獨鹿 mà âm Hán Việt hiện đại là độc lộc, có nghĩa là cơn gió xoáy. Đây lại là thêm một thí dụ minh họa cho mối quan hệ đ ~ tr. Sau đây là một trường hợp nữa: trật trưỡng (= không vững) là một từ gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng hai chữ 跌碭 mà âm Hán Việt hiện đại là điệt đãng (= vấp váp). Và một thí dụ chót: trên (dưới) ~ điên 顛 (=đỉnh).

Trở lại với từ nõ, thì như đã thấy ở trên, đây không phải là hiện tượng miền Bắc lẫn lộn l – n mà miền Trung thì không. Đây là trường hợp mà người Việt nói chung đã “lẫn lộn” l – n ngay từ trong hệ thống Hán Việt.

Chúng tôi đồng ý với ông rằng, đối với người Việt cổ, nõ nường là vật thiêng nên tất nhiên là không có ý xấu. Tuy nhiên đó chỉ là chuyện của quá khứ nguyên thủy rất xa xôi chứ về sau thì việc rước nõ nường chỉ còn là một tập tục có tính chất truyền thống. Đến như câu hát:

Ba mươi sáu cái nõn nường.

Cái để đầu giường cái để đầu tay.

thì lại là rất mới và chắc chắn đã ra đời sau khi người Việt tiếp xúc với hệ thống âm Hán Việt xưa hoặc nay. Không kể đến hai từ nõn, nường trong câu hát đó, các từ sau đây chắc chắn là gốc Hán: – cái (đã chứng minh trên số 197), – để < trí / 置, – đầu =頭, – giường < sàng 牀. Vậy đó không phải là những câu hát nguyên thủy. Và trong hoàn cảnh mới, chẳng có gì ngăn cản người ta dùng từ nõ mà nghĩa gốc là dương vật để làm từ phủ định như đã phân tích trên số 224.

Về ý kiến của ông cho rằng từ phủ định nõ lại viết bằng dấu hỏi thành “nỏ”, chúng tôi xin lưu ý rằng Dictionnaire annamite-français của J. F. M. Génibrel đã ghi nhận “nõ” như là một cách phát âm của Huế mà đây, theo chúng tôi, mới thực sự là cách ghi âm chính xác đại diện cho phương ngữ Bắc Trung bộ. Ông cũng đã cho rằng ít có khả năng nó hoặc nỏ biến thành nọ hoặc nõ được. Xin lưu ý rằng trong lịch sử ngữ âm của tiếng Việt, đã từng xảy ra sự chuyển hóa giữa thanh điệu 5 (dấu sắc) với thanh điệu 6 (dấu nặng): bết – bệt; bít -bịt; cắm cúi – cặm cụi; cắp – cặp; chắn – chặn; chếch – chệch; (hình) dáng – (bộ) dạng; v.v.. Cũng như thế giữa thanh điệu 3 (dấu ngã) với thanh điệu 4 (dấu hỏi): (lũn) chũn – (ngắn) chủn; dõng (tai) – dỏng (lưng); (lơ) đễnh – đểnh (đoảng); giãi (bày) – giải (nghĩa); (lùi) lũi – lủi (thủi); (vấp) ngã – ngả (lưng); v.v.. Vậy nếu xuất phát từ danh từ nõ có nghĩa là dương vật mà từ phủ định nõ lại chuyển hóa về thanh điệu để trở thành “nỏ” thì đó cũng là chuyện bình thường. Nhưng như đã nói, J. F. M. Génibrel đã dùng dấu ngã để ghi thanh điệu cho từ phủ định đó như là một từ của tiếng Huế.

§ 375. Kiến thức ngày nay, số 232, ngày 1-1-1997

ĐỘC GIẢ: Về các định nghĩa mà từ điển Oxford đã giảng các từ cardamom, carrot, cashew, cod, v.v., thì lời đánh giá của ông trên Kiến thức ngày nay, số 226, theo thiển ý, có lẽ hơi oan cho từ điển này. Tôi xin trích dẫn các từ điển tương đối có uy tín như Webster’s, BBC, Petit Larousse để so sánh.

Về từ cardamom, thì Webster’s giảng: 1. an Asiatic herb (Elettaria cardamomum) of the ginger family (Oxford bảo cardamom là cây ở Đông Ấn Độ, nhưng Webster’s lại còn nới rộng mà bảo là cây thảo châu Á!). BBC giảng: “Cardamom is a spice that comes from the seeds of a plant that grows in Asia (cũng lại là một cây của châu Á!). Còn Petit Larousse: “Plante d’ Asie dont les graines odorantes et de saveur poivrée sont souvent employées, au Proche-Orient, pour parfumer le café (cũng thế!).

AN CHI: Về các từ cardamom, coca, v.v., thì lời giảng của Webster’s, BBC và Larousse khác rất nhiều so với của Oxford chứ không phải là cũng không khác gì. Webster’s đã chú rõ tên khoa học (Elettaria cardamomum) của cây cardamom, tức là đã dán cho nó một cái nhãn giúp cho người ta phân biệt được nó với toàn bộ các loại cây khác còn lại, tuyệt đối không thể lẫn lộn được. Webster’s lại còn nêu thêm rằng đó là cây thuộc họ gừng, nghĩa là đã cụ thể hóa thêm định nghĩa bằng một thuộc tính quan trọng của khái niệm. BBC ít nhất cũng cho biết thêm đó là một thứ gia vị (spice) lấy từ hạt của một loại cây còn Larousse thì cũng cụ thể hơn. So với định nghĩa của Oxford thì định nghĩa của Larousse nhiều hơn ba điểm như sau đây: – hạt của cây đó có mùi thơm, – hạt của cây đó có vị của hạt tiêu, – và hạt của cây đó thường được dùng để ướp cà phê ở Cận Đông. Vậy không thể nào cho là “cũng như thế” được!

Lời giảng của Webster’s và Larousse về danh từ coca cũng cụ thể hơn của Oxford. Webster’s đã chú tên khoa học của cây coca (Erythroxylon, esp. E.coca), tức là cũng dán cho nó một cái nhãn để phân biệt nó với tất cả các loại cây khác. Chẳng những thế, lại còn nói rõ thêm rằng lá để khô của nó là nguồn cung cấp cocaine và các alkaloid khác. Lời giảng này rõ ràng là rõ ràng hơn lời giảng của Oxford (“cây bụi Nam Mỹ”) rất nhiều. Larousse cũng cụ thể hơn: cây mà lá có tác dụng kích thích và cung cấp chất cocaine.

Ông có nói rằng “người nước ngoài khi tra từ điển tiếng Việt để hiểu nghĩa các từ hổ, họa mi, gà mà không có hình minh họa thì cũng không thể nào hình dung được những con vật trên như thế nào”. Thực ra vấn đề hoàn toàn không phải ở chỗ có hình minh họa hay không mà là ở chỗ định nghĩa có chính xác và thích hợp hay không. Đối với các mục từ cardamom, coca, cashew, cod trong Oxford dù có hình minh họa rõ ràng và sắc sảo đến mấy thì bản thân những lời giảng đã thấy vẫn cứ là những lời giảng “có vấn đề”: nó chưa theo kịp sự phát triển của ngữ nghĩa học và từ điển học hiện nay. Xét về mặt này thì nhiều định nghĩa của Oxford rất lạc hậu. Lời nhận xét thẳng thắn này có thể làm cho người hâm mộ Oxford không hài lòng nhưng không thể nào nói khác được. Nếu Oxford cứ giữ mãi những định nghĩa kiểu ấy thì chắc chắn là uy tín của nó sẽ bị lung lay, mặc dù chẳng có ai lại đòi hỏi nó phải giảng các từ đang xét y hệt như những quyển từ điển chuyên ngành.

§ 376. Kiến thức ngày nay, số 235, ngày 1-2-1997

ĐỘC GIẢ: Dựa vào nguyên tắc nào mà phiên âm ra được tên của hai quốc gia Nam Tư (cũ) và Tiệp Khắc (cũ)?

AN CHI: Nam Tư là dạng tắt của Nam Tư Lạp Phu 南斯 拉夫, là bốn tiếng mà người Trung Quốc đã dùng để vừa dịch vừa phiên âm địa danh (bằng tiếng Anh) Yugoslavia mà chính họ cũng còn có một dạng phiên âm toàn diện là Cự Ca Tư Lạp Phu 巨 哥 斯拉夫. Cự Ca, âm Bắc Kinh là jùgē, là phiên âm từ hình vị yugo, một yếu tố gốc Slav có nghĩa là phương Nam còn Slav(ia) thì được phiên thành Tư Lạp Phu. Vậy Yugoslavia là Nam Tư Lạp Phu, gọi tắt thành Nam Tư, dùng để phân biệt (quốc gia của) người Slav ở phương Nam với người Slav ở phương Bắc, người Slav ở phương Đông trong địa bàn cư trú của người Slav ở châu Âu.

Tiệp Khắc là dạng tắt của Tiệp Khắc Tư Lạp Phu 捷克 斯拉夫, là năm tiếng mà người Trung Quốc đã dùng để phiên âm địa danh (cũng bằng tiếng Anh) Czechoslovakia mà họ cũng còn phiên thành Tiệp Khắc Tư Lạc Phạt Khắc 捷克斯洛伐克. Còn hiện nay thì Tiệp Khắc đã tách thành hai quốc gia độc lập đối với nhau: Czech và Slovakia (mà Nam Tư cũ cũng đã tách thành một số quốc gia riêng biệt).

§ 377. Kiến thức ngày nay, số 235, ngày 1-2-1997

ĐỘC GIẢ: Nhờ ông giải thích câu: “… Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu, Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh”. Các địa danh này ở đâu, nay thay đổi ra sao và tại sao lại xảy ra trên những địa danh ấy?

AN CHI: Ca dao dân ca Bình Trị Thiên do Trần Hoàng chủ biên (Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1988) đã chép nguyên văn đầy đủ như sau:

Ru em em théc cho muồi

Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu

Mua vôi chợ Quán chợ Cầu

Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh

Chợ Dinh bán áo con trai

Triều Sơn bán nón Mậu Tài bán kim.

(Sđd, tr. 25 – 26).

Ca dao xứ Huế bình giải, tập I, của Ưng Luận (Huế, 1991) cũng chép như trên (nhưng có phẩy sau câu sáu và chấm sau câu tám) và giảng rõ như sau:

“Em théc cho muồi là em ngủ cho say. Vôi ăn trầu là thứ vôi nấu bằng vỏ trai, ốc, hàu hến, rất trắng và rất mịn, dùng để ăn với cau trầu và để sơn tường cho trắng (khác với vôi đá là thứ vôi nấu bằng đá vôi, dùng để xây cất). Chợ Quán chưa rõ ở đâu (mặc dầu là có làng Lương Quán, nhưng lại không có chợ). Chợ Cầu ở làng Phù Lương, huyện Quảng Điền. Nam Phổ (hay Nam Phố) nằm trên con đường từ Huế đi Thuận An. Chợ Dinh lúc trước ở cuối đường Chi Lăng, phường Phú Hiệp. Chợ được gọi như thế vì lúc trước ở vùng này có nhiều dinh thự của các ông hoàng, bà chúa hay quan lớn (nên còn gọi là chợ Dinh Ông). Triều Sơn ở Hương Trà, Mậu Tài ở Phú Vang. Áo con trai là thứ áo may sẵn để bán cho các em trai (con gái thường mặc yếm, cũng được may sẵn) và kim nói đây là thứ kim lớn do thợ rèn làm ra (rất công phu) để chằm tơi, chằm nón, còn thứ kim may áo quần, tinh vi hơn, thì ta phải mua của Pháp (nên gọi là kim Tây)” (Sđd, tr. 29 – 30).

Ca dao dân ca Bình Trị Thiên do Trần Hoàng chủ biên thì chú thích có tính chất khẳng định rằng “Chợ Quán ở làng Lương Quán” chứ không dè dặt như Ca dao xứ Huế bình giải của Ưng Luận. Nhưng đặc biệt hơn nữa là bốn câu đầu trong sáu câu trên đây còn được xem là nói về Hà Nội nữa. Chẳng hạn, Hà Nội trong ca dao ngạn ngữ do Giang Quân sưu tầm và biên soạn (Nxb. Hà Nội, 1994, tr. 25 – 26) cũng có chép nhưng thay “théc” bằng “ngủ” “muồi” bằng “rồi” và “ăn” bằng “têm”. Ca dao ngạn ngữ Hà Nội do Triêu Dương, Phạm Hòa, Tảo Trang, Chu Hà sưu tầm và biên soạn (Hội văn nghệ Hà Nội, 1971) cũng chép như Giang Quân và chú thích như sau:

“Nam phố là tên cũ của phố hàng Bè hiện nay, trước kia có bán nhiều cau. Chợ Dinh có lẽ là chợ họp gần Phủ Doãn và Ngõ Huyện hiện nay. Chợ Quán chợ Cầu chưa rõ ở đâu. Có người cho rằng chợ Cầu tức chợ Cầu Đông. Câu này ở Bình Trị Thiên đọc là: Mua cau Nam phổ, mua trầu chợ Dinh (Nam phổ và chợ Dinh ở gần Huế)” (Sđd, tr. 118 – 119, chth. 2).

Sách này còn chú thích về chợ Cầu Đông như sau: “Cầu Đông chỉ chiếc cầu bắc qua dòng sông Tô ở khu vực ngã tư phố Ngõ Gạch và phố Hàng Đường hiện nay, ở phía đông thành Thăng Long cũ (Hiện nay còn chùa cầu Đông ở số nhà 38 phố Hàng Đường). Cầu Đông là một nơi trù phú vào bậc nhất Hà Nội thời ấy, chợ Cầu Đông còn nổi tiếng trong truyện “Bích câu kỳ ngộ”. Tú Uyên đã mua bức tranh tố nữ tại đây” (Sđd, tr. 37, chth. 3).

Vì không có điều kiện để khảo chứng cho đầy đủ nên chúng tôi không dám khẳng định những câu trên đây vốn là của Huế hay của Hà Nội. Nhưng cứ theo những lời trích dẫn từ các sách đã nói thì thấy cách giải thích có lẽ sẽ thuận lý hơn nếu quan niệm rằng đó vốn là những câu ca dao của xứ Huế. Dù điều này có đúng hay là sai thì chúng tôi vẫn thấy rằng trong văn bản của Huế, hai câu cuối cùng (câu 5, câu 6) có lẽ là được thêm vào sau vì chẳng những nó không “liền ý” với bốn câu trước mà tiếng thứ sáu của câu thứ 5 (trai) cũng không vần với tiếng thứ tám của câu thứ 4 (Dinh). Vậy đây có lẽ vốn là hai câu riêng biệt.

Sáu câu trên là những câu ca dao giới thiệu đặc sản của xứ Huế (hoặc Hà Nội) nên mỗi đặc sản mới liên quan đến một địa danh nhất định, đúng như Ưng Luận đã viết trong Ca dao xứ Huế bình giải.

§ 378. Kiến thức ngày nay, số 236, ngày 10-2-1997

ĐỘC GIẢ: “A xà lê” hay “a đô lê”? “A đô lê” (hay “a xà lê”) là gì?

AN CHI: A xà lê là âm Hán Việt của ba chữ Hán 阿闍梨 mà người Trung Hoa đã dùng để phiên âm danh từ ācārya của tiếng Sanskrit (Pali: ācāriya), có nghĩa là người thầy. Vì vậy mà từ điển tiếng Hán mới giảng a xà lê là giáo thụ (thầy giáo). Người Chăm đã phiên ācārya thành achar, cũng nói tắt thành char, còn người Xiêm (Thái Lan) và người Lào, thành achan. Vì chữ 闍 có hai âm là đô và xà nên có người mới nhầm lẫn mà đọc ba chữ Hán trên đây thành “a đô lê”.

Sự thật về ba chữ/tiếng a xà lê chỉ có như thế mà thôi nhưng chúng tôi có đọc được một cách giải thích độc đáo như sau, xin chép ra đây hiến ông và bạn đọc. Trong quyển Theo dòng lịch sử của Trần Quốc Vượng (Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1996), cuối trang 243 có một cước chú cho danh từ riêng Khâu Đà La nguyên văn như sau:

“hay tì khưu A Xà Lê = Tôn sư/ông Thầy Đen (Ấn Độ) (theo GS. Nguyễn Duy Hinh)”.

Ráp phần cước chú vào phần chính văn thì người đọc tất phải hiểu như sau: “Khâu Đà La hay tì khưu A Xà Lê (= Tôn sư/ông Thầy Đen)”.

Lời giải thích trên đây có ba điểm sai.

1. A xà lê chỉ là một danh từ chung có nghĩa là người thầy như đã nói ở trên chứ không phải danh từ riêng nên tất nhiên không thể nói “Khâu Đà La hay (tì khưu) A Xà Lê” được! Nguyễn Duy Hinh và Trần Quốc Vượng không ngờ rằng “a xà lê” chỉ là một danh từ chung nên đã cho rằng Khâu Đà La cũng là “A Xà Lê”! Như đã nói, a xà lê là một danh từ chung phiên âm từ danh từ ācārya của tiếng Sanskrit. Trong ngôn ngữ này, có căn tố CAR có nghĩa là cử động, chuyển động, đi, sống, v.v.. Căn tố này còn ghép với ā thành ā-CAR, có nghĩa là ứng xử, từ đó mới có danh từ phái sinh ācāra có nghĩa là hạnh kiểm, sự ứng xử, tập quán, nghi thức, v.v., và danh từ phái sinh ācārya có nghĩa là người thầy, đặc biệt là người phụ đạo về mặt tinh thần.

2. Tì khưu không hề có nghĩa là ông thầy, càng chẳng phải là tôn sư. Đó là âm Hán Việt của hai chữ Hán 毘丘 mà người Trung Hoa đã dùng để phiên âm danh từ bhikkhu của tiếng Pali và/hoặc danh từ bhiksu của tiếng Sanskrit. Vậy cái tưởng là đẳng thức “tì khưu (A Xà Lê) = tôn sư (ông Thầy Đen)” mà Trần Quốc Vượng đã dẫn của Nguyễn Duy Hinh thực tế chỉ là một bất đẳng thức.

3. A xà lê, như đã nói, chỉ có nghĩa là người thầy, chứ không phải “ông Thầy Đen”. Nguyễn Duy Hinh đã liên hệ âm lê với từ lê có nghĩa là đen nên mới giải thích như đã thấy vì ông không ngờ rằng a, xà, lê chỉ là ba tiếng vô nghĩa dùng để phiên âm lần lượt ba âm tiết ā, -cā, và -rya trong danh từ ācārya. Âm thượng cổ của chữ 梨, theo sự tái lập của Bernhard Karlgren, là liər (Grammata Serica Recensa, Stockholm, 1964, p. 141, ser. 519, h-i), dùng để phiên âm rya thì cũng là hợp lý trong điều kiện sẵn có của hệ thống ngữ âm tiếng Hán thời bấy giờ. Vậy không thể đem râu ông nọ cắm cằm bà kia mà “diễn nghĩa” lê thành “đen” được. Vả lại, nếu ở đây quả thật có một “ông thầy” Đen” – và nếu quả thật “a xà” có nghĩa là “ông thầy” – thì ông thầy đen đó phải là “lê a xà” chứ không phải “a xà lê” vì ai cũng biết rằng trong tiếng Hán thì định ngữ phải đứng trước bị định ngữ (lê dân = dân đen, lê minh = buổi sáng còn lờ mờ… đen; v.v.) chứ không đứng sau.

Nêu lên những nhận xét trên đây, chúng tôi chỉ có ý muốn nhấn mạnh rằng trong khoa học mà kết luận trên cơ sở của sự ước chừng hoặc theo dụng ý chủ quan thì luôn luôn nguy hiểm và có hại.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3