Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 1: Câu hỏi 281 - 315
§ 281. Kiến thức ngày nay, số 184, ngày 1 -9-1995
Hỏi: Giờ hoàng đạo là giờ nào? Hoàng đạo là đường gì? Hoàng đạo là tiếng Hán sẵn có hay chỉ là tiếng dùng để dịch danh từ phương Tây nào? Xin cho biết tên 12 đơn vị hoàng đạo bằng tiếng Châu Âu và cách dịch những tên đó sang tiếng Hán. Có phải đây là xuất xứ của 12 địa chi bên Trung Quốc hay không? Nếu không thì tương ứng với 12 đơn vị hoàng đạo là những gì của Trung Hoa? Có hay không?
Học giả An Chi giải đáp: Giờ hoàng đạo chỉ đơn giản có nghĩa là giờ tốt, giờ lành. Đó là giờ nào thì đương nhiên còn tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể của mỗi đương sự, mỗi hành động, v.v.. Còn hoàng đạo thực chất là một cách diễn đạt mơ hồ vì trong tình trạng sử dụng ngôn ngữ hiện nay, nó có thể ứng với tiếng Anh ecliptic (Pháp: écliptique), mà cũng có thể ứng với cả tiếng Anh zodiac (Pháp: zodiaque) mặc dù đây là hai khái niệm khác hẳn nhau. Một đằng, ecliptic là thuật ngữ thiên văn học và một đằng, zodiac còn là thuật ngữ chiêm tinh học nữa. Người Trung Hoa đã phân biệt mà dịch ecliptic là hoàng đạo còn zodiac là hoàng đạo đái hoặc động vật khuyên (vòng tròn động vật). Dictionnaire français-vietnamien của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam do Lê Khả Kế làm tổng biên tập (ACCT, 1981) đã dịch écliptique là “hoàng đạo” rồi cũng dịch zodiaque là “hoàng đạo”. Vậy không thể xem đây là cách dịch chính xác được. Để phân biệt hai khái niệm trên đây, trở xuống, xin gọi ecliptic là hoàng đạo còn zodiac là hoàng đạo đái hoặc hoàng đái. Nếu muốn cụ thể hóa thêm, xin đề nghị gọi ecliptic là đường hoàng đạo còn zodiac là vùng hoàng đái. Nếu muốn kiêng kỵ cho được kỹ lưỡng hơn nữa, xin gọi là vùng hoàng đới.
Hoàng đạo là một từ tổ sẵn có trong tiếng Hán thời xưa vì người ta đã thấy nó trong sách Hán thư. Khi người Trung Hoa tiếp xúc với văn minh và sách vở phương Tây thì người ta đã dùng hai tiếng đó để dịch danh từ tiếng Anh ecliptic và dùng hoàng đạo đái để dịch tiếng Anh zodiac như đã nói bên trên. (Đường) hoàng đạo là mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất chung quanh Mặt trời hoặc là vòng tròn lớn trong bầu trời theo đó Mặt Trời đã chuyển động theo biểu kiến. Còn (vùng) hoàng đái là vùng thiên cầu giới hạn bằng hai vĩ tuyến cách mặt phẳng hoàng đạo 8°30’ mỗi bên, trong đó có 12 chòm sao (Xem bên dưới) mà Mặt Trời đi qua trong một năm.
Zodiac của tiếng Anh là một từ mượn ở tiếng La Tinh zodiacus mà xuất xứ lại là tiếng Hy Lạp zôdiakos. Từ này lại bắt nguồn ở từ tổ zôdiakos kuklos mà nghĩa gốc là vòng tròn động vật. Sở dĩ (vùng) hoàng đái có tên gọi như thế là vì nó được chia thành 12 cung, gọi tên bằng 12 chòm sao mà những tên này phần lớn lại là tên động vật. Sau đây là tên của 12 cung bằng tiếng La Tinh, tính từ điểm xuân phân và theo chiều thuận: 1. Aries, 2. Taurus, 3. Gemini, 4. Cancer, 5. Leo, 6. Virgo, 7. Libra, 8. Scorpio, 9. Sagittarius, 10. Capricornus, 11. Aquarius, 12. Pisces. Tiếng Anh đã mượn những tên gọi trên đây bằng cách giữ nguyên tự để gọi 12 cung hoàng đới, trừ Capricornus thì bỏ -us mà gọi là Capricorn. Tiếng Pháp là: 1. Bélier, 2. Taureau, 3. Gémeaux, 4. Cancer, 5. Lion, 6. Vierge, 7. Balance, 8. Scorpion, 9. Sagittaire, 10. Capricorne, 11. Verseau, 12. Poissons. Người Trung Hoa đã dịch những danh từ trên đây lần lượt như sau: 1. Bạch dương 2. KIm ngưu, 3. Song tử (con sinh đôi), 4. Cự giải (cua lớn), 5. Sư tử, 6. Thất nữ (gái trinh), 7. Thiên xứng (cân trời), 8. Thiên hiết (bò cạp trời), 9. Nhân mã (ngựa người), 10. Ma kiết (cừu thiến), 11. Bửu bình (bình quý), 12. Song ngư (cá đôi).
Mặc dù nhiều dữ kiện khảo cổ học và cổ sử học đã góp phần khẳng định rằng văn minh Trung Hoa cổ xưa không phải là một nền văn minh khép kín nhưng riêng trong vấn đề mà ông hỏi thì chẳng có cơ sở nào để nói rằng thập nhị chi của Trung Hoa là do ảnh hưởng của mười hai cung thuộc vùng hoàng đái mà ra. Hơn nữa, 12 cung hoàng đái là những vùng mà Mặt Trời đi qua (biểu kiến) trong một năm còn 12 chi của Trung Hoa thì vốn lại là tên của mười hai giờ trong một ngày (nên ban đầu có tên là thập nhị thời thần – thời thần là giờ và bấy giờ mỗi giờ bằng 120 phút) rồi về sau mới dùng để gọi cả ngày, tháng và năm như hiện nay.
Thực ra, người Trung Hoa không có những hiện tượng hoàn toàn tương ứng với 12 cung hoàng đái. Tuy nhiên, họ có thập nhi tinh thứ (mười hai vị trí của các sao) mà họ đã quy về 12 địa chi và 12 cung hoàng đái như sau:
1. Giáng lâu – Tuất – Bạch dương;
2. Đại lương – Dậu – KIm ngưu;
3. Thực trầm – Thân – Song tử;
4. Thuần thủ – Mùi – Cự giải;
5. Thuần hỏa – Ngọ – Sư tử;
6. Thuần vĩ – Tỵ – Thất nữ;
7. Thọ tinh – Thìn – Thiên xứng;
8. Đại hỏa – Mẹo – Thiên hiết;
9. Tích mộc – Dần – Nhân mã,
10. Tinh kỷ – Sửu – Ma kiết,
11. Huyền hiêu – Tý – Bửu bình,
12. Tu tư – Hợi – Song ngư.
§ 282. Kiến thức ngày nay, số 184, ngày 1 -9-1995
Hỏi: “Sắm sanh lễ vật mọi đường”: đây có phải là một câu trong Truyện Kiều hay không?
Học giả An Chi giải đáp: Đây là một câu trong truyện Quan Âm Thị Kính, thuộc liên lục bát sau đây:
Sắm sanh lễ vật mọi đường,
Phú ông vâng phải tính phương chu tuyền.
Xin xem, chẳng hạn, bản do Thiều Chửu giải thích (bản này đã phiên chữ Quan thành Quán) và do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1994, trang 99.
Truyện Kiều cũng có một câu gần giống như thế. Đó là câu 1687:
Sắm sanh lễ vật rước sang
(có bản chép là “đưa sang”).
§ 283. Kiến thức ngày nay, số 185, ngày 10-9-1995
Hỏi: Bát tiên là những ai? Xin cho biết sự tích từng vị. Đâu là lý do của việc “bát tiên quá hải” và đâu là vật cỡi của mỗi vị? Trong những bức tranh thường thấy, đâu là dấu hiệu để có thể dễ nhận ra từng vị?
Học giả An Chi giải đáp: Bát tiên là: Hà Tiên Cô, Tào Quốc Cửu, Lam Thái Hòa, Trương Quả Lão, Hán Chung Ly, Lý Thiết Quải, Lữ Động Tân và Hàn Tương Tử.
Hà Tiên Cô vốn là một người con gái đất Linh Lăng đời Đường, tên là Quỳnh, sống tại khe suối Vân Mẫu. Năm 14 – 15 tuổi nằm mơ thấy người thần dạy cho ăn bột vân mẫu, lại gặp dị nhân cho trái đào mà ăn nên không bao giờ biết đói. Thường lui tới nơi đỉnh núi, dáng đi như bay; có thể biết trước việc người. Đến niên hiệu Cảnh Long (707 -710) đời Đường Trung Tông thì đi mất, người đời truyền tụng nàng là một trong tám vị tiên. Trên đây là thuật theo sách Linh Lăng huyện chí. Còn An Khánh phủ chí thì chép rằng Hà Tiên Cô là do một con hươu sinh ra, ở nhờ tại nhà một đạo nhân họ Hà nên mới lấy Hà làm họ. Sách Đạo phả nguyên lưu đồ thì lại chép rằng Hà Tiên Cô vốn là một chàng trai, họ Từ, tên là Thánh Thần (bề tôi của bậc thánh), thường xuất thần mà đi nơi khác nên người nhà bèn liệm xác. Lúc trở về, nhân nhà họ Hà có người con gái vừa mới chết, bèn nhập vào, sau đắc đạo lên tiên, được nhà Nguyên phong là nguyên quân (nguyên quân là tiếng dùng để chỉ người phái nữ tu đắc đạo lên tiên, tương đương với chân nhân dùng để gọi bên nam giới).
Tào Quốc Cữu là em của Tào thái hậu nhà Tống – vì thế mới gọi là quốc cữu – đã tầm sư học đạo ở miền núi non hiểm trở. Gặp Chung Ly Quyền, Lữ Động Tân cho nhập bọn. Đây là điều được chép trong sách Tục văn hiến thông khảo. Sách Từ Châu chí thì chép rằng Tào Quốc Cữu nhà Tống thoát xác tại Ngọc Khư Quán (quán là nơi tu luyện của đạo sĩ) – nay còn có tên là Đằng Vân Tự (chùa Đằng Vân) – vào năm Thiệu Hưng thứ 4 đời Tống Cao Tông. Nhưng sách Cai dư tùng khảo thì lại nói như sau: “Khảo xét theo sách Tống sử thì em trai của thái hậu Từ Thánh Quang Hiến là Tào Hất chết năm 72 tuổi; chưa từng có chuyện thành tiên bao giờ”.
Lam (thường đọc trại thành Lâm) Thái Hòa là một ẩn sĩ đời nhà Đường, thường ăn mặc rách rưới, mùa hạ thì chằm thêm xơ bông, mùa đông thì lại ngồi trên đống tuyết. Thường hát bài Đạp đạp ca ngoài chợ thành Tràng An, lời ca thường phảng phất phong vị thần tiên. Sau uống rượu say ở Hào Lương rồi cỡi hạc bay đi, người đời truyền tụng là một trong bát tiên.
Trương Quả Lão là một phương sĩ đời Đường, ẩn cư tại núi Trung Điều, thường tự cho là sanh ở thời vua Nghiêu. Vào niên hiệu Khai Nguyên (713 – 741) đời Đường Huyền Tông được vua sai rước về kinh đô, được ban Ngân thanh quang lục đại phu, lấy hiệu là Thông Huyền tiên sinh. Huyền Tông cho xây Tê Hà Quán, tức là chỗ ở để tu trên núi Tê Hà. Người đời truyền tụng là một trong bát tiên.
Hán Chung Ly tức Chung Ly Quyền. Sách Tục thông khảo chép rằng Chung Ly Quyền là người Hàm Dương, hiệu là Hòa Cốc Tử, lại có hiệu là Chính Dương Tử và Vân Phòng. Râu đẹp, mắt sắc, thân cao tám thước. Trải qua quan chức dưới ba triều Hán, Ngụy, Tấn. Tu luyện tại động Chính Dương rồi thành tiên, nay còn hiệu là Chính Dương Đế Quân. Sách Tập tiên truyện chép Chung Ly Quyền, tự Vân Phòng, cuối đời Đường thì vào tu ở núi Chung Nam. Sách Đính ngoa tạp lục lại chép: “Thời nhà Đường, có người tiên là Chung Ly Vân Phòng, tên Quyền, là người đồng thời với Lữ Nham (tức Lữ Động Tân), thường tự xưng là “Thiên hạ đô tán hán Chung Ly Quyền”. Người thời nay gọi ông là Hán Chung Ly vì đã ghép tiếng “hán” bên trên với hai tiếng “Chung Ly” bên dưới. Nhưng Hán Chung Ly lại là địa danh chứ không phải nhân danh. Bằng chứng là thơ Đỗ Phủ có câu: “Cận văn Vi thị muội, Nghênh tại Hán Chung Ly” (Gần đây nghe tin cô em nhà họ Vi gả chồng về đất Hán Chung Ly). Vậy Hán Chung Ly là địa danh chứ không phải là tên của một người trong nhóm bát tiên. Chung Ly Quyền mới đúng là tên của vị này. Ở đây vẫn gọi Hán Chung Ly chẳng qua là theo truyền thống.
Lý Thiết Quải (thường gọi trại là Lý Thiết Quài), đúng ra là Thiết Quải Lý (người họ Lý có cây gậy sắt). Sách Trà hương thất tùng sao viết: “Trong tám vị tiên thì lai lịch Lý Thiết Quải không có cách nào tra cứu được. Sách Kiên hồ tập dẫn sách Tiên tung nói rằng Thiết Quải họ Lý, hình chất khôi ngô, còn nhỏ đã biết nghe theo đạo, tu tiên nơi hang núi vắng. Một hôm đi gặp Lý Lão Quân (Lão Tử) theo hẹn tại núi Hoa Sơn, mới dặn học trò: “Xác của ta ở tại đây, nếu ta đi ngao du bảy ngày mà chưa về thì mới được hóa xác ta”. Người học trò này vì mẹ bệnh nặng phải về nhà gấp nên mới đến ngày thứ sáu đã hóa xác của Thiết Quải. Đúng ngày thứ bảy Thiết Quải trở về thì chẳng còn xác để phụ vào nên phải nhập vào xác của một kẻ chết đói mà đứng dậy. Do đó hình dạng mới xấu xí và chân thì bị thọt”. Nhiều người cho rằng sự tích Lý Thiết Quải là do sự tích của Lý Bát Bách (Lý Tám Trăm) mà ra. Sự tích của Lý Bát Bách được sách Thần tiên truyện chép như sau: “Lý Bát Bách là người đất Thục, không ai biết tên gì, người thời bấy giờ cứ tính theo tuổi là tám trăm năm mà gọi như thế và lấy đó làm hiệu. Về lai lịch của Lý Bát Bách cũng có nhiều thuyết khác nhau. Sách Bảo Phác Tử nói rằng thời Ngô Đại Đế có người tên là Lý A, sống trong hang, không ăn uống, người ta gọi là Bát Bách Tuế Công (ông tám trăm tuổi). Sách Tấn thư chép rằng đạo sĩ Lý Thoát lấy yêu thuật mê hoặc người ta, tự nói rằng mình tám trăm tuổi, do đó lấy hiệu là Lý Bát Bách. Sách Tống sử thì chép rằng đời Đường có vị tiên là Lý Lương, hiệu là Lý Bát Bách. Sách Tứ Xuyên tổng chí chép rằng Lý Bát Bách là người đất Thục, đã sống trải các đời Hạ, Thương, Chu, tuổi đã tám trăm. Cũng nói rằng hễ nhích một cái là đi tám trăm dặm, do đó mà có hiệu là Lý Bát Bách. Thời Chu Mục Vương, hiệu là Tử Dương Chân Quân, lại phong Diệu Ứng Chân Nhân. Sách Thiết vi sơn tùng đàm nói rằng xác của Lý Bát Bách tan rã, lại nhập vào xác khác mà sống lại. Sách Trà hương thất tùng sao cho rằng chuyện người đời truyền tụng về Lý Thiết Quải e rằng chính là do chuyện Lý Bát Bách phụ hội thêm mà thành.
Lữ (Lã) Động Tân (chữ Động cũng đọc thành Đồng) là người đất Kinh Triệu đời nhà Đường, tên là Nham (Động Tân là tự), hiệu là Thuần Dương Tử. Đời Đường Vũ Tông, hai lần thi tiến sĩ không đỗ mà tuổi đã sáu mươi tư. Trong khi giang hồ lãng du, gặp Chung Ly Quyền, học được thuật kéo dài tuổi thọ. Ban đầu ở núi Chung Nam, sau được Chung Ly Quyền đưa đến núi Hạc Lĩnh mà truyền nốt cho bí quyết trên. Động Tân đắc đạo rồi bèn đi qua các miền Giang, Hoài, Tương, Đàm, Nhạc, Ngạc và Lưỡng Chiết, người khác không thể biết, tự xưng là Hồi Đạo Nhân. Người đời còn gọi là Lữ Tổ, nhà Nguyên phong là Thuần Dương Diễn Chính Cảnh Hóa Tôn Hựu Đế Quân.
Hàn Tương Tử chính tên là Hàn Tương. Tục truyền đã tu tiên đắc đạo và là cháu của nhà thơ Hàn Dũ. Hàn tiên truyện chép rằng ông của Tương tên là Trọng Khanh, cha tên là Hội. Học đạo từ thuở nhỏ rồi được Lữ Động Tân độ cho lên tiên. Tương lại muốn độ cho chú là Dũ. Nhân lúc Dũ được phong chức Hình bộ thị lang, mở tiệc mừng với bè bạn, đồng liêu, Tương cũng đến dự, khuyên Dũ bỏ quan học đạo, trao cho Dũ một bài thơ trong đó có hai câu: “Giải tạo thuân tuần tửu, Năng khai khoảnh khắc hoa” (Ta biết làm ra rượu “rót mãi còn hoài” và có thể làm nở hoa “phút chốc”). Dũ chỉ trích, cho là dị đoan, không thèm theo. Tương bèn lấy hồ lô đường kính một tấc ra rót rượu cho khắp lượt khách dự tiệc, lại lấy chậu đựng lửa mà trồng sen, trong phút chốc đã trổ hoa. Trên hoa lại có đôi câu đối: “Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại? Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền” (Mây giăng Tần Lĩnh, nhà đâu tá? Tuyết lấp Lam Quan ngựa khó lên). Dũ không hiểu ra, Tương bèn chia tay mà đi. Sau Hàn Dũ vì can gián việc rước xá lợi của Phật nên bị biếm đổi đi Triều Châu. Bèn từ biệt gia đình đi nhậm chức mới. Đi qua Lam Quan (ải Lam), gặp tuyết rơi dày, ngựa đuối sức giữa đường thì Hàn Tương chợt đến. Dũ bấy giờ mới hiểu ra hàm ý đôi câu đối ngày trước, bèn thốt rằng “Thầy nói linh nghiệm thay”. Nhưng lòng vẫn hướng về vua nên không nỡ theo Tương tìm tiên học đạo.
Trở lên là sự tích của bát tiên dựa theo Từ hải. Sở dĩ các vị tiên trên đây họp thành nhóm bát tiên chẳng qua là do hư cấu của người đời sau trong Nguyên kịch. Các sách chép rằng kịch thời nhà Nguyên có vở Bát tiên quá hải. Vở này có lẽ đã làm cơ sở cho một phần truyện Đông du ký đời nhà Minh, trong đó có kể chuyện tám vị tiên vượt biển Đông Hải đi dự hội vườn đào của Tây Vương Mẫu. Bấy giờ không có thuyền, Lã Động Tân liền đề nghị mỗi người cứ cưỡi báu vật của mình mà vượt qua biển; mọi người đồng ý. Thế là Lã Động Tân thả chiếc khèn xuống biển, Thiết Quải Lý thả cái gậy xuống, Hàn Tương Tử thả cái giỏ hoa xuống, Lam Thái Hòa thả tấm gỗ bách xuống, Hán Chung Ly thả chiếc trống, Trương Quả Lão bèn cưỡi con lừa giấy, Tào Quốc Cữu thả xuống tấm giấy ngọc bản, Hà Tiên Cô thả cái lờ tre xuống biển. Các vị thần tiên đứng lên trên các bảo vật vượt qua Đông Hải bình an*.
Sau đây là dấu hiệu để dễ nhận ra từng người trong nhóm bát tiên. Lý Thiết Quải tay cầm gậy sắt, lưng đeo hồ lô. Trương Quả Lão râu tóc bạc phơ, lưng đeo tích trượng. Hán Chung Ly phạch ngực, bụng phệ, tay phe phẩy quạt lông. Lữ Động Tân có dáng thư sinh, lưng đeo cặp kiếm âm dương, Hà Tiên Cô thân mình ẻo lả, một tay xách giỏ hoa quả, một tay cầm hoa sen. Tào Quốc Cữu mặc triều phục, đội mão cánh chuồn, tay cầm chiếc hốt. Hàn Tương Tử đẹp trai, miệng thổi chiếc sáo trúc. Còn Lam Thái Hòa là thiếu niên còn để trái đào, tay cầm chiếc phách đang gõ nhịp nhảy múa*.
§ 284. Kiến thức ngày nay, số 185, ngày 10-9-1995
Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 125, Chuyện Đông chuyện Tây có cho biết là Columbus là người phát hiện ra châu Mỹ. Vậy năm 1507 một người Ý mang tên Amerigo Vespucci sang Mỹ phóng họa đồ giải đất mới, mệnh danh là America thì giữa Columbus và Vespucci, ai là người chính thức tìm ra châu Mỹ?
Học giả An Chi giải đáp: Christopher Columbus đã đổ bộ lên đảo Guanahani (ở ngoài khơi về phía Đông Nam của Florida) ngày 12-10-1492. Vì vậy mà năm 1992 vừa qua người ta đã làm lễ kỷ niệm 500 năm ngày tìm ra châu Mỹ. Oái oăm là tên của Vespucci đã được dùng để đặt cho cả một châu là America còn họ của Christopher thì chỉ được dùng để đặt cho một nước là Colombia mà thôi.
§ 285. Kiến thức ngày nay, số 186, ngày 20-9-1995
Hỏi:
Tào khang chi thê là đạo trọng;
Nghĩa kIm bằng, bần tiện mạc vong.
Xin cho biết xuất xứ và nguyên văn của hai câu trên. Có phải chữ “tào” cũng đọc thành “tao”? Người xưa cũng có câu so sánh quan hệ anh em với quan hệ vợ chồng. Xin cho biết nguyên văn cùng ý nghĩa của câu đó và xin kể vài tích xưa về tình anh em.
Học giả An Chi giải đáp: Hai câu trên nguyên là lời nói của Tống Hoằng, người đất Tràng An thời Đông Hán, làm quan đến chức đại tư không. Vua Quang Vũ nhà Đông Hán gả chị là công chúa Hồ Dương mới góa chồng cho ông mà ông thì đã có vợ. Để dọ ý của Tống Hoằng, Quang Vũ triệu ông vào bệ kiến rồi hỏi khéo: “Có câu giàu đổi bạn sang đổi vợ, khanh thấy có đúng không?”. Hoằng đáp: “Thần văn tao khang chi thê bất hạ đường, bần tiện chi giao mạc khả vong” nghĩa là “thần nghe nói vợ cưới từ buổi túng khó thì không bỏ, bạn lúc còn nghèo hèn thì không thể quên” (Tao là bã rượu, khang là cám gạo; tao khang chi thê là “người vợ đã cùng mình ăn bã rượu và cám gạo”, nghĩa là đã từng chia sẻ với mình cuộc sống kham khổ. Chữ tao 糟 cũng đọc là tào; vậy cả hai âm đều đúng).
Còn câu mà ông hỏi về tình vợ chồng và nghĩa anh em có lẽ là “Huynh đệ như thủ túc; phu phụ như y phục” (Anh em như tay chân; vợ chồng như quần áo), ý nói một đằng là quan hệ huyết thống còn một đằng là quan hệ do hôn nhân đưa đến. Đã là quan hệ huyết thống thì có muốn lựa chọn cũng không được còn đã là quan hệ hôn nhân thì dù vợ hoặc chồng có là người như thế nào cũng chỉ là do lựa chọn mà nên. Vậy vợ chồng thì còn có thể thay đổi chứ anh em thì không. Dù anh em có từ nhau thì trong thực tế họ cũng vẫn là ruột rà với nhau. Tất nhiên dụng ý của cổ nhân không phải là nói như thế để khuyên người ta bỏ vợ bỏ chồng; chẳng qua là do muốn nêu bật bản chất của từng mối quan hệ mà thôi. Hơn nữa đối với thiết chế của xã hội phong kiến Trung Hoa – mà người Việt Nam cũng đã chịu ảnh hưởng khá đậm nét – thì vấn đề huyết thống lại càng là một vấn đề tế nhị mà trọng đại. Và người ta đã có nhiều sự tích rất cảm động về tình huynh đệ. Chẳng hạn như chuyện “Huynh sấu đệ phì” (Anh ốm em mập). Người ta kể rằng Nghê Manh, tự là Tử Minh, là người đất Lâm Tri nước Tề vốn chăm chỉ nghề nông. Gặp năm đói kém, người ta ăn thịt lẫn nhau. Manh cùng với anh đi ra khỏi thành mót rau để ăn thì cả hai anh em đều bị giặc Xích Mi bắt được. Chúng muốn giết cả hai anh em để ăn thịt. Manh bèn đến trước mặt giặc cúi đầu mà nói: “Anh tôi tuổi cao ốm yếu, không khỏe mập như Manh này, vậy xin hãy ăn thịt Manh mà tha cho anh”. Giặc cảm kích trước tấm lòng hiếu đễ của Manh, bèn tha cho cả hai anh em.
§ 286. Kiến thức ngày nay, số 186, ngày 20-9-1995
Hỏi: Tại sao lại gọi miền Nam Bộ Việt Nam là Cochinchine?
Học giả An Chi giải đáp: Thật ra, địa danh Cochinchine ban đầu được dùng để chỉ đất Bắc nghĩa là Đàng Ngoài, sau mới chỉ Đàng Trong và cuối cùng mới chỉ Nam Bộ Việt Nam. Theo khảo chứng của Nguyễn Bạt Tụy, thì tiền thân xa xưa nhất của địa danh đó trong các ngôn ngữ châu Âu ghi bằng chữ cái La Tinh là Caugigu, dạng phiên âm của ba tiếng Giao Chỉ Quốc, trong quyển du ký của Marco Polo (1254 – 1324). Kế đến là hình thức ghi âm Kafchekuo trong quyển Lịch sử Mông Cổ của một người Iran tên là Rasid-ad-din (Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm cũng có nhắc đến chi tiết này trong sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII (Hà Nội, 1972, tr. 5 – 6). Còn L. Aurousseau, cũng theo Nguyễn Bạt Tụy, thì đã sưu tầm được những hình thức kế tiếp sau đây: – ChinacochIm trong bức địa đồ của người Ý Alberto Contino năm 1502; – ChanacochIm trong bức địa đồ của một người Ý khác nữa là Nicolo de Canerio năm 1503; – Quachymchina trong một bức thư của Jorge de Albuquerque gởi cho vua Bồ Đào Nha năm 1515. Rồi L. Fournereau, cũng theo Nguyễn Bạt Tụy, lại cho biết thêm như sau: – Cauchinchina trong bức địa đồ của anh em Van Lagran năm 1595; – Cochinchina trong địa đồ của J. Hondius in năm 1613; – Couchinchina trong bản đồ của Peter Goos năm 1666 đã dùng để chỉ đất Trung còn đất Bắc là Gan-nan; Cochinchine trong địa đồ của cố Placide khoảng 1688 để chỉ đất Trung còn đất Bắc là Tonquin, đặc biệt là Golfe de Cochinchine để chỉ vịnh Bắc Bộ mà sau này là Golfe du Tonkin*.
Cũng về danh xưng Cochinchine, A. de Rhodes đã viết như sau: “Và để nói thêm đôi điều ở đây về danh xưng dành cho Vương quốc Cocinchine (Đàng Trong – AC), ngày nay tách khỏi Vương quốc Tunquin (Đàng Ngoài – AC), cần biết rằng tên gọi của Thủ đô của toàn bộ Vương quốc Annan (An Nam – AC) là Che ce (nhiều nhà nghiên cứu đã nhất trí rằng đây là hình thức phiên âm của hai tiếng Kẻ Chợ – AC). Rồi các thương nhân người Nhật buôn bán trong kinh thành này đã làm sai lạc mà gọi nó là Coci. Thế là, để phân biệt xứ Coci này với xứ Cocin bên Đông Ấn, không xa thành phố Goa bao nhiêu, người Bồ Đào Nha trong giao dịch với người Nhật, đã đặt ra danh xưng Cocinchine, ý muốn nói rằng đó là xứ Cocin gần Trung Hoa. Và danh xưng này không phải mới mẻ gì: xứ này đã được gọi như thế từ một thế kỷ qua, như chúng ta đã biết được nhờ những bức thư của Thánh François Xavier, trong đó ngài đã tả một trận bão dữ dội mà ngài đã gặp phải tại bờ biển xứ này trong chuyến đi Nhật Bản của ngài. Ngay cả cái xứ mà ngày nay chúng ta gọi là Vương quốc Tunquin, ở thời ấy, cũng đã được gọi gộp vào trong danh xưng đó mà không có phân biệt. Vậy không nên lấy làm lạ rằng trong nhiều bản đồ địa lý, thậm chí những bức mới nhất, Vương quốc Tunquin lại được gọi gộp vào danh xưng và vào phạm vi của Vương quốc Cocinchine hoặc rằng hai vương quốc đó đều tách ra từ xứ Cauchinchine”.*
Trở lên là trích dẫn để ghi nhận những hình thức tiền thân của địa danh Cochinchine, trong đó -china/-chine rõ ràng là dùng để chỉ nước Trung Hoa. Vậy còn lại các biến thể CochIm-, Quachym-, Cauchin-, Couchin-, Cocin-, v.v. thì vốn là địa danh chỉ xứ nào? Như đã thấy, A. de Rhodes cho rằng đó là kinh đô của cả nước Việt Nam thời bấy giờ, gọi là Kẻ Chợ (Che ce) mà người Nhật đã phát âm sai thành Coci, ghi theo cách của người Bồ Đào Nha. Thực ra, ở đây, vị giáo sĩ danh tiếng người Pháp này đã nhầm đến ba điểm: – Coci không phải là cách phát âm sai của Kẻ Chợ; – đó là cách phiên âm rất sát của hai tiếng Giao Chỉ, biết rằng chữ giao xưa vốn đọc là cao; – đó cũng không phải là cách phiên âm của người Bồ mà của người Ý: nếu là của người Bồ thì nó phải là Cochi (với h sau c và trước i). Tóm lại, yếu tố thứ nhất trong địa danh Cochinchine chính là hình thức phiên âm của hai tiếng Giao Chỉ đọc theo âm xưa, tương ứng với hai âm Caugi(gu) của Marco Polo mà Nguyễn Bạt Tụy đã nêu ra.
Nhưng tại sao Cochi, Coci lại biến thành Cochin, CochIm (-m cuối là cách viết của người Bồ Đào Nha), Cocin, nghĩa là lại có thêm n (hoặc m) vào cuối? Đó là vì người ta đã nhầm tên của xứ Cochi (Coci) ở phía Nam Trung Hoa – mà người ta chỉ biết loáng thoáng qua quyển du ký của Marco Polo, hoặc qua những lời miêu tả của các nhà du hành và những điều ghi nhận của những nhà họa đồ người Á Rập và người Ba Tư – với tên của xứ Cocin ở Ấn Độ – là nơi mà người ta đã thực sự đặt chân đến từ sau năm 1497, năm mà Vasco de Gama phát hiện ra con đường biển từ châu Âu sang Ấn Độ vòng qua Hảo Vọng Giác ở cực Nam châu Phi (bấy giờ chưa có kinh Suez). Cochin ở Ấn Độ là nơi mà người Bồ Đào Nha đã có thương điếm từ năm 1502 còn Cochi ở phía Nam Trung Hoa thì người phương Tây chỉ chính thức và liên tục lui tới từ đầu thế kỷ XVII, nghĩa là sau đó trên dưới đến 100 năm. Vì sự nhầm lẫn trên đây mà danh xưng Cochi đã bị đồng hóa với danh xưng Cochin.
Thế là Cochin trở thành một địa danh dùng để chỉ hai xứ khác nhau và đây là một điều bất tiện. Để khắc phục sự bất tiện này, nghĩa là để phân biệt với xứ Cochin bên Ấn Độ, người ta mới thêm china (chine) vào Cochin mà gọi xứ Cochin gần Trung Hoa là Cochinchina (Cochinchine) cùng với các biến thể đã biết. Danh xưng này ban đầu dùng để chỉ toàn bộ lãnh thổ của quốc gia Đại Việt đầu thế kỷ XVI như nhiều bản đồ đã chứng minh (xin xem lại phần trên). Về sau khi nước Đại Việt bị chia thành Đàng Ngoài và Đàng Trong, thì địa danh Cochinchine lại được dùng để chỉ Đàng Trong (còn ĐàngNgoài là Annan hoặc Tunquin). Cuối cùng, người Pháp đã tận dụng những danh từ sẵn có mà lấy Tonkin (Tunquin) để chỉ Bắc Kỳ, Annam (Annan) để chỉ Trung Kỳ và Cochinchine để chỉ Nam Kỳ. Vậy xét về lịch sử của nó thì Cochinchine là một địa danh đã từng được dùng để chỉ miền Bắc, miền Trung rồi cuối cùng mới được dùng để chỉ miền Nam (Nam Bộ) chứ không phải vốn chỉ được dùng để gọi Nam Bộ ngay từ đầu như người ta vẫn thường nghĩ.
§ 287. Kiến thức ngày nay, số 187, ngày 30-9-1995
Hỏi: Tôi lấy làm lạ khi thấy: trong mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 178, ra ngày 30-6-1995, quý ông, sau khi “cố biện bạch thêm để cho được thận trọng đến cùng với thi hào Nguyễn Du”, đã đồng ý rằng câu Kiều “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” là “một ước lệ… khập khiễng” và Nguyễn Du “dù có là ông thánh… đôi lúc cũng có chỗ nhược”.
Tôi cứ băn khoăn tự hỏi, tại sao tài hoa như Nguyễn Du mà lại không đủ sức tránh một nhược điểm tầm thường như vậy? Thay con số 5, con số 10 thì có gì là khó? Phải chăng có một lý do nào khác?
Theo tôi, con số 5, con số 10, ngoài những ý nghĩa biểu trưng cho các dẫn chứng mà ông nêu ra, còn một ý nghĩa biểu trưng khác nữa. Người Hán cổ đã dùng con số 5 (có thể từ số ngón trên bàn tay) để “thâu tóm” thiên nhiên, xã hội: đất trời thì có ngũ hành, ngũ phương, ngũ kIm, ngũ âm, ngũ sắc; con người thì có ngũ quan, ngũ tạng; ăn uống thì có ngũ cốc, ngũ vị; hưởng dương thì có ngũ phúc, ngũ tước; sống ở đời thì phải theo ngũ luân, ngũ thường; thờ phượng Phật Trời thì phải lo đủ năm thứ đồ lễ và thực hành ngũ giới v.v.. Con số 10 cũng được dùng để chỉ cái toàn thể, để chỉ toàn bộ ngoại diên của khái niệm theo cách nói logic học.
Người ta vái 10 phương để cúng thập loại chúng sinh. Người ta nói mười phân vẹn mười để chỉ sự trọn vẹn, tuyệt mĩ.
Lâu dần, con số 5 và 10 trở thành biểu trưng của cái toàn vẹn, của sự hoàn hảo, sự tuyệt vời, hoàn mĩ.
Với con người ta, người xưa đo chiều rộng của vai bằng tấc, đo chiều cao của thân bằng thước. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao, ấy là vóc dáng trời cho, vóc dáng thần thánh, vóc dáng tuyệt vời lí tưởng.
Ông viết: “Đã hiểu là ước lệ mà cứ bắt từ số năm phải diễn đạt một số lượng cụ thể và chính xác thì… có khắt khe…”. Tôi xin nối lời ông mà thêm: thì vẫn chưa thật thông cảm với cách ước lệ của tiền nhân. Tương tự, không thể nghĩ rằng Trần Bình Trọng cao 7 thước khi đọc: “Trần Bình Trọng anh hùng ngàn thu trước, Đem tấm thân bảy thước chống sơn hà”.
Tóm lại, Nguyễn Du đã tả Từ Hải theo bút pháp ước lệ nhất quán tuyệt mĩ:
Râu hùm, hàm én, mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đó là hình hài, sắc diện tuyệt vời, hoàn hảo của “đường đường một đấng anh hào” khiến Kiều chỉ “liếc” qua là “ưa” liền” (Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa), chứ không phải là “lưng dài vai rộng”, càng không phải là “dị dạng”, “vai so, vai rút”, “ốm nhom, ốm nhách như người bị bệnh phổi” như đã có người nghĩ và viết ra.
Học giả An Chi giải đáp: Về cách hiểu của ông, chúng tôi xin mạo muội có những nhận xét như sau:
1. Thực ra, người Trung Hoa thời xưa không chỉ “thâu tóm” thiên nhiên và xã hội bằng con số 5 như ông đã viết mà còn “thâu tóm” chúng bằng những con số khác nữa. Ông đã dẫn rằng “đất trời thì có ngũ hành, ngũ phương, ngũ âm, ngũ sắc”. Nhưng trước khi có ngũ hành thì đã có lưỡng nghi (trời, đất), và lưỡng nghi sinh tứ tượng (kIm, mộc, thủy, hỏa) rồi tứ tượng mới sinh ra bát quái (càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài). Còn ngũ phương thực ra cũng chỉ là tứ cực, tứ duy hoặc tứ chí (Đông, Tây, Nam, Bắc) cộng thêm điểm trung ương mà thôi. Ngoài ra, người ta cũng còn có lục phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới), bát phương, thậm chí cửu phương nữa – vì vậy mới có lối nói chín phương Trời, mười phương Phật. Ngoài ngũ âm ra thì lại còn có lục lữ và lục luật – vì vậy mới có thành ngữ ngũ âm lục luật. Ngoài ngũ sắc ra thì lại còn có lục thái (màu sắc của trời, đất và của bốn hướng) và người ta còn có thành ngữ ngũ nhan lục sắc. Ông đã dẫn rằng “con người thì có ngũ quan, ngũ tạng”. Nhưng ngoài ngũ tạng ra thì lại còn có lục phủ – vì vậy mới có thành ngữ lục phủ ngũ tạng. Ngoài ra, còn có nào là tam tiêu (phần trên của dạ dày, phần giữa của nó và miệng bàng quang), tam nguyên (tinh, khí, thần), tam hồn, tứ chi, thất khiếu (bảy lỗ trên mặt), thất phách (bảy vía), v.v.. Ông đã dẫn rằng “ăn uống thì có ngũ cốc, ngũ vị”. Nhưng ngoài ngũ cốc ra thì còn có lục trần (mễ, đại mạch, tiểu mạch, đại đậu, tiểu đậu, chi ma); ngoài ngũ vị ra thì lại còn có bát trân (gan rồng, tủy phượng, bào thai beo, đuôi cá chép, chả chIm hào, môi đười ươi, bàn chân gấu, nhượng giò heo sữa) và thiết thực hơn hết là thất kiện sự (củi, gạo, dầu, muối, tương, giấm và trà). Ông đã dẫn rằng “hưởng dương thì có ngũ phúc, ngũ tước”. Thực ra không phải hễ cứ hưởng dương thì ai ai cũng được hạnh phúc hoặc luôn luôn hạnh phúc, vì vậy mà ngoài ngũ phúc thì lại còn có lục cực (Xuất xứ của cả hai khái niệm này là thiên “Hồng phạm” của Kinh Thư – Xem Kiến thức ngày nay, số Xuân Quý Dậu, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 130). Nói về chốn quan trường thì ngoài ngũ tước ra lại còn có cửu phẩm. Ông đã dẫn rằng “sống ở đời thì phải theo ngũ luân, ngũ thường”. Nhưng ngoài ngũ thường ra thì lại còn có tam cương, vì vậy mới có thành ngữ tam cương ngũ thường. Rồi nào là tam tòng, tam hạnh (hiếu, hữu, thuận), tứ đức (hiếu đễ, trung, tín với nam – công, dung, ngôn, hạnh với nữ), tứ đoan (nhân, nghĩa, lễ, trí), v.v.. Ông đã dẫn rằng “thờ phượng Phật Trời thì phải (…) thực hành ngũ giới”. Nhưng song song với ngũ giới thì lại còn có tam quy – vì vậy mới có thành ngữ tam quy ngũ giới.
Rõ ràng là người Trung Hoa xưa không chỉ “thâu tóm” vũ trụ và nhân sinh bằng con số 5 mà còn phải nhờ đến nhiều con số khác nữa thì mới có thể “thâu tóm” nổi.
2. Ông đã viết rằng “lâu dần, con số 5 trở thành biểu trưng của cái toàn vẹn, của sự hoàn hảo, sự tuyệt vời, hoàn mĩ”. Đây là một lời khẳng định không có cơ sở. Thực ra, trong phép chuyển nghĩa và phép tạo từ của tiếng Hán cổ, số từ ngũ 五 chỉ sản sinh ra danh từ ngũ 伍 để chỉ một tập hợp năm người trong tổ chức quân đội hoặc một tập hợp năm gia đình trong tổ chức hộ tịch. Về sau nó mới có thêm nghĩa rộng là “tập hợp bao gồm nhiều người cùng chức năng, cùng nhiệm vụ” (chẳng hạn trong: quân ngũ, hàng ngũ, đội ngũ, v.v.). Nhưng tất cả chỉ có như thế mà thôi. Tiếng Sanskrit cũng có danh từ paṅkti có nghĩa là chuỗi năm (sự/vật), nhóm năm (người), rồi có nghĩa rộng là chuỗi, bộ, nhóm, đoàn thể, v.v., nhưng tuyệt nhiên cũng chẳng có liên quan gì đến “sự hoàn hảo” hoặc “sự tuyệt vời” cả. Muốn hoàn hảo với người Trung Hoa, thì phải có đủ mười (10); vì vậy mà người ta mới nói thập toàn, thập thành, thập túc, v.v.; chẳng có ai nói “ngũ toàn”, “ngũ thành”, “ngũ túc”, v.v.. Ngược lại, con số 5 mới chính là con số “biểu trưng” cho sự xé lẻ. Chẳng thế mà lại có các thành ngữ tứ phân ngũ liệt trong tiếng Hán và chia năm xẻ bảy trong tiếng Việt! Xét theo công dụng thông thường đã như thế rồi thì xét về mặt “biểu trưng”, con số 5 làm sao có thể phù hợp với “cái toàn vẹn, sự hoàn hảo, sự tuyệt vời hoàn mĩ” cho được?
3. Ông đã nhầm lẫn biểu trưng với ước lệ: ngũ trong các cấu trúc ngũ hành, ngũ phương, v.v., được ông xét theo ý nghĩa biểu trưng, còn năm trong năm tấc thì lại được ông xét theo cách dùng ước lệ. Cấu trúc ngũ hành (ngũ phương, ngũ kIm, v.v.) là một tập hợp của 5 sự/vật khác loại, còn cấu trúc năm tấc chỉ là một tổng số của 5 sự/vật đồng loại mà thôi: đây là chỗ khác nhau căn bản giữa hai kiểu cấu trúc mặc dù hình thức của chúng thì có vẻ như hoàn toàn giống nhau. Thật vậy,
ngũ hành = kIm – mộc – thủy – hỏa – thổ,
còn
năm tấc = tấc + tấc + tấc + tấc + tấc.
KIm không là mộc; kIm, mộc không là thuỷ; kIm, mộc, thủy không là hỏa; kIm, mộc, thủy, hỏa không là thổ; còn tấc thì chỉ là… tấc mà thôi. Hai kiểu cấu trúc đã khác biệt nhau đến như thế về chất thì làm sao có thể lấy ý nghĩa biểu trưng của ngũ trong ngũ hành – ý nghĩa biểu trưng này cũng đã được suy diễn một cách võ đoán – mà chứng minh cho cách dùng ước lệ của năm trong năm tấc được?
4. Chúng tôi vẫn cho rằng trong 3254 câu Kiều thì câu đang xét chính là một câu “không tuyệt mỹ”. Ông đã viết rằng “thay con số 5, con số 10 thì có gì là khó”. Chúng tôi thì cho rằng thế mà lại khó và sẽ phân tích vấn đề này ở một số sau.
§ 288. Kiến thức ngày nay, số 187, ngày 30-9-1995
Hỏi: Trong bài văn Khóc Dương Khuê, Nguyễn Khuyến có câu:
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn.
Tôi không được thấy có tập sách giáo khoa, văn chương nào giảng nghĩa câu này. Người đọc đến đây, thường đoán rằng nói về sự người Pháp đặt nền đô hộ trên toàn quốc nước ta, nhưng chẳng ai biết vì sao lại gọi là nạn dương cửu. Có người đoán rằng nguyên văn đã được viết là dương cẩu. Dương là biển lớn lại có nghĩa là người ngoại quốc ở xa, chỉ người châu Âu: Dương điếm là cửa hàng người Âu, Dương hàng là hàng hóa của người Âu. Tiếng cẩu thì khỏi giảng, người ta đã nói Dương Cẩu, bắt chước vua Quang Trung gọi Ngô Cẩu. Người khác lại sửa là Dương Khấu, có nghĩa là giặc người nước ngoài xa. Tiếng này, thời cuối đời Tự Đức, người ta thường dùng để chỉ quân Pháp trong các giấy tờ. Trong bài ký đi sứ Thanh, Phạm Thận Duật cũng đã dùng tiếng này.
Nhưng theo bản chữ Hán: “Dĩ hĩ tạo Dương cửu” thì chữ Dương viết là 陽 nghĩa là khí dương (trái với khí âm) chứ không phải chữ dương là biển lớn. Vậy thuyết dưới thời Pháp thuộc, người ta đã tránh tiếng Dương Cẩu, Dương Khấu, viết trệch là Dương cửu không đứng vững.
Trong bài dự thi số 12 cuộc thi Bình văn đăng trên báo tạp chí Kiến thức ngày nay, số 179, trang 61, tác giả lại nói:
Cùng gặp buổi mạt vận của đạo Thánh (dương cửu). Tại sao mạt vận đạo Thánh lại gọi là Dương cửu?
Học giả An Chi giải đáp: Dương cửu là hai tiếng nói tắt của thành ngữ bách lục dương cửu 百六陽九 . Đây là một thành ngữ dùng để chỉ lúc khốn cùng, quẫn bách. Về xuất xứ của thành ngữ này thì Từ nguyên và Từ hải cho biết là có ba thuyết khác nhau:
1. Một nguyên có 4617 năm trong đó có những đợt hạn tai thuộc về dương, những đợt thủy tai thuộc về âm xảy ra theo trình tự như sau: dương cửu (9 năm hạn hán), âm cửu (9 năm lụt lội), dương cửu (9 năm hạn hán), âm thất (bảy năm lụt lội), dương thất (bảy năm hạn hán), âm ngũ (năm năm lụt lội), dương ngũ (năm năm hạn hán), âm tam (ba năm lụt lội), dương tam (ba năm hạn hán). Tổng cộng trong một nguyên thì có 4560 năm bình an và 57 năm có thiên tai. Đợt dương cửu đầu tiên xảy ra sau 106 năm được diễn đạt thành “bách lục dương cửu” nên người ta dùng luôn bốn tiếng này để chỉ lúc số cùng vận mạt. Về sau, cũng nói tắt thành bách lục hoặc dương cửu.
2. Theo thuật thái ất thì dương cửu, số lẻ là tận cùng của dương số; bách lục, số chẵn là tận cùng của âm số.
3. Đạo gia gọi tai ách do trời gây ra là dương cửu còn tổn hại do đất gây ra là bách lục.
§ 289. Kiến thức ngày nay, số 188, ngày 10-10-1995
Hỏi: Thơ Đường hay có những câu như:
“Cố nhân Tây từ Hoàng hạc lâu
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu…”
hay
“Dục cùng thiên lý mục
Cánh thướng nhất tằng lâu”.
Các chữ “há” và “thướng” có phải là “hạ” và “thượng” không? Nếu đúng vậy, sao không viết và đọc theo kiểu sau cho dễ hiểu?
Học giả An Chi giải đáp: Trước đây, chúng tôi đã có dịp viết rằng “Trong tiếng Hán, một số chữ có thể có những cách đọc khác nhau mà nghĩa không thay đổi. Nhưng thường thường, hễ âm của một chữ thay đổi, thì nghĩa của nó cũng thay đổi”*. Nói một cách khác, tùy theo ngôn cảnh mà nghĩa của một chữ Hán phải ứng với một âm nhất định nếu nó là một chữ có nhiều âm mà những âm này lại không hoán chuyển với nhau được để cùng diễn đạt một (hoặc những) nghĩa nhất định. Đây cũng chính là trường hợp của mấy chữ mà bạn hỏi. Chữ 上 và chữ 下, nếu dùng để chỉ vị trí trong không gian (“trên”, “dưới”) thì đọc là thượng (chữ trước) và hạ (chữ sau) còn nếu dùng để chỉ động tác theo các hướng tương ứng (“lên”, “xuống”) thì lại đọc là thướng (chữ trước) và há (chữ sau). Ít ra, theo thư tịch thì cũng là như thế còn trong ngôn ngữ bình thường người ta vẫn nói hạ mã (xuống ngựa) mà không nói “há mã”, cũng như vẫn nói thượng lộ (lên đường) mà không nói thướng lộ. Nhưng ngôn ngữ của những bài thơ chữ Hán, trong đó có những câu bạn đã nêu, thì lại không phải là ngôn ngữ bình thường mà là tiếng Hán văn ngôn, một ngôn ngữ bác học có những chuẩn mực chặt chẽ, nên việc phiên âm mấy chữ đang xét phải tuân thủ những quy định rành mạch của thư tịch cho phù hợp với phong cách bác học. Chính là theo tinh thần này mà khi phân tích chữ và nghĩa trong câu “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, Trần Phò mới viết: “Há chính là chữ hạ. Ở đây nó là động từ, nên mới đọc há”.*
§ 290. Kiến thức ngày nay, số 188, ngày 10-10-1995
Hỏi: Tại một nút giao thông chính ở phía Bắc Bắc Kinh, trên đường đi Minh lăng, tôi thấy người ta mới dựng bức tượng Lý Tự Thành (thời Minh mạt) bằng đá đen, rất hùng dũng. Nhưng sao các bạn Trung Quốc và cả Hoa kiều của tôi đều chê bai nhân cách và sự nghiệp của Lý Tự Thành? Vậy ông ta là ai? Số phận ông ta thế nào khi quân Mãn Thanh chiếm Trung Hoa? Sao ông ta lại được đặc ân dựng tượng lớn thế?
Học giả An Chi giải đáp: Lý Tự Thành đã được đánh giá theo hai quan điểm chính thống trái ngược với nhau. Đây là một nhân vật lịch sử thời Minh mạt như bạn đã viết, người huyện Mễ Chi, tỉnh Thiểm Tây. Theo quan điểm chính thống của nhà Minh, nhà Thanh, rồi của cả Trung Hoa Dân quốc, thì đây là một kẻ thuở nhỏ vô lại, đến niên hiệu Sùng Trinh đời Trang Liệt Đế nhà Minh thì nổi lên làm cướp rồi tự xưng là Sấm Vương, thanh thế lan nhanh ra các miền Tấn, Dự, Hồ, Quảng, Ba, Thục. Năm Sùng Trinh thứ 17, xưng vương ở Tây An, lấy tiếm hiệu là Đại Thuận rồi đưa quân về phía Đông vây hãm kinh sư, Trang Liệt Đế tuẫn quốc. Về sau, khi Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh tiến vào thì Tự Thành chạy trốn về phía Tây, rồi bị thôn dân địa phương vây bắt ở núi Cửu Cung nên đã tự sát.
Còn theo quan điểm của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hiện nay thì Lý Tự Thành là một lãnh tụ nông dân, nổi dậy với mục đích “quân điền miễn lương” (chia đều ruộng đất và miễn thuế ruộng đất). Chính vì vậy mà Lý Tự Thành được dựng tượng như bạn đã thấy.
§ 291. Kiến thức ngày nay, số 188, ngày 10-10-1995
Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 95, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 24, có kể trong tích “Đông sàng thản phúc” rằng người kén Vương Hy Chi làm rể là Hy Giám, nhưng sách Điển cố Trung Hoa, tập 1 (dịch giả: Võ Ngọc Châu, Nxb. Trẻ, 1994, tr. 213) lại nói rằng người đó là Khước Giám. Xin cho biết Khước đúng hay Hy đúng.
Học giả An Chi giải đáp: Nhân vật đã kén Vương Hy Chi làm rể là Hy Giám chứ không phải Khước Giám. Vả lại, người Trung Hoa chỉ có họ Khích, chữ Hán là 郤 (bên phải là bộ ấp 阝) còn Khước, chữ Hán là 卻 (bên phải là bộ tiết 卩), thì lại không phải là họ. Thiết âm của chữ trước là “khi kích thiết” còn của chữ sau là “khất ước thiết” (Xem Từ hải). Tuy ngày nay người ta có dùng lẫn lộn khích và khước – mà chủ yếu là dùng khích thay khước – nhưng đây vẫn là hai chữ khác nhau. Họ Khích 郤 cũng viết thành 郄 và chữ khước 卻 cũng viết thành 㕁.
Nhưng 郄 (khích) và 㕁 (khước) cũng là hai chữ khác nhau vì chữ trước thuộc bộ ấp 阝 mà chữ sau thuộc bộ tiết 卩. Còn họ chính thức và chính xác của nhân vật đang xét lại là Hy, chữ Hán là 郗. Từ hải có nói rõ rằng Hoàng Bá Tư đã viết trong Pháp thiếp san ngộ như sau: “Họ Hy 郗, từ đời thái úy Giám (tức Hy Giám – AC) về sau là một dòng họ nổi tiếng miền Giang Tả. Họ này đọc như chữ hy 絺 trong hy tú (với chữ tú là thêu – AC) nhưng người đời có thói quen viết 郗 thành 郄 do đó mới đọc chữ hy 郗 thành khích trong Khích Sân 郤詵 (vì chữ khích 郤 cũng viết thành 郄 – AC), thế là đọc sai vậy. Khích Sân là đại phu nhà Tấn thời Xuân Thu. Khích Hộc (chữ Khích viết 郤 – AC) và Hy Giám (chữ Hy viết 郗 – AC), đời sau của đại phu Hy Lự nhà Hán, họ vốn đã khác nhau, âm đọc cũng khác xa. Đời sau do quen viết lẫn lộn nên hai họ Khích và Hy mới không còn phân biệt được nữa”.
Cứ như trên thì chữ khích 郄 cũng dùng để ghi họ Hy 郗 mà vì không truy nguyên cho chính xác nên một số người đã đọc Hy Giám, với chữ Hy viết là 郄, thành Khích Giám, chẳng hạn Lê Văn Đức trong Việt-Nam tự-điển (Xem quyển thượng, ph.II, tr. 121, mục “Đông-sàng thản phúc”). Đến như đọc Khích 郄 (thuộc bộ ấp E ) thành “khước” thì lại càng sai vì như thế là đã nhầm chữ đó với chữ khước 㕁 là một chữ thuộc bộ tiết 卩. Tóm lại, họ và tên của nhân vật đang xét là Hy Giám chứ không phải Khích Giám, càng không phải là Khước Giám.
Cuối cùng xin nói thêm rằng hai chữ 郗 và 絺 đã nói trên đây, đọc thành hy – trên Kiến thức ngày nay, số 95, chúng tôi cũng đã đọc như thế – chỉ là theo thói quen (Xem cả hai chữ trong Hán-Việt tân từ-điển của Nguyễn Quốc Hùng) còn âm chính xác của chúng lại là si (“sức y thiết”). Vậy nhân tiện, xin đề nghị đọc Hy Giám thành Si Giám cho thực sự đúng với thiết âm trong từ điển.
§ 292. Kiến thức ngày nay, số 188, ngày 10-10-1995
Hỏi: Trong các vị thánh tổ của ngành Đông y Việt Nam, có Hải Thượng Lãn Ông và Tuệ Tĩnh. Tại sao một số chùa Phật giáo, và ngay cả một số người làm nghề Đông y nữa, lại thờ một vị Dược sư, gọi là Dược sư lưu ly Phật? Vậy vị dược sư này ở thời nào và ở đâu?
Học giả An Chi giải đáp: Hải Thượng Lãn Ông và Tuệ Tĩnh là hai danh y người Việt Nam ở ngoài đời. Còn vị Dược sư mà ông nói đến thì lại là người ở trong đạo – và là đạo Phật. Nơi mục “Dược sư (Phật)”, Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn đã cho biết như sau: “Một đức Phật thường ủng hộ cho người ta tiêu tai trừ tội. Tên ngài âm theo Phạn: Bệ-Sái-xã-lũ-rô. Tên ngài cũng kêu là: “Dược-Sư-Lưu-ly-Quang Như-lai. Cõi của ngài kêu là Tịnh-lưu-ly), đối với cõi Ta-bà thì ném về phía Đông, phải trải qua những cõi Phật nhiều như số cát 10 con sông Hằng-hà mới tới cõi của ngài (…) Đức Phật Dược-Sư có hai vị Bồ-tát chầu hai bên: bên trái là ngài Nhựt-Quang Biến-Chiếu Bồ-tát, bên phải là ngài Nguyệt-Quang Biến-Chiếu Bồ-tát. Thờ ba vị ấy, kêu là Dược-Sư-Tam-tôn”.
§ 293. Kiến thức ngày nay, số 188, ngày 10-10-1995
Hỏi: Tại sao người châu Âu ngày xưa lại gọi Trung Quốc là Cathay?
Học giả An Chi giải đáp: Địa danh Cathay xuất hiện lần đầu tiên có lẽ là trong quyển du ký của một thương nhân người Ý tên là Marco Polo (1254 – 1324) nhan đề Le livre des diversités et merveilles du monde mà ông đã đọc bằng tiếng Pháp cho một người bạn tù ghi lại. Nhưng đó không phải là hình thức nguyên thủy vì tiền thân của nó là Kidan, thấy được trong một quyển sách lịch sử nhỏ nhan đề Libellus Historicus của một người Ý khác tên là Giovanni da Pian del Carpine (1182 (?) – 1252). Tác giả này là một tu sĩ dòng Thánh Francisco, được chỉ định làm khâm sai của giáo hoàng Innocent IV bên cạnh các hãn người Mông Cổ, theo quyết định của hội nghị giám mục họp tại Lyon (Pháp) năm 1245. Bấy giờ, miền Bắc Trung Quốc còn đang được người Trung Á và các tộc người lân cận với những người này biết đến dưới cái tên Khiết Đan, vốn là một quốc hiệu về sau được đổi thành (nước) Liêu (916 – 1115), sau khi nó được mở rộng thêm. Giai đoạn này về sau đã được chính sử của Trung Hoa gọi là Liêu kỷ (kỷ nguyên nhà Liêu). Vậy Kidan trong sách Libellus Historicus rõ là một hình thức phiên âm khá trung thành của hai tiếng Khiết Đan 契丹. Nhưng ngay từ đầu thì hình thức phiên âm trên cũng đã có một biến thể là Kitaï, biến thể này cũng tồn tại ngay trong quyển sách của Pian del Carpine*. Và Kitaï chính là tiền thân của Cathay trong quyển du ký của Marco Polo.
Trong quyển sách của mình, Marco Polo đã gọi miền Bắc Trung Quốc là Cathay và miền Nam của nước này là Mangi* – mà chúng tôi cho là tác giả đã phiên âm từ hai tiếng Man Di. Mặc dù có làm quan cho nhà Nguyên và đã sống tại Trung Hoa 16 năm nhưng Marco Polo lại không rành tiếng Hán mà chỉ học, theo Chklovski, để biết có 4 thứ chữ, có thể là Á Rập, Syria, Ouigour và Mông Cổ. Ngay cả tên sông và tên thị trấn của nước Trung Quốc, theo nghiên cứu của Chklovski, cũng đã được Polo gọi theo tiếng Mông Cổ, tiếng Ba Tư hoặc tiếng Thổ Nhĩ Kỳ*. Chẳng trách được Marco Polo đã không hề biết đến cái danh xưng có nghĩa là “nước (Hoa) ở trung tâm của thế giới”! Về cách ghi địa danh của Polo, Chklovski đã nhận xét như sau: “Quyển sách của Marco Polo mang tính chất của những điều ghi chép vội vàng. Các danh từ riêng trong đó được viết bằng những cách khác nhau và ngay trong cùng một chương thì tên của một thị trấn hoặc một xứ cũng đã được phiên âm bằng nhiều cách. Không nghi ngờ gì là chúng chỉ được nghe rồi ghi nhớ chứ sau đó Marco Polo đã không thẩm tra lại”. Vậy cũng chẳng có gì lạ nếu Khiết Đan trở thành Kidan trong Libellus Historicus của Pian del Carpine mà lại trở thành Cathay trong quyển du ký của Marco Polo. Cuối cùng, xin nói thêm rằng tiếng Nga hiện đại cũng gọi Trung Quốc là Kitaj.
§ 294. Kiến thức ngày nay, số 189, ngày 20-10-1995
Hỏi: Thuyền Bát Nhã là thuyền gì? Vì sao có tên gọi đó?
Học giả An Chi giải đáp: Thuyền bát nhã là một ẩn dụ dùng để chỉ sự cứu độ chúng sanh qua khỏi sông mê bể khổ của cõi đời. Ẩn dụ này bắt nguồn ở tiếng Sanskrit prajñā-pāramitā, mà người Trung Hoa đã phiên âm thành bát nhã ba la mật đa. Prajñā (bát nhã) có nghĩa là trí tuệ, là sự sáng suốt còn pāramitā (ba la mật đa) là sự hoàn thiện, sự tuyệt hảo. Vậy prajñā-pāramitā là sự hoàn thiện trong nhận thức; hiểu theo kinh điển Phật giáo thì đó là sự giác ngộ cao độ, cực điểm. Pāra có nghĩa là cực điểm, là giới hạn cuối cùng nhưng cũng còn có nghĩa là bờ bên kia, là phía đối diện nên bên Trung Hoa mới có người dịch pāramitā là “đáo bỉ ngạn” (đến bờ bên kia) rồi phân tích rằng pāra là “bỉ ngạn” còn mitā là “đáo”. * Cái nghĩa “đáo bỉ ngạn” mà người Trung Hoa đã gán cho từ pāramitā trong tiếng Sanskrit chính là cơ sở của lối nói theo ẩn dụ thuyền bát nhã mà bạn đã hỏi.
§ 295. Kiến thức ngày nay, số 189, ngày 20-10-1995
Hỏi: Trong bài “Về bài thơ Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư: chuyện rắc rối và cách đối xử” trên Kiến thức ngày nay, số 147, ở chú thích (2) trang 13, tác giả GS. Nguyễn Đình Chú có ghi chữ nhàn 閑 là chữ mộc 木 trong chữ môn 門. Nhưng trong bài thơ “Chữ nhàn”, Nguyễn Công Trứ lại viết:
“Thị tại môn tiền náo
Nguyệt lai môn hạ nhàn”
Vậy chữ nhàn 閒 là chữ nguyệt 月 trong chữ môn 門 . Xin cho biết chữ nào đúng.
Học giả An Chi giải đáp: Các quyển từ điển quen thuộc (Từ nguyên, Từ hải, v.v.,) đều có ghi nhận rằng, với nghĩa “rỗi rãi”, “yên tịnh”, v.v., thì chữ nhàn 閑 (mộc trong môn) và chữ nhàn 閒 (nguyệt trong môn) có thể dùng thế cho nhau. Vậy trong trường hợp này tác giả Nguyễn Đình Chú và Nguyễn Công Trứ đều đúng.
Riêng với câu “Thị tại môn tiền náo” thì chúng tôi xin nhân tiện nói rõ thêm như sau. Người ta vẫn thường cho rằng chữ náo được tạo thành bởi chữ thị 巿 bên trong chữ môn 門. Sự thật không phải như thế vì chữ đó không thuộc bộ môn 門, mà lại thuộc bộ đấu 鬥. Tự dạng chính xác của nó là 鬧. Chẳng qua vì chữ môn và chữ đấu trông na ná với nhau nên người ta mới nhầm lẫn đó thôi. Kiểu tác đánh tộ, ngộ đánh quá này đã làm phát sinh một chữ không chuẩn là chữ náo 閙 thuộc bộ môn 門 mà nhiều quyển tự điển đã không ghi nhận vì không thừa nhận, chẳng hạn Từ nguyên và Từ hải. Còn Khang Hy tự điển tuy có ghi nhận nhưng cũng ghi thêm rằng theo Chính vận thì chữ đấu mà viết theo bộ môn là sai. Đặc biệt các bản Quảng vận thông thường đã viết chữ náo theo bộ môn – do khắc chữ sai – nhưng Hiệu chính Tống bản Quảng vận là một bản Quảng vận được hiệu đính theo quyển Quảng vận hiệu khám ký của Chu Tổ Mô – chúng tôi sử dụng bản do Nghệ văn thư quán, Đài Loan, ấn hành năm 1967 – thì đã sửa chữa chữ náo thuộc bộ môn thành chữ náo thuộc bộ đấu cho đúng với chữ gốc (Xem sđd, tr. 416, cột 7). Tự nguyên của chữ náo vốn là như thế. Vậy lẽ ra phải chiết tự nó thành: “đấu tại thị ngoại náo” chứ không phải là “thị tại môn tiền náo” như người ta, kể cả các nhà Nho, vẫn thích làm. Chợ họp ở đâu mà lại không ồn ào? Cứ gì ở ngay cửa!
§ 296. Kiến thức ngày nay, số 189, ngày 20-10-1995
Hỏi: Trên Kiến thức ngày nay, số 179, mục Chuyện Đông chuyện Tây, ông có trích dẫn “Sử ký Tư Mã Thiên” để trả lời bạn đọc về lai lịch Tần Thủy Hoàng trong đó có đoạn: “… sinh Thủy hoàng vào tháng Giêng năm thứ 48 đời Tần Chiêu Vương, ở Hàm Đan, đặt tên là Chánh, họ Triệu”. Tôi cứ thắc mắc, không rõ Tư Mã Thiên sai, hay Nhữ Thành dịch sai vì tôi có đọc trong “Đông phương quốc ngữ từ điển” (ấn bản lần thứ 11, do Nxb. Đông phương ấn hành năm Dân quốc thứ 54) thì thấy chép rằng Tần Thủy Hoàng họ Doanh 贏. Vậy xin hỏi ông Tần Thủy Hoàng họ Doanh hay họ Triệu? Tần Thủy Hoàng mang họ nào thì hợp lý hợp tình hơn khi đã trở thành một nhân vật lịch sử?
Học giả An Chi giải đáp: Ngoài Đông phương quốc ngữ từ điển mà ông đã nêu, nhiều quyển từ điển khác, chẳng hạn Từ hải và Vương Vân Ngũ đại từ điển, cũng ghi nhận rằng Tần Thủy Hoàng họ Doanh, tên Chính. Nhiều quyển sách lịch sử của Trung Hoa cũng chép như thế. Một số tác giả người Việt Nam, như Chiêm Tế, cũng đã theo đó mà chép, chẳng hạn như sau: “Năm 246 trước công nguyên, vua Tần là Doanh Chính lên ngôi”*. Tại Trung Quốc, các tác giả thuộc nhiều lĩnh vực khoa học khác cũng đã dựa theo sử truyền mà chép như thế. Dương Vũ Thanh, chẳng hạn, đã viết: “Đến năm 221 tr. CN, Tần gồm thâu sáu nước, vua Tần là Doanh Chính lên làm Thủy hoàng đế, tức Tần Thủy Hoàng”*. Vậy lời ghi chép về họ Doanh của Tần Thủy Hoàng quả đã trở thành một điều phổ biến trong kiến thức lịch sử của nhiều người.
Nhưng chúng tôi cho rằng Tư Mã Thiên đã không nhầm (mà Nhữ Thành cũng không dịch sai). Xin lưu ý thêm rằng, trong bài “Lữ Bất Vi, con buôn chính trị siêu hạng”, Sao Biển cũng đã viết như sau: “Lữ Bất Vi đem cô hầu thiếp Triệu Cơ vốn đang mang bầu, có tài múa giỏi, nhan sắc tươi đẹp tặng cho Tử Sở. Tử Sở được Triệu Cơ, dấu yêu rất mực, cứ tin đứa con mà Triệu Cơ đang hoài thai là con của mình. Năm thứ 48 Tần Chiêu Vương, Triệu Cơ sinh con trai ở nước Triệu, đặt tên con là Triệu Chính. Thế là Lữ Bất Vi đã “cấy” được con ruột của mình vào tông thất của nhà Tần”*.
Theo chúng tôi, việc lấy họ Triệu cho Tần Thủy Hoàng lúc sơ sinh có lẽ là do ý muốn và sự dàn xếp của Lữ Bất Vi, biết rằng nhân vật này vừa có tín lại vừa có uy với cả Triệu Cơ lẫn Tử Sở. Bất Vi không muốn con trai của mình mang họ Doanh là quốc tính của Tần – làm vua tương lai của Tần lại là một việc khác – để ngầm khẳng định rằng đứa bé không phải là con ruột của Tử Sở đồng thời muốn bảo vệ con mình một cách an toàn nên mới dàn xếp để cho nó mang họ Triệu. Xin chú ý rằng trong thời gian làm con tin của Tần tại nước Triệu thì Tử Sở đã bị Triệu bạc đãi. Vậy việc Tử Sở để cho đứa bé mà ông ta và người ngoài cứ ngỡ là con ruột của ông ta mang họ Triệu là một cử chỉ nịnh Triệu để bản thân Tử Sở có thể dễ thở hơn đồng thời đứa con trai “chung” của Tử Sở và Lữ Bất Vi cũng có thể được Triệu “dòm ngó” đến với nhiều thiện cảm hơn là khi nó mang quốc tính của nước Tần. Cũng xin chú ý rằng năm thứ 50 đời Tần Chiêu Vương, vua Tần đã sai Vương Ý vây Hàm Đan (của nước Triệu) rất gấp nên Triệu muốn giết Tử Sở. Nhờ đút lót sáu trăm cân vàng cho kẻ giám sát nên Tử Sở và Lữ Bất Vi, hai người cha của Triệu Chính, mới thoát được mà về với quân Tần. Vì vậy nên Triệu mới định giết chết vợ con của Tử Sở nhưng nhờ Triệu Cơ là con nhà tai mắt ở nước Triệu nên hai mẹ con đã tai qua nạn khỏi. Phải chăng việc thoát hiểm này được thêm dễ dàng một phần là nhờ đứa bé mang họ Triệu?
Vậy Triệu là họ mà cả ba người, Lữ Bất Vi, Tử Sở, Triệu Cơ đã nhất trí lấy cho đứa con chung tên Chính theo sự đề xướng và dưới áp lực của Lữ Bất Vi. Còn Doanh có thể chỉ là cái họ mà hậu thế đã gán cho Tần Thủy Hoàng vì thấy đó là quốc tính của nước Tần. Thực ra, dòng họ Doanh đã chính thức chấm dứt với Tử Sở tức Trang Tương Vương trong tông thất của nhà Tần. Chỉ có nước Tần mới tiếp tục tồn tại và được mở rộng nhờ sự quỷ quyệt của Lữ Bất Vi và sự tàn bạo của Tần vương Triệu Chính, người sẽ tự xưng là Thủy hoàng đế, nghĩa là hoàng đế khai sáng, hoàng đế đầu tiên, của nước Tần, sau khi đã gồm thâu lục quốc mà thống nhất Trung Hoa. Nhà Tần sau Trang Tương Vương là kết quả của “kỳ công” và “đại nghiệp” của hai người, cha và con, thuộc dòng họ Lữ chứ không phải người thuộc dòng họ Doanh. Vậy hợp lý nhất, theo chúng tôi, thì Tần Thủy Hoàng phải mang họ Lữ. Tiếc thay, đây lại không phải là cái họ mà Lữ Bất Vi dám lấy cho con mình khi đứa bé còn sơ sinh vì một lẽ hoàn toàn đơn giản là nếu hành động như thế thì làm sao “cấy” được một kẻ ngoại tộc vào tông thất của nhà Tần (Đó là chưa kể đến những hậu quả khác có thể sẽ xảy đến cho cá nhân Lữ Bất Vi). Và, tiếc thay, cái họ mà một cá nhân chính thức lấy để cho bàn dân thiên hạ gọi mình có khi lại chẳng phải là cái họ mà ông nội mình đã truyền cho cha mình (Bút danh hoặc bí danh thì lại là vấn đề khác hẳn).
§ 297. Kiến thức ngày nay, số 189, ngày 20-10-1995
Hỏi: Chữ “tệ” trong “tiền tệ” có phải cũng là chữ “tệ” trong “tệ bạc” hay không? Xin cho biết xuất xứ đích thực của chữ đó?
Học giả An Chi giải đáp: Tệ (trong tiền tệ) cũng là tiền. Đây là một từ mà chữ Hán là 幣 khác với chữ tệ trong tệ bạc mà chữ Hán là 弊.
Tuy cả hai đều là những hình thanh tự mà thanh phù là tệ 敝 nhưng nghĩa phù của chữ trước là cân 巾 còn của chữ sau lại là củng 廾. Vậy tiền tệ là một từ tổ đẳng lập gồm hai thành tố đồng nghĩa.
Về xuất xứ của chữ tệ trong tiền tệ, Quách Mạt Nhược đã viết như sau: “Vào thời xưa ở Trung Quốc, chủ yếu là thời Chiến quốc (475 – 221 tr. CN – AC), hình dạng của tiền đúc bằng đồng phần lớn lấy theo hình của các nông cụ. Có nghĩa là chữ tệ trong hóa tệ cũng là do chữ phiết 鐅 (chỉ một loại nông cụ – AC) chuyển hóa mà thành”*. Xét theo âm hiện hành thì điều mà Quách Mạt Nhược đã khẳng định (chữ tệ lại do chữ phiết mà ra) là một điều kỳ lạ nếu không phải là hoàn toàn vô lý. Nhưng xét về văn tự học và ngữ âm học lịch sử của tiếng Hán thì điều này lại chẳng có gì là bất thường – không những thế, lại còn hoàn toàn đúng đắn – như sẽ chứng minh dưới đây.
Trước nhất, xét về âm thì chữ 敝 nay đọc là tệ, nhưng âm chính thống của nó lại là bệ, (“bật nghệ thiết” Xem Từ hải). Chữ bệ (tệ) lại hài thanh cho chữ 鐅, nay đọc là phiết (Xem Từ hải hoặc Hán-Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng) nhưng Thuyết văn giải tự của Hứa Thận lại ghi rằng chữ sau là một chữ “tùng kIm 金, bệ (tệ) 敝 thanh” nghĩa là thuộc bộ kIm, đọc là bệ (tệ). Vậy, chữ phiết đã từng đọc là bệ và đồng âm với chữ tệ trong tiền tệ, bấy giờ cũng đọc là bệ.
Trở lên là xét về âm. Còn xét về công dụng thì cái bệ (phiết) với tính cách là một nông cụ, đã từng được dùng làm vật trung gian để trao đổi hàng hóa, nghĩa là đã từng được dùng như một loại tiền. Vì vậy mà từ bệ (phiết) ban đầu có nghĩa là một loại nông cụ, về sau cũng đã theo phép hoán dụ mà có thêm một nghĩa phái sinh là tiền. Cái nghĩa phái sinh (tiền) và cái âm bệ của chữ 鐅 đã được lưu truyền nhưng cái biện pháp chuyển nghĩa là phép hoán dụ đã nói thì không mấy ai còn biết đến nữa. Vì vậy mà từ lâu người ta đã chuyển cái âm bệ và cái nghĩa “tiền” của chữ 鐅 vào cho chữ bệ 幣 bộ cân 巾 mà dùng cho đến ngày nay. Chữ này bây giờ đọc là tệ như đã thấy trong tiền tệ, hóa tệ, ngoại tệ, v.v., và chỉ là đồng âm với tệ trong tệ bạc, tồi tệ, v.v. mà thôi.
§ 298. Kiến thức ngày nay, số 190, ngày 1-11-1995
Hỏi: Người Trung Quốc ngày nay muốn làm thơ Đường có phải nhất thiết làm theo âm Quan thoại, nghĩa là âm Bắc Kinh hay không?
Học giả An Chi giải đáp: Hiện nay, muốn làm thơ Đường luật (chứ không phải “thơ Đường” vì thơ Đường chỉ là thơ của đời Đường), người Trung Quốc không thể làm theo âm của phương ngữ Bắc Kinh được. Lý do là hệ thống ngữ âm của thứ tiếng này khác xa hệ thống ngữ âm của tiếng Tràng An đời Đường nên không còn thích hợp với việc tuân thủ những yêu cầu chặt chẽ của thơ Đường luật về thanh điệu và vận điệu được nữa. Muốn làm thơ Đường luật thì người Trung Quốc hiện nay phải biết cổ âm. Để đáp ứng nhu cầu này, người ta có xuất b ản những quyển thi vận, căn cứ theo các bộ vận thư xưa mà làm ra. Tuy nhiên việc vận dụng cũng khó khăn cho nên ngày nay họ rất ít làm thể thơ này. Trong những trường hợp thực sự đặc biệt, tất nhiên là một số người Trung Quốc vẫn làm nếu họ là người nắm vững cổ âm.
Chúng tôi xin đơn cử ra đây bài thơ thất ngôn Đường luật mà Quách Mạt Nhược đã làm năm 1976 để tưởng nhớ ông Chu Ân Lai, có kèm theo nguyên văn chữ Hán, chép lại từ tạp chí Văn vật (Bắc Kinh), số 1 năm 1977.
革命前驅輔弼才,
巨星隱翳五洲哀。
奔騰淚浪滔滔涌,
弔唁人濤滾滾來。
盛德在民長不沒,
豐功垂世久彌恢。
忠誠與日同輝耀,
天不能死地難埋。
悼念周總理
一九七六年
一月十三日
郭沫若
Dưới đây là phần phiên âm:
Cách mạng tiền khu phụ bật tài,
Cự tinh ẩn ế ngũ châu ai.
Bôn đằng lệ lãng thao thao dũng,
Điếu ngạn (nghiễn) nhân đào cổn cổn lai.
Thịnh đức tại dân trường bất một,
Phong công thùy thế cửu di khôi.
Trung thành dữ nhật đồng huy diệu,
Thiên bất năng tử địa nan mai.
Hoài niệm Chu Tổng lý
Nhất cửu thất lục niên
nhất nguyệt thập tam nhật
Quách Mạt Nhược
Nắm vững cổ âm và cự phách trong làng văn làng thơ đến như Quách Mạt Nhược mà cũng còn phải để cho câu cuối cùng của bài thơ trên đây bị thất luật. Trong một bài Đường luật thất ngôn bát cú luật trắc vần bằng thì chữ thứ tư của câu thứ tám phải thuộc thanh bằng còn chữ thứ sáu của nó phải thuộc thanh trắc. Ở đây thì ngược lại, chữ thứ tư (tử) là trắc còn chữ thứ sáu (nan) lại là bằng. Xin nhớ rằng chỉ các chữ nhất, tam, ngũ mới có thể bất luận còn các chữ nhị, tứ, lục thì dứt khoát phải phân minh (xin xem thêm bên dưới). Vậy, đó là chỗ thực sự non yếu của bài thơ. Người ta có thể biện bạch rằng ở đây Quách Mạt Nhược đã cố ý chơi thất luật để làm nổi bật những tiếng cần nhấn mạnh là chữ tử và chữ nan. Thực ra nếu cần nhấn mạnh thì đối với ý với chữ tử lại là chữ mai chứ không phải chữ nan vì đối ý với chữ này lại là hai chữ bất năng. Chúng tôi có ý đưa bài thơ này ra và phân tích sơ lược như trên để chứng minh rằng việc làm thơ Đường luật đối với người Trung Quốc hiện nay là một công việc không dễ dàng và rằng công việc đó hoàn toàn không phải dựa vào âm Bắc Kinh như có người đã lầm tưởng.
Cách đây ngót bốn thập kỷ, khi bàn về âm Bắc Kinh, Trương Chính cũng đã có viết như sau: “Tiếng phổ thông (tức tiếng Bắc Kinh – AC) ngày nay chỉ còn lại 4 thanh mà thôi. Không những thế, tiếng bằng, tiếng trắc cũng đều khác trước. Có những tiếng trước kia là trắc nay trở thành bằng và ngược lại.
Ai cũng biết trong thơ Đường luật (thất ngôn) có một qui luật rất nghiêm khắc khi làm thơ phải biết đến, không thì bị thất luật, tức là: nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh nghĩa là: chữ thứ nhất, chữ thứ ba, chữ thứ năm không cần phải đúng bằng trắc nhưng chữ thứ hai, chữ thứ tư, chữ thứ sáu, thì nhất định phải đúng bằng trắc.
Nhưng, nếu ngày nay, ta đọc những bài thơ Đường luật bằng tiếng phổ thông, thì ta sẽ rất ngạc nhiên thấy những bài thơ đó đều thất luật cả”.*
Trước Trương Chính, Tư Huyền cũng đã có ý kiến tương tự trong bài “Góp ý kiến vào vấn đề tiếng Việt và chữ Việt”*. Ý kiến đó hoàn toàn chính xác: bài thơ trên đây của Quách Mạt Nhược mà đọc theo âm Bắc Kinh thì nghe sẽ rất bất thường. Xin phiên âm, để tham khảo, theo lối pīnyīn (phanh âm) như sau:
Gé mìng qián qū fǔ bì cái,
Jù xīng yǐn yì wǔ zhōu āi.
Bēn téng lèi làng tāo tāo yŏng,
Diào yàn rén tāo gǔn gǔn lái.
Shèng dé zài mín cháng bù mò,
Fēng gōng chúi shì jiǔ mí huī.
Zhōng chéng yǔ rì tóng huī yào,
Tiān bù néng sǐ dì nán mái.
Bài thơ này đã được chú thích rõ ràng nơi mục lục của tạp chí Văn vật (số đã nói) là một bài thơ “thất luật 七律” nghĩa là một bài thơ thất ngôn Đường luật (xin phân biệt với thất luật 失律 = sai luật). Một bài thơ Đường luật đọc theo âm Bắc Kinh (như đã phiên ở trên) mà nghe “vui tai” như thế thì làm sao có thể lại là sáng tác bằng âm Bắc Kinh cho được? Đó là còn chưa nói thêm rằng người Trung Quốc ngày nay không những không làm thơ Đường luật bằng âm Bắc Kinh mà cũng không làm bằng bạch thoại. Nếu có làm thì họ làm bằng văn ngôn. Đây là một khó khăn lớn đối với họ. Độc giả thông thường ngày nay – đây là tuyệt đại đa số -lại càng không thể thưởng thức văn ngôn. Chính vì vậy một phần mà thơ Đường luật không có đất sống trong thi ca Trung Quốc hiện đại.
§ 299. Kiến thức ngày nay, số 190, ngày 1-11-1995
Hỏi: Câu thứ 2168 của Truyện Kiều (Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao) thực chất là một “ước lệ khập khiễng” như đã viết (Kiến thức ngày nay, số 178, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 81) hay chỉ là do cách hiểu của chúng ta chưa thấu đáo?
Học giả An Chi giải đáp: Ông Nguyễn Hữu Chỉnh đã viết: “Thay con số 5, con số 10 thì có gì là khó?”. Chúng tôi xin trả lời rằng trong khuôn khổ của câu 2168, Nguyễn Du chỉ có thể dùng hai số từ năm và mười chứ không thể dùng bất cứ số từ nào khác. Ông Chỉnh có viết: “Với con người ta, người xưa đo chiều rộng của vai bằng tấc, đo chiều cao của thân bằng thước”. Ở chỗ này, chúng tôi sẵn sàng đồng ý với ông mà suy diễn thêm một bước nữa rằng, do đó, câu 2168 chỉ hoàn toàn hợp lý và tự nhiên trong cái khung chữ nghĩa “Vai x tấc rộng, thân y thước cao” mà thôi. Còn gì lý tưởng hơn là cái khung (lục) bát đó để tả chiều rộng của vai và chiều cao của thân? Trong cái khung “nhất thành bất biến” đó, công việc còn lại chỉ là thay x và y bằng những số từ cụ thể với điều kiện là chúng dứt khoát phải thuộc thanh bằng vì luật bằng trắc trong thơ lục bát là như sau:
b b t t b b
b b t t b b t b
(b = bằng, t = trắc). Giống như thất ngôn Đường luật, thơ lục bát cũng có lệ “nhất tam ngũ bất luận; nhị tứ lục phân minh”, nghĩa là các chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm có thể đổi từ bằng sang trắc hoặc ngược lại nhưng các chữ thứ hai, thứ tư và thứ sáu thì dứt khoát phải theo đúng quy định: thứ hai, bằng; thứ tư, trắc và thứ sáu, bằng. Trong cái khung đã nói thì x đứng ở vị trí thứ hai còn y ở vị trí thứ sáu; do đó các số từ thay cho chúng dứt khoát phải thuộc thanh bằng như đã nói ở trên. Nếu thay cho y mà là một tiếng trắc thì cái khung của thơ lục bát sẽ lập tức bị phá vỡ vì chính nó là tiếng gieo vần mà vần thì không thể trắc. Nếu thay cho x là một tiếng trắc thì đó sẽ là một thứ lục bát biến thể mộc mạc kiểu như trong truyện Thạch Sanh hoặc Trê cóc chứ đâu có được “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” như những câu khác trong Truyện Kiều. Xin nhớ rằng trong 3254 câu Kiều, không một câu bát nào có tiếng thứ hai thuộc thanh trắc.
Điều kiện đã được đặt ra như trên, vậy việc còn lại là thay x và y bằng những số từ cụ thể. Từ một đến mười chỉ có các số từ sau đây mang thanh bằng: hai, ba, năm, mười. Nguyễn Du chỉ có bốn từ này để lựa chọn mà thôi. Dù cho đức Thánh Khổng chỉ cao tới chín thước sáu tấc*, tác giả Truyện Kiều cũng phải bấm bụng để cho Từ Hải qua mặt vị tổ sư mà cao đến mười thước. Ông không thể để cho đấng anh hào đó chỉ cao có năm thước vì như thế là dưới tiêu chuẩn: thân người trung bình được tính là cao bảy thước. Mười đã được dùng để tả thân; vậy để tả vai, chỉ còn lại có hai, ba và năm. Năm đã là quá ít thì hai, ba đương nhiên phải bị gạt bỏ. Rõ ràng là thay con số 5 con số 10 ở đây không dễ dàng chút nào. Con số 5 là con số duy nhất mà Nguyễn Du phải và có thể dùng trong trường hợp này để tả vai của Từ Hải và chính nó đã làm cho ước lệ có vẻ… khập khiễng.
Vì những lẽ trên đây mà chúng tôi xin phép kết luận rằng trên đường thiên lý – Truyện Kiều dài đến 3254 câu – dù có là ngựa ký ngựa kỳ, e rằng cũng có lúc “vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh” .
§ 300. Kiến thức ngày nay, số 190,1-11-1995
Hỏi: Người xưa hay nói:
Tam thập nhi lập,
Tứ thập nhi bất hoặc…
Xin cho biết nguyên văn đầy đủ và xin cho biết đó là lời nói của ai.
Học giả An Chi giải đáp: Đó là lời của Khổng Tử, chép trong sách Luận ngữ, thiên “Vi chính”, nguyên văn như sau: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí ư học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ”. GS. Lê Huy Tiêu đã dịch như sau: “Ta mười lăm tuổi có chí học hành, ba mươi tuổi chín chắn vững vàng; bốn mươi tuổi không còn mê hoặc; năm mươi tuổi hiểu được thiên mệnh; sáu mươi tuổi nghe phân biệt được thật giả; bảy mươi tuổi lòng muốn gì cũng được, không vượt quy củ”*. Nguyễn Hiến Lê thì dịch: “Ta mười lăm tuổi để chí vào việc học (đạo); ba mươi tuổi biết tự lập (tức khắc kỉ phục lễ, cứ theo điều lễ mà làm); bốn mươi tuổi không nghi hoặc nữa (tức có trí đức, nên hiểu rõ ba đức nhân, nghĩa, lễ); năm mươi tuổi biết mệnh trời (biết được việc nào sức người làm được, việc nào không làm được); sáu mươi tuổi đã biết theo mệnh trời (chữ nhĩ 耳 ở đây không có nghĩa là tai, mà có nghĩa là dĩ 已 = đã); bảy mươi tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lí (không phải suy nghĩ, gắng sức mà hành động tự nhiên hợp đạo lí)”*. Nguyễn Hiến Lê còn chú thích như sau. “Có người hiểu lập là tự mình biết theo chính đạo (…) Thiên mệnh có người hiểu là luật trời, sự biến hóa, diễn tiến trong vũ trụ. Nhĩ thuận, hầu hết các sách đều giảng là: tai thuận, tức nghe ai nói thì hiểu được ngay người đó nói gì, muốn nói gì, có ý gì”*.
Nói chung lời của Khổng Tử trong Luận ngữ có những chỗ khó hiểu nên đã có nhiều cách hiểu khác nhau. Chúng tôi xin nêu hai cách dịch trên đây để bạn đọc tiện đối chiếu.
§ 301. Kiến thức ngày nay, số 191, ngày 10-11 -1995
Hỏi: Nom et prénom: tại sao prénom (pré = trước) lại đặt sau nom? Và cái nào là họ, cái nào là tên?
Học giả An Chi giải đáp: Trước đây, một số người đã dịch prénom trong “nom et prénom” là họ còn nom là tên. Thực ra prénom là tên còn nom thì mới chính là họ vì ở đây từ này là dạng nói tắt của danh ngữ nom de famille, có nghĩa là tên của gia tộc (tức là họ). Trong Pierre Curie, Paul Claudel, François Mauriac, v.v., thì Pierre, Paul, François là prénom còn Curie, Claudel, Mauriac, v.v. là noms (de famille). Và trong những thí dụ trên đây thì rõ ràng là prénom đã đứng trước nom (vì đứng trước nom nên mới gọi là prénom như ông đã phân tích). Chỉ có trên giấy tờ người ta mới ghi theo mẫu “nom et prénom” (họ và tên) vì đây là vấn đề hộ tịch, vấn đề lý lịch.
Từ điển Pháp Việt của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (ACCT, 1981) đã dịch prénom là tên tục. Dịch như thế thì không thỏa đáng vì tên tục thường là một cái tên xấu do cha mẹ của một đứa bé sơ sinh đặt cho nó để, theo tín ngưỡng cổ truyền, nó khỏi bị thánh thần hay ma quỷ bắt đi. Thí dụ: Cu, Cò, Cún, Đực, v.v. cho con trai; Đĩ, Hĩm, Thẹp, Đẹt, v.v. cho con gái. Còn trong tiếng Pháp và với người Pháp thì những prénoms như Pierre, Paul, François, v.v. lại vốn là những tên thánh; vậy làm sao có thể gọi đó là “tên tục” được? Prénom thực ra chỉ đơn giản có nghĩa là tên.
Cũng quyển từ điển trên đã cho danh từ nom năm nghĩa sau: 1. tên; 2. danh từ; 3. danh nghĩa; 4. nhân vật có tên tuổi; 5. tầng lớp quý tộc. Thế là thiếu mất một cái nghĩa rất quan trọng: đó là “họ”. Trên nhiều loại giấy tờ, người ta vẫn thường gặp nghĩa này. Vậy đây là một nghĩa thực sự thông dụng.
Không đưa nó vào từ điển là một thiếu sót lớn. Khổ nỗi từ điển giải thích (đơn ngữ) tiếng Pháp lại không ghi nó thành một nghĩa riêng. Chẳng hạn Petit Larousse Illustré 1992 đã gộp nó vào nghĩa I.1 của danh từ nom mà giải thích như sau: “Mot servant à désigner une personne, un anImal ou une chose et à les distinguer des êtres de même espèce” nghĩa là “Từ dùng để chỉ một con người, một con vật hoặc một đồ vật và để phân biệt chúng với những vật cùng loại”. Kèm theo nghĩa này là các thí dụ: “Nom de famille” (tên của gia tộc = họ) và “Changer de nom” (đổi tên). Vì từ điển tiếng Pháp không tách cái nghĩa đang xét làm một nghĩa riêng nên các tác giả của quyển từ điển Pháp Việt trên đây mới không ghi “họ” thành một nghĩa riêng của danh từ nom chăng? Nhưng làm từ điển song ngữ (hoặc đa ngữ) đâu có giống hệt như làm từ điển giải thích cho một thứ tiếng riêng biệt.
§ 302. Kiến thức ngày nay, số 191, ngày 10-11 -1995
Hỏi: Khi nói về tên họ của Caius Julius Cæsar, ông An Chi có phân tích rằng Caius là tên riêng, Julius là tên thị tộc còn Cæsar là tên gia tộc (Kiến thức ngày nay, số 153, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 85). Xin cho biết có phải đây là cái mẫu chung cho việc đặt và gọi tên của người La Mã thời cổ đại hay không.
Học giả An Chi giải đáp: Theo Marcus Terentius Varro, thường gọi là Varron (116 – 27 tr. CN) thì ban đầu người La Mã chỉ có một cái tên riêng kèm theo sau là tên của người cha đặt ở cách sở hữu (genitivus) mà thôi. Nếu là phụ nữ có chồng thì sau tên riêng là tên (cũng ở cách sở hữu) của người chồng. Nhưng về sau đã trở thành thông lệ là những người tự do thì mang ba tên, tiếng La Tinh là tria nomina, gồm có praenomen, nomen và cognomen (tria: ba; nomina: tên, số nhiều của nomen). Dưới thời Đế chế chỉ có nô lệ và tiện dân mới tiếp tục mang chỉ duy nhất một cái tên riêng mà thôi.
Praenomen, tiền danh (prae: trước), thực chất là tên riêng của cá nhân, đặt cho đứa bé sơ sinh vào ngày thứ chín sau khi nó chào đời (nếu là con gái thì đó là ngày thứ tám). Khi đứa bé bắt đầu khoác áo tráng niên (virilis toga), nghĩa là bước vào tuổi mười bảy, thì tên của nó sẽ được ghi vào sổ điều tra dân số. Theo Varron, lúc bấy giờ người La Mã có ba mươi tiền danh để lựa chọn mà đặt tên riêng cho con nhưng thực tế chỉ có mười tám tiền danh sau đây là thông dụng: Aulus, Appius, Caius (Gaius), Cnaeus (Gnaeus), DecImus, Caeso (Kaeso), Lucius, Marcus, Manius, Numerius, Publius, Quintus, Servius, Sextius, Spurius, Tiberius, Titus, Vibius. Trên đây là những tiền danh dành cho nam giới còn nữ giới thì chỉ lấy tên thị tộc của cha đặt ở giống cái mà gọi. Còn vào thời xưa nhất còn biết được thì, theo Varron, phụ nữ thường mang tên riêng nói lên màu tóc hay màu mắt của mình, như Rutila (Nàng tóc hung), Caesellia (Nàng mắt xanh), v.v..
Đi liền sau praenomen là nomen, nói đầy đủ là nomen gentilicium, tên thị tộc (gentilicium phái sinh từ gens có nghĩa là thị tộc), thực chất là họ, chung cho tất cả mọi người trong thị tộc, cả đàn ông lẫn đàn bà, tiện dân được bảo hộ và nô lệ được giải phóng. Theo Varron, thì số lượng tên thị tộc lúc bấy giờ là vào khoảng một ngàn (đối với ba mươi tên riêng mà chỉ mười tám là thực sự thông dụng).
Đi liền sau nomen là cognomen, tịnh danh (co là tha hình của hình vị cum, có nghĩa là cùng, với). Tịnh danh ban đầu chỉ thuộc về từng cá nhân và thường phản ánh đặc điểm bề ngoài hoặc bên trong của mỗi người. Sau đây là một số tiêu biểu: Balbus (Người cà lăm), Barbatus (Người nhiều râu), Brutus (Người ngớ ngẩn), Caecus (Người mù), Calvus (Người sói đầu), Cato (Người láu cá), Cicero (Người có nút ruồi), Cocles (Người chột mắt), Crispus (Người tóc quăn), Frugi (Người thật thà), Nasica (Người mũi dài), Niger (Người có nước da đen), Pius (Người hiếu thảo), Rufus (Người tóc hung), Pulcher (Người đẹp trai); Varus (Người chân khoèo), v.v.. Nhưng tịnh danh đã sớm trở thành cha truyền con nối và dùng để chỉ các chi trong thị tộc rồi cuối cùng là để phân biệt các gia tộc với nhau. Vậy đây cũng là một thứ họ.
Ngoài bộ ba praenomen, nomen và cognomen ra, còn phải kể đến một cái tên thứ tư gọi là agnomen, bàng danh (a là tha hình của hình vị ad, có nghĩa là kế bên) là tên mà khi cần thì một cá nhân sẽ lấy khi đã trưởng thành và dùng để phân biệt những người trùng ba tên (tria nomina) với nhau.
Trong văn bia và các văn kiện, ngoài những cái tên trên đây còn có cả chỉ dẫn về tên cha (có khi là của người trên cách đời) và chỉ dẫn về tên bộ lạc nữa. Chỉ dẫn về tên cha được diễn đạt bằng tên riêng của người cha đặt ở cách sở hữu trước từ filius (con trai), từ này thường được viết tắt thành f. (có khi thành l.). Có khi lại còn là tên riêng của ông nội đặt trước từ nepos (cháu), tên riêng của ông cố đặt trước từ pronepos (chắt), thậm chí, trong một số trường hợp, tên riêng của ông sơ đặt trước từ abnepos (chút). Những tên đó đều đặt ở cách sở hữu. Sau chỉ dẫn về tên cha, là chỉ dẫn về tên bộ lạc (bấy giờ có ba mươi lăm bộ lạc) nhưng từ năm 212, khi Caracalla mở rộng quyền công dân cho tất cả các cư dân của Đế quốc thì tập quán đó đã không còn được tôn trọng, rồi đến thế kỷ IV của CN thì đã bị bãi bỏ hẳn.
Trở lên là những cái tên mà một cá nhân đủ tiêu chuẩn cần và có thể có một cách đầy đủ. Còn về cách đặt tên ở La Mã thời đó thì người ta cũng biết được đôi nét như sau. Đứa con hợp pháp của một công dân đương nhiên mang tên thị tộc của cha nó và nói chung thì mang tiền danh của cha nó, nếu đó là đứa con trai đầu lòng. Vì tịnh danh về sau cũng trở thành cha truyền con nối cho nên, trong trường hợp này, ba tên (tria nomina) của cha và của con hoàn toàn trùng nhau (vì vậy mà bàng danh trong trường hợp này là cần thiết, tuy cũng không bắt buộc vì còn có chỉ dẫn về tên cha của người cha, là ông nội của người con). Chẳng hạn như Lucius Cornelio Scipio làm quan chấp chính năm 298, rồi quan tài chính năm 290 (tr. CN), có con trai cũng tên là Lucius Cornelio Scipio, làm quan ngự sử năm 260 rồi quan chấp chính từ năm 259. Vì vậy mà văn bia phải ghi rõ tên của người trước là “L. Cornelio Cn.f. Scipio” còn của người sau là “L.Cornelio L.f. Scipio”. Xin đọc là “Lucius Cornelio Cnaei filius Scipio” và “Lucius Cornelio Lucii filius Scipio” và hiểu là “Lucius Cornelio Scipio, con trai của Cnaeus” và “Lucius Cornelio Scipio, con trai của Lucius” (Cnaei và Lucii là cách sở hữu của Cnaeus và Lucius). Từ đó suy ra, Cnaeus là cha của Lucius cha và ông nội của Lucius con. Cũng xin chú ý là đứng trước nomen (tên thị tộc) thì praenomen luôn luôn được viết tắt.
Về tịnh danh thì vào tảo kỳ của Đế chế, người ta thấy được tập quán sau đây: người con trai cả lấy tịnh danh của người cha làm tịnh danh của mình, người con trai thứ hai lấy tên thị tộc hoặc tịnh danh của mẹ làm tịnh danh, người con trai thứ ba lấy tịnh danh của cha rồi thêm hậu tố -anus làm tịnh danh. Thí dụ: cặp vợ chồng Marcus Cosinius Priscus (chồng) và Tuccia PrIma (vợ) có con trai cả cũng là Marcus Cosinius Priscus (Priscus cũng là tịnh danh của người cha), con trai thứ hai tên là Marcus Cosinius PrImus (PrImus là PrIma đặt ở giống đực) và con trai thứ ba tên là Marcus Cosinius Priscianus (Priscianus là tịnh danh Priscus của cha cộng thêm hậu tố -anus).
Đứa con hoang thường nhận tên thị tộc của người mẹ. Đứa con nuôi thì bỏ ba cái tên cũ của mình mà nhận ba cái tên của người cha nuôi rồi thêm vào đó một bàng danh lấy từ tên thị tộc cũ của mình cộng với hậu tố -anus. Thí dụ: Publius Cornelius Scipio Africanus có con nuôi tên là Publius Cornelius Scipio Aemilianus. Africanus là bàng danh của người cha nuôi còn Aemilianus là bàng danh của người con nuôi và có nghĩa là xuất thân từ thị tộc Aemilia.
Đấy là cách đặt tên của người La Mã thời xưa thuật theo: Raymond Bloch, L’ép igraphie latine, Paris, 1969, pp. 23 – 34 và Paul Lebel, Les noms de personnes, Paris, 1974, pp. 27 – 30. Từ đó suy ra, thì dễ dàng thấy rằng tên họ của Caius Julius Cæsar rõ ràng là đã được đặt đúng theo nghi thức tria nomina của người La Mã vì agnomen chỉ là phụ, chỉ dẫn về tên cha chỉ cần thiết cho văn bia và văn kiện còn chỉ dẫn về tên bộ lạc thì thông hành chẳng được bao lâu. Cæsar, praenomen, rõ ràng là tên riêng; Julius, nomen (gentilicium), rõ ràng là tên thị tộc; còn Cæsar, tuy về hình thức là cognomen (bàng danh), nhưng vì dùng để phân biệt các gia tộc với nhau, nên đương nhiên cũng chẳng phải cái gì khác hơn là tên của gia tộc.
§ 303. Kiến thức ngày nay, số 192, ngày 20-11 -1995
Hỏi: Trong mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 187, ông nói, theo Từ nguyên và Từ hải, một nguyên có 4617 năm. Nhưng theo Thiệu Khang Tiết (1011 – 1077), một nhà tượng số học của Trung Hoa, trong cuốn Hoàng Cực Kinh Thế thì một nguyên có 129.600 năm. Họ Thiệu lập luận như sau: 12 giờ làm ra một ngày, 30 ngày ra một tháng, 12 tháng ra một năm, 30 năm ra một thế, 12 thế ra một vận, 30 vận ra một hội, 12 hội ra một nguyên. Làm toán nhân, ta thấy một nguyên có 129.600 năm với 12 hội từ trưởng tới tiêu (từ hội Tý đến hội Hợi). Cũng cần nói thêm, những điều trên đây, chúng tôi lược dẫn từ cuốn Nho giáo, tập hạ, của Trần Trọng KIm do nhà xuất bản Tân Việt xuất bản năm 1956. Vậy ta nên chấp nhận con số nào, 4617 hay 129.600, tuy rằng những con số ấy chỉ là khái niệm để phân chia thời gian vô tận của vũ trụ mà thôi?
Học giả An Chi giải đáp: Ngoài việc ghi nhận ở mục dương cửu hoặc bách lục dương cửu rằng một nguyên có 4617 năm, dẫn theo “Luật lịch chí” trong sách Hán thư, thì chính hai bộ từ điển Từ nguyên và Từ hải cũng lại có ghi nhận quan niệm của Thiệu Ung (Thiệu Khang Tiết) về số năm của một nguyên là 129.600 năm (Xem mục vận hội). Từ nguyên, chẳng hạn, đã ghi: “Tống Thiệu Khang Tiết Hoàng cực kinh thế thư dĩ tam thập niên vi nhất thế, thập nhị thế vi nhất vận, tam thập vận vi nhất hội, thập nhị hội vi nhất nguyên” (Sách Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết đời Tống lấy ba mươi năm làm một thế, mười hai thế làm một vận, ba mươi vận làm một hội, mười hai hội làm một nguyên). Cứ như trên đây mà tính ra thì một nguyên, rõ ràng có 129.600 năm đúng như ông đã dẫn. Nhưng chính Từ nguyên cũng lại còn ghi nơi chữ nguyên rằng các thầy tử vi lấy 60 năm làm một nguyên (tinh mệnh gia dĩ lục thập niên vi nhất nguyên). Một nguyên của các thầy tử vi chỉ bằng có 1/2160 nguyên theo quan niệm của nhà tượng số học danh tiếng đời Tống mà thôi. Ít nhất người ta cũng thấy được rằng đã có ba quan niệm khác nhau về số năm của một nguyên. Vì đây chủ yếu là vấn đề khoa học huyền bí nên chúng tôi thấy có lẽ không nên dứt khoát khẳng định rằng một nguyên có bao nhiêu năm mà chỉ nên nói rõ rằng theo “Luật lịch chí” trong Hán thư thì có 4617 năm, theo Thiệu Ung thì có 129.600 năm nhưng với các thầy tử vi thì chỉ có 60 năm mà thôi. Sự khác nhau giữa các nhà và các sách này thực ra có thể còn tùy thuộc vào nội hàm của khái niệm “nguyên” đối với riêng từng nhà và từng sách nữa, chẳng hạn như đó là tổng số năm làm thành các chu kỳ thịnh suy của một đời người, hay một triều đại, một quốc gia, hay của trái đất, của vũ trụ, v.v..
§ 304. Kiến thức ngày nay, số 192, ngày 20-11 -1995
Hỏi: Hai chữ “xán lạn” nghe rất êm tai nhưng thấy không dính dáng gì đến chữ “sáng”, mà lại cũng có nghĩa là sáng sủa, rực rỡ, v.v.. Vậy nó có nguồn gốc từ đâu? Hoàn toàn là từ Việt hay từ Hán Việt?
Học giả An Chi giải đáp: Xán lạn là một từ Hán Việt ghi bằng hai chữ Hán 燦爛. Chữ trước thường được đọc là xán (kể cả trong các từ điển Hán-Việt như của Đào Duy Anh, Thiều Chửu, Nguyễn Quốc Hùng, v.v.) nhưng âm Hán Việt chính thống hiện đại của nó lại là thán vì thiết âm của nó là “thứ án thiết”, với phụ âm đầu là th. Còn thiết âm của chữ sau là “lặc ngạn thiết”, vì vậy nên nó mới được đọc là lạn. Âm cuối của cả hai, như đã thấy, đều là n chứ không phải ng, vì vậy nên Nguyễn Quốc Hùng mới nhận xét trong Hán Việt tân từ điển rằng “ta thường nói sáng lạng là lầm”. Xán có nghĩa là sáng, đẹp, chói, tinh khiết. Nó có một song lập thể (doublet) là xắn – mà nhiều người vẫn thích xem là một yếu tố láy hoặc yếu tố vô nghĩa – vẫn còn tồn tại trong từ ghép đẳng lập xinh xắn. Còn lạn cũng có nghĩa là sáng, bóng, láng, lấp lánh. Và cũng có một song lập thể là lặn còn thấy được ở các từ ghép đẳng lập lành lặn và liền lặn (từ cái nghĩa “láng, bóng” của lạn, ở đây lặn có nghĩa rộng là không thô, không nháp, không nhám). Vậy trong từ vựng của tiếng Việt thì xán lạn là một từ Hán Việt có nghĩa là sáng sủa, rực rỡ, đúng như bạn đã nêu.
Còn sáng cũng là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 爽, âm Hán Việt là sảng, cũng có nghĩa là sáng (Đây cũng là chữ sảng trong mê sảng vì nó còn có nghĩa là nhầm lẫn nữa). Sáng cũng đi chung với láng, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 朗, âm Hán Việt là lãng, có nghĩa là sáng, rõ, trong, để làm thành từ ghép đẳng lập sáng láng, vẫn thông dụng trong phương ngữ Nam Bộ và đã được ghi nhận trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức cũng như trong Từ điển từ láy tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên (Hà Nội, 1994).
§ 305. Kiến thức ngày nay, số 192, ngày 20-11 -1995
Hỏi: Hai tiếng “heo” và “may” trong “gió heo may” bắt nguồn từ đâu và có nghĩa là gì?
Học giả An Chi giải đáp: Heo may là một từ tổ vì mỗi thành tố của nó vốn là một từ độc lập. Đó là một từ tổ đẳng lập vì hai thành tố của nó cận nghĩa với nhau. Nhưng ngày nay chỉ có từ tổ heo may là vẫn tiếp tục được sử dụng còn hai từ heo và may tách riêng thì không vì chúng đã trở thành những từ cổ – chứ không phải là những hình vị ràng buộc (phụ thuộc), thậm chí những yếu tố vô nghĩa như một số người có thể quan niệm. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của và Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức có ghi nhận từ tổ “gió heo” và nói chung các từ điển vẫn có ghi nhận từ tổ “gió may”. Vậy rõ ràng là heo và may có thể tồn tại riêng biệt với nhau chứ không phải nhất thiết tồn tại sóng đôi trong “tổ hợp âm tiết” heo may mà có thể có người sẽ đẩy lý thuyết đi xa đến mức khẳng định là một “hình vị lớn hơn âm tiết”!
Heo là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một nguyên từ (etymon) ghi bằng chữ 希, cũng viết 稀, mà âm Hán Việt hiện đại là hy, có nghĩa là ít, thưa, loãng,… Sự tương ứng âm vị heo~hy đã được chứng minh trong: Huệ Thiên, “Hợi và Heo”, Kiến thức ngày nay, số Xuân Ất Hợi, trang 54 (xin xem bài này) nên ở đây chúng tôi không lặp lại. Cái nghĩa của nguyên từ đương nhiên cũng đã được chuyển nhập sang từ heo. Vậy trong tiếng Việt thì đây là một tính từ có nghĩa gốc là ít ỏi, thưa thớt, rồi nghĩa rộng là nhỏ, nhẹ hoặc vắng vẻ, tĩnh mịch.
Nghĩa này của từ heo có thể được tìm thấy trong những từ tổ đẳng lập mà nó là một thành tố, như trong heo hắt, heo hút, leo heo. Thật sai lầm khi cho rằng đây là những từ láy trong đó cả hai âm tiết đều vô nghĩa hoặc chỉ có âm tiết “gốc” mới có nghĩa còn âm tiết kia chỉ là một “yếu tố láy”. Tiếc rằng hầu hết các nhà Việt ngữ học đều đang chủ trương như thế. Nhưng, như chúng tôi đã có dịp phát biểu, “khi mà từ nguyên của một tiếng (âm tiết) nào đó chưa được xác lập thì người ta hoàn toàn chưa có quyền kết luận rằng nó là một yếu tố vô nghĩa và “đó là một điều dứt khoát”*. Hắt, hút và leo thực ra là những từ cổ và đương nhiên là chúng có nghĩa riêng biệt và rành mạch. Từ heo còn có một song lập thể là hiu, thấy được trong dạng láy hiu hiu, trong các từ tổ đẳng lập: hiu quạnh/quạnh hiu, hiu hắt/hắt hiu, đìu hiu, tiu hiu, hẩm hiu và trong từ tổ cố định buồn hiu. Nghĩa của nó đương nhiên cũng là ít ỏi, thưa thớt, rồi nhỏ, nhẹ hoặc vắng lặng, tĩnh mịch, như của heo. Vậy gió heo thoạt kỳ thủy chỉ có nghĩa là gió thổi từng cơn nhẹ rồi về sau mới có nghĩa là “gió lạnh mùa thu từ tây-bắc thổi tới” để đặc chỉ một thứ gió như đã được ghi nhận trong từ điển*.
May là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 微, âm Hán Việt hiện đại là vi, có nghĩa là nhỏ, bé. Trong lãnh vực Hán Việt học thì mối tương ứng âm vị giữa may với vi là hoàn toàn bình thường. Về mối quan hệ m~v, chúng tôi đã có dịp nói đến ở Kiến thức ngày nay, số 156, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 48 – 49, khi bàn về cặp song lập thể mùi~vị. Vì vậy, ở đây, chỉ xin chứng minh mối quan hệ i~ay bằng những thí dụ sau đây: di 移 (dời chỗ, thay đổi)〜 day (Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh: “Day, cây day: Cây bị gió rung” còn trong phương ngữ Nam Bộ thì day = quay đi hướng khác); ly 離 (chia lìa, không còn dính với nhau) ~ lay (chuyển); mi ~ (lông) mày; nghi 宜 (thích hợp, đúng đắn) ~ ngay (trong người ngay, ngay thẳng); phi 〜 bay; quy 規 (cái compas; vẽ vòng tròn) ~ quay, v.v..
Vậy sự tương ứng âm vị vi ~ may là một thực tế đã được chứng minh và gió may có nghĩa gốc là gió nhỏ, gió ít, gió nhẹ. Cái nghĩa “nhỏ, ít” này của từ may cũng còn được ghi nhận trong từ tổ mảy may mà xem ra nhiều người hẳn sẽ khẳng định là một từ lấp láy. Thực ra mảy là một danh từ có nghĩa là phần rất nhỏ, lượng rất nhỏ như đã được ghi nhận trong Từ điển tiếng Việt 1992 còn may thì, như đã thấy, có nghĩa là ít, là nhỏ. Vậy mảy may là một từ tổ danh từ có nghĩa là “phần lượng hết sức nhỏ, hoàn toàn không đáng kể”, đúng như TĐTV 1992 đã giảng. Sự tương ứng âm vị và ngữ nghĩa vi ~ may thế là đã rõ nhưng chúng tôi còn muốn nêu thêm một bằng chứng chắc chắn nữa, đó là chữ vi 微 đang xét còn có nghĩa là huyền diệu, mầu nhiệm nữa. Cái nghĩa này cũng đã được phản ánh vào từ may trong các từ tổ may mắn, may rủi, cơ may, v.v.. Thế là chúng ta có hai cặp tương ứng ngữ nghĩa (cặp thứ nhất liên quan đến nghĩa “nhỏ”, “bé” còn cặp thứ hai liên quan đến nghĩa “huyền diệu”, “mầu nhiệm”) thể hiện bằng một cặp tương ứng âm vị duy nhất là vi ~ may. Trong từ nguyên học, khi người ta có hai cặp tương ứng ngữ nghĩa thể hiện bằng một cặp tương ứng âm vị duy nhất, nói cho chính xác và rõ ràng hơn, là bằng hai cặp tương ứng âm vị đồng nhất, thì điều này chỉ có nghĩa là vấn đề đã được khẳng định một cách chắc chắn mà thôi. Vậy gió may ban đầu chỉ có nghĩa là gió thổi nhẹ từng cơn rồi về sau mới dùng để đặc chỉ thứ “gió nhẹ, hơi lạnh và khô, thường thổi vào mùa thu” (Từ điển tiếng Việt 1992) .
Trở lên chúng tôi đã chứng minh rằng heo và may là những từ Việt gốc Hán và rằng đó vốn là những từ độc lập đồng nghĩa với nhau. Hai từ này, đúng với luật cấu tạo từ trong tiếng Việt, đã kết hợp với nhau mà làm nên từ tổ đẳng lập heo may. Từ tổ gió heo may thoạt kỳ thủy cũng chỉ đồng nghĩa với nghĩa gốc của các từ tổ gió heo và gió may, rồi về sau mới dùng để chỉ thứ gió dịu nhẹ, hơi gây lạnh vào mùa thu, như chúng ta vẫn hiểu hiện nay.
§ 306. Kiến thức ngày nay, số 193, ngày 1 -12-1995
Hỏi: Cách đây 20 năm, không biết ai đã gởi cho tôi, cứ đúng 15 ngày một lần, một tờ giấy trang trí rất đẹp có chứa vỏn vẹn một câu thơ, đánh máy cẩn thận nhưng không ghi tên và địa chỉ người gởi. Sau bốn lần, ráp lại thì được bài thơ sau đây:
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh vi kỷ độ thu
Gát trung đế tử kIm hà tại
Hạm tại trường giang không tự lưu
Hai mươi năm nay, tôi vẫn thường nghĩ về bài thơ này. Xin cho biết tác giả của nó là ai; nó được sáng tác trong hoàn cảnh nào và ý nghĩa của nó là gì.
Học giả An Chi giải đáp: Đó là bốn câu cuối của một bài thơ tám câu mà Vương Bột đã làm để kết thúc bài Đằng Vương các tự của mình. Vương Bột (648 – 675), tự là Tử An, là một thi nhân thời sơ Đường, tương truyền biết làm thơ từ lúc lên sáu; đến mười sáu, mười bảy thì đã nổi tiếng và là một trong tứ kiệt thời sơ Đường. Cha là Phước Chỉ (cũng đọc Trĩ) làm huyện lệnh ở Giao Chỉ. Trên đường đi thăm cha, ngang qua Nam Xương, Vương Bột có ghé dự tiệc do đô đốc Hồng Châu là Diêm Bá Tự mở tại Đằng Vương các (gác Đằng Vương). Nhân dịp này Vương Bột có làm bài Đằng Vương các tự và càng thêm vang danh nhờ bài thơ này. Bá Tự ban đầu tỏ ý xem thường, sau khi đọc xong thì quá đỗi kinh ngạc và phục Vương Bột là thiên tài.
Đằng Vương các do con trai Đường Cao Tổ là Nguyên Anh cho dựng lúc còn làm thứ sử Hồng Châu. Về sau Nguyên Anh được phong là Đằng Vương vì vậy nên mới gọi gác đó là Đằng Vương các.
Bốn câu thơ chép ra trên đây có ba chỗ chưa đúng với nguyên văn, vậy xin chép lại như sau:
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
Các trung đế tử kIm hà tại?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.
Sau đây là hai lời dịch bằng thơ thất ngôn:
Đầm chiếu mây bay, trời lửng lơ,
Sao dời vật đổi, mấy thu rồi?
Con vua trong gác nào đâu nhỉ?
Dòng nước ngoài hiên vẫn tự trôi.*
Đầm nước này vẫn ngày tháng trôi
Mấy phen vật đổi với sao dời
Đằng Vương thuở trước giờ đâu tá?
Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài*
§ 307. Kiến thức ngày nay, số 193, ngày 1 -12-1995
Hỏi: Có phải tác giả Truyền kỳ mạn lục có tên bằng chữ Hán là, 阮嶼 không? Nếu đúng như vậy thì phải đọc là Nguyễn Tự, đâu phải Nguyễn Dữ như nhiều người đã gán cho. Chữ 嶼 được hầu hết các từ điển phiên âm là “tự”. Từ nguyên, Từ hải đều ghi là “từ ngữ thiết, âm tự, ngữ vận”. Có phải do chữ đó thuộc bộ sơn 山 mà bên phải là chữ 與 (dữ) nên họ đọc lầm là “dữ” chăng? Và sao lại có lắm người lầm thế?
Học giả An Chi giải đáp: Truyền kỳ mạn lục, bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện, do Nhà xuất bản Văn nghệ và Hội nghiên cứu giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh in lại năm 1988, có ghi ở phần “Lưu ý bạn đọc” như sau:
“Tên tác giả là Nguyễn Dữ hay Nguyễn Dư? Nếu theo bản “Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú” in năm 1763 thì tên tác giả là 阮璵 (Nguyễn Dư). Chữ 璵 viết có bộ 玉 (Ngọc) là Dư Phan tức là một thứ ngọc quý. Chữ 與 (Dữ) viết không có bộ 玉(Ngọc) có lẽ không đúng. Trong quyển “Việt Nam văn học sử yếu” của Dương Quảng Hàm (trang 290, dòng 12 – bản in lần thứ nhất 1944) có in sai là Nguyễn Dữ nhưng ở cuối sách tác giả đã đính chính thành Nguyễn Dư, có lẽ số đông chúng ta không để ý đến, cứ đọc mãi là Nguyễn Dữ thành thói quen. Thiết tưởng chọn tên người không đặt tên xấu (Dữ) như vậy.
Việt-Nam văn-học sử-yếu của Dương Quảng Hàm, bản in lần thứ hai năm 1951, ở những chỗ có nhắc đến tên của tác giả Truyền kỳ mạn lục (tr. 244 và 288) đều đã sửa lại mà in là Nguyễn Dư và có chú rõ bằng Hán tự chữ Dư là 璵, thuộc bộ ngọc 玉 (Xem tr. 244). Nhưng thực ra không phải chỉ có chữ này mới đọc là dư vì chữ 與 cũng có âm dư chứ không phải chỉ đọc là dữ như nhiều người nhầm tưởng. Thật vậy, chữ này có đến ba âm mà Từ hải đã cho như sau:
– dữ: dục lữ thiết, âm dữ, ngữ vận;
– dự: dư cự thiết, âm dự, ngự vận;
– dư: dục cừ thiết, âm dư, ngư vận.
Việt Hán thông thoại tự vị của Đỗ Văn Đáp và Hán-Việt tân từ-điển của Nguyễn Quốc Hùng cũng ghi đủ cả ba âm dư, dữ, và dự cho chữ đó.
Còn chính chữ 璵 (bộ ngọc) thì lại được Hán-Việt tân từ-điển của Nguyễn Quốc Hùng phiên âm là dữ và giải thích rõ như sau: “Tên người. Tức Nguyễn Dữ, người xã Đỗ tùng, huyện Trường tân, tỉnh Hải dương, đậu cử nhân đời Lê, làm chức Tri huyện, sau cáo quan về phụng dưỡng mẹ già. Tác phẩm có Truyền kỳ mạn lục, chép các truyện lạ ở nước ta, cho biết phong tục, tín ngưỡng của dân ta thời cổ”. Tất cả các quyển từ điển tiếng Hán đều ghi nhận rằng đó là một chữ thuộc bình thanh và đọc là dư. Khang Hy tự điển ghi lại âm mà sách Đường vận đã cho là “dĩ chư thiết” còn Tập vận và Vân hội đã cho là “dương chư thiết”. Từ nguyên và Từ hải đều cho “dục cừ thiết, âm dư, ngư vận”. Vậy không biết Nguyễn Quốc Hùng đã căn cứ vào đâu mà phiên âm chữ đó là dữ? Theo chúng tôi thì đây chắc chắn là do nhầm lẫn mà ra. Chính chữ 嶼 thuộc bộ sơn 山 cũng đã được Nguyễn Quốc Hùng nhầm lẫn mà phiên âm thành dữ mặc dù nó chỉ có âm tự, hoàn toàn đúng như ông đã nêu (Tên của Diêm Bá Tự, nói đến ở câu trên, cũng viết bằng chữ tự 嶼 này).
Tuy nhiên, tên của tác giả Truyền kỳ mạn lục có lẽ không phải là Tự 嶼 (bộ sơn) như ông đã gợi ý. Nhưng cũng không hẳn nó là Dư 璵 (bộ ngọc) vì đây chỉ là căn cứ vào Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú mà thôi (Chữ 璵 trong Việt-Nam văn-học sử-yếu của Dương Quảng Hàm chẳng qua cũng chỉ là căn cứ theo bản này mà ghi). Vậy biết đâu tên đó lại không phải là Dữ 與? Lời “Lưu ý bạn đọc” nói đến trên kia có nhận xét rằng Dữ là một cái tên xấu. Chúng tôi không nghĩ như thế vì đây là tên chữ chứ đâu có phải là tên Nôm mà bảo rằng nó phản nghĩa với hiền hoặc lành rồi đối dịch bằng ác hoặc hung. Ngay cả đối với tên chữ thì người ta cũng chẳng cần phải kiêng kỵ như lời “Lưu ý” đó đã nói. Chẳng hạn ở Trung Quốc có họ Mã – mà ở Việt Nam cũng có – viết hẳn hoi bằng chữ 為 là ngựa nhưng chẳng có ai thấy cần phải “làm đẹp” nó mà thay thế bằng chữ mã bộ ngọc là 瑪 trong mã não hoặc thấy cần phải tránh cái âm mã mà thay nó bằng một âm khác. Hoặc như họ Mao, đồng âm với chữ mao 毛 là lông, lại ghi bằng chính cái chữ Hán đó, nhưng cũng chẳng thấy ai chê là xấu mà đổi thành chữ khác hoặc âm khác.
Lời “Lưu ý” kia có nói rằng “có lẽ số đông chúng ta không để ý đến (chỗ đính chính chữ “Dữ” thành Dư trong sách của Dương Quảng Hàm – AC), cứ đọc mãi là Nguyễn Dữ thành thói quen”. Nhưng chẳng có lẽ Trúc Khê Ngô Văn Triện, người mà “Lời nói đầu” của bản in tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1988 đã gọi là “một học giả và văn gia uyên thâm Hán học”, cũng nhầm? Và chẳng lẽ nhiều học giả khác, Bùi Kỷ và Bùi Duy Tân chẳng hạn, mà bản in này đã có trích ý kiến ở cuối sách (tr. 233 – 238), cũng nhầm? Mới đây, trên Thế giới mới số 150 (11-9-1995), trong bài “Phải chăng tác giả Truyền kỳ mạn lục là học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm” (tr. 8 – 10), Hoài Anh cũng vẫn gọi tác giả đang xét là Nguyễn Dữ.
Tóm lại, vấn đề tên (Dư hay Dữ) và chữ Hán dùng để ghi tên (璵 hay 與) của tác giả Truyền kỳ mạn lục vẫn chưa ngã ngũ. Có thể đó là Dư, ghi bằng chữ 璵 , do sao chép nhầm thành 與 nên mới đọc là Dữ. Cũng hoàn toàn có thể đó là Dữ, Dự hoặc Dư ghi bằng chữ 與 nhưng do không hiểu được dụng ý của người đặt tên nên người sao chép mới muốn “làm đẹp” nó mà thêm bộ ngọc vào để viết thành 璵.Vậy xin tạm phân tích như trên để chất chính cùng các bậc thức giả.
§ 308. Kiến thức ngày nay, số 193, ngày 1 -12-1995
Hỏi: Tôi về Quảng Điền (Thừa Thiên) thăm họ mạc, thấy đề về quê quán của tổ tiên có mấy chữ: Kinh triệu quận, Trần lưu quận. Làng xã huyện tôi trong lịch sử chưa bao giờ có tên là Kinh triệu quận, Trần lưu quận. Có người bảo đó là tên khu vực dưới âm phủ dành cho những người chết theo từng họ (Lê, Nguyễn,…). Có người lại bảo đó là nguồn gốc của họ Lê, họ Nguyễn tận bên Tàu. Thực ra, Trần lưu quận, Kinh triệu quận có nghĩa là gì, kể cả nghĩa của thế giới bên kia?
Học giả An Chi giải đáp: Thực rất khó mà biết được dưới âm phủ có những khu vực dành riêng cho từng họ hay không nhưng ở Trung Quốc thì quả có Trần Lưu quận (quận Trần Lưu) và Kinh Triệu quận (quận Kinh Triệu). Theo Từ hải thì quận Kinh Triệu là do nhà Ngụy đặt ra từ thời Tam quốc, trị sở đặt tại vùng Tây Bắc huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Đến đời Đường thì đổi làm phủ Kinh Triệu và nhà Nguyên đổi làm lộ An Tây. Còn quận Trần Lưu, cũng theo Từ hải, thì được đặt ra từ đời Hán, nằm trên đất huyện Trần Lưu tỉnh Hà Nam ngày nay. Đến đời Tấn lấy làm Trần Lưu quốc; đời Đông Ngụy đặt lại làm quận; đời Tùy bỏ quận, đặt làm Biện Châu (châu Biện). Kinh Triệu, chữ Hán viết là 京兆, còn Trần Lưu thì viết là 陳留 ; vậy không biết có phải đây là những chữ Hán mà ông đã thấy hay không. Và cũng không biết đây có phải là bản quán của cụ tổ họ Lê và cụ tổ họ Nguyễn mà ông đã nói hay không.
§ 309. Kiến thức ngày nay, số 193, ngày 1 -12-1995
Hỏi: Tên báo “Nông cổ mín đàm” có nghĩa là gì? “Mín” là gì?
Học giả An Chi giải đáp: Mín là dạng viết sai chính tả của chữ mính, Hán tự là 茗, mà một số người đã đọc thành dánh. Mính là lá trà non. Nhưng có ý kiến lại cho rằng mính là loại trà hái muộn. Trà kinh của Lục Vũ đã phân thành năm loại như sau: một là trà, hai là giả, ba là thiết, bốn là mính, năm là xuyển. Do hái sớm hoặc hái muộn mà phân loại và gọi tên như trên, trong đó mính và xuyển là hai loại hái muộn nhất. Về sau, người ta dùng từ mính theo nghĩa rộng để chỉ trà nói chung. Vậy mính là trà và mính (mín) đàm có nghĩa là nói chuyện, bàn chuyện trong lúc uống trà; còn Nông cổ mín đàm (tên báo) là uống trà mà bàn chuyện làm ruộng và chuyện buôn bán (Cổ 賈 là buôn bán; vì vậy mà “sĩ, nông, công, thương” cũng nói thành “sĩ, nông, công, cổ”).
§ 310. Kiến thức ngày nay, số 194, ngày 10-12-1995
Hỏi: Xin cho biết 100 họ của dân tộc Việt Nam.
Học giả An Chi giải đáp: Trăm họ, tiếng Hán là bách tính, mà phương ngữ Nam Bộ phát âm là bá tánh. Đây là một từ tổ dùng để chỉ toàn bộ dân chúng trong nước dưới thời phong kiến chứ bá (bách) ở đây không phải được hiểu theo nghĩa đen là (một) trăm. Nhiều người vẫn mặc nhiên cho rằng người Việt có đúng 100 họ chỉ vì những người đó đã căn cứ theo nghĩa đen của từ bách (bá) trong bách tính (bá tánh). Nhưng cũng có thể có người đã căn cứ theo sách vở mà liên hệ như trên vì người Trung Hoa có sách Bách gia tính (Họ của trăm nhà). Đây là quyển sách nhỏ lưu hành trong các trường học ở nông thôn, ghi lại một trăm họ theo lối văn vần cho dễ nhớ. Nhưng đó lại là sách của Trung Hoa chứ đâu phải của Việt Nam. Vả lại đó là một quyển sách không đầy đủ. Vì vậy mà có người còn soạn sách Thiên gia tính (họ của nghìn nhà), ở đời Tống, đời Minh và đời Thanh đều có (nhưng nay đã thất truyền).
Về họ của người Việt, tức người Kinh, thì trên tạp chí Ngôn ngữ số 2, năm 1972, trang 66, Lê Thái Hà đã kê ra 86 họ sau đây: An, Bạch, Bồ, Bùi, Ca (Kha?), Cao, Cổ, Cù, Châu, Chu, Diệp, Doãn, Dương, Đái, Đàm, Đào, Đặng, Đậu, Đinh, Đoàn, Đỗ, Đồng, Giang, Giáp, Hà, Hạ, Hàn, Hoàng (Huỳnh), Hồ, Hứa, Kiều, KIm, Kha, Khổng, Khuất, Khúc, Khương, La, Lã (Lữ), Lại, Lâm, Lê, Lều (Liêu?), Liễu, Lục, Lương, Lưu, Lý, Mã, Mạc, Mai, Mạnh, Nghiêm, Ngô, Ngụy, Nguyễn, Nhữ, Ninh, Ông, Phạm, Phan, Phỉ, Phó, Phùng, Quách, Quan, Tạ, Tăng, Tô, Tôn, Tống, Từ, Tưởng, Thái, Thành, Thẩm, Thân, Trần, Triệu, Trinh, Trương, Ung, Văn, Vũ, Vương, Vưu. Tác giả có nói rõ là chưa thống kê được đầy đủ.
Ngoài 86 họ trên, Lê Trung Hoa còn đưa ra thêm 88 họ sau đây: Âu, Bá, Bì, Bông, Cam, Can, Càn, Càng, Cấn, Công, Cung, Chan, Chân, ChIm, Chử, Diệc, Diêu, Dư, Đan, Địch, Điềm, Điều, Đình, Định, Đoái, Đối, Đôn, Đống, Đức, Đường, Gương, Giản, Há, Hán, Hầu, Hê, Hinh, Hồng, Khiếu, Khu, Khưu, Lộ, Lư, Ma, Mã, Man, Mao, Mị, Ngạc, Ngọ, Ngọc, Ngũ, Nghê, Nhan, Nhâm, Ô, Phàn, Phù, Phú, Phương, Quản, Quang, Sầm, Sĩ, Sở, Sử, Sưu, Tán, Tào, Tân, Tiên, Tiến, Tiêu, Tôn Thất (Tôn Nữ), Tuyên, Thềm, Trang, Trầm, Trinh, Trừ, Trực, U, Uông, Ửng, Vi, Vu, Xa, Xuân. Ngược lại tác giả này đã kê thiếu mất 7 họ mà Lê Thái Hà đã đưa ra là: Kha, Khổng, Khuất, Khương, Lều (Liêu?), Liễu, Vưu*. Vậy số họ do hai tác giả trên đưa ra là 174.
Chúng tôi cho rằng việc điều tra và thống kê trên chưa chính xác. Một số họ có thể là của người Việt Nam gốc Hoa. Và có cái không phải là họ, chẳng hạn như Tôn Thất (Tôn Nữ). Ai cũng biết rằng đây chỉ là hai tiếng dùng thay họ để chứng tỏ mình là “bà con” của vua mà thôi. Ở một phần trước, chính tác giả cũng đã phải gọi đó là “họ” đặt trong ngoặc kép (Xem sđd, tr. 14). Còn họ ChIm (?) thì chúng tôi nghi là do người mang họ viết sai chính tả: đó là Chiêm, mà Lê Trung Hoa đã không ghi nhận. Đến như cái gọi là họ Điềm, mà tác giả Lê Trung Hoa đã dẫn chứng bằng tên họ của nữ điêu khắc gia Điềm Phùng Thị (Xem sđd, tr. 44) thì lại là tên của ông chứ không phải họ của bà. Sau đây là lời giải thích của bà Điềm Phùng Thị: “Tên thật của tôi là Phùng Thị Cúc, chồng tôi là Bửu Điềm cháu 4 đời của ông hoàng Tuy Lý Vương. Theo người Pháp, thông thường tên phải đặt trước họ, người phụ nữ khi lập gia đình phải lấy tên chồng. Điềm Phùng Thị – Điềm là tên chồng tôi, Phùng Thị là họ gốc của tôi”.*
Tóm lại, số họ đích thực là của người Việt có lẽ không đạt đến con số quá lớn như Lê Trung Hoa đã nêu ra.
§ 311. Kiến thức ngày nay, số 194, ngày 10-12-1995
Hỏi: Xin giải thích câu “Ăn vóc học hay”. “Vóc” là gì?
Học giả An Chi giải đáp: Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (Hà Nội, 1989) giảng: vóc “là từ cũ có nghĩa là ít” và “ăn vóc học hay” là “ăn ít nhưng học giỏi”.* Việt-Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng: “Ăn cho nên vai nên vóc thì học cũng phải cho nên người”. Kể chuyện thành ngữ tục ngữ của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên (Hà Nội, 1994) giảng: “Trong câu tục ngữ này các từ vóc và hay là những từ khó hiểu, cần được làm sáng rõ. Trước hết, hay trong học hay có nghĩa là giỏi (…). Vì hay là một tính từ nên vóc, từ đối ứng với nó cũng phải là một tính từ. Tuy vậy, trong văn học dân gian và các truyện Nôm, vóc thường xuất hiện với nghĩa danh từ để chỉ thân thể, dáng hình của con người, chẳng hạn, vóc ngọc mình vàng, lớn người to vóc, vóc sương, vóc bồ liễu… Với ý nghĩa này, vóc không tương ứng với hay trong học hay. Nhưng có lẽ trong tiếng Việt, vóc đã được chuyển nghĩa từ chỗ chỉ thân thể sang chỉ đặc tính khỏe mạnh của con người, chẳng hạn, có vóc được dùng để chỉ “sự cao lớn chắc chắn”, vóc dạc chỉ hình tích cao lớn. Do đó, câu tục ngữ ăn vóc học hay được hiểu là ăn khỏe, học hành giỏi giang”.* Đặc biệt, trong bài viết “Câu đối, nội dung của nó” (trong: Phan Ngọc, Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, tr. 75 – 99), Phan Ngọc phân tích: “Bây giờ thử áp dụng ngữ pháp đối xứng để giải mã các thành ngữ, tục ngữ (có hai vế song song và có số tiếng ngang nhau -AC). Một khi đã theo ngữ pháp đối xứng thì kiến trúc vế này sẽ in hệt như kiến trúc của cái vế đối xứng với nó. Thí dụ, ta muốn giải mã thành ngữ “Ăn vóc học hay”. Kiến trúc “Ăn vóc” sẽ có quan hệ ngữ pháp hệt như “học hay”. Nhưng kiến trúc “Vị-Bổ” chỉ áp dụng cho “Ăn vóc” mà không thể nào áp dụng cho “Học hay” được. Kiến trúc “Vị-Trạng” có thể áp dụng cho “Học hay” nhưng lại không thể nào áp dụng cho “Ăn vóc” được. Cứ như thế, cuối cùng ta phải đến kiến trúc “Vị-Vị”. Nói khác đi, trong thành ngữ này cả bốn chữ đều là vị ngữ cả, một điều không thể thấy ở trong ngữ pháp của ngôn ngữ thông thường. Mà khi đã giải mã ngữ pháp này rồi thì câu này có nghĩa như sau: Phải ăn thì mới có vóc (thân hình to lớn), phải học thì mới tài giỏi được (…) Kiến trúc vị ngữ – vị ngữ là rất khó hiểu, nhưng chính vì khó hiểu mà làm bá chủ trong thành ngữ để cấp cho thành ngữ sắc thái ngôn ngữ của thần linh. Chả lẽ thần linh lại nói năng bình thường như dân trần tục chúng ta sao?”.*
Chúng tôi không tin rằng cá nhân hoặc cộng đồng đã lựa chọn – nhiều thành ngữ vốn là những cụm từ tự do rồi về sau mới được cố định hóa trong từ vựng theo lựa chọn – hoặc sáng tác những thành ngữ bốn tiếng mà Phan Ngọc cho là có cấu trúc “Vị-Vị//Vị-Vị” lại muốn tự biến mình thành những thầy phù thủy bằng cách cấp cho chúng sắc thái ngôn ngữ của thần linh. Họ càng không muốn làm chúng trở nên khó hiểu bằng cách biến chúng thành những giáo điều của một thứ học thuyết hoặc tôn giáo bí truyền. Tục ngữ, thành ngữ có chức năng truyền tải những nguyên tắc và phương châm ứng xử, những kinh nghiệm sống và sản xuất hoặc – đối với thành ngữ – những nhận định có giá trị phổ biến về tính cách của con người và thế giới chung quanh qua các thế hệ. Chẳng ai dại gì “nhiễu sự văn chương” để biến chúng thành những câu thần chú bí hiểm vì một lý do đơn giản là nếu không ai hiểu thì cũng chẳng ai làm theo.
Vậy những thành ngữ hữu quan không phải là khó hiểu ngay từ đầu mà chỉ trở nên khó hiểu theo thời gian. Chỗ khó hiểu của chúng: một là với thời gian, một số trong những tiếng cấu thành chúng đã trở thành những từ cổ; hai là chúng đã bị tách khỏi hoàn cảnh lịch sử – xã hội trong đó chúng ra đời và ba là chúng đã bị từ nguyên dân gian làm méo mó.
Phan Ngọc đã mặc nhận rằng vóc là danh từ (nên mới có khả năng làm bổ ngữ cho động từ ăn) và rằng đó là một thành tố của các từ ghép đẳng lập: sức vóc, vóc dáng, tầm vóc, v.v.. Ông đã chú nghĩa cho nó ở đây là “thân hình to lớn”. Chúng tôi thì cho rằng vóc là tính từ và đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một nguyên từ ghi bằng chữ 郁 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là úc nhưng âm chính thống lại là vúc vì thiết âm của nó là “vu cúc thiết”. Úc (vúc) là thơm, ngon; úc (vúc) liệt là thơm nức (Xem thêm các từ ghép uất úc, úc phức, phân úc v.v. trong từ điển); vậy vóc có nghĩa là thơm, ngon. Còn về mặt tương ứng âm vị thì úc (vúc) ~ vóc là hoàn toàn bình thường vì úc ~ oc còn được tìm thấy qua nhiều cặp khác nữa, chẳng hạn: – (uẩn) khúc ~ (hiểm) hóc; (Nhân) Mục (địa danh) ~ (làng) Mọc; (cực) nhục ~ (cực) nhọc; túc 粟 (hạt lúa) ~ thóc (gạo); trục 躅 (không dứt đi được) ~ (trằn) trọc, v.v..
Tóm lại, vóc có nghĩa là thơm, ngon và “ăn vóc học hay” chỉ đơn giản có nghĩa là ăn ngon học giỏi. Cấu trúc cú pháp của thành ngữ này giống hệt của các thành ngữ: ăn ngon mặc đẹp, ăn ngon ngủ yên, ăn không ngồi rồi, ăn gian nói dối, ăn thật làm dối v.v.. Nghĩa là nó gồm hai từ tổ động từ sóng đôi mà mỗi từ tổ gồm một động từ và một tính từ làm trạng ngữ cho nó. Nếu quan niệm vóc là danh từ như Phan Ngọc đã hiểu thì thế đối sẽ tức khắc trở thành chệch choạc và hiện tượng này cũng xung khắc với lý thuyết của chính ông.
Thật vậy, Phan Ngọc, đã cho rằng thành ngữ Ăn vóc học hay “là tế bào của mọi hình thức nghệ thuật cổ xưa” với ba đặc điểm quan trọng: một là sự đối lập bằng trắc; hai là hiện tượng vần lưng mà ông gọi là vần chuỗi và ba là sự ăn khớp nhau theo nguyên lý nặng nhẹ*. Về đặc điểm sau cùng này, Phan Ngọc giải thích:
“Cha ông ta không phân biệt từ loại như chúng ta, nhưng chia từ thành nặng, nhẹ (…). Đối xứng theo nặng nhẹ tức là nặng đối với nặng chứ không đối với nhẹ (mà cũng không đối với hơi nặng – AC).
Thực hay nặng tương đươngvớidanh từ và đại từ nhân xưng.
Hư hay nhẹ tương đương với thán từ (ru, nhỉ, nhé…), với những từ chỉ liên hệ (thì, và, với…) và những từ bổ nghĩa cho động từ (đã, sẽ, chẳng…).
Bán thực hay hơi nặng tương đương với động từ và tính từ.
Bán hư hay hơi nhẹ tương đương với từ chỉ trạng thái và những từ láy âm.
(…) Cha ông ta phân biệt rành mạch danh từ với động từ, nhưng lại không phân biệt động từ với tính từ đơn tiết”.*
Từ sự giải thích của Phan Ngọc mà suy ra thì động từ và tính từ hợp thành lớp bán thực từ, phân biệt hẳn với danh từ thuộc lớp thực từ. Hai lớp này không thể đối với nhau. Điều này đúng với truyền thống nghệ thuật đối xưa nay là chưa từng có câu đối chỉnh nào, càng không có câu đối hay nào, mà danh từ lại đối với tính từ của câu kia. Vậy làm thế nào mà vóc trong “ăn vóc học hay” có thể là danh từ trong khi, đối lại với nó, hay lại là một tính từ? Chính vì thấy chỗ bất hợp lý của việc xem vóc là danh từ cho nên Kể chuyện thành ngữ tục ngữ của Viện ngôn ngữ học mới khẳng định rằng đó là một tính từ (nhưng lại không thỏa đáng trong việc “đoán nghĩa” của nó). Còn Nguyễn Lân thì cũng mặc nhận rằng vóc là tính từ (nên mới giảng nghĩa là “ít”).
Tóm lại, theo chúng tôi, vóc là tính từ; đó là một từ cổ, có nghĩa là thơm, ngon. Và ăn vóc học hay có nghĩa là ăn ngon học giỏi (cùng một kiểu cấu trúc với ăn ngon mặc đẹp, ăn ngon ngủ yên, v.v.).
§ 312. Kiến thức ngày nay, số 195, ngày 20-12-1995
Hỏi: Trên Kiến thức ngày nay, số 190, mục Chuyện Đông chuyện Tây, khi phân tích câu thứ 2168 của Truyện Kiều ông có đề cập đến luật bằng trắc của thơ lục bát. Ông nhấn mạnh: “Xin nhớ rằng trong 3254 câu Kiều, không một câu nào có tiếng thứ hai thuộc thanh “trắc”. Chúng tôi, lại thấy rằng trong Truyện Kiều có ít nhất 05 (năm) câu mà chữ thứ hai thuộc thanh trắc. Đó là các câu số 17, 149, 163, 577 và 583. Bản Truyện Kiều mà chúng tôi so sánh là bản in lần thứ 9 do GS. Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991.
Học giả An Chi giải đáp: Xin thành thật hoan nghênh và cám ơn ông đã thẳng thắn xây dựng mục Chuyện Đông chuyện Tây bằng những ý kiến hoàn toàn chính xác. Các câu thứ 17, 149, 163, 577 và 583 trong Truyện Kiều đều là những câu có tiếng thứ hai thuộc thanh “trắc”.
Thứ đến, chúng tôi xin cải chính rằng do lỗi kỹ thuật (lỗi này đã được sửa khi in thành sách) nên ở các dòng mà ông đã trích dẫn, chữ “bát” sau chữ “câu” và trước chữ “nào” trong bản thảo của chúng tôi đã bị bỏ sót. Vậy nguyên văn của chúng tôi là: “Xin nhớ rằng trong 3254 câu Kiều, không một câu bát nào có tiếng thứ hai thuộc thanh trắc”. Nghĩa là trong 1627 liên lục bát của Truyện Kiều thì ở đây chúng tôi chỉ nhấn mạnh đến những câu bát mà thôi. Cũng như ở một phần trên, chúng tôi đã viết: “Còn gì lý tưởng hơn là cái khung (lục) bát đó để tả chiều rộng của vai và chiều cao của thân?”. Chữ “lục” ở những dòng đó đã được chúng tôi đặt trong ngoặc đơn vì chúng tôi chỉ quan tâm đến câu bát.
Cuối cùng, các câu có tiếng thứ hai thuộc thanh trắc mà ông đã nêu ra:
– Mai cốt cách tuyết tinh thần (17);
– Nền phú hậu bậc tài danh (149);
– Người quốc sắc kẻ thiên tài (163);
– Người nách thước kẻ tay đao (577);
– Đồ tế nhuyễn của riêng tây (583);
đều là những câu lục chứ không phải là những câu bát. Các câu 83, 487, 601, 837, 1213, 1233, 1245, 1861, 1915, 2005, 2305, 2685, 2829, 2841, 3189 và 3223 cũng là những câu có tiếng thứ hai thuộc thanh trắc nhưng cũng đều là những câu lục. Những câu này – trừ câu 1861 sẽ nói đến bên dưới – không phạm luật bằng trắc trong thơ lục bát vì chúng được ngắt nhịp ở cuối tiếng thứ ba, đúng với lời chú sau đây của Dương Quảng Hàm: “Khi nào câu sáu chia làm hai đoạn dài bằng nhau thì chữ thứ hai có thể đổi bằng ra trắc được”.* Trừ hai câu 83 và 1861; những câu còn lại đều bao hàm hai vế tiểu đối (ba tiếng sau đối với ba tiếng trước): đây cũng là nét đặc sắc đáng chú ý.
Có khi do phiên âm không thỏa đáng, nhà biên khảo đã biến tiếng thứ hai của câu lục trong Truyện Kiều thành một tiếng có thanh trắc. Diên Hương, chẳng hạn, đã phiên câu 799 như sau: “Trên án sẵn có con dao” và vì vậy mà đã thống kê nó vào hàng những câu lục có tiếng thứ hai thuộc thanh trắc.* Thật chẳng khác nào một câu văn xuôi tầm thường vì câu này lại ngắt sau tiếng thứ hai (Trên án / sẵn có con dao) chứ không phải sau tiếng thứ ba (Thực ra, nhiều bản phiên âm quen thuộc như của Đào Duy Anh, Nguyễn Thạch Giang, v.v., đều phiên tiếng thứ hai của câu đó theo thanh bằng). Tiếng thứ hai của câu 1861 (Sao chẳng biết ý tứ gì?) cũng đã được các nhà biên khảo (Đào Duy Anh, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Quảng Tuân, Vũ Văn Kính, v.v.) phiên theo thanh trắc. Chúng tôi cho rằng đó là một sự phiên âm không thỏa đáng. Trong văn bản Nôm, tiếng đang xét được ghi bằng chữ 庄. Chữ này có thể đọc thành chăng hoặc chẳng. Chăng có nghĩa gốc là “không” còn chẳng là hình vị ríu của hai hình vị chăng có (mà về sau vì không còn rõ được từ nguyên nên người ta mới tạo ra cả kết hợp chẳng có), giống như chửa là hình vị ríu của hai hình vị chưa có hoặc khổng trong phương ngữ Nam Bộ là hình vị ríu của hai hình vị không có. Phải chăng có nghĩa là “phải không?”, nên chăng có nghĩa là “nên không”, v.v.. Vậy, theo chúng tôi, câu 1861 nên được phiên là:
Sao chăng biết ý tứ gì?
để tránh cho nó cái vẻ thô thiển của một câu văn xuôi tầm thường như đã nói ở trên về câu 799. Thực ra, cả Đào Duy Anh, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Quảng Tuân và Vũ Văn Kính cũng đều thực hiện điều này khi phiên âm câu 339 thành:
Dù (dầu) chăng xét tấm tình si.
Chữ chăng ở đây, lẽ ra cũng phải đọc thành chẳng.
Trên đây, chúng tôi đã lạm bàn thêm đôi điều về một số câu lục trong Truyện Kiều còn tóm lại thì, trong kiệt tác này của Nguyễn Du, không có bất cứ một câu bát nào mà tiếng thứ hai lại thuộc thanh trắc.
§ 313. Kiến thức ngày nay, số 195, ngày 20-12-1995
Hỏi: Tại sao lại nói “phục sát đất” để chỉ thái độ ngưỡng mộ đối với một cá nhân nào đó?
Học giả An Chi giải đáp: Phục là một từ Hán Việt, chữ Hán là 伏, gồm có chữ nhân đứng 亻 (= người) và chữ khuyển 犬 (= chó). Đây là một chữ hội ý mà cái ý được hội thường được giảng là “con chó nằm nơi cửa để làm nhiệm vụ giữ nhà cho con người phòng khi có việc bất thường thì sủa lên”, do đó mà nghĩa gốc của phục là chăm lo công việc, là quản lý (Xem, chẳng hạn, Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển của Cao Thụ Phiên). Thực ra, cái nghĩa “văn tự học” của chữ phục này còn đơn giản hơn một chút nữa: đó là “con chó trong tư thế nằm ở dưới chân của người chủ”; vậy nghĩa gốc của nó là nằm mọp xuống (Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S. Couvreur: “être couché la face contre terre” – Mathews’ Chinese-English Dictionary: “to prostrate”). Từ nghĩa gốc này, phục còn có thêm các nghĩa khác như: – khiêm nhường, khúm núm; – tuân theo, chịu theo, v.v.. Phần lớn các nghĩa trong cấu trúc ngữ nghĩa của chữ phục 伏 này đã được chuyển sang một chữ đồng âm với nó là 服 (phục), vì vậy mà người ta mới viết khâm phục, phục bái (tiếng Việt nói ngược lại thành bái phục), kính phục bằng chữ phục 服 này. Đây thực chất là một cách dùng giả tá (mượn chữ đồng âm để ghi) và cách dùng lẫn lộn hai chữ phục trên đây vẫn còn được thấy qua một số trường hợp, như phục trong phục thị (hầu hạ, phục dịch), phục tội (chịu tội) v.v., vẫn có thể viết bằng 伏 hoặc 服. Vậy nếu phải trả cái gì của Cæsar cho Cæsar thì chữ phục trong khâm phục, bái phục, kính phục sẽ được viết là 伏 (=mọp xuống) và với tự dạng này thì sẽ dễ dàng thấy rằng phục sát đất có nghĩa gốc là nằm úp mặt sát xuống đất. Trong quá trình chuyển nghĩa của nó, từ phục về sau còn có thêm nghĩa mà Từ điển tiếng Việt 1992 giảng là “cho là tài, giỏi, là đáng tôn trọng”. Người ta đã giữ nguyên thành ngữ phục sát đất vốn chỉ được hiểu theo nghĩa đen của cả ba từ phục (= nằm mọp xuống), sát và đất mà dùng theo cái nghĩa bóng trên đây của từ phục (= cho là tài giỏi…) do đó mới làm nảy sinh điều thắc mắc mà bạn đã nêu lên trong câu hỏi của mình.
§ 314. Kiến thức ngày nay, số 195, ngày 20-12-1995
Hỏi: Xin cho biết tác giả của bài thơ sau đây:
Lác đác rừng thu hạt móc sa,
Ngàn lau hiu hắt khí thu già.
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây vờn cửa ải xa.
Khóm trúc tuôn đôi hàng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay đao xích,
Thành quạnh dồn chân bóng ác tà.
Có phải đó là Bà Huyện Thanh Quan hay không?
Học giả An Chi giải đáp: Xét về phong cách thì, theo thiển ý, bài thất ngôn bát cú trên đây quả có phảng phất giọng thơ của Bà Huyện Thanh Quan. Nhưng đây lại là thơ dịch cho nên nếu phải thì bà cũng chỉ là dịch giả mà thôi. Trong sách Quốc văn cụ-thể của Ưu-Thiên Bùi Kỷ (Nxb. Tân Việt, in lần thứ hai, Sài Gòn, 1950), tác giả có chép bài thơ này rồi ghép nó vào đầu bản dịch bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị (thành thơ song thất lục bát tiếng Việt mà nhiều người cho là của Phan Huy Vịnh, có người cho là của Nguyễn Văn Siêu, lại có người cho là của Nguyễn Công Trứ). Tác giả chỉ cho biết ở cước chú rằng “bài này dịch bài thơ Thu-hứng của Đỗ Phủ” (Sđd, tr. 141, chth. 1), ngoài ra không cho biết gì hơn, kể cả tên của dịch giả. Văn bản của Bùi Kỷ có bốn tiếng – mà chúng tôi cho là đúng hơn -khác với văn bản mà ông đã ghi: tiếng 2 câu 2 là Vu chứ không phải lau; tiếng 4 câu 4 là đùn chứ không phải vờn; tiếng 2 câu 5 là cúc chứ không phải trúc và tiếng 4 câu 8 là châm chứ không phải chân.
Thu hứng thực ra là một chùm tám bài thất ngôn bát cú – chứ không phải là một bài đơn độc – mà Đỗ Phủ đã sáng tác vào năm 766, lúc ông đã năm mươi bốn tuổi. Bản dịch trên là của bài thứ nhất mà nguyên văn là:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn Vu hạp (hiệp) khí tiêu sâm
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Dịch nghĩa:
Sương mùa thu làm cho rừng phong tàn úa
Nơi núi Vu, kẽm Vu, cảnh sắc thật là hiu quạnh
Giữa dòng sông sóng lớn tung đầy trời
Nơi biên ải gió thổi mây trôi là là mặt đất
Cúc khóm hai lần nở đã làm tuôn lệ những ngày nào
Thuyền lẻ đã buộc một lần (là buộc luôn) lòng ta hướng về chốn vườn xưa
Nơi nơi đều giục giã các tay kéo tay thước khâu may áo rét
Dưới bóng cao của thành Bạch Đế, tiếng chày giặt áo buổi chiều đang nện gấp (vì đêm sắp xuống rồi).
Chú thích: – Ngọc lộ: sương thu. Mathews’ Chinese-English Dictionary: “the dew of autumn”. 一 Vu sơn: núi Vu. Vậy dịch thành “ngàn Vu” đúng hơn là “ngàn lau”. – Hạp : kẽm núi. Cũng đọc hiệp. – Tiêu sâm: hiu quạnh, vắng lặng. – Tùng cúc: cúc trồng thành bụi, thành khóm. Khác với cúc tùng là khóm cúc, bụi cúc. Dù sao thì ở đây vẫn là “khóm cúc” chứ không phải “khóm trúc”. – Đao xích: kéo và thước, đồ nghề của thợ may. Đao ở đây thực chất là tiễn đao (= kéo). – Bạch Đế: tên một tòa thành nằm ở phía Đông huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên. – Châm: cái chày bằng đá để nện quần áo trong khi giặt. Vì đây là một từ khó hiểu nên người ta mới dễ nhầm “dồn châm” thành “dồn chân”.
Xin chép lại toàn văn bản dịch như sau:
Lác đác rừng thu hạt móc sa,
Ngàn Vu hiu hắt khí thu già.
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn đôi hàng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay đao xích,
Thành quạnh dồn châm bóng ác tà.
§ 315. Kiến thức ngày nay, số 196, ngày 1 -1 -1996
Hỏi: Xin cho biết lịch sử việc chia ngày thành giờ của phương Tây và phương Đông.
Học giả An Chi giải đáp: Về lịch sử của việc chia ngày thành giờ, Paul Couderc đã viết như sau:
“Nhu cầu về một giờ liên tục chính xác là một kết quả của văn minh (…) Ngược lại, hiển nhiên là các dân tộc cổ xưa chỉ chia ngày ra thành một số ít phần, mà cũng khá mơ hồ (…) Sáng thế ký (trong Kinh Cựu ước – AC), các thi phẩm của Hésiode, chỉ phân biệt có buổi chiều và buổi sáng. Homère kể ra lúc bắt đầu, khoảng giữa và lúc kết thúc của đêm, buổi sáng, buổi giữa ngày và buổi chiều. Người Ba Tư cổ xưa coi trọng năm kỳ: bình minh (từ giữa đêm đến lúc mặt trời mọc), thời gian hiến tế (từ lúc mặt trời mọc đến đúng ngọ), thời gian nắng sáng (từ đúng ngọ đến lúc mặt trời lặn), buổi sao mọc (từ khi mặt trời lặn đến giờ sao xuất hiện lúc hoàng hôn), thời gian cầu kinh (từ lúc chập tối đến nửa đêm). Trước khi người ta biết chia ngày thành giờ, người La Mã đã chọn lựa từ ngữ rất hay để đánh dấu, dù sao cũng là một cách mơ hồ, các giai đoạn khác nhau của ngày và đêm. Đó là: diliculum (rạng đông), mane (buổi sáng), ad meridiem (chớm ngọ), meridies (chính ngọ), de meridie (quá ngọ), suprema (mặt trời lặn dần), vespera (buổi chiều), crepusculum (hoàng hôn), prIma fax (bó đuốc đầu tiên), concubium (lúc chung chạ), intempesta nox (khuya), media nox (nửa đêm), gallicinium (tiếng gà gáy). Trong một thời kỳ lâu dài, tiếng gà gáy đã là dấu hiệu chính xác nhất cho sự làm việc trở lại.
Sự phân chia ngày thành giờ chắc là do nguồn gốc Chaldaea. Một số tác giả (Cantor) nói về sự phân chia nguyên thủy thành sáu mươi phần (liên quan với hệ đếm lục thập phân) cho một ngày. Người Trung Hoa và những quyển lịch bằng tiếng védique của Ấn Độ cũng sử dụng sự phân chia ngày thành những phần sáu mươi. Số lượng lớn của những phần đó làm cho việc thực hiện sự tính đếm chúng đáng nghi ngờ. Dù sao đi nữa, từ thời kỳ mà tư liệu xuất hiện dồi dào (thế kỷ VIII trước Công nguyên), thì ta cũng biết được rằng người Babylonia đã phân chia ngày thành mười hai phần bằng nhau gọi là kaspu, tương ứng với hai giờ của chúng ta, mà có thể là họ đã đo đếm với một sự chính xác vừa đủ bằng các thủy thời kế (đồng hồ nước).
(…) Mỗi kaspu chia thành sáu mươi phút, mỗi phút (theo lý thuyết) chia thành sáu mươi giây. Những sự tính toán thiên văn học đã bắt buộc phải trình bày một số thời lượng bằng những giá trị bao hàm cả phút và giây, nhưng người ta vẫn phải tiếp tục hoài nghi về kích thước vật lý của những đại lượng đó nếu như người ta nghĩ rằng nhà thiên văn học vĩ đại người Hy Lạp, Claudius Ptolemaeus hồi thế kỷ thứ hai của kỷ nguyên chúng ta, không bao giờ chỉ rõ thời gian của một cuộc quan sát bằng một sự chính xác lớn hơn một phần tư giờ.
Người Do Thái cổ xưa không có ý niệm gì về sự phân chia thành giờ trước khi họ vây hãm được Niniva và Babylonia (từ thế kỷ VIII trước kỷ nguyên chúng ta trở đi). Khi họ học được điều này thì ngày của họ được chia làm bốn phần, mỗi phần ba giờ và đêm của họ được chia làm bốn canh, mỗi canh ba giờ. Người ta thấy được ở người La Mã một tục lệ tương tự: một viên chức được giao trách nhiệm loan báo đầu giờ thứ nhất, cuối giờ thứ ba, cuối giờ thứ sáu và cuối giờ thứ chín.
Được sự tiếp nhận của người Hy Lạp, rồi mãi về sau, của người La Mã (hai trăm sáu mươi ba năm trước kỷ nguyên của chúng ta), sự phân chia thành giờ, với phút và giây theo hệ lục thập phân, đã trở thành phổ biến (…).
Sự phân chia thành hai mươi bốn giờ có vẻ phát sinh từ việc sử dụng mười hai giờ kiểu Chaldaea vừa cho ngày (thì lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn), vừa cho đêm”.*
Liên quan đến vấn đề này, xin xem thêm bài “Vì sao một ngày lại được chia làm 24 giờ?”.*
Chúng tôi thật rất lấy làm lạ khi thấy Couderc nói rằng người Trung Hoa đã chia ngày ra làm sáu mươi phần. Không biết tác giả này đã căn cứ vào đâu còn thư tịch đáng tin cậy của chính người Trung Hoa thì cho biết rằng ban đầu họ đã chia ngày thành mười giờ, rồi về sau, thành mười hai giờ. Riêng Lưu An, tác giả của sách Hoài Nam Tử thì lại chia thành mười lăm giờ là: thần minh, phỉ minh, đán minh, tảo thực, yến thực, ngu trung (chữ ngu 隅 vẫn thường bị đọc sai thành “ngung: kể cả trong các từ điển Hán Việt như của Đào Duy Anh, Thiều Chửu, Nguyễn Quốc Hùng, v.v.), chính trung, tiểu thiên (chữ thiên 遷 thường bị viết sai thành hoàn 還 nên nhiều sách ghi thành “tiểu hoàn”), bô thời, đại thiên (bị ghi thành “đại hoàn” vì lý do nói trên), cao thung, hạ thung, huyền xa, hoàng hôn, định hôn. Nhưng chỉ có việc phân chia thành mười hai giờ mới là phổ biến trong thiên hạ mà thôi. Tên của mười hai giờ ban đầu là như sau: dạ bán (nửa đêm), kê minh (gà gáy), bình đán (chân trời rựng sáng), nhật xuất (mặt trời mọc), thực thời (giờ ăn), ngu trung (chớm ngọ), nhật trung (đúng ngọ), nhật điệt (mặt trời bắt đầu chếch về hướng tây), bô thời (giờ ăn chiều), nhật nhập (mặt trời lặn), hoàng hôn (chạng vạng), nhân định (mọi người đi ngủ). Về sau, mười hai giờ của người Trung Hoa đã được gọi bằng các tên sau đây: tí, sửu, dần, mẹo (mão), thìn, tỵ, ngọ, mùi (vị), thân, dậu, tuất, hợi. Tập hợp của những tên trên đây ban đầu được gọi là thập nhị thời hoặc thập nhị thần (mười hai giờ), mãi về sau mới gọi là thập nhị (địa) chi cho đến ngày nay. Vậy mười hai địa chi vốn là tên của mười hai giờ trong một ngày rồi về sau mới dùng để chỉ cả ngày, tháng và năm như hiện nay.