Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 1: Câu hỏi 246 - 280
§ 246. Kiến thức ngày nay, số 175, ngày 1 -6-1995
Hỏi: Vào ngày 10 tháng 3 Ất Hợi vừa qua, nhân ngày chạp mả hàng năm, tộc chúng tôi làm lễ khánh thành Nhà thờ tộc. Ngôi nhà thờ được các nghệ nhân tô đắp rất công phu và mỹ thuật. Tuy nhiên, có một chi tiết trang trí mà nếu không kịp thời dàn xếp thì đã xảy ra chuyện không hay.
Số là ở tại gian giữa của hậu tẩm, nơi bệ để các thần vị, thay vì làm bằng phẳng, lát gạch men thì người thợ lại đắp thành hình con dơi xòe đôi cánh rất đẹp. Theo ông ta thì con dơi tượng trưng cho phúc đức, trái lại, có một người anh em họ, hiện thường trú ở Huế, cho rằng dơi là loài ăn đêm, vừa chIm, vừa chuột, là loài ăn trộm, xấu xa… nếu không đập đi thì ông sẽ bỏ về… Để xoa dịu, chúng tôi đề nghị tạm thời phủ một tấm vải điều lên con dơi để làm lễ. Sau đó, sẽ tham khảo ý kiến của những người am hiểu xem sao. Như vậy muốn giữ lại hay phá đi cũng có cơ sở chứng minh. Riêng tôi cũng không hiểu rõ con dơi là biểu tượng của cái gì, chỉ thấy trên các tấm liễn thêu hoặc trong các bộ lư đồng, người ta vẫn có thêu hoặc chạm hình con dơi, chắc cũng phải có ý nghĩa tốt nào đó. Vì vậy mà hôm nay chúng tôi mới mạo muội giãi bày sự việc cùng ông để nhờ ông giải đáp cho chúng tôi được thông suốt.
Học giả An Chi giải đáp: Theo tín ngưỡng dân gian của người Trung Hoa – mà nhiều người Việt Nam cũng tiếp nhận – thì con dơi là biểu tượng của điều phúc. Tín ngưỡng này không bắt nguồn từ đặc điểm sinh vật học của con dơi mà bắt nguồn ở chỗ tên của con vật này trong tiếng Hán lại đồng âm với từ phúc trong “phúc đức”, “hạnh phúc” v.v.. Trong ngôn ngữ này, tên của con dơi là biên phúc 蝙蝠, cũng nói tắt thành phúc 蝠. Vậy nó đồng âm với phúc 福 trong phúc đức, v.v.. Cả hai chữ Hán trên đây, tiếng Bắc Kinh đều đọc là fú còn tiếng Quảng Đông thì đều đọc là phúc. Người Trung Hoa có tập quán lấy hình ảnh của những sự vật mà tên gọi lại đồng âm với tên gọi của những hiện tượng tốt lành để làm biểu trưng cho chính hiện tượng đó. Có lẽ cũng do ảnh hưởng của tập quán này từ người Trung Hoa mà người Việt Nam (nhất là ở miền Bắc) trước đây mới có tục hái lộc trong đêm giao thừa. Hái lộc chẳng qua là hái chồi non, lá non (lộc là chồi non). Nhưng lộc ở đây lại đồng âm với lộc 祿 trong “bổng lộc” v.v., cho nên việc hái “lộc” kia mới tượng trưng cho việc hái lộc này. Người Việt miền Nam thích chưng bông mai trong ba ngày tết (nguyên đán) cũng vì lý do tương tự, nghĩa là vì tên của cây mai cũng đồng âm với từ may trong “may mắn” mà nhiều người, nhất là ông già, bà cả, vẫn thường phát âm thành mai [maj].
Tóm lại, hình ảnh con dơi tượng trưng cho phúc lành là điều có thực trong tín ngưỡng dân gian của người Trung Hoa mà nhiều người Việt Nam tiếp nhận nên người thợ đắp hình con dơi trong hậu tẩm mới giải thích như ông đã cho biết. Nơi chữ phúc (là con dơi), Mathews’ Chinese-English Dictionary cũng đã ghi: “used as an emblem of happiness, from the sound” nghĩa là dùng làm biểu trưng cho phúc lành, do (đồng) âm.
§ 247. Kiến thức ngày nay, số 175, ngày 1 -6-1995
Hỏi: Câu thần chú “Án ma ni bát mê hồng” có nghĩa là gì?
Học giả An Chi giải đáp: “Án ma ni bát mê hồng” là hình thức phiên âm sang tiếng Hán (đọc theo âm Hán Việt) của một câu thần chú bằng tiếng Sanskrit, nguyên văn là Om mani padme hum. Om là một từ biểu hiện sự thiêng liêng mà các thầy pháp (phù thủy) người Việt Nam trước đây thường phát âm thành úm. Mani là ngọc báu. Padme là biến thể hình thái học theo cách vị trí (cas locatif) của danh từ padma, có nghĩa là hoa sen. Còn hum là một thán từ thường dùng trong nghi lễ; có thể tạm phiên âm thành “hùm”. Và Om mani padme hum, tức Án ma ni bát mê hồng, có nghĩa là “Úm, ngọc báu trong hoa sen, hùm”.
Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn đã viết về câu đó như sau: “Câu chú rất linh bằng tiếng Phạn, hiệp lại sáu chữ. Nên đọc: Óm-Ma-ni-bát-mê-hồng. Tức là câu Lục-tự Đại-minh chơn-ngôn. Các người tu Phật, nhứt là người tu Phật ở Tây Tạng thường đọc câu ấy lắm. Có lắm người nhập thất, đọc luôn câu ấy hết ngày thâu đêm. Đọc câu ấy thì được chư Phật phò trì, tu hành tấn hóa và khi thác thì vãng sinh về cõi tịnh độ.
Mỗi lần niệm mà muốn cho đủ thì nên niệm cho đủ 108 lần.
(…)
Người niệm câu ấy có ý mong rằng mình sẽ vượt qua các quả mà đến ngôi vị của Phật. Hoặc họ có ý nguyện chừng thác thì sẽ được mình ngồi trong tòa sen ở cảnh Tịnh độ ở Tây Phương.
Bên Tây Tạng, từ người tu xuất gia cho đến kẻ thiện tín tại gia, ai nấy đều trì niệm câu Lục-tự đại-minh chơn-ngôn ấy.
Riêng ai muốn chuyên môn tu pháp-môn ấy thì họ đến cầu pháp, thọ lễ quy y ở một đại sư”.*
§ 248. Kiến thức ngày nay, số 175, ngày 1 -06-1995
Hỏi: Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé. Câu này về mặt văn học thì hay vô cùng. Nòng nọc mà bị mất đuôi thì còn gì tình nghĩa nữa. Thế nhưng, ngày nay con cháu của bà Hồ Xuân Hương được học về sinh vật học lại thấy rằng nòng nọc không đứt đuôi mà ngược lại cái đuôi còn tồn tại suốt cả cuộc đời của con cóc, con ếch. Khi con ếch đã trưởng thành, ta còn thấy mẩu cuối của cái đuôi.
Học giả An Chi giải đáp: Dù sao chúng tôi cũng xin lưu ý rằng con cóc, con ếch được xếp vào liên bộ không đuôi, bên cạnh liên bộ có đuôi và liên bộ không chân của lớp động vật lưỡng cư. Còn chuyện ông bà chúng ta nói “nòng nọc đứt đuôi” thì cũng giống như chuyện các vị ấy bắt con tò vò phải nuôi nấng và khóc thương con nhền nhện trong mấy câu:
Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn, nó quện nó đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi, nhện hỡi mày đi đằng nào?
Có biết đâu rằng chính con tò vò đã bắt con nhền nhện làm thức ăn dự trữ, rằng đó là biểu hiện hùng hồn và khắc nghiệt của cuộc đấu tranh sinh tồn chứ đâu có phải là một hành động từ thiện!
§ 249. Kiến thức ngày nay, số 175, ngày 1 -6-1995
Hỏi: Tà tà bóng ngả về Tây. Cụ Nguyễn Du viết câu này để nói là đã xế chiều rồi “chị em thơ thẩn dan tay ra về” kẻo tối. Thế nhưng con cháu các cụ ngày nay nghĩ rằng buổi chiều thì bóng ngả về Đông. Nếu bóng ngả về Tây mà “tà tà” thì còn khoảng 8-9 giờ sáng, vội gì phải về. Còn nếu đến ngọ thì bóng đã không tà. Vậy xin An Chi giải thích giúp để chúng tôi được hiểu theo kiến thức ngày nay của con cháu các cụ?
Học giả An Chi giải đáp: Vấn đề là ở nghĩa của từ bóng. Nghĩa này đã được Từ điển tiếng Việt 1992 cho như sau: “4 (kết hợp hạn chế). Ánh sáng. Bóng nắng xuống thềm. Bóng trăng mờ mờ”. Còn Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức thì ghi như sau: “Bóng ác. Ánh sáng mặt trời. “Bóng mặt trời. Nắng, ánh sáng mặt trời”. Bóng trăng. Ánh sáng mặt trăng”. Đặc biệt là: “Bóng xế. Bóng mặt trời (tức ánh mặt trời – AC) lúc xế chiều”. Vậy, với nghĩa đã dẫn ra trên đây thì “tà tà bóng ngả về Tây” là ánh sáng mặt trời đã lùi dần về hướng Tây (vì mặt trời lặn về hướng này). Nguyễn Du đã tả cảnh đúng theo thực tế khách quan.
§ 250. Kiến thức ngày nay, số 175, ngày 1 -6-1995
Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 165, trang 33 có bài đề cập đến bài thơ “Phong Kiều dạ bạc” của Trương Kế. Tôi có thắc mắc như sau: Câu thứ ba là “Cô Tô thành ngoại Hàn San tự”. Xin cho biết hai tiếng đầu là “Cô Tô” hay “Tô Châu”.
Xin cho biết nguyên văn và ý nghĩa của bài thơ của thầy trò thiền sư chùa Hàn San có liên quan đến tứ thơ của bài “Phong Kiều dạ bạc”?
Học giả An Chi giải đáp: Nguyên văn câu thứ ba là:
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
姑 蘇 城 外 寒 山 寺
Vậy hai tiếng đầu là Cô Tô 姑蘇 chứ không phải Tô Châu 蘇州. Nhưng vì thành Tô Châu có núi Cô Tô nên có khi cũng lấy tên núi mà gọi là “Cô Tô thành” 姑蘇城.
Nguyên văn bài thơ của thầy trò nhà sư trụ trì chùa Hàn San là như sau:
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
初 三 初 四 月 朦 朧
Bán tự ngân câu, bán tự cung
半 似 銀 勾 半 似 弓
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
一 片 玉 湖 分 兩 段
Bán trầm thủy để, bán phù không.
半 沉 水 底 半 浮 空.
Nghĩa là:
Mùng ba, mùng bốn, trăng mờ
Vừa giống cái móc bằng bạc, vừa giống cánh cung.
Một chiếc hồ ngọc xẻ làm đôi
Nửa chìm đáy nước, nửa trôi trên không.
Hai câu đầu là của nhà sư, hai câu cuối là của chú tiểu. Tương truyền Trương Kế 張繼 làm xong hai câu đầu của bài “Phong Kiều dạ bạc” 楓橋夜泊 thì không tìm được tứ để làm tiếp. Cùng lúc ấy nhà sư chùa Hàn San cũng tức cảnh làm thơ vịnh trăng nhưng cũng chỉ làm được hai câu, vì vậy cứ trằn trọc. Chú tiểu đã kịp thời nối thơ cho thầy. Thầy mừng quá nên mới bảo chú tiểu lên dộng chuông tạ Phật. Lúc bấy giờ là nửa đêm. Tiếng chuông vọng đến bên tai Trương Kế và là nguồn cảm hứng để nhà thơ làm tiếp hai câu cuối:
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
姑 蘇 城 外 寒 山 寺
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
夜 半 鐘 聲 到 客 船.
Dù sao trên đây cũng chỉ là giai thoại.
Nguyên văn trọn bài như sau:
Phong Kiều Dạ Bạc
Trương Kế
楓橋夜泊
張繼
月落烏啼霜滿天
江楓漁火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船
Phiên âm:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
§ 251. Kiến thức ngày nay, số 176, ngày 10-6-1995
Hỏi: Tôi được biết hiện nay có nhiều người dùng từ “Phúc âm”, đồng thời nhiều người dùng từ “Tin Mừng” để diễn tả từ euaggelion của tiếng Hy Lạp. Xin ông An Chi cho biết ý kiến.
Học giả An Chi giải đáp: Ngoài hai cách dịch mà bạn đã nêu (Phúc âm và Tin Mừng), từ lâu người ta còn dùng từ tổ Tin Lành để dịch tiếng Pháp Evangile, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp euaggelion vì, như bạn đã biết, euaggelion có nghĩa là tin tức tốt lành. Do đó mà có những cách nói như “đạo Tin lành”, “Nhà thờ Tin Lành” v.v.. Các bản dịch Kinh Thánh Tân Ước của Thánh Kinh Hội tại Việt Nam (Sài gòn, 1975) và của Hội Ghi-đê-on Quốc tế (bản nhuận chánh 1965) cũng đều dịch Evangile là Tin Lành. Còn Phúc âm là cách dịch sang tiếng Hán mà người Việt Nam đã mượn bằng cách đọc theo âm Hán-Việt. Thực ra trong tiếng Hán, đồng nghĩa với euaggelion của tiếng Hy Lạp, vốn đã có một cách diễn đạt thông dụng và quen thuộc hơn. Đó là giai âm 佳音, mà Mathews Chinese-English Dictionary đã dịch là “good news”. Có lẽ vì muốn tạo ra thuật ngữ riêng và muốn cho trang trọng hơn nên các nhà truyền giáo đã dịch euaggelion sang tiếng Hán thành Phúc âm 福音. Riêng về cách gọi “Tin Mừng” – nếu đây là cách dùng và quy định cứng rắn trong giáo phái thì chúng tôi không dám có ý kiến – chúng tôi muốn lưu ý bạn rằng nó còn đồng âm với lời nói thông dụng của toàn xã hội hiện nay để chỉ sự thông báo về việc tiến hành hôn lễ nữa.
§ 252. Kiến thức ngày nay, số 176, ngày 10-6-1995
Hỏi: Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Việt Nam tân từ điển của Thanh Nghị và Từ điển tiếng Việt của Viện Khoa học xã hội Việt Nam thì từ “tạo vật” có nghĩa tương đương với từ “tạo hóa” (Créateur). Trong khi đó phần lớn sách vở của người Công giáo lại dùng từ đó theo nghĩa là vật do Thượng Đế tạo thành (tức créature). Xin ông cho biết do đâu mà có hai cách hiểu trên và đâu là nghĩa chính xác của từ này.
Học giả An Chi giải đáp: Ngay trong tiếng Hán thì tạo vật đã đồng nghĩa với tạo hóa rồi. Từ nguyên 辭源 ghi: “Tạo vật. Dữ tạo hóa đồng. Vị thiên dã” 造物 , 與造化同 , 謂天也 , nghĩa là “Tạo vật. Đồng nghĩa với tạo hóa. Gọi (= chỉ) trời vậy”. Còn Từ hải 辭海 thì ghi: “Tạo vật. Vị sáng tạo vạn vật giả, chỉ thiên dã” 造物 , 謂創造萬物者, 指天也 , nghĩa là “Tạo vật. Nói người sáng tạo ra muôn vật, chỉ trời vậy”. Vậy khi các tác giả của những quyển từ điển kia giảng rằng tạo vật đồng nghĩa với tạo hóa là họ đã giảng đúng theo nghĩa của từ đó trong tiếng Hán. Sách vở của người Công giáo dùng từ Tạo Hóa để chỉ Créateur và tạo vật để chỉ créature có lẽ là xuất phát từ ý muốn tạo ra một hệ thuật ngữ chặt chẽ và rành mạch. Tuy nhiên trong tiếng Việt toàn dân và tiếng Việt văn học, thì xưa nay Tạo vật vẫn đồng nghĩa với Tạo hóa, và cả Tạo công, rồi Hóa công nữa. Đây là một nghĩa đã được toàn thể xã hội chấp nhận và sử dụng từ lâu.
§ 253. Kiến thức ngày nay, số 176, ngày 10-6-1995
Hỏi: Trong các từ điển Hán Việt (Thiều Chửu, Lạc Thiện, Đào Duy Anh,…) kể cả Trung Việt từ điển, tôi thấy ghi chú rằng chữ trầm 沈 khi dùng để ghi họ thì đọc là thẩm. Vậy tại sao tổ tiên tôi từ Phúc Kiến sang Việt Nam lại có họ Trầm mà chữ Hán vẫn là 沈 . Có phải phiên âm Hán Việt lộn đi chăng? Tôi biết còn rất nhiều họ Trầm ở các nơi. Khi đọc sách, lúc họ gọi Thẩm Thuyên Kỳ (thi sĩ đời Đường), lúc thì họ lại đọc là Trầm Thuyên Kỳ, lúc họ đọc Thẩm Quát (nhà thiên văn đời Tống), lúc thì họ lại đọc Trầm Quát… Gần đây đọc sách báo tiếng Việt chỉ thấy người ta gọi Thẩm thôi. Khi đọc từ điển của người Trung Hoa, chẳng hạn của Vương Vân Ngũ, tôi cũng thấy chữ 沈 chỉ đọc là trầm (chén ㄔㄣ阳) khi nó có nghĩa là chìm, đắm nhưng phải đọc là thẩm (shèn, ㄕㄣ 去) khi gọi họ. Vậy có phải là người ta đã theo từ điển một cách máy móc chăng? Và có phải Thẩm với Trầm là một họ không? Hai họ này có gì liên quan? Và chữ 沈 dùng để ghi họ, lúc nào thì đọc Thẩm, lúc nào thì đọc Trầm?
Học giả An Chi giải đáp: Trong tiếng Hán, một số chữ có thể có những cách đọc khác nhau mà nghĩa không thay đổi. Nhưng thường thường, hễ âm của một chữ thay đổi, thì nghĩa của nó cũng thay đổi. Chẳng hạn, chữ 三, đọc tam thì có nghĩa là ba (3) nhưng đọc tám (tứ ám thiết 四暗切) thì lại có nghĩa là nhiều lần (Luận ngữ 論語 , “Công Dã Tràng” 公洽長 : “Quý Văn Tử tám tư nhi hậu hành” 李文子三思而後行 = Quý Văn Tử suy nghĩ nhiều lần rồi sau đó mới làm). Hoặc như chữ 思, đọc tư thì có nghĩa là nhớ, nghĩ (xem ví dụ ngay trên) nhưng đọc tứ thì lại có nghĩa là ý nghĩ (thí dụ: thi tứ, cấu tứ). Cũng vậy, chữ 沈, nếu đọc là trầm thì có nghĩa là chìm, đắm nhưng đọc thẩm thì lại dùng để chỉ họ. Trong tiếng Bắc Kinh, với công dụng trước, nó được đọc là chén, còn với công dụng sau thì nó phải được đọc là shen . Ngay cả trong tiếng Phúc Kiến tại tỉnh Phúc Kiến, bên Trung Quốc thì chữ 沈 cũng phải được đọc theo hai âm khác nhau cho hai công dụng khác nhau. Sau đây là âm Phúc Kiến mà chúng tôi ghi theo Vựng âm bửu giám (Lui Im po kIm) của Thẩm Phú Tiến (Văn nghệ học xã, Đài Loan, 1965), một quyển vận thư đầy đủ về Mân âm. Với nghĩa là chìm, đắm, nó được đọc là tîm (Sđd. tr. 61) còn để ghi họ thì nó phải được đọc là sím (Sđd, tr. 55). Nghĩa là ngay ở tỉnh Phúc Kiến cũng không có họ tîm, tức họ Trầm ghi bằng chữ 沈. Vậy họ Trầm 沈 của bạn là một trường hợp ngoại lệ thực sự đặc biệt trong cộng đồng người gốc Phúc Kiến tại Việt Nam. Nếu không có một lý do thỏa đáng nào cho cách phiên âm này thì đó tất nhiên chỉ có thể là một sự phiên âm nhầm lẫn mà thôi (còn Trầm Thuyên Kỳ và Trầm Quát thì dứt khoát sai).
Về họ Thẩm tại Phúc Kiến, xin lưu ý bạn như sau:
Sách có chép rằng vào đời Ngũ Đại (907 – 960) thì tất cả những người mang họ Thẩm ở đất Mân đều kiêng tên của Vương Thẩm Tri nên bỏ bộ thủy (ba chấm thủy氵), mà đổi thành ra họ Vưu 尤. Kể cũng lạ. Bỏ ba chấm thủy thì còn lại phải là chữ 尢 chứ tại sao lại là 尤? Nhưng đây lại là điều đã được thư tịch ghi lại một cách cụ thể, chẳng hạn, Lương Khê mạn chí 粱谿漫 志 chép về chữ 尤 như sau:
“Tính dã. Hệ xuất Thẩm tính. Ngũ đại thời Vương Thẩm Tri tiếm hiệu ư Mân, Mân nhân tính Thẩm giả, tị Thẩm âm, khứ thủy cải vi Vưu.”
姓也. 系出沈姓. 五代時王審知僭號於閩, 閩人姓沈者, 避審音, 去水改為尤.
Nghĩa là:
“(Vưu) là họ vậy. Xuất phát từ họ Thẩm. Thời Ngũ đại Vương Thẩm Tri tiếm hiệu ở đất Mân, người đất Mân mang họ Thẩm (đều) tránh âm “thẩm”, bỏ bộ thủy mà đổi thành Vưu”(dẫn theo Từ hải, mục từ vưu 光)
Vậy tại sao chữ Thẩm 沈 bỏ ba chấm thủy 氵mà thành ra Vưu 尤? Theo chúng tôi, sự thể là như sau. Tuy muốn tránh âm thẩm (chữ Hán là 審) trong tên của Vương Thẩm Tri nhưng người họ Thẩm vẫn muốn lưu lại kỷ niệm về họ gốc của mình nên trong chữ 沈 họ chỉ bỏ ba chấm thủy 氵mà giữ lại chữ 尢. Chữ này là thanh phù của chữ 沈. Âm Hán Việt của nó là dâm, âm Phúc Kiến là îm. Vậy để tránh âm thẩm và chữ 沈 người ta có thể đổi họ của mình và viết thành 尢 và đọc là dâm. Oái oăm là âm này lại trùng với âm dâm 淫 trong dâm loạn 淫亂, tiếng Phúc Kiến cũng là îm. Vì thế người ta không muốn lấy âm dâm/îm làm họ cho mình. Thuận tiện là chữ 尢 còn có một âm nữa là vưu đồng âm với chữ vưu 尤 là tốt trội, là hơn hẳn mà hai chữ lại gần tự dạng với nhau. Âm Phúc Kiến của cả hai chữ đều là îu (Sđd, tr. 546). Vì vậy người ta mới lấy chữ 尤 mà thay cho chữ 尢 vì chữ này tuy có âm vưu nhưng cũng còn có cả âm dâm. Dù sao trên đây cũng chỉ là ý kiến cá nhân; đúng hay không thì chúng tôi không dám khẳng định.
Cuối cùng xin nói thêm với bạn rằng Vương Vân Ngũ đại từ điển đã phiên âm trầm thành Chern và âm thẩm thành Sheen chứ không phải là chén và shèn như bạn viết. Chén và shěn (chứ cũng không phải là shèn) là hình thức phanh âm (pīnyīn) của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
§ 254. Kiến thức ngày nay, số 176, ngày 10-6-1995
Hỏi: Con tê tê là con gì và có đặc điểm sinh hoạt như thế nào mà lại có thành ngữ “giãy tê tê”?
Học giả An Chi giải đáp: Từ điển 270 con vật của Nguyễn Ngọc Hải (Hà Nội, 1993) đã viết như sau:
“Còn có tên là xuyên sơn giáp, con trút, có tới 10 loài. Tê tê chỉ sống ở vùng nhiệt đới châu Phi và Đông Nam Á, toàn thân và đuôi phủ vảy sừng như ngói lợp, trừ phía bụng. Chúng sống ở rừng núi đất, chân có móng sắc để đào hang và ngủ trong đó ban ngày. Tê tê thiếu răng, mồm nhọn, nhưng có lưỡi dài và nước bọt quánh, lưỡi có thể phóng ra xa để bắt kiến, mối và ong… Ở Việt Nam có thể gặp tê tê ở khắp các tỉnh miền núi và trung du. Mỗi con tê tê trưởng thành nặng từ 5 – 7kg.
Tê tê đẻ mỗi lứa 1-2 con vào mùa xuân. Con mới đẻ có vảy mềm, mắt nhắm trong 9-10 ngày. Tê tê là loài có ích, thịt ngon. Vảy tê tê có tác dụng chữa nhọt, thông sữa, thông tiểu tiện, điều kinh phụ nữ. Mật tê tê dùng chữa bệnh hen suyễn.
Trong đời sống, tê tê mẹ khi gặp nguy hiểm liền ôm con vào lòng rồi cuộn tròn người lại thành một “quả bóng” bằng vảy sừng cứng rắn bảo vệ con, khiến cho con thú hung dữ nhất cũng phát ngán mà bỏ đi.
Tê tê bắt mồi rất tài tình (…) khi gặp đàn kiến đương bò trên đất hay thân cây, tê tê thè lưỡi liên tục quét dọc theo đường đi của kiến (…). Nó có thể leo lên cây phá tổ ong. Khi ong lao tới đốt, nó chủ động giương vảy nhử cho ong vào, sau đó cụp vảy lại, rồi bò xuống đất giũ vảy và ăn ong chết.”
Trở lên là phần dẫn ra để giới thiệu con tê tê và cứ như trên thì liên quan đến con vật này chỉ có thành ngữ vảy tê tê mà thôi. Còn giãy tê tê thì chẳng có liên quan gì đến nó.
Vảy tê tê là kiểu vảy xếp thành lớp như ngói lợp. Nhưng ở trong Nam nhiều người đã không hiểu được nghĩa gốc của thành ngữ này nên đã đồng hóa từ “vảy” với từ “giãy” trong “giãy giụa”, vì trước kia người bình dân trong Nam phát âm v và âm gi như nhau đồng thời cũng không phân biệt hỏi ngã. Khi vảy bị đồng hóa với giãy thì trong nhận thức của người miền Nam tê tê cũng trở thành một từ dùng để miêu tả động tác giãy tương đương với đành đạch trong phương ngữ miền Bắc. Hiện tượng trên đây được ngữ học gọi là từ nguyên dân gian (hoặc từ nguyên thông tục) mà chúng tôi đã có dịp nói đến trong mục Chuyện Đông chuyện Tây.
Ở đây xin kể thêm một chuyện vui vui. Trước đây khi chúng tôi lưu ngụ tại huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình, có lần cậu con trai của chủ nhà đi làm thủy lợi ngắn hạn đã nói với chúng tôi như sau: “Đi có mấy ngày, em chẳng cần ba lô, bốn bị gì cả, anh ạ!”.
Trong nhận thức của cậu ta thì ba ở đây là số từ còn lô là một danh từ cùng trường nghĩa với những rương hòm, tay nải, va li v.v.. Vì vậy cậu ta mới ghép thêm bốn để đối với ba và bị để đối với lô mà tạo ra thành ngữ độc đáo cùng kiểu với năm cha ba mẹ, năm châu bốn biển, ba đầu sáu tay, v.v.. Có ngờ đâu rằng ba lô là một từ phiên âm từ tiếng Pháp ballot, rằng ở đây, ba và lô chỉ là những âm tiết vô nghĩa.
§ 255. Kiến thức ngày nay, số 177, ngày 20-6-1995
Hỏi: Kiến thức ngày nay, số Xuân Ất Hợi, bài “Ngày xuân đọc truyện cổ” của GS. Lương Duy Thứ có giải thích chữ bồn là một nhạc khí cổ (chuyện về Trang Tử). Nhưng sách Cổ học tinh hoa (vì sách quá cũ, mất đầu, mất đuôi nên không biết năm xuất bản và nhà xuất bản), bài 62 trang 104 thì chú giải “bồn” là chậu rửa xác cho người chết. Xin cho biết cái nào đúng?
Học giả An Chi giải đáp: Đúng là tác giả Lương Duy Thứ có giải thích như thế thật. Ông viết: “Chuyện về Trang Tử vốn gốc gác từ thiên Chí Lạc 18 trong sách Trang Tử ngoại thiên, nói chuyện nghe tin vợ chết ông gõ bồn (một nhạc khí cổ) ca hát mà không khóc than chi cả”*. Theo chúng tôi biết, chữ bồn 盆 trong tiếng Hán không có nghĩa là một loại nhạc khí, dù là một loại nhạc khí cổ. Nó chỉ có nghĩa là cái chậu mà thôi. Gõ “bồn” mà hát, nguyên văn tiếng Hán trong thiên “Chí Lạc” 至樂 của sách Trang Tử là “cổ bồn nhi ca” 鼓盆 而歌. Theo Từ hải thì, giải thích cú đoạn trên đây, Thành Huyền Anh 成玄英 đã ghi như sau: “Bồn là chậu gốm vậy. Trang Tử biết cái lẽ sống chết không phải là hai, thấu đạt được cái lẽ buồn vui chỉ là một nên không khóc chuyện vợ chết, lại gõ chậu mà hát.”
盆瓦缶也 , 莊子知生死之不二 , 達哀樂之為一 , 是以妻亡不哭 , 鼓盆而歌.
(Bồn, ngõa phẫu dã, Trang Tử tri sinh tử chi bất nhị, đạt ai lạc chi vi nhất, thị dĩ thê vong bất khốc, cổ bồn nhi ca).
Chúng tôi thiển nghĩ gõ chậu mà hát thì mới hợp với cốt cách của Trang Tử chứ nếu gõ nhạc cụ mà hát thì còn đâu là cốt cách của Trang Tử nữa! Sách kể lại rằng lúc Huệ Tử đến điếu tang thì thấy Trang Tử đang ngồi xổm trên một cái sàng – tiếng Hán là cơ 箕 – và gõ chậu mà hát. Nếu hiểu bồn là một nhạc khí cổ thì, để cho tương xứng, có lẽ phải hiểu cơ là một thứ đồ dùng cổ để ngồi chứ không phải là cái vật dùng để sàng gạo chăng? Nhưng giảng như Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân trong Cổ học tinh hoa rằng “bồn là cái chậu nước rửa xác cho người chết” thì cũng là suy diễn vì bồn chỉ có nghĩa là cái chậu mà thôi.
§ 256. Kiến thức ngày nay, số 177, ngày 20-6-1995
Hỏi: Trong bài “Chơi chữ qua những tiêu đề” (Kiến thức ngày nay, số 173, tr. 33 – 35) tác giả GS. Nguyễn Đức Dân có viết: “Trong tiếng Việt có quan niệm rằng mỗi âm tiết đều mang nghĩa”. Có thật là đã có người quan niệm như thế hay không? Nếu có, xin cho biết quan niệm đó đúng hay sai. Nếu quan niệm đó đúng thì những âm tiết như búa, bụa, sá… trong “chợ búa”, “góa bụa”, “đường sá”… có nghĩa là gì? Và còn biết bao nhiêu tiếng láy hoặc tiếng đệm vô nghĩa khác thì sao?
Học giả An Chi giải đáp: Đúng là trong Việt ngữ học, đã có quan niệm như thế. Cá nhân chúng tôi cũng cho rằng trong tiếng Việt, trừ những tiếng ngoại tịch và những tiếng song sinh – xin gọi âm tiết là “tiếng” cho tiện – các tiếng đều có nghĩa hoặc vốn có nghĩa cả. Sở dĩ người ta khẳng định rằng một số tiếng nào đó là vô nghĩa chẳng qua là vì người ta không biết được nghĩa của chúng mà thôi. Nhưng không nên vì chính mình không biết được nghĩa của một số tiếng nào đó mà bảo rằng chúng vô nghĩa. Về vấn đề này, chúng tôi đã có nói lên ý kiến của mình khi nhận xét kết luận của tác giả Trần Từ về hai tiếng câu đương trong quyển Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ*. Lần này, nhân câu hỏi của bạn chúng tôi xin nói kỹ thêm. Trước hết, xin nói về hai khái niệm “tiếng ngoại tịch” và “tiếng song sinh”.
Tiếng ngoại tịch là những tiếng đi chung với nhau từ hai trở lên để phiên âm những từ ngoại ngữ, kể cả âm Hán Việt của những chữ mà người Trung Hoa hoặc người Nhật Bản đã dùng để phiên âm tiếng nước ngoài. Thí dụ: sô, cô và la hoặc phó và mát là những tiếng dùng để phiên âm tiếng Pháp chocolat hoặc fromage. Boong và ke là những tiếng dùng để phiên âm tiếng Anh bunker. Câu lạc bộ là âm Hán Việt của ba chữ mà người Nhật Bản đã dùng để ghi cách phiên âm danh từ club của tiếng Anh. Tất cả các tiếng phiên âm đơn độc đều là những tiếng đã nhập tịch, chẳng hạn như: bơ < P. beurre, ga < P. gare, xừ < P. monsieur, (chạy, hát) sô < A. show.
Tiếng song sinh (sinh đôi) là những tiếng phái sinh theo từng cặp từ những từ mà phần âm đầu là một tổ hợp phụ âm như bl, kl, thl, v.v.. Những tiếng đó có thể hoặc có cùng một khuôn vần với nhau (như thằn lằn, có thể <*thlăn) hoặc tiếng thứ nhất trở thành một âm tiết lướt thường được gọi là tiền âm tiết còn tiếng thứ hai thì giữ lại phụ âm sau của tổ hợp phụ âm và phần vần của tiếng gốc (như cà-rem < crème).
Tuy nhiên, xin chú ý rằng số tiếng sinh đôi đích thực trong tiếng Việt thì không nhiều, còn tuyệt đại đa số những tiếng làm thành các “từ láy vần” thì lại không phải là những tiếng sinh đôi, mặc dù xét theo hình thức ngữ âm thì chúng cũng giống hệt như thế. Chẳng hạn như từ bùi nhùi là một danh từ gồm có hai tiếng mà hẳn nhiều người sẽ sẵn sàng cho là phái sinh từ một từ như *bnhui [bñuj]. Nhưng không phải thế vì bùi nhùi chính là một biến thể ngữ âm của mồi nhồi. Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh của A. de Rhodes đã ghi nhận như sau:
“Bùi nhùi: Đồ nhúm lửa của súng.”
“Dồi: Nhồi cho đầy.”
“Dồi súng: Nhồi súng.”
“Dùi, mùi dùi: bùi nhùi đốt súng. Mùi nhùi, bùi dùi. Cùng một nghĩa.”
“Mồi nhồi: Cái để mồi súng. Có người nói: mùi nhùi, hay bùi dùi.”
“Mùi dùi: Mùi nhùi súng.”
“Nhùi, bùi nhùi: Ngòi súng. Tốt hơn (nên nói là – AC) mui dùi.”*
Cứ như đã dẫn trên đây thì bùi nhùi rõ ràng là mồi nhồi. Mồi là cái vật trung gian dùng để dẫn lửa còn nhồi là nhét vào cho chặt, cho đầy (do đó mới có từ ghép đẳng lập nhồi nhét mà cứ theo cái đà này thì biết đâu trong tương lai cũng sẽ có người cho là một từ “lấp láy”!)
Mùi là âm xưa của mồi còn bùi chẳng qua cũng là một biến thể ngữ âm của mùi kiểu như mồ côi/bồ côi, mồ hòn/bồ hòn, mồ hôi/bồ hôi, hoặc, như trong khẩu ngữ của ông già bà cả ở Nam Bộ, Miền Dưới (chỉ các đảo của Indonesia) đã trở thành “Bình Dưới”. Còn nhùi là âm xưa của nhồi. Vậy không thể khẳng định một cách vô căn cứ rằng bùi nhùi là hai tiếng vô nghĩa.
Các yếu tố “vô nghĩa” kiểu đó thì nhiều vô số, không làm sao kể ra cho hết được. Vậy xin chỉ nêu thêm một ví dụ nữa như sau: lụng trong làm lụng là một tiếng mà nhiều người sẵn sàng cho là yếu tố láy. Thực ra đó là một từ Việt gốc Hán có nghĩa là làm (vì vậy nên nó mới đi chung với chính từ làm để tạo nên từ tổ đẳng lập làm lụng). Âm Hán Việt thông dụng hiện đại của nó là lộng, chữ Hán là 弄. Chữ này đã được Mathews Chinese-English Dictionary đối dịch là “to do, to make, to act” còn Hiện đại Hán ngữ từ điển (Bắc Kinh, 1992) thì giảng là “tố 做 cán 干, biện 办 v.v.”. Vậy về nghĩa thì vấn đề đã hoàn toàn rõ ràng. Còn về âm thì lụng ~ lộng 弄 cũng giống hệt như nùng (hậu, độ…) ~ nồng/濃 (hậu); (đậu)phụng 鳳 (nghĩa gốc là đậu hình mắt phượng) ~ (đậu) phộng; thung 樅 ~ (cây) thông; xung 衝 (phá) ~ xông (pha); v.v..
Trở lại với những trường hợp cụ thể mà bạn đã nêu, xin nói rằng tất cả những tiếng đó đều có nghĩa.
(Góa) bụa ~ (quả) phụ y hệt như bua (việc) ~ (công) phu, búa (rìu) ~ (cân) phủ; bùa ~ phù. Tương tự, (chợ) búa ~ (thị) phố (= tiệm bán hàng).”
Về trường hợp chữ búa, năm 1951 Phan Khôi đã viết như sau: “Chợ búa: Tôi nói do “thị phủ” mà ra, có lẽ không đúng. Ông Nguyễn Thiệu Lâu cho tôi biết ở Hà Tĩnh vẫn gọi cái chợ nhỏ là búa.”* Đúng là chợ búa không do thị phủ mà ra vì phủ ở đây là nơi làm việc của quan lại, còn phố thì mới là nơi buôn bán. Còn điều thông tin mà Nguyễn Thiệu Lâu đã cung cấp cho Phan Khôi chỉ chứng tỏ rằng búa là một từ cổ hãy còn dùng độc lập (nghĩa là chưa thành “tiếng đệm”!) trong lời ăn tiếng nói của người Hà Tĩnh chứ chẳng phải là một bằng chứng để phủ nhận rằng búa là do phố hoặc phủ mà ra. Về mối quan hệ b ~ ph, chúng tôi đã có nhiều lần đề cập đến trên Kiến thức ngày nay, đặc biệt là trong bài “Tìm hiểu về hai từ bụt và phật” (số 84, tr. 15 – 17).
(Đường) sá là một từ Việt gốc Hán chánh tông, chữ Hán là 岔, âm Hán Việt chính thống hiện đại cũng là sá vì thiết âm của nó là “sỉ á thiết” 恥亞切. Sá là chỗ mà một con đường phân nhánh (Xem sá lộ 岔路, sá đạo 岔道). Trong phương ngữ Bắc bộ hiện nay, người ta vẫn còn nói “một sá cày” thay vì “một đường cày”.
Vậy theo chúng tôi, trừ hai loại tiếng đã nói, trong tiếng Việt, tất cả các tiếng còn lại đều có nghĩa. Đây là một đặc điểm quan trọng và độc đáo của tiếng Việt, ngôn ngữ mà các nhà Việt ngữ học đều thừa nhận là ngôn ngữ đơn lập điển hình. Liên quan đến vấn đề đang bàn, Cao Xuân Hạo đã viết như sau: “Không bao giờ ta có thể dám chắc là từ thứ hai của một tổ hợp nào đó không có nghĩa thực trước khi thuộc lòng bộ Từ hải và biết hết các từ vựng của tất cả các thứ tiếng Việt-Mường và Môn-Khmer (…)”.* Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến trên đây vì quả thật từ nguyên học về tiếng Việt hãy còn là mảnh đất bao la và xa lạ chưa mấy ai đặt chân đến. Và khi mà từ nguyên của một tiếng (âm tiết) nào đó chưa được xác lập thì người ta hoàn toàn chưa có quyền kết luận rằng nó là một yếu tố vô nghĩa. Đó là một điều dứt khoát. Đối với ý kiến cho rằng trong tiếng Việt có một lớp âm tiết làm thành các yếu tố vô nghĩa, N.V. Xtankêvich đã viết như sau: “Làm sao có thể tưởng tượng được, trong hoàn cảnh ngôn ngữ đơn lập, người ta lại có thể đem những vỏ ngữ âm hiếm hoi của ngôn ngữ dùng hoang phí vào những việc không có mục đích như thế!”.* Thật là một ý kiến chí lý.
§ 257. Kiến thức ngày nay, số 178, ngày 30-6-1995
Hỏi: Trong Hán-Việt từ điển của ông Đào Duy Anh thì chữ Hán khôngcó vần r. Nhưng Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu thì có vần r như ráng và rư. Tại sao?
Học giả An Chi giải đáp: Không chỉ riêng Thiều Chửu phiên giáng thành ráng và dư thành rư trong Hán-Việt tự điển mà Nguyễn Quốc Hùng cũng phiên giáng thành ráng trong Hán-Việt tân từ điển; còn Đỗ Văn Đáp, trong Việt Hán thông thoại tự-vị, nơi chữ cái R, cũng đã viết như sau: “Vận R này quen đọc như vận D cả, nên chép cả vào vận D ở trên”. Không biết theo Đỗ Văn Đáp thì có bao nhiêu chữ Hán có phụ âm đầu r và đó là những chữ nào? Còn ngữ âm học lịch sử thì đã khẳng định rằng trong hệ thống âm Hán Việt không hề có phụ âm đầu r. Cách phiên âm đã nói của Thiều Chửu và Nguyễn Quốc Hùng cũng như lời khẳng định trên đây của Đỗ Văn Đáp chỉ là những hiện tượng có tính chất cá nhân hoặc địa phương. Đó chỉ là những hiện tượng thổ âm và thổ ngữ (Pháp: patois) nên không thể xem là chuẩn được.
§ 258. Kiến thức ngày nay, số 178, ngày 30-6-1995
Hỏi: Tôi cũng biết Nguyễn Du tả Từ Hải “vai năm tấc rộng, lưng mười thước cao” là ước lệ. Có lẽ tấc và thước Nguyễn Du dùng ở đây là theo một tương quan nào đó mà tôi không hiểu biết nên ước lệ có vẻ… khập khiễng.
Hóa ra dù theo tương quan nào đi nữa – qua lời giải thích của ông – thì Từ Hải vẫn là người “vai so vai rút” và có thể là một người đã mắc bệnh phổi nữa (theo cách nói của bác sĩ Lê Quang Thông).
Theo thiển ý có ước lệ cách gì đi chăng nữa cũng phải theo tiêu chuẩn “lưng dài vai rộng” mới “đường đường một đấng anh hào”. Còn cái ông ốm nhom, ốm nhách như người bị bệnh phổi kia mà gọi là Từ Hải, e rằng sai… cả thước!
Nói như ông, từng trả lời trong mục Chuyện Đông chuyện Tây, thì dù có là ông thánh, ông tướng, có nổi danh cách mấy, e rằng đôi lúc cũng có chỗ nhược chớ. Đâu phải chỗ nào, ông thánh, ông tướng cũng hay!
Về Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du viết tới mấy ngàn câu, thì dù một hai câu có… không hay, cũng đâu có “nhằm nhò” gì?
Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi cho rằng ý kiến trên đây của ông rất đáng quan tâm. Chúng tôi chỉ phân vân về điểm sau đây: đã hiểu là ước lệ mà cứ bắt từ năm phải diễn đạt một số lượng cụ thể và chính xác thì khôngbiết là có hợp lý hay không? Xin liên hệ với các thành ngữ như: năm bữa nửa tháng, năm cơm bảy cháo, năm cha ba mẹ, năm chắp ba nối, năm lần bảy lượt, năm non bảy núi, năm khi mười họa, v.v.. Trong những thành ngữ này, năm không diễn đạt một số lượng cụ thể nào. Tuy nhiên, trên đây chỉ là cố biện bạch thêm để cho được thận trọng đến cùng với thi hào Nguyễn Du, chứ chúng tôi cũng cảm thấy rằng ở đây “ước lệ có vẻ… khập khiễng”. Chúng tôi chỉ hơi khác ông ở chỗ không cho rằng đó là chuyện không “nhằm nhò” gì: người thưởng thức có quyền đòi hỏi sự tuyệt mỹ ở nhà sáng tạo mặc dù bản thân anh ta thì… chẳng làm được gì!
§ 259. Kiến thức ngày nay, số 178, ngày 30-6-1995
Hỏi: Trên Kiến thức ngày nay, số 173, mục Chuyện Đông chuyện Tây, trang 44 – 45, ông đã so sánh về vóc dáng Từ Hải. Nếu lấy theo kích thước lưng dài vai rộng thì Nguyễn Du tả hơi dị dạng khi viết “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” Tôi xin nhắc rằng Nguyễn Du đã lấy kích thước thợ may để đo cho Từ Hải khi tả “vai năm tấc rộng”. Xin để ý chiều rộng ở đây là từ phần vai sau đến vai trước ngực chứ không phải từ tay đến cổ. Nên nhớ vai năm tấc rộng chứ không phải vai năm tấc dài. Xin ông coi lại có thế nào cho tôi biết với?
Học giả An Chi giải đáp: Khi soạn thảo câu trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 173, trang 44 – 45, chúng tôi đã có thử hiểu hai tiếng “vai rộng” theo hướng của ông, tức hiểu rằng năm tấc ở đây là chiều dày của vai tính từ sau lưng ra trước ngực. Nhưng chúng tôi thấy hiểu như thế thì không thỏa đáng. Chính vì thế mà chúng tôi đã không trả lời theo hướng đó với những lý do:
Thứ nhất, ngay cả trong nghề may, khi nói “vai rộng” (đối với “vai hẹp”), người ta vẫn luôn luôn hiểu đó là khoảng cách từ vai trái sang vai phải, tức là phần trên cùng của lưng từ đầu tay trái sang đầu tay phải.
Thứ hai, thời Nguyễn Du là thời áo mão cân đai. Nguyễn Du đâu có mặc veston mà biết đến cái độn vai, cái vai giả (épaulette) của vai như ông quan niệm.
Thứ ba, giả sử Nguyễn Du có biết đến cái épaulette, thì cũng không thể nói “dày” thành “rộng” được.
Thứ tư, giả sử trong nghề may, “vai rộng” là một lối nói có thực, để chỉ bề dày của vai thì Nguyễn Du cũng không thể lấy một lối nói chuyên biệt mà phần lớn độc giả không biết để miêu tả nhân vật của mình. Ngôn từ của ông có thể văn vẻ (và nó đã rất văn vẻ). Nhưng nó không thể bí hiểm.
§ 260. Kiến thức ngày nay, số 178, ngày 30-6-1995
Hỏi: Trung Quốc có núi Vọng phu hay không? Nếu có, xin cho biết ở đâu.
Học giả An Chi giải đáp: Trung Hoa có cả đá Vọng Phu (Vọng Phu thạch 望夫石)và núi Vọng Phu (Vọng Phu Sơn 望夫山).
Ít nhất là có ba núi Vọng Phu:
1. Ở phía Tây Bắc huyện Đương Đồ 當塗, tỉnh An Huy 安徽. Sách Hoàn Vũ ký 寰宇記 chép: “Xưa có người rời nhà sang nước Sở. Vợ người này lên núi đó ngóng trông, lâu ngày thành đá. Tên núi lấy từ tích này”.
2. Ở huyện Đức An 德安, tỉnh Giang Tây 江西 . Sách Dư địa kỷ thắng 輿地紀勝 chép: “Xưa có người ra trận chưa về, vợ người ấy lên núi mà trông. Mỗi lần lên núi là một lần lấy thùng đựng đất đắp đường mà lên, lâu ngày cao dần, do đó có tên núi Vọng Phu”.
3. Tại huyện Tuy Trung 綏 中 , tỉnh Liêu Ninh 遼寧. Tương truyền là nơi xưa nàng trinh nữ Mạnh Khương 孟姜 đời Tần đứng trông chồng. Trên núi có miếu thờ nàng Mạnh Khương (Mạnh Khương Nữ Miếu 孟姜女廟).
Còn đá Vọng Phu thì ở trên núi phía Bắc huyện Vũ Xương 武昌, tỉnh Hồ Bắc 湖北. Tương truyền xưa có nàng trinh phụ, chồng đi ra trận hy sinh vì nước. Nàng bế con thơ tiễn đưa đến tận núi này, đứng đó trông chờ mà chết rồi hóa thành đá, do đó có tên. Về đá Vọng Phu này, Vương Kiến 王建 đời Đường có làm bài thơ “Vọng Phu thạch” 望夫石 như sau:
Vọng phu xứ,
Giang du du
Hóa vi thạch Bất hồi đầu.
Sơn đầu nhật nhật phong hòa vũ
Hành nhân quy lai thạch ưng ngữ.
望夫處
江悠悠
化為石
不回頭
山頭日日風和雨
行人歸來石應語
Nghĩa là:
Nơi nàng trông chồng
Sông chảy xa xôi
Hóa thành đá
Nàng không ngoảnh đầu
Đỉnh núi ngày ngày gội gió dầm mưa
Người đi có về đá mới chịu nói.
§ 261. Kiến thức ngày nay, số 179, ngày 10-7-1995
Hỏi: Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh có trình chiếu bộ phIm “Tần Thủy Hoàng” của Hongkong. Theo truyện phIm thì Tần Thủy Hoàng là con ruột của thừa tướng Lã Bất Vi. Đây là sự thật lịch sử hay chỉ là hư cấu cho phIm thêm phần hấp dẫn? Lữ Bất Vi hay Lã Bất Vi? Giao Ái hay Lao Ái? Có đúng là sử ghi rằng nhân vật này có bộ phận… đặc biệt hay đây là tình tiết mà các nhà làm phIm đã thêm thắt vào để câu khán giả? Tên của nhân vật này có nghĩa là gì? Cuộc tình giữa Giao Ái với thái hậu là có thật?
Học giả An Chi giải đáp: “Tần Thủy Hoàng bản kỷ” trong Sử ký của Tư Mã Thiên đã chép về lai lịch của Tần Thủy Hoàng như sau: “Tần Thủy Hoàng Đế là con của Trang Tương Vương nước Tần. Trang Tương Vương làm con tin của Tần ở nước Triệu, thấy người thiếp của Lữ Bất Vi, thích, nên lấy, sinh Thủy Hoàng, vào tháng giêng năm thứ 48 đời Tần Chiêu Vương, ở Hàm Đan, đặt tên là Chính, họ Triệu. Khi (Triệu Chính – AC) lên 13 tuổi, Trang Tương Vương chết, Chính thay, được lập làm Tần Vương (237 trước Công nguyên).”*
Tuy nhiên trên đây chỉ là nói về phương diện chính thức chứ trong thực tế thì Tư Mã Thiên đã chép ở “Truyện Lã Bất Vi” như sau: “Danh tiếng Tử Sở (tức Trang Tương Vương -AC) từ đó càng nổi với chư hầu. Lã Bất Vi kén trong số vợ mình ở Hàm Đan một người tuyệt đẹp và múa khéo, lại biết người này đã có mang (với mình – AC). Tử Sở sang nhà Bất Vi, trông thấy, đem lòng mê, nhân đứng dậy chúc thọ mà xin. Bất Vi nghĩ giận mình đã vì Tử Sở phá hết nhà cửa, muốn dùng món lạ để câu, bèn dâng vợ. Người vợ giấu chuyện mình đã có mang, đến đủ tháng sinh con là Chính”.
Cứ như trên thì Tần Thủy Hoàng chính là con ruột của Lã Bất Vi. Chữ Lã, Hán tự là 呂 , đúng ra phải đọc là lữ vì thiết âm của nó là “lực ngữ thiết, âm lữ, ngữ vận” (Xem Từ hải).
Về nhân vật Giao Ái thì Tư Mã Thiên đã chép như sau: “Khi ấy Thủy Hoàng Đế đã lớn mà thái hậu cứ dâm loạn mãi. Bất Vi sợ lộ, mang vạ, bèn ngầm tìm kẻ dương vật lớn là Giao Ái, dùng làm người nhà. Thường làm trò vui, sai Ái lấy vật của mình tra vào bánh xe gỗ đồng mà đi, khiến thái hậu nghe biết chuyện để nhử thái hậu. Quả nhiên thái hậu nghe chuyện rồi, muốn được riêng Giao Ái. Lã Bất Vi bèn dâng Giao Ái. Bất Vi vờ sai người tố cáo y phạm tội đáng thiến. Bất Vi lại báo với thái hậu: Nên cho kẻ giả bị thiến này làm chức cấp sự trung. Thái hậu bèn ngầm cho kẻ coi việc thiến nhiều tiền. Viên quan coi án lại luận tội vờ, nhổ râu mày làm cho hoạn quan Giao Ái nhờ vậy được vào hầu thái hậu. Thái hậu cùng y gian dâm, rất yêu rồi chửa, sợ người ta biết chuyện, bèn vờ xem bói nói nên tránh mùa dời cung sang đất Ung. Giao Ái thường đi theo được thưởng rất hậu, việc gì cũng do Giao Ái quyết định. Nhà Giao Ái tôi tớ vài nghìn người, các khách cầu làm quan, làm môn hạ cho y đến hơn nghìn người.
(…)
Năm thứ chín đời Thủy Hoàng, có kẻ phát giác Giao Ái thực không phải là hoạn quan, thường tư thông với thái hậu, sinh hai con đều giấu đi, hắn mưu với thái hậu: hễ vua chết thì dùng con hắn làm vua. Vua Tần liền giao cho pháp đình xét, biết rõ thực tình. Việc liên can đến tướng quốc là Lã Bất Vi. Tháng chín giết ba họ nhà Giao Ái, lại giết hai con do thái hậu đẻ ra và đày thái hậu sang đất Ung. Nhà cửa các môn hạ của Giao Ái đều bị tịch thu và bị đày sang đất Thục.”
Giao Ái cũng bị xử chém. Vậy cuộc tình giữa thái hậu với Giao Ái cũng là chuyện có thật. Tên của nhân vật này, chữ Hán là 嫪毐 đúng ra phải đọc là Lạo Ải. Thiết âm của chữ trước là “lặc ngạo thiết” còn của chữ sau là “a hải thiết”. Lạo có nghĩa là đam mê còn ải có nghĩa là kẻ sĩ vô hạnh. Vậy Lạo Ải có nghĩa gốc là kẻ sĩ hư thân mất nết chìm đắm trong thói tà dâm. Chữ 嫪 không hề có âm “giao”. Vậy đọc nó thành “giao” là hoàn toàn sai. Tuy nhiên, cứ theo thư tịch gốc thì tên của nhân vật đang xét cũng chẳng phải là “Lạo Ải” mà là Cưu Ải 摎毐. Chữ 摎 có nhiều âm nhưng dùng để ghi họ người thì nó phải được đọc là “cưu” (“cơ ưu thiết” hoặc “cư vưu thiết”): Cưu mới chính là họ đích thực của “Giao Ái”. Các bản Sử ký và Hán thư xưa đều chép Cưu 摎 còn các bản Sử ký và Hán thư ngày nay đều theo sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận mà đổi chữ Cưu 摎 thành chữ Lạo 嫪. Chữ này đã bị đọc sai thành ra “giao” là vì người ta không tra cứu thư tịch mà chỉ đoán chừng qua thanh phù của nó là chữ liệu 翏. Chữ này quả có hài thanh cho một số chữ có âm giao, như 膠 (=keo) chẳng hạn. Tuy nhiên, xét theo đương đại (hiện nay) thì một thanh phù có thể hài thanh cho rất nhiều chữ có âm khác nhau. Chẳng hạn Lương Đông Hán thống kê rằng đọc theo âm Bắc Kinh hiện nay thì thanh phù dã *’ (Bắc Kinh: ye) đã hài thanh cho các âm sau đây: chí, dì, tã, tãn, tuõ, tuó, shì, shĩ, shĩ, yí, ye, xi*. Vậy thật là sai lầm và nguy hiểm nếu chỉ dựa vào thanh phù để đoán mò âm của một chữ mà không cần tra cứu thư tịch.
Tóm lại, cứ theo thư tịch gốc thì người ta đã gọi nhân vật đang xét là Cưu Ải, ý muốn nói rằng đây là kẻ sĩ vô hạnh họ Cưu. Tác giả của sách Thuyết văn giải tự là Hứa Thận đã đổi chữ ghi họ Cưu thành chữ lạo là say mê, chìm đắm, có lẽ một phần vì căn cứ vào cuộc tình giữa Cưu Ái với thái hậu, một phần vì căn cứ vào thanh phù chung giữa hai chữ. Đến lượt một số người Việt Nam phiên chữ lạo thành “giao” là hoàn toàn sai (xin chú ý rằng âm của chữ này là lạo chứ cũng không phải là “lao”).
§ 262. Kiến thức ngày nay, số 179, ngày 10-7-1995
Hỏi: “Thập thất cửu không”: tại sao lại mười, bảy, chín, không?
Học giả An Chi giải đáp: Chữ thất 室 ở đây không có nghĩa là “bảy” mà có nghĩa là “nhà”. Thí dụ: gia thất, tịnh thất, nội thất, v.v.. Vậy thập thất cửu không có nghĩa là mười nhà thì hết chín nhà trống rỗng (vì bị vơ vét). Câu thành ngữ này dùng để chỉ tình trạng của một địa phương sau một cuộc tàn phá, một cuộc tấn công, v.v., của kẻ địch hoặc kẻ cướp.
§ 263. Kiến thức ngày nay, số 179, ngày 10-7-1995
Hỏi: Cụm từ “trọng nghĩa khinh tài” dùng để chỉ tính chất của các nhân vật nghĩa khí. Xin cho biết chữ “tài” ở đây phải hiểu là “tiền tài” hay “tài năng”.
Học giả An Chi giải đáp: Tài ở đây là tiền bạc, của cải, chữ Hán là 財, khác với tài là sự giỏi giang, chữ Hán là 才 , (cũng viết 材).Vì vậy mà Nguyễn Đình Chiểu mới viết trong Lục Vân Tiên :
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì!
(Câu 207 – 208, theo bản của Nguyễn Thạch Giang, Hà Nội, 1975, tr. 150).
§ 264. Kiến thức ngày nay, số 179, ngày 10-7-1995
Hỏi: Một bài trên Kiến thức ngày nay, số 173 có viết: “Vợ cả, vợ hai; hai vợ đều là vợ cả” (tr. 34, cột 1, dòng 19). Tôi có được nghe một câu khác như sau: “Vợ cả, vợ hai, cả hai đều là vợ cả”. Theo thiển ý, câu tôi nghe được cũng rất lý thú và lối chơi chữ thật tuyệt vời. Vậy xin kính gửi đến Kiến thức ngày nay để tiện tham khảo.
Học giả An Chi giải đáp: Thực ra, dạng đầy đủ mà chúng tôi được biết thì lại là như sau: Vợ cả vợ hai, cả hai vợ đều là vợ cả.
Câu này gồm có 11 tiếng: tiếng vợ được dùng 4 lần, tiếng cả 3 lần, tiếng hai 2 lần, tiếng đều 1 lần, tiếng là 1 lần.
§ 265. Kiến thức ngày nay, số 179, ngày 10-7-1995
Hỏi: Sau đây là vế ra của một câu đối:
Lục mộc sum sum: đào mai trúc tùng bá liễu
Nhờ ông đối giúp hoặc cho đăng ở mục Chuyện Đông chuyện Tây để các độc giả khác đối giúp.
Học giả An Chi giải đáp: Đây là một câu xuất không có cách nào đối lại được, trừ phi ông đồng ý đổi chữ lục 六 là sáu thành chữ lục 綠 là xanh. Lục mộc sum sum (âm nay là sâm sâm) 六木 森森 có nghĩa là “sáu cây sum suê” mà cũng có nghĩa là “sáu chữ mộc 木 làm thành (hai chữ) sum sum/sâm sâm 森森. Vậy đây là câu đối chiết tự. Tuy nhiên cái khó chẳng phải là ở chỗ này mà lại là ở chỗ phần sau của câu xuất đã kê tên của lục mộc (sáu cây) là: đào, mai, trúc, tùng, bá và liễu. Câu đối lại đương nhiên phải dùng một số từ không phải là lục (sáu) để đối lại với chính số từ này. Nếu chúng tôi dùng lưỡng (hai) thì ở phần sau chúng tôi phải kê ra hai thứ; vậy chúng tôi còn thiếu bốn chữ nữa mới đủ để đối với sáu tên cây trong câu xuất. Nếu chúng tôi dùng thập (mười) thì ở phần sau chúng tôi phải kê ra mười thứ; vậy chúng tôi dư ra đến bốn chữ và bốn chữ này đương nhiên sẽ trở thành vô duyên vì chúng không “cặp đôi” được với bất cứ chữ nào trong câu xuất. Còn nếu chúng tôi không kê ra một thứ tên nào cả trong số sự vật mà chúng tôi nói đến trong phần đầu câu đối lại của mình thì câu đối lại của chúng tôi sẽ càng vô duyên hơn vì nó đã không theo sát được một đặc điểm quan trọng, hơn thế nữa, một đặc điểm chủ yếu, của câu xuất là: phần sau có liệt kê đủ và đúng số sự vật đã nói đến ở phần trước. Câu xuất đã dùng 6 (lục) thì câu đối lại chỉ có thể dùng 1 (nhất), 2 (lưỡng, nhị), 3 (tam), v.v., thậm chí 1000 (thiên) miễn không phải là 6 (sáu)!
Trong một số giai thoại, người ta đã thấy có những câu xuất quá hóc hiểm mà những câu đối lại chỉ là non nớt, gượng gạo, không làm sao có thể “sánh duyên” được với nó một cách xứng đôi và đáng hãnh diện được. Theo chúng tôi, trong những trường hợp đó, chỉ nên xem câu xuất như là một hình thức chơi chữ độc đáo, tài ba đáng chiêm ngưỡng chứ không nên gồng mình mà đối lại (vì cũng không thể nào đối được).
§ 266. Kiến thức ngày nay, số 180, ngày 20-7-1995
Hỏi: Đâu là xuất xứ của hai tiếng “nát bàn”?
Học giả An Chi giải đáp: Chữ nát 涅 đúng ra phải đọc là niết vì nó thuộc vận tiết 屑. Vậy trở xuống xin đọc là niết. Niết bàn là dạng tắt của niết bàn na. Đây là ba tiếng đọc theo âm Hán Việt của ba chữ Hán mà người Trung Hoa đã dùng để phiên âm danh từ hữu quan bằng tiếng Sanskrit. Đoàn Trung Còn đã cho xuất xứ của danh từ niết bàn như sau: “(do tiếng Sanskrit – AC) Nirvâna. Viết trọn: Niết-bàn-na (…) Niết (nir): Ra khỏi. Bàn hay Bàn-na (Vâna): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não”.* Dấu mũ (^) trong chữ nirvâna của Đoàn Trung Còn là một ký hiệu thay thế cho dấu gạch ngang ngắn (-) bên trên chữ cái ghi nguyên âm để thông báo rằng đây là một nguyên âm dài. Vậy xin đọc nirvâna thành nirvāna. Nhưng nirvāna cũng không phải là xuất xứ của niết bàn vì xuất xứ đích thực của danh từ này trong tiếng Sanskrit lại là nir-vāṇa. Âm đầu của âm tiết thứ ba là phụ âm óc (consonne cérébrale) ṇ chứ không phải là n. Nir-vāṇa là một danh từ phái sinh từ động từ nir-VĀ. (Theo truyền thống Phạn ngữ học của phương Tây, người ta in căn tố động từ bằng chữ in hoa). VĀ là căn tố động từ có nghĩa là thổi, là nổi gió, là tỏa hơi ra, là xông mùi. Còn nir là biến thể hình thái học của tiền động từ (préverbe) niḥ chỉ ý biến mất, không còn, v.v.. Vậy nir-VĀ là ngừng thổi, ngưng gió, là tắt, kể cả tắt tự nhiên lẫn bị thổi tắt. Và nir-vāṇa là trạng thái ngừng thổi, trạng thái tắt ngấm, do đó còn có nghĩa phái sinh là sự tiêu tan, sự tịch diệt, là cái chết, là sự thoát khỏi kiếp trầm luân để vãng sanh cực lạc, v.v.. Dictionnaire sanskrit-français của N. Stchoupak, L. Nitti và L. Renou (Paris, 1932) đã giảng nir-vāṇa là: “extinction, (…), mort, fait de s’affranchir de la vie matérielle et de s’absorber dans l’ être suprême; néant absolu, émancipation définitive; béatitude (…)”. Vậy niết bàn không có liên quan gì đến rừng mà liên quan đến sự tắt ngấm, sự ngưng thổi, hiểu rộng ra là sự tắt thở và cái chết. Có thể so sánh cấu trúc ngữ nghĩa của danh từ nir-vāṇa trong tiếng Sanskrit với cấu trúc ngữ nghĩa của danh từ anIma trong tiếng La Tinh để làm cho vấn đề sáng tỏ hơn. Danh từ La Tinh này có các nghĩa sau đây: 1. không khí, 2. luồng hơi, gió, 3. hơi thở, 4. linh hồn, 5. sinh vật, con người, 6. tâm hồn, tấm lòng. Vật có hơi thở, nghĩa là động vật, kể cả con người, thì được gọi là anImal (cũng cho ra tiếng Pháp anImal = động vật), phái sinh từ anIma. Vậy sự sống và cái chết đều có liên quan đến luồng hơi, đến hơi thở. Tắt hơi, tiếng Sanskrit là nir-VĀ, tức là chết. Tóm lại, xét theo nguồn gốc thì khái niệm niết bàn chỉ liên quan đến hơi thở chứ chẳng có liên quan gì đến cảnh rừng cả.
Sở dĩ Đoàn Trung Còn liên hệ niết bàn với rừng là do đã nhầm (nir)vāṇa với vāna (= rừng). Thực ra, trong tiếng Sanskrit thì ṇ và n là hai phụ âm khác nhau cho nên nếu không phân biệt chúng với nhau thì sẽ dễ dàng đi đến nhầm lẫn về mặt ngữ nghĩa. Thí dụ: aṇu là mịn, nhuyễn, mỏng, yếu v.v. nhưng anu thì lại có nghĩa là về sau, đằng sau, v.v.; caṇa là đậu mỏ (pois chiche) còn cana thì lại là một tiểu tố có tác dụng phiếm chỉ hóa một số đại từ; pāṇa là món tiền đặt trong canh bạc nhưng pāna thì lại là nước giải khát, v.v..
Tương ứng với tiếng Sanskrit nirvāṇa là tiếng Pāli nibbāna mà Concise Pāli-English Dictionary của A.P. Buddhadatta Mahāthera (Colombo, 1957) dịch là “extinction (of a fire); emancipation; the final bliss”. Nghĩa đã cho bằng tiếng Anh trong CPED cũng trùng với nghĩa đã cho bằng tiếng Pháp trong DSF. Căn tố động từ trong cả nirvāṇa lẫn nibbāna đều là VĀ (v trở thành b trong nibbāna là do biến thể samdhi) với nghĩa đã nói ở trên. Vậy niết bàn (nirvāṇa, nibbāna) chẳng có liên quan gì đến “rừng” cả.
§ 267. Kiến thức ngày nay, số 180, ngày 20-7-1995
Hỏi: Ở Thành phố Hồ Chí Minh, có con đường trước cửa UBND TP đặt tên là Lê Thánh Tôn. Còn ở TP Hà Nội, lại có con đường mang tên Lê Thánh Tông. Xin giải đáp giúp: hai vị này là một người hay hai người. Nếu là một người, tại sao có hai tên mà chỉ khác nhau có chữ g hay không có chữ g sau cùng?
Học giả An Chi giải đáp: Lê Thánh Tôn và Lê Thánh Tông chỉ là hai cách đọc khác nhau để chỉ một vị vua duy nhất: đó là Lê Tư Thành, con thứ tư của Lê Thái Tông, được phong Bình Nguyên Vương, lên ngôi năm 1460 và ở ngôi cho đến năm 1497, niên hiệu là Quang Thuận (1460 – 1469) và Hồng Đức (1470 – 1497), miếu hiệu là Thánh Tông.
Sở dĩ người ta đọc Lê Thánh Tông thành Lê Thánh Tôn là do trước đây phải kỵ húy của một vị vua nhà Nguyễn là (Nguyễn Phúc) Miên Tông 綿宗, niên hiệu Thiệu Trị (1841 – 1847), miếu hiệu là Hiến Tổ. Thiết âm chính xác của chữ 宗 là tô ông thiết, đông vận” (Xem Từ hải); vậy nó phải được đọc là tông. Từ hơn 150 năm nay, do kiêng húy, nó đã bị đọc trại thành “tôn”. Việt-Nam sử lược của Trần Trọng KIm, chẳng hạn, đã viết như sau: “Tháng giêng năm tân-sửu (1841) Hoàng-thái-tử húy là Miên-tôn 綿 宗 lên ngôi ở điện Thái-hòa, đặt niên hiệu là Thiệu-trị”.* Chữ quốc ngữ là “tôn” mà chữ Hán chú kèm thì vẫn là tông 宗. Vậy phục hồi cho chữ này cách phát âm chính xác là một việc làm hợp lý.
§ 268. Kiến thức ngày nay, số 180, ngày 20-7-1995
Hỏi: “Chín chữ cù lao” là chín chữ nào và “cù lao” là gì?
Học giả An Chi giải đáp: Chữ cù 劬 đồng nghĩa với chữ lao 勞 và có nghĩa là nhọc nhằn, vất vả. Vì vậy nên chúng mới đi chung với nhau để tạo thành từ ghép đẳng lập cù lao mà diễn đạt một ý tổng quát hơn. Kinh thi có câu “Cù lao vu dã” nghĩa là nhọc nhằn vất vả nơi đồng nội. Cũng lại Kinh thi còn có câu “Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao”, nghĩa là thương thay cha mẹ nhọc nhằn sinh ta. Hai tiếng cù lao về sau cũng được dùng riêng để chỉ công ơn sinh thành của cha mẹ. Theo Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức thì chín chữ “cửu tự” là sinh (đẻ), cúc (nâng, đỡ), phủ (vuốt ve), súc (cho bú mớm), trưởng (nuôi cho lớn), dục (nuôi dạy), cố (trông nom), phục (xem tính mà dạy bảo), phúc (gìn giữ). Còn Hán-Việt tân từ-điển của Nguyễn Quốc Hùng thì ghi hơi khác như sau: sinh (cha sanh), cúc (mẹ đẻ), phủ (vỗ về), dục (nuôi cho khôn), cố (trông, nom), phục (quấn quít), phủ (nâng niu), súc (nuôi cho lớn), phúc (bồng bế).
§ 269. Kiến thức ngày nay, số 180, ngày 20-7-1995
Hỏi: Địa danh “Hà Nội” có từ bao giờ và do ai đặt ra? Có phải là do Pháp? Trung Quốc có địa danh “Hà Nội” hay không?
Học giả An Chi giải đáp: Địa danh Hà Nội của Việt Nam ra đời năm Minh Mạng thứ 12 (1832). Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn đã chép: “Đời Hùng Vương xưa là bộ Giao Chỉ, đời Tần thuộc nước của An Dương Vương; đời Hán là bộ Giao Chỉ; đời Tùy là quận Giao Chỉ; đời Đường là An Nam đô hộ phủ, bấy giờ mới đắp thành Đại La. Nước ta nhà Đinh đầu đời Thái Bình gọi là đạo; nhà Tiền Lê, đầu đời Ứng Thiên gọi là lộ; nhà Lí đầu đời Thuận Thiên làm Đô thành, lại gọi là Nam Kinh, thành gọi là Thăng Long (trước gọi là Long Thành), phủ gọi là Ứng Thiên (…); nhà Trần đầu đời Thiệu Bảo đổi là Trung Kinh; thời thuộc Minh làm trị sở của ba ti phủ Giao Châu và gọi là thành Đông Quan (…). Năm Thuận Thiên thứ 3, đổi Đông Quan làm Đông Kinh; lại gọi là Trung Đô; đời Quang Thuận đặt phủ phụ quách của Kinh thành, đổi phủ Ứng Thiên làm Phụng Thiên (…); từ đời Hiển Tông trở đi gọi là Đông Đô (đời Lê Hiển Tông gọi Thanh Hoa là Tây Đô, nên gọi thành Thăng Long là Đông Đô). Tây Sơn gọi là Bắc Thành. Bản triều năm Gia Long thứ 1, đặt Bắc Thành tổng trấn lãnh 11 trấn (…) Năm Minh Mệnh thứ 12 bỏ Bắc Thành tổng trấn, chia tỉnh hạt, đem huyện Từ Liêm thuộc tỉnh Sơn Tây đổi lệ vào phủ Hoài Đức, lại lấy 3 phủ Ứng Hòa, Lí Nhân và Thường Tín thuộc Sơn Nam đặt riêng làm tỉnh Hà Nội và đặt chức tổng đốc Hà-Ninh coi cả hai tỉnh Hà Nội và Ninh Bình (…)”.*
Cũng Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn đã chép về thành của tỉnh Hà Nội như sau: “Chu vi 432 trượng linh, cao 1 trượng 1 thước 2 tấc, hào rộng trên dưới 4 trượng, mở 5 cửa, ở địa phận hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Từ đời nhà Lê về trước, kinh đô đều đặt ở đây; lại có tên là thành Phụng Thiên, ở trong thành Đại La. Thành lâu năm sụt đổ, đến đời Tây Sơn, theo nền cũ đắp thành quanh từ cửa Đông Hoa đến cửa Đại Hưng; bản triều đầu đời Gia Long lấy làm lị sở của Bắc Thành (…) Năm Minh Mệnh thứ 12, chia tỉnh hạt, lấy thành này làm thành tỉnh Hà Nội; năm thứ 16, cho rằng thân thành quá cao, giảm bớt đi 1 thước 8 tấc. Các đời Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị dùng thành này làm sở bang giao”.*
Vậy địa danh Hà Nội không phải là do người Pháp đặt ra. Còn ở Trung Quốc thì cũng có địa danh Hà Nội, thuộc tỉnh Hà Nam, từ sông Hoàng Hà trở về Bắc (từ sông Hoàng Hà trở về Nam thì gọi là Hà Ngoại). Đời Hán đặt làm quận và lấy Hà Nội làm tên gọi.
§ 270. Kiến thức ngày nay, số 180, ngày 20-7-1995
Hỏi: Sách tử vi có tên sao Thiên Riêu; vậy chữ Riêu viết theo chữ Hán như thế nào?
Học giả An Chi giải đáp: “Thiên Riêu” là một cách đọc trại âm của Thiên Diêu, tên một ngôi sao mà chữ Hán là 天 姚. Hán-Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng đã phiên âm chữ 姚 là dao nhưng thiết âm của nó là “di tiều thiết” (Xem Từ nguyên và Từ hải) nên nó phải được đọc là diêu. Còn riêu chỉ là một biến thể ngữ âm có tính chất cá nhân hoặc địa phương của chữ diêu 姚 mà thôi.
§ 271. Kiến thức ngày nay, số 181, ngày 1 -8-1995
Hỏi: Trên Kiến thức ngày nay, số 175, ông có giải thích câu thần chú “Om Mani Padme hum”.
Câu thần chú đó được bà Helen Petrovna Blavatsky (1831 -1891), một bực tu cao sang Tây Tạng học đạo về có giải thích, xin trích dịch như sau:
“Aum (hay Om) Mani Padme hum” thường được dịch sai lạc là “Hỡi Ngọc quí trong Hoa sen”. Mặc dù lúc dịch từng chữ, aum (hay om) là Thánh ngữ của Thượng đế (hay Phật), padme nghĩa là trong hoa sen và mani là ngọc quí nhưng những từ ngữ đó, cũng như ý nghĩa về biểu tượng, không được diễn đạt đúng mức.
Khi được thấu triệt, câu huyền bí “Om mani padme hum” hàm chứa sự kết hợp vững bền giữa Con Người và Vũ Trụ.
Niệm chú còn có nghĩa là “Tôi là Chân Ngã; Chân Ngã tôi ở trong Bạn và Chân Ngã Bạn ở trong tôi”. Trong sự hòa hợp mật thiết đó, người thánh đức trở nên như một động lực hay nguyên nhân của những kết quả hiển nhiên. Trong trường hợp của một thức giả, thí dụ một Nhân vật Huyền môn (tôi muốn nói một nhân vật của Chánh Đạo) thì ngài có thể hướng dẫn một dòng tư tưởng lành thiện hay một năng lực bảo vệ để đem sự tốt đẹp hay sự phò hộ cho nhiều người hay nhiều quốc gia. Còn trường hợp không cố ý, khi niệm chú, một người tốt cũng trở thành sự che chở cho người khác.
Hãy thận trọng, hỡi quí Bạn đang nghiên cứu điều này. Bạn đừng vô cớ đọc niệm chú. Bạn cũng đừng đọc nó khi tức giận, bằng không Bạn tự hại mình, hay hiểm nghèo hơn nữa, Bạn làm lâm nguy người mà bạn tưởng nghĩ.
Ý nghĩa bí truyền của Aum (om) Mani Padme hum là “Hỡi Thượng Đế (Phật) trong lòng tôi”. Vâng, đúng như vậy, có một vì Thượng Đế (Phật) trong lòng của mỗi người, bởi vì Con Người đã là và sẽ trở lại là Thượng Đế (Phật). Hoa sen là biểu tượng phổ quát của Vũ Trụ, của Càn Khôn đại thể; còn Ngọc quý là biểu tượng của Thượng Đế (Phật) nội tâm”.
H.P. Blavatsky
Nếu ông thấy cần giúp bạn đọc hiểu câu “Aum (om) mani padme hum”, xin đăng trên Kiến thức ngày nay.
Học giả An Chi giải đáp: “Hỡi ngọc quí trong Hoa sen” (câu dịch của chúng tôi là “Úm, ngọc báu trong hoa sen, hum”) là lời dịch chính xác của câu “Om mani padme hum” trong tiếng Sanskrit. Không thể nói như H.P. Blavatsky rằng đó là một cách dịch “sai lạc” được. Ở đây bà Blavatsky đã nhầm lẫn lời dịch đúng với cách hiểu lời dịch đúng đó. Những gì mà bà Blavatsky phát biểu về câu thần chú hữu quan (qua lời dịch của ông) thì chẳng qua chỉ là cách hiểu riêng của bà về các ẩn dụ ở trong đó mà thôi. Nguyên văn tiếng Sanskrit bao hàm hai danh từ dùng theo phép ẩn dụ (mani và padme) thì lời dịch đang xét cũng bao hàm hai ẩn dụ tương ứng (ngọc báu và hoa sen). Đây là một cách dịch rất sát với nguyên văn. Về những cách dịch tương tự, chúng tôi đã có dịp phát biểu ở mục Chuyện Đông chuyện Tây, chẳng hạn khi trả lời ông Trần Văn Bé (Phương Phú, Phụng Hiệp, Cần Thơ) về cách dịch danh từ thiên trong câu Dân dĩ thực vi thiên. Nay xin chép ra đây như sau: “Cần phải hiểu mệnh đề “Dân dĩ thực vi thiên” gắn liền với mệnh đề đứng liền trước nó vì cả câu là “Vương giả dĩ dân vi thiên, dân dĩ thực vi thiên”. Trong cả câu, chữ thiên đã được dùng hai lần với một nghĩa duy nhất là ông trời, là trời (…). Đối với câu đang xét thì sự biên dịch phải dừng lại ở cái nghĩa “ông trời” của chữ thiên còn cái ý “vật gì hay sự gì cần thiết và người ta phải nhờ vả không thể thiếu được” thì chỉ nên dành cho sự giảng văn mà thôi. Cũng vậy, đối với câu sau đây trong sách Nghi lễ “Phụ giả tử chi thiên; phu giả thê chi thiên dã” (Cha là ông trời của con; chồng là ông trời của vợ vậy) thì chữ thiên phải được dịch là trời chứ không nên dịch thành “người đáng được tôn sùng nhất” hoặc “người có quyền hành tuyệt đối”. Thử tưởng tượng xem thành ngữ “dân chi phụ mẫu” mà không dịch thành “cha mẹ của dân”, lại đi dịch thành “người có quyền sinh sát đối với dân” hoặc “người xét xử công bằng cho dân” thì còn đâu là ý nhị nữa!*
Tương tự như trên, mani padme có nghĩa là “ngọc báu trong hoa sen” còn hàm ý của các ẩn dụ trong lời dịch đó là gì thì lại là một vấn đề khác nữa. Đây là vấn đề cách hiểu nội dung của các ẩn dụ đang xét. Lời diễn giảng trên đây của bà Blavatsky chỉ là một cách hiểu riêng của bà về các ẩn dụ đó để tuyên truyền cho giáo thuyết của bà. Còn sở dĩ trên Kiến thức ngày nay, số 175, chúng tôi không nêu lên cách hiểu về nội dung của các ẩn dụ đó là vì để cho câu trả lời được ngắn gọn, chúng tôi đã có gợi ý bạn đọc tìm hiểu nội dung của chúng cũng như của cả câu thần chú đang xét ở bài “Tìm hiểu câu thần chú Án ma ni bát mê hồng”, đã đăng trên Kiến thức ngày nay, số 80. Nay cũng xin trích dẫn ra đây như sau: “Tóm lại, câu Án ma ni bát mê hồng có thể được giảng là: “Úm, ngọc báu trong hoa sen, hum! (…) Nhưng “ngọc báu trong hoa sen” là gì? E.Royston Pike cho rằng “ngọc báu” chính là “giáo lý nhà Phật” còn “hoa sen” là “cái thế giới trong đó giáo lý nói trên được thiết định”. Nhưng Mathews’ Chinese-English Dictionary (p. 6, entry31) thì cho rằng câu thần chú đang xét còn có thể được hiểu một cách khác nữa: đó là lời cầu khấn người đã sáng lập ra đạo thiện ác cộng tồn (manichéisme) là Mani, tiếng Pháp còn gọi là Manès hoặc Manichée. Theo cách hiểu này, mani không còn phải là ngọc báu nữa, và Mani padme lại là đấng Mani, tức Manès hoặc Manichée (đứng) giữa tòa sen” (Bđd, tr. 83).
Tóm lại “Úm, ngọc báu trong hoa sen, hum” tuyệt nhiên không hề là một cách dịch “sai lạc” của câu “Om mani padme hum” còn cách hiểu của bà Blavatsky về câu này – mà tự bà đã nhầm lẫn là cách dịch – thì lại chẳng phải là cách hiểu duy nhất đối với câu đó. Nếu mỗi thánh ngôn luôn luôn chỉ có một cách hiểu duy nhất thì đã chẳng có các dòng, các phái khác nhau ngay trong lòng của chính một tôn giáo (đương nhiên đây không nhất thiết là nguyên nhân duy nhất).
§ 272. Kiến thức ngày nay, số 181, ngày 1 -8-1995
Hỏi: Câu 1210 của Truyện Kiều là: “Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề”. Vậy bảy chữ là những chữ gì và tám nghề là những nghề nào?
Học giả An Chi giải đáp: Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh (Hà Nội, 1974) đã giảng bảy chữ như sau: “Theo Nguyên truyện thì thuật tiếp khách ở lầu xanh có bảy chữ là: 1. Khấp (khóc với khách); 2. Tiễn (cắt tóc đưa cho khách làm tin); 3. Thích (thích tên khách vào cánh tay); 4. Thiêu (đốt hương để thề nguyền); 5. Giá (hẹn lấy nhau); 6. Tẩu (rủ nhau đi trốn); 7. Tử (giả chết cho khách luyến tiếc)”. So với Nguyên truyện thì Đào Duy Anh đã giảng sai chữ thứ tư. Ông đã chỉ đơn giản dựa theo nghĩa chữ và lệ thường mà cho rằng thiêu ở đây là đốt hương thề nguyền. Nguyễn Quảng Tuân trong Truyện Kiều (khảo đính và chú giải, Nxb. Khoa học Xã hội, 1995) cũng đã giảng như Đào Duy Anh (Xem sđd, tr. 163). Sự thật theo Nguyên truyện thì thiêu là một việc làm khác hẳn. Xin chép ra như sau: “Siêu (tức thiêu – AC): đốt, tức là kế khổ nhục vậy. Nay chị em mình lấy dao để chích vào thịt, cho bọn làng chơi ngây thơ vui lòng, lừa dối chúng nó để lấy tiền bạc. Nếu không làm cho chúng cảm động, thì sao đẩy được bọn chúng sa ngã vào cạm bẫy của mình? Bởi thế ta nên phải dùng đến kế khổ nhục, hai bên cùng nhau thề thốt: Trai không đổi dạ, gái không thay lòng, kẻ nào tráo trở sẽ bị trời đất tru di! Thề xong hai bên cùng đốt một huyệt. Đối với người có hảo tâm bậc nhất, ân tình cảm thấy nồng hậu, thì huyệt đốt ấy gọi là “Công tâm trúng nguyện”, hai người cùng cởi áo, da bụng dưới để áp vào nhau; ngực đối với ngực rồi lấy hương đốt”.* Vậy thiêu ở đây thực chất là đốt huyệt và theo Nguyên truyện thì có tất cả 6 huyệt mà trên đây là một. Bản Kiều do Chiêm Vân Thị chú đính, Lê Mạnh Liêu phiên dịch và phụ chú (có nhan đề là Thuý-Kiều truyện tường chú) do Nha Văn hóa, Bộ Giáo dục và Thanh niên (Sài Gòn) tái bản lần thứ nhất năm 1973, cũng đã in lại nguyên văn chữ Hán của Nguyên truyện (có cả phiên âm Hán Việt) và dịch ra đại khái như đã trích từ Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế trên đây. Tóm lại thiêu ở đây không phải là đốt hương thề nguyền mà là đốt huyệt thề nguyền. Vì vậy mới gọi là khổ nhục kế.
Còn tám nghề thì thực chất là tám ngón, tám thủ thuật chiều chuộng khách làng chơi mà Nguyên truyện thì quí vị có thể tham khảo Truyện Kiều đối chiếu, trang 221.
Phạm Đan Quế, khi làm công việc đối chiếu, đã nhận xét như sau: “Về cốt truyện, hệ thống nhân vật, thứ tự trình bày các sự kiện, những vấn đề luân lý, triết lý và đôi khi cả các chi tiết, Nguyễn Du đã dựa rất nhiều vào bản gốc của Thanh Tâm Tài Tử. Tuy nhiên, ông đã chỉ chọn những sự việc chính, lược bỏ nhiều đoạn rườm rà và có khi chỉ tóm tắt trong một số ít câu cả một đoạn dài trong truyện”.* Câu “Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề” chẳng hạn, đã tóm tắt đến 6 trang của nguyên truyện dịch ra tiếng Việt in trong Truyện Kiều đối chiếu (tr. 221 – 227). Chỉ một chữ “khóc” của nguyên truyện đã chiếm gần hết một trang, chữ “thiêu”(đốt – đã dẫn ở trên) thì trọn một trang. Xét cho cùng, những chi tiết đó quả không phải là thực sự thiết yếu đối với cốt truyện, mà chỉ là nội dung của một quyển chuyên đề về kỹ nghệ tiếp khách của gái lầu xanh. Có so sánh với nguyên truyện mới thấy Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du quả là một kiệt tác “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa” còn KIm Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là một quyển sách “tả chân”.
§ 273. Kiến thức ngày nay, số 182, ngày 10-8-1995
Hỏi: Dòng 845 của Truyện Kiều là: “Tiếc thay một đóa trà mi” Còn Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh thì viết: “Tiếc thay một đóa trà (đồ) mi”. Xin cho biết “đồ mi” đúng hay “trà mi” đúng.
Học giả An Chi giải đáp: Trong tiếng Hán, chỉ có danh từ đồ mi chứ không có trà mi. Vì chữ đồ 荼 và chữ trà 茶 chỉ khác nhau có một nét (chữ trước có một nét ngang nhỏ trên chữ mộc 木 mà chữ sau không có) nên người ta dễ nhầm chữ này thành chữ kia. Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh (Hà Nội, 1974) đã ghi nhận cả hai hình thức đồ mi lẫn trà mi nhưng vẫn mặc nhận rằng đồ mi mới là hình thức gốc và chính xác. Đồng thời cũng theo Đào Duy Anh thì “nước ta có hoa trà mi, nhưng khác với đồ mi của Trung Quốc”.* Cách ghi nhận này cũng hàm ý rằng trà mi (Việt Nam) là một cách đọc sai của đồ mi (Trung Quốc), như Đào Duy Anh đã khẳng định trước đó*. Còn hiện tượng hoa trà mi/đồ mi ở Trung Hoa khác ở Việt Nam thì lại là một việc khác và cũng giống như hiện tượng hoa mẫu đơn của Trung Quốc không giống hoa mẫu đơn ở Việt Nam mà thôi. Tuy nhiên trên đây chỉ là xét theo hiện đại chứ nếu xét theo nguồn gốc thì có ý kiến cho rằng đồ 荼 và trà 茶 vốn chỉ là một chữ vì thể triện của cả hai chữ này đều là . Về chữ này, Từ Huyền nói rằng đây là chữ trà 茶 hiện nay. Còn Hách Ý Hạnh nói rằng chữ trà 茶 ngày nay xưa viết là 荼, đến đời Đường, Lục Vũ soạn sách Trà kinh, mới giảm một nét (tức nét ngang ngắn trên chữ mộc) mà viết thành 茶. Cố Viêm Vũ cho rằng đời Đường hãy còn viết 荼(chứ chưa giảm một nét) và rằng chữ đó xưa chỉ đọc là đồ rồi từ đời Đông Hán trở đi mới có âm trà (trạch gia phiên) mà còn thêm âm gia (ca). Từ đời Lương trở đi mới có âm nay (là trà) lại còn giảm bừa một nét mà viết thành 茶. Cố Viêm Vũ dẫn chứng rằng, ở vận ma, sách Quảng vận có cả hai chữ 荼 và 茶 và có ghi chú rằng chữ sau là tục tự của chữ trước. Trở lên là dẫn theo Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển của Cao Thụ Phiên. Từ hải cũng ghi nhận rằng chữ 茶 xưa viết là 荼 rồi về sau Lục Vũ mới giảm bớt một nét khi soạn Trà kinh. Chữ trà ngoài việc dùng để ghi tên một thứ ẩm liệu, cũng còn dùng để ghi họ người nữa. Có ý kiến cho rằng xưa kia Trà 茶 và Đồ 荼 vốn là một họ rồi đến đời Hán mới phân làm hai*, ý muốn nói rằng xưa kia họ hữu quan chỉ có âm đồ và ghi bằng chữ 荼, sau mới phân hóa như hiện nay. Nhưng Khang Hy tự điển thì cho rằng ngay từ đời Hán, trà 茶 và đồ 荼 đã là hai chữ riêng biệt. Sách này dẫn chứng rằng Hán thư niên biểu có hai chữ đồ lăng với chữ đồ viết là 荼, chữ này được Nhan Sư Cổ chú âm là đồ 塗 còn Địa lý chí có hai chữ trà lăng với hai chữ trà viết là 茶 thì Nhan Sư Cổ chú âm là “trượng gia thiết” (= trà). Vậy đó đã là hai chữ khác nhau.
Dù thế nào mặc lòng, xét theo hiện trạng của Hán ngữ và Hán tự thì đồ 荼 và trà 茶 đã là hai chữ khác nhau. Và người Việt Nam đọc đồ mi thành trà mi đương nhiên là đã đọc sai. (Vì nhận nhầm mặt chữ như thế nên thợ khắc ván mới khắc đồ thành trà chăng?). Cái sai này chẳng qua chỉ là chuyện tác đánh tộ, ngộ đánh quá chứ không phải là do tránh né danh từ “đồ” của khẩu ngữ bình dân. Về trường hợp này, chúng tôi đã có dịp phát biểu nơi Chuyện Đông chuyện Tây, nay xin nhắc lại như sau: “Chúng tôi không nghĩ như thế vì nếu tránh thô tục là lý do đích thực của việc đọc trại đồ thành trà thì (…) lẽ ra người ta đã phải kiêng kỵ giùm cho các ông “đồ” Nho mà gọi họ là ông “trà” chứ có đâu vẫn báng bổ mà dùng cái tiếng “đồ” để gọi họ (…) Vả lại, tại sao để tránh thô tục, người ta không chọn tiếng nào gần âm với tiếng đồ hơn (chẳng hạn: đô, độ, đà, v.v.) mà cứ phải chọn trà?”*. Vấn đề rõ ràng là ở chỗ người ta đã nhầm lẫn chữ này với chữ kia vì đồ và trà chỉ hơn kém nhau có một nét (và ngoài nét này ra thì chúng hoàn toàn giống nhau).
Thực ra, chẳng cứ gì ta mới nhầm đồ thành trà. Tàu cũng vẫn cứ nhầm lẫn như thường. Bằng chứng là họ đã nhầm ngược lại trà thành đồ trong danh từ phiên âm trà tỳ 茶毗 mà họ cũng viết thành đồ tỳ 荼毗. Đây là tiếng Hán dùng để phiên âm danh từ Sanskrit śavya có nghĩa là tang lễ (< sáva là thây ma, xác chết). Trà tỳ đúng ra phải đọc là trà bì vì âm Hán Việt chính thống của chữ 毗 là bì (bần di thiết). Śavya đã được phiên âm thành trà bì (tỳ) để chỉ sự thiêu xác, lễ hỏa táng. Chữ trà cũng đã bị nhiều người Tàu nhầm thành chữ đồ, đến nỗi một quyển từ điển danh tiếng như Từ hải chỉ ghi nhận có hình thức phiên âm: đồ bì (tỳ) mà không có… trà bì (tỳ), bất kể đây mới là hình thức phiên âm nguyên thủy và chính xác.
Tóm lại, tiếng Hán chỉ có danh từ đồ mi chứ không có trà mi. Bản Kiều mới nhất là Truyện Kiều do Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú giải (Nxb. Khoa học Xã hội, 1995) cũng đã ghi nhận như sau: “Trà mi: đúng ra là chữ đồ mi”. Một bằng chứng nữa cho việc khẳng định âm đồ là chữ đồ 荼, ngoài bộ thảo 艸 còn viết theo bộ dậu 酉 thành 酴. Đây cũng là một hình thanh tự mà thanh phù là đồ 余, giống như trong chữ đồ bộ thảo (Xin chú ý rằng chữ 余 có ba âm: dư, từ và đồ). Thơ vịnh hoa đồ mi của Tô Triệt có hai câu như sau:
Hậu phố đồ mi thủ tự tài;
Thanh như thược dược, nghiệm như mai.
nghĩa là:
Tự tay trồng hoa đồ mi nơi vườn sau
Thanh như thược dược, đượm như mai.
§ 274. Kiến thức ngày nay, số 182, ngày 10-8-1995
Hỏi: Có người nói rằng con cá là biểu tượng của Chúa Jesus. Có đúng không và tại sao?
Học giả An Chi giải đáp: Đúng là con cá có được dùng làm biểu tượng cho Chúa Jesus. Hiện tượng này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp. Trong ngôn ngữ này, con cá gọi là ikhthus, viết bằng năm chữ cái: iota, khi, thêta, upsilon và sigma. Đây cũng là năm chữ cái đầu tiên của năm từ trong ngữ đoạn “Iesous KHristos THeou Uios Sôter” có nghĩa là “Jesus Christ, Con của Chúa, Đấng Cứu thế” (i là phiên âm La Tinh của iota, kh của khi, th của thêta, u của upsilon và s của sigma). Vì ngữ đoạn trên đây viết tắt bằng năm chữ cái đầu tiên của năm từ cấu thành nó cũng là ikhthus mà ikhthus* (chữ Hy Lạp là ιχθυς) nghĩa là con cá nên người ta mới lấy con cá làm biểu tượng của Chúa Jesus.
§ 275. Kiến thức ngày nay, số 182, ngày 10-8-1995
Hỏi: “Thiên cổ sự” là sự gì?
Học giả An Chi giải đáp: Đó là “sự văn chương”. Nhà thơ Đỗ Phủ có bốn câu sau đây:
Văn chương thiên cổ sự
Đắc thất thốn tâm tri
Tác giả giai phù biệt
Thanh danh khởi lãng thùy.
Xin dịch thoát ý như sau:
Văn chương chuyện nghìn đời
Hay dở ở trong tâm
Ý mỗi người một khác
Biết đâu là tiếng tăm.
Văn Tâm đã mượn ý của bài này mà đặt tên cho tập phê bình – tiểu luận của mình là Góp lời “thiên cổ sự” (Nxb. Văn học, 1991).
§ 276. Kiến thức ngày nay, số 182, ngày 10-8-1995
Hỏi: Trong cuốn Thơ nghìn nhà do Nguyễn Hà tuyển dịch (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1994) có bài thơ “Hồng diệp lương mai” của Vu Hựu ở trang 111:
Nhất liên giai cú tùy lưu thủy
Thập tải ưu tư mãn tố hoài
KIm nhật khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng diệp thị lương mai
Còn trong bài “Cuộc tình 10 năm và bài thơ tình của nàng Hàn Thị” trong mục “Kể chuyện nghe chung” trang 13 của tạp chí Thanh niên số 10-1995, tác giả Nguyễn Yến nêu rõ như sau:
Hàn Thị là cung nữ của vua Đường, đã phải chôn vùi cả tuổi thanh xuân và tự do tình ái nơi cung thất. Hằng ngày Hàn Thị thẫn thờ bên khóm trúc bụi hoa nơi bờ suối vườn thượng uyển. Tâm sự của nàng được viết lên những chiếc lá đỏ với những bài thơ trôi theo dòng nước. Cứ thế những lá đỏ đề thơ trôi đi để một chiều kia chàng thư sinh Vu Hựu nhẩn nha bên dòng sông vắng vớt được. Khi biết những chiếc lá ấy trôi từ dòng ngự câu trong cung vua ra, Vu Hựu xem thơ và cảm mối sầu muộn của nàng cung nữ, chàng bèn đề thơ đáp lại lên những chiếc lá đỏ khác rồi đem thả ở thượng lưu dòng.
Nàng Hàn Thị vớt được. Hai người bộc bạch lòng mình qua những “bài thơ lá đỏ” như thế mà không một lần gặp mặt. Mười năm sau cũng là lúc vua thải cung nữ, hai người mới tìm gặp nhau và nên vợ nên chồng.
Ngày đoàn tụ, nàng Hàn Thị mở hộp nữ trang, Vu Hựu mở túi đựng những bài thơ tình đề trên lá đỏ của mười năm trước đưa cho nhau xem. Bao tâm sự, nhớ thương và bao hy vọng mong manh, cuối cùng họ được hạnh phúc, Hàn Thị đã làm một bài thơ để ghi nhớ ngày hạnh phúc trong đời của cả hai.
Nhất niên thi cú tùy lưu thuỷ
Thập tải ưu tư mãn tố hoài
KIm nhật phúc thành loan phượng hữu
Phương tri hồng diệp thị hương môi.
Xin cho biết trên đây là hai bài thơ riêng biệt hay chỉ là một. Nếu là một thì ai là tác giả hay là cả hai cùng viết?
Học giả An Chi giải đáp: Hai văn bản thơ trên đây chỉ khác nhau ở những chữ liên ≠ niên, giai ≠ thi, khước ≠ phúc, lữ ≠ hữu, lương ≠ hương. Vậy khó có thể nghĩ rằng đó là hai bài thơ khác nhau. Theo Từ hải thì sách Thái bình quảng ký đã chép nguyên văn bài thơ đó như sau:
Nhất niên giai cú tùy lưu thủy,
Thập tải u tư mãn tố hoài;
KIm nhật khước thành loan phượng hữu,
Phương tri hồng diệp thị lương môi.
Tương truyền bài thơ này là của nàng cung nữ họ Hàn. Còn về “chú rể” thì, cũng theo Từ hải, sách Bắc mộng tỏa ngôn lại chép rằng đó là Lý Nhân (chứ không phải Vu Hựu).
Nhân tiện xin nói đôi điều về chữ nghĩa.
Nhất liên giai cú là một chuỗi câu hay. Còn nhất niên thi cú là những câu thơ (làm) trong một năm (hoặc một năm làm những câu thơ). Điều này mâu thuẫn với lời kể của Nguyễn Yến là những câu thơ làm trong mười năm. Vả lại thi cú chẳng những không hay bằng giai cú mà lại còn thừa vì đã nói về những câu thơ thì đó đương nhiên phải là “thi” chứ không thể là gì khác.
U tư là nghĩ thầm, nhớ thầm. Đây là u 幽 chứ không phải ưu 憂.
Chữ khước có nghĩa là bèn, là rồi thì, hợp với mạch văn và tứ thơ hơn chữ phúc tuy nghe kêu nhưng mà không sát. Chính chữ khước mới là cái dấu chấm hết cho mười năm thầm yêu trộm nhớ (thập tải u tư).
Lữ và hữu tuy có đồng nghĩa nhưng chữ hữu đúng với văn bản trong Thái bình quảng ký.
Cuối cùng, lương mai (môi) là mối mai tốt lành còn hương môi (mai) thì tuy có bay bướm nhưng xem ra chẳng có gì là… thiết thực.
§ 277. Kiến thức ngày nay, số 183, ngày 20-8-1995
Hỏi: Đồng bạc hoa xòe là đồng bạc gì? Từ điển tiếng Việt (Khoa học Xã hội, H.1991) ghi “Hoa xòe” là đồng bạc Đông Dương cũ. Nhưng sách Việt Nam, những sự kiện lịch sử 1858 -1945, tập I: 1858 – 1896 (Khoa học Xã hội, H.1981) trang 218, thì lại ghi về một trong những điểm của điều 27, hiệp ước Harmand (25-8-1883) như sau: “… cùng một lúc tại Việt Nam tồn tại và lưu hành 3 loại tiền: tiền Việt Nam (quan tiền, tiền đồng, tiền kẽm); đồng bạc Mễ Tây Cơ, tức đồng bạc hoa xòe (piastre mexicaine); đồng bạc ĐôngDương (piastre indochinoise)”. Vậy thực tế cách giải thích nào là đúng? Tại sao ở Việt Nam vào năm 1883 lại lưu hành cả đồng bạc Mễ Tây Cơ? Giá trị trao đổi giữa đồng bạc đó với đồng bạc Đông Dương như thế nào?
Học giả An Chi giải đáp: Trước sách Việt Nam, những sự kiện lịch sử mà ông đã nêu, cũng đã có người cho rằng đồng bạc hoa xòe là đồng bạc Mễ Tây Cơ (piastre mexicaine). Phan Khoang, chẳng hạn, đã viết – cũng về điều 27 của hiệp ước đã nói – như sau: “Đồng bạc hoa-xòe (piastre mexicaine) và tiền-tệ bằng-bạc của xứ Nam-kỳ sẽ cùng tiền-tệ của nước Nam đồng-thời cưỡng-bách lưu-hành khắp nước”.*
Chúng tôi cho rằng đồng bạc hoa xòe là đồng bạc Đông Dương còn đồng bạc con cò mới là đồng bạc Mễ Tây Cơ (nay gọi là Mê-hi-cô).
Sở dĩ vào năm 1833 đồng bạc của Mễ Tây Cơ lại lưu hành ở Việt Nam là vì việc giao thương giữa nước này với các nước Đông Nam Á đã bắt đầu từ hậu bán thế kỷ XVI, khi nó hãy còn là thuộc địa của Tây Ban Nha và còn mang tên là Nueva Espana (Tân Tây Ban Nha). Bấy giờ, cảng Acapulco của Mễ Tây Cơ nằm trên bờ Thái Bình Dương là nơi họp chợ phiên quan trọng của Tân Thế giới và là nơi đổ hàng chở từ thủ đô Manila của Philippines về. (Nước này đã trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha từ năm 1565). Tại đây, người ta đến để tìm kiếm xa xỉ phẩm từ Đông Nam Á. Ngược lại, từ đây một phần quan trọng sản phẩm kIm loại của Tân Thế giới thì được đưa đến Đông Nam Á thông qua Manila*. Thế là thông qua Manila, việc giao thương của Mễ Tây Cơ đã lan rộng sang các nước Đông Nam Á khác trong đó có Việt Nam. Vậy việc đồng bạc Mễ Tây Cơ – và không chỉ riêng nó – lưu hành tại Việt Nam thời đó không phải là một điều lạ.
Liên quan đến vấn đề đang xét, Sơn Nam có cho biết như sau: “Về tiền bạc thông dụng, khi quân đội viễn chinh Pháp đến thì trên thị trường Đông Nam Á, luôn cả Sài Gòn, từ lâu đã lưu hành “đồng bạc con cò”, tức đồng bạc Mê-hi-cô (Mễ Tây Cơ – AC), chạm hình con ó. Giá trị đồng này lên xuống chút ít so với đồng quan (franc – AC) của Pháp. Một đồng con cò ăn 5 quan 37 trong phạm vi quân đội Pháp, 5 quan 65 tại Sin-ga-po ở thị trường tự do, 6 quan 25 ở Hương Cảng. Một quan tiền của ta (600 đồng) được người Pháp trị giá ngang với một đồng frăn của chúng, vì vậy đồng frăn (âm là phật lăng) gọi đồng quan. Vì thiếu tiền lẻ, phải chặt đồng bạc con cò ra làm tư mà xài, mỗi phần gọi góc tư, hoặc cắt tư. Song song với đồng bạc con cò, trong dân gian còn xài tiền cũ, loại tiền kẽm; lúc đầu thực dân công nhận trong việc thâu thuế, lần hồi lại không xài. Năm 1874 đến 1879, ở Nam Kỳ xài thêm đồng “đô la” của Mỹ. Lại xài tiền Hương Cảng, tiền Ấn Độ (…).
Ngân hàng Đông Dương thành lập vào năm 1875, cho phát hành nhiều loại giấy bạc, phô trương tham vọng không đáy của thực dân (…)”.*
Vậy, tại Việt Nam, đặc biệt là Nam kỳ thời đó, không chỉ có đồng bạc Mễ Tây Cơ lưu hành, mà còn có cả những đồng tiền của các nước khác như Hương Cảng, Huê Kỳ và Ấn Độ nữa.
Đào Duy Anh cũng viết: “Năm 1895, ở Đông-dương chỉ lưu hành đồng bạc Mễ-tây-cơ (piastre mexicaine) nặng 27gr,073, thành sắc 0,902. Đến năm 1895, Chính-phủ thuộc địa bắt đầu chở vào đồng bạc Đông-dương đúc ở Paris, nặng 27gr, thành sắc 0,900 (…). Đến năm 1930, sắc lệnh ngày 31 tháng 5 của Tổng thống nước Pháp qui định đồng bạc Đông-pháp là 655 milligrammes vàng, theo thành sắc 0,900, tức theo giá 10 phật lăng vàng, từ đó tệ chế Đông-pháp bỏ ngân bản vị mà theo hư kIm bản vị. Sắc lệnh ngày 12 tháng 8 năm 1930 cho đúc đồng bạc Đông-pháp mới nặng 20 grammes thành sắc 0,900, nhưng đồng bạc này chỉ có tính chất tín dụng chứ không phải là tiền thật được”.*
§ 278. Kiến thức ngày nay, số 183, ngày 20-8-1995
Hỏi: “Dựng vợ gả chồng”: dựng ở đây có phải là dựng trong “xây dựng gia đình” hay không? Nếu đúng thì theo tôi là không hợp lý vì “xây dựng gia đình” là một cách dùng từ rất mới mà ông bà mình trước kia đâu có nói. Còn “dựng vợ gả chồng” thì lại là một thành ngữ cổ xưa! Lẽ nào ở đây lại có chuyện “tân cổ giao duyên”?
Học giả An Chi giải đáp: Bạn đã đặt vấn đề rất đúng. Dựng ở đây không phải là dựng trong xây dựng (gia đình). Đó là một từ Việt gốc Hán, chữ Hán là 媵, âm Hán Việt cũng là dựng vì thiết âm của nó là “dĩ chứng thiết, âm dựng 孕 ” (Khang Hy tự điển), “dị chứng thiết, âm dựng 孕 ” (Từ hải, Từ nguyên). Nghĩa gốc sâu xa của nó là tặng, là tiễn đưa, là đi theo còn nghĩa rộng của nó có liên quan đến thành ngữ dựng vợ gả chồng thì đã được Hán Việt tân từ-điển của Nguyễn Quốc Hùng ghi nhận như sau: “Đưa con gái về nhà chồng – Đưa dâu – Gả chồng”. Với nghĩa này thì dựng rõ ràng là đã “giao duyên” một cách rất xứng đôi với gả để tạo nên thành ngữ đang xét.
§ 279. Kiến thức ngày nay, số 183, ngày 20-8-1995
Hỏi: Tôi có đọc bài nói về vế ra của một câu đối ở trang 45 Kiến thức ngày nay, số 179 của ông Đặng Công Nhân, Đà Nẵng. Có vài nhận xét hơi khác:
1. “Lục mộc sâm sâm, đào mai trúc tùng bá liễu”.
六木森森 , 桃梅竹松柏柳.
Căn cứ hai chữ “lục mộc” (sáu câu) thì sáu chữ phần sau cần phải là những dạng chữ thuộc bộ “mộc” 木. Nhưng trong câu trên, chữ “trúc” 竹 không phải là chữ thuộc bộ “mộc” mà là thuộc bộ “trúc”. Vậy chúng ta cần phải sửa lại cho sáu chữ phần sau đều thuộc bộ “mộc”, chẳng hạn như:
“Lục mộc sâm sâm, đào mai hạnh lý tùng bách”.
六木森森 , 杜梅杏李松柏.
2. Đây rõ ràng là một câu xuất hóc hiểm khó đối, và cái khó ở đây chính là phần sau của câu xuất: kê tên sáu loại cây (lục mộc) cùng có dạng chữ thuộc bộ “mộc”. Trong khi đó hai chữ “sâm sâm” cũng thuộc bộ “mộc”, hơn nữa chữ “sâm” lại có kết cấu đặc biệt: được ghép bởi ba chữ “mộc” 木. Một câu đối lại được coi là hoàn chỉnh thì đương nhiên cũng phải dùng những từ tương ứng và phải là những từ cùng thuộc một bộ (thí dụ: bộ “nhân”, bộ “hỏa”…) để đối lại với những chữ hữu quan của vế đầu.
Và người xưa Trung Quốc đã tìm ra được một câu đối lại đáng khâm phục như sau:
“Tam thủy diểu diểu, Tương Giang Miến Thủy Hoài Hà”
三水淼淼 , 相江沔水淮河.
Trong câu đối lại, sáu chữ phần sau đồng thuộc bộ “thuỷ” 水, là tên ba con sông thuộc nước Trung Quốc, chữ “diểu” 淼 là chữ được ghép bởi ba chữ “thuỷ” 水.
Học giả An Chi giải đáp: Cổ nhân Trung Hoa quả đã dụng công tìm ra được một câu đối lại đáng xem là giai cú và đáng khâm phục như ông đã viết. Tuy nhiên, theo thiển ý, đó mới chỉ là một giai cú thông thường chứ vẫn chưa phải là tuyệt cú vì:
1. Vế đầu của nó (tam thủy diễu diễu) là một hình thức chiết tự khập khiễng: ba chữ thủy 水 (tam thủy) chỉ có thể cấu thành một chữ diễu (mà ông viết là diểu) 淼 chứ không thể thành hai chữ được. Muốn có hai chữ diễu thì phải có đến sáu chữ thủy. Vậy phải nói lục thủy diễu diễu chứ không thể nói “tam thủy diễu diễu” được. Nhưng chữ lục đã được dùng trong câu xuất rồi nên trong câu đối lại người ta không thể lại dùng nó để đối lại với chính nó. Đây là chỗ bế tắc đầu tiên trong câu đối lại mà ông đã giới thiệu.
2. Ông đã viết rằng, trong câu xuất, vì vế đầu nói đến “lục mộc” nên vế sau cũng phải có sáu chữ thuộc bộ mộc 木. Nói rõ hơn một chút, chữ lục trong vế trước có tác dụng thông báo số lượng (6) các chữ thuộc bộ mộc của vế sau. Xét về mặt này thì câu đối lại trên đây đã “phạm luật”: vế đầu của nó chỉ thông báo có ba chữ thuộc bộ thủy (tam thủy) mà vế sau lại kê ra đến sáu chữ.
3. Chữ thủy của câu đối lại trên đây đã được dùng để đối với chữ mộc của câu xuất. Nhưng chữ mộc chỉ được dùng có một lần (ở vị trí thứ hai trong mười tiếng của cả câu) mà chữ thủy thì lại được dùng tới hai lần (ở vị trí thứ hai và vị trí thứ tám). Vậy câu đối lại cũng không thể xem là chỉnh được.
4. Trong câu xuất, tên của mỗi loại cây chỉ được diễn đạt bằng một tiếng, nghĩa là một âm tiết (đào, mai, trúc, tùng, bá, liễu) còn tên của mỗi con sông trong câu đối lại thì lại được diễn đạt bằng hai tiếng (Tương Giang, Miến Thủy, Hoài Hà) nên một tên sông đã phải đối với hai tên cây (Tương Giang – đào mai, Miến Thủy – trúc tùng, Hoài Hà – bá liễu); vậy làm sao có thể gọi là đối chỉnh được?
5. Với sáu tiếng “Tương Giang, Miến Thủy, Hoài Hà” chỉ có ba tiếng “Tương” “Miến” và “Hoài” mới có nghĩa riêng còn ba tiếng “giang”, “thủy” và “hà” thì lại đồng nghĩa với nhau (vì đều là sông). Trong khi đó, sáu tiếng “đào”, “mai”, “trúc”, “tùng”, “bá”, “liễu” mỗi tiếng đều có nghĩa riêng (chỉ một loại cây riêng biệt không thể lẫn lộn). Vậy làm sao có thể gọi là đối chỉnh cho được?
Trở lên là nhận xét của chúng tôi về câu đối lại mà ông đã giới thiệu. Bây giờ, xin nói đến nhận xét của ông về câu xuất mà ông Đặng Công Nhân đã nêu. Câu này thực chất chỉ có chiết tự ở phần đầu (lục mộc sâm sâm) chứ không có ở phần sau (đào, mai, trúc, tùng, bá, liễu) như ông đã phân tích: lục mộc chỉ có nghĩa là sáu chữ mộc riêng trong phạm vi của phần đầu còn trong quan hệ với phần sau, nghĩa là trong phạm vi của toàn bộ câu xuất, thì nó lại có nghĩa là sáu (loại) cây. Do đó sáu chữ của phần sau chỉ cần nêu tên cây là đủ mà không nhất thiết phải thuộc về bộ mộc. Vì vậy tác giả của câu đó mới đưa chữ trúc vào. Vả lại, đào mai hạnh lý tùng bách (do ông đề nghị) không hay bằng đào mai trúc tùng bá liễu vì tuy hạnh và lý không phải là những giống cây vô danh nhưng lại ít được dùng làm đề tài cho thi họa so với toàn bộ sáu giống đã nêu trong câu xuất. Cái âm vang của cú đoạn đào mai hạnh lý tùng bách nghe ra không hấp dẫn bằng âm vang của cú đoạn đào mai trúc tùng bá liễu một phần cũng là vì lẽ đó.
Vì vậy chúng tôi xin nhắc lại điều đã viết trên Kiến thức ngày nay, số 179, rằng câu mà ông Đặng Công Nhân đã nêu là một câu xuất không có cách nào đối lại được. Tự nó đã là một cái khóa vĩnh cửu – mà chữ lục – là cái chìa – đối với các tay bút, kể cả những tay bút tài hoa, buộc họ phải đành lòng thúc thủ.
§ 280. Kiến thức ngày nay, số 184, ngày 1 -9-1995
Hỏi: Tôi đọc trong số 156, thấy ông có trả lời về chữ Mùi và chữ Vị, chữ Mẹo và chữ Mão trong thập nhị chi. Tôi rất vui mà được biết thêm lý do tại sao lại có việc dùng âm khác nhau như vậy. Tôi lại suy ra thêm chữ Ngọ và chữ Ngũ có lẽ cũng cùng một lý do đó. Xin ông cho biết có phải hay không. Cũng trong phạm vi thập nhị chi, tôi nghe người Hoa nói tuổi Mẹo là con Thỏ. Nhưng tại sao ở Việt Nam ta thì tuổi Mẹo lại là con Mèo?
Học giả An Chi giải đáp: Vâng, ông đã suy luận đúng. Ngọ và ngũ đều là âm Hán Việt của chữ 午. Ngọ là âm xưa từ đời Hán hoặc trước nữa còn ngũ là âm từ đời Đường và thuộc hệ thống ngữ âm Hán Việt hiện đại. Nhưng chính âm xưa lại thông dụng còn âm nay thì lại không mấy ai biết đến. Trong phạm vi thập nhị chi, còn có những trường hợp tương tự sau đây. Chữ 子 với tính cách là chữ dùng để ghi chi thứ nhất, vẫn thường được đọc là tí. Nhưng đây là âm xưa còn âm nay của nó lại là tử. Chữ 辰 dùng để ghi chi thứ năm, vẫn thường được đọc là thìn nhưng đây cũng là âm xưa còn âm nay của nó lại là thần. Chữ 亥 dùng để ghi chi cuối cùng thường được đọc là hợi nhưng đây là âm xưa còn âm nay của nó thì lại là hãi.
Đúng như ông đã viết, đối với người Trung Hoa thì ứng với chi Mẹo lại là con thỏ chứ không phải con mèo. Những tộc người nói các ngôn ngữ Tày-Thái chịu ảnh hưởng văn hóa của người Trung Hoa từ xa xưa cũng đã theo họ mà xem con vật ứng với chi Mẹo là con thỏ. Trong ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ văn học của tiếng Lào, con thỏ gọi là ka tài. Nhưng ứng với chi Mẹo, thì con vật đó lại không được gọi là ka tài mà lại được gọi là thó. Và pi thó là năm con Thỏ (pi là năm). Trong tiếng Xiêm, tức tiếng Thái Lan, con thỏ gọi là kra tài nhưng năm con thỏ thì cũng là pi thó như trong tiếng Lào (Đây là hai ngôn ngữ đồng tộc Tày-Thái và có ý kiến cho rằng người nói tiếng Lào và người nói tiếng Xiêm có thể hiểu nhau đến hơn 70%). Thó của tiếngLào và tiếng Xiêm bắt nguồn ở một từ tiếng Hán ghi bằng chữ 兔 mà âm Hán Việt xưa là thỏ còn âm nay là thố (Marc Reinhorn trong Dictionnaire laotien-français, Paris, 1979, đã nhầm khi cho rằng thó của tiếng Lào bắt nguồn từ tiếng Việt). Các ngôn ngữ Miêu-Dao cũng có chịu ảnh hưởng của tiếng Hán và văn hóa Hán nên cũng có hệ thống năm, tháng, ngày, giờ tính theo thập can và thập nhị chi. Chẳng hạn, trong tiếng Dao ở Việt Nam thì tên của chi Mẹo là Mão và ứng với chi này cũng là con thỏ mà tiếng Dao gọi là thù*. Đây cũng là một từ Dao bắt nguồn từ tiếng Hán đã nói trên đây.
Ngộ nghĩnh hơn nữa là trong tâm thức của mình, nhiều người Việt Nam lại còn vô hình trung đồng nhất con thỏ với con mèo mà đoạn trích dẫn sau đây là một bằng chứng cụ thể:
“Trong số 28 vị tinh tú quán xuyến 4 phương, trên, dưới, trước sau, có các nguyên thần tính, biểu hiện cho thời khắc của một ngày đêm cũng được vẽ trên tranh: Hư nhật thử (con chuột – giờ Tý – nửa đêm), Mão nhật kê (con gà – giờ Dậu – hoàng hôn), Tinh nhật mã (con ngựa – giờ Ngọ – trưa) và Phòng nhật thỏ (con mèo – giờ Mão – rạng đông)”.* Thử là con chuột, kê là con gà, mã là con ngựa, đó là chuyện hoàn toàn bình thường. Đến như thỏ mà lại là con mèo thì không có gì ngược đời bằng. Chẳng qua vì người Trung Hoa cho rằng con thỏ ứng với chi Mão (Mẹo) còn người Việt Nam thì lại cho rằng đó là con mèo nên mới sanh ra cái đẳng thức phản thực tế kia mà thôi.
Nhưng trên đây chỉ là xét theo hiện đại chứ nếu xét theo lịch đại thì rất có thể là thoạt kỳ thủy, trong tâm thức của người Trung Hoa, con mèo mới đúng là con vật ứng với chi Mão (Mẹo) vì:
– Mèo chính là âm xưa nhất của chữ Mão, xưa hơn cả Mẹo;
– Thập nhị chi chính là tên của mười hai con vật tương ứng (sinh tiếu) chứ không phải là gì khác.