Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 1: Câu hỏi 211 - 245

§ 211. Kiến thức ngày nay, số 158, ngày 1 -12-1994

Hỏi: Lịch Cộng hòa (của Pháp) là lịch gì? Tên các tháng của lịch đó như thế nào? Nó tương ứng với lịch hiện nay ra sao?

Học giả An Chi giải đáp: Lịch Cộng hòa là lịch ra đời trong Cách mạng Pháp (1789 – 1799), do Hội nghị quốc ước đặt ra và ban hành ngày 24 tháng 10 năm 1793. Lịch này được dùng trong suốt nền Đệ nhất Cộng hòa (9-1792 đến 5-1804) cho đến ngày 1 tháng giêng năm 1806 thì cáo chung:

– Tháng đầu tiên của lịch cộng hòa là Vendémiaire (tháng thu hoạch nho), từ 22, 23 hoặc 24 tháng 9 đến 21, 22 hoặc 23 tháng 10.

– Tháng thứ hai là Brumaire (tháng Sương mù), từ 22, 23 hoặc 24 tháng 10 đến 20, 21 hoặc 22 tháng 11.

– Tháng thứ ba là FrImaire (tháng Giá), từ 21, 22 hoặc 23 tháng 11 đến 20, 21 hoặc 22 tháng 12.

– Tháng thứ tư là Nivôse (tháng Tuyết), từ 21, 22 hoặc 23 tháng 12 đến 19, 20 hoặc 21 tháng Giêng.

– Tháng thứ năm là Pluviôse (tháng Mưa), từ 20, 21 hoặc 22 tháng giêng đến 18, 19 hoặc 20 tháng 2.

– Tháng thứ sáu là Ventôse (tháng Gió), từ 19,20, hoặc 21 tháng 2 đến 20 hoặc 21 tháng 3.

– Tháng thứ bảy là Germinal (tháng Nảy mầm), từ 21 hoặc 22 tháng 3 đến 19 hoặc 20 tháng 4.

– Tháng thứ tám là Floréal (tháng Hoa), từ 20 hoặc 21 tháng 4 đến 19 hoặc 20 tháng 5.

– Tháng thứ Chín là Prairial (tháng Đồng cỏ), từ 20 hoặc 21 tháng 5 đến 18 hoặc 19 tháng 6.

– Tháng thứ mười là Messidor (tháng Gặt hái), từ 19 hoặc 20 tháng 6 đến 18 hoặc 19 tháng 7.

– Tháng thứ mười một là Thermidor (tháng Nóng), từ 19 hoặc 20 tháng 7 đến 17 hoặc 18 tháng 8.

– Tháng thứ mười hai là Fructidor (tháng Trái cây), từ 18 hoặc 19 tháng 8 đến 16 hoặc 17 tháng 9.

Giữa các ngày 16 hoặc 17 và 22, 23 hoặc 24 tháng 9 là 5 hoặc 6 ngày dư ra, gọi là ngày bổ sung (jours complémentaires) dành ra để cử hành những ngày lễ Cộng hoà.

Như đã thấy, năm Cộng hòa (tức là năm tính theo lịch Cộng hòa) bắt đầu bằng ngày thu phân và năm Cộng hòa thứ I là 1792. Đó là thời điểm tuyên bố thành lập nền Đệ Nhất Cộng hòa của Pháp: 22-9-1792.

Tháng của lịch Cộng hòa chia làm 3 tuần, gọi là thập nhật (décade) vì mỗi tuần có 10 ngày, giống như tuần 10 ngày của ta và Tàu ngày xưa. Tên của 10 ngày trong tuần là: PrImidi ((ngày) đầu tuần), Duodi (thứ hai), Tridi (thứ ba), Quartidi (thứ tư), Quintidi (thứ năm), Sextidi (thứ sáu), Septidi (thứ bảy), Octidi (thứ tám), Nonidi (thứ chín), Décadi (thứ mười).

§ 212. Kiến thức ngày nay, số 158, ngày 1 -12-1994

Hỏi: Có Thánh đường, vị linh mục giảng “tràng hạt môi khôi”, có nơi giảng “tràng hạt văn côi” và nơi khác lại giảng “tràng hạt mân côi”. Xin cho biết những từ ngữ đó có nghĩa là gì và tại sao lại nói như thế?

Học giả An Chi giải đáp: Môi khôi, văn côi, mân côi, chung quy chỉ là một và đều là những cách đọc trại khác nhau của hai chữ Hán 玫瑰 mà Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của phiên là môi khôi, Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh và Hán-Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng phiên là mai khôi, còn Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu thì phiên là mai côi.

Chữ 玫 có một âm thông dụng là mai nhưng âm Hán-Việt chính thống hiện đại của nó lại là môi vì thiết âm của nó là “mô hồi thiết” (Xem Từ nguyên, Từ hải). Nó cũng đã bị một số người nhầm về tự dạng với chữ 玟 mà đọc thành mân vì thiết âm của chữ này là “mê dần thiết” (Xem sđd). Lại có người vừa nhầm 玫 thành 玟 vừa đọc chữ này thành văn vì cho rằng đó là một hình thanh tự mà thanh phù (yếu tố ghi âm) là chữ văn 文. Nhưng đây chỉ là xét theo từ nguyên và lịch đại chứ xét theo đương đại thì một hình thanh tự hiện nay không còn nhất thiết đồng âm với thanh phù của nó nữa. Thí dụ: chữ 地 có thanh phù dã 也 nhưng lại đọc là địa; có cùng thanh phù mà chữ 池 lại đọc là trì còn chữ 他 ( cũng có thanh phù đó nhưng lại đọc là tha; v.v.. Vậy văn là một cách đọc nhầm của chữ mân 玟, còn văn và mân lại là những cách đọc nhầm của chữ môi 玫, cũng đọc là mai.

Chữ 瑰 đã bị một số người đọc thành khôi do nhầm lẫn mà loại suy theo cấu tạo của chữ khôi 魁 vốn là một chữ thông dụng hơn. Nhưng âm Hán-Việt chính thống hiện đại của nó lại là côi vì thiết âm của nó là “cô ôi thiết” (Xem sđd).

Tóm lại, âm chính xác của hai chữ Hán đang xét là môi côi nhưng do nhầm lẫn nên chúng bị đọc thành môi khôi, văn côi hoặc mân côi. Người Tàu có một loại danh tửu tên là môi côi lộ 玫瑰露 (mà hai tiếng môi côi cũng được ghi bằng những chữ Hán đang xét). Nhưng lạ một điều là thứ rượu ngon đó đã không bị gọi trại thành “môi khôi lộ”, “văn côi lộ” hoặc “mân côi lộ” mà từ Bắc chí Nam, nó lại bị gọi trại một cách thống nhất thành “Mai quế lộ”, mặc dù chữ 瑰 không bao giờ có âm là quế.

Trở lên là nói về âm. Còn về nghĩa thì môi côi 玫瑰 là tên của một thứ ngọc. Đó là “một thứ ngọc tốt” (Đào Duy Anh), “một thứ ngọc đỏ” (Thiều Chửu), “một thứ ngọc đẹp” (Nguyễn Quốc Hùng).

Mathews’ Chinese-English Dictionary dịch là “a kind of j asper”, “a sparkling red gem” còn Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S. Couvreur thì dịch là “belle perle, belle pierre rouge”. Ngoài ra, môi côi còn là tên của một loài hoa: đó là hoa hồng. MCED dịch là “the pink or red cultivated rose” còn DCLC thì dịch là “rose”. Cả nghĩa trước lẫn nghĩa sau của môi côi đều được ghi nhận trong Từ nguyên, Từ hải và nhiều quyển từ điển tiếng Hán khác.

Người ta đã thêm từ môi côi sau từ tổ tràng hạt mà đặt ra cụm từ tràng hạt môi côi – hai tiếng sau cũng bị đọc trại là môi khôi, văn khôi, hoặc mân côi như đã nói – để gọi cái xâu chuỗi đặc trưng của người Công giáo. Tràng hạt môi côi là xâu chuỗi mà các hạt thường làm bằng gỗ cẩm lai gồm có 15 dãy hạt, mỗi dãy có một hạt lớn và 10 hạt nhỏ. Tổng cộng xâu chuỗi có tất cả là 165 hạt, hạt lớn gọi là hạt Pater vì mỗi hạt như thế ứng với một lần kinh Pater Noster (Kinh Lạy Cha) còn hạt nhỏ gọi là hạt Ave vì mỗi hạt như thế ứng với một lần kinh Ave Maria (Kinh mừng Thánh Mẫu). Mỗi dãy hạt trong tràng hạt môi côi ứng với một điều mầu nhiệm của Đức tin và vì có tất cả 15 điều mầu nhiệm nên tràng hạt mới có 15 dãy hạt như đã nói. Tuy nhiên cũng có loại nhỏ, chỉ có 5 dãy hạt, tổng cộng là 55 hạt.

Nhưng tại sao cứ nhất định phải thêm từ môi côi vào sau từ tổ tràng hạt mà lại không là một từ nào khác?

Số là người ta đã liên tưởng đến tên gọi tràng hạt môi côi trong tiếng Pháp hoặc tiếng Bồ Đào Nha hay tiếng Ý: tiếng Pháp là rosaire còn tiếng Bồ và tiếng Ý là rosário. Vì rosaire/rosário phái sinh từ rose/rosa có nghĩa là hoa hồng mà hoa hồng trong tiếng Hán, đọc theo âm Hán-Việt là môi côi nên người ta mới tận dụng hai tiếng này làm một dấu hiệu thuần túy ngữ âm để phân biệt cái tràng hạt của người Công giáo với các loại tràng hạt khác (chẳng hạn tràng hạt của người theo đạo Hồi có 100 hạt, của phái Vishnuism bên Ấn giáo có 108 hạt của cây tulasi, còn của phái Shivaism thì có 32 hay 64 trái của cây rudrāksa hoặc có khi còn thay thế bằng những chiếc răng của người chết, v.v.) mà gọi nó là tràng hạt môi côi. Vì hai tiếng môi côi ở đây chỉ là một dấu hiệu ngữ âm thuần túy cho nên cụm từ tràng hạt môi côi không có nghĩa là xâu chuỗi làm bằng hoa hồng (?) cũng chẳng có nghĩa là xâu chuỗi mà các hạt đều được làm bằng thứ ngọc môi côi.

§ 213. Kiến thức ngày nay, số 159, ngày 10-12-1994

Hỏi: Tôi vẫn cho rằng thành ngữ “bắt cá hai tay” phải được hiểu theo nghĩa đen một cách dân gian là bắt cá bằng hai tay thì không nên vì rốt cuộc chẳng bắt được con nào cả chứ “bắt cá” ở đây không phải là bắt số tiền mà người ta đã thách trong cá độ.

Học giả An Chi giải đáp: Để khẳng định rằng cá trong bắt cá hai tay là cá độ, chúng tôi xin trích bức thư mà ông Mai Phùng Võ ở số 25, Hoàng Thái Hiếu, Vĩnh Long, đã gửi đến cho chúng tôi:

Thành ngữ bắt cá hai tay nói về cá độ đá gà nòi ở Nam Bộ từ thời theo đoàn Nam tiến, thịnh hành nhứt từ đầu thế kỷ 19 vì tổng trấn Gia Định thành, Thượng công Lê Văn Duyệt là một tay cự phách trong nghề nuôi và đá gà nòi. Hiểu được thành ngữ bắt cá hai tay phải là người có tuổi thọ trên “cổ lai hy” và phải ở trong đạo đá gà. Tự vị tiếng Việt miền Nam của cụ Vương Hồng Sển giải thích rằng bắt cá hai tay là “bên nào cũng đánh (bắt), lội qua lội lại (nhảy), khi ăn thì ăn được nhiều, khi thua thì thua ít” là hoàn toàn đúng.

Nội dung của việc “bắt cá hai tay”, “lội qua lội lại” đại khái như sau:

Giả dụ ông A có một con gà hay, đã ăn nhiều độ nổi tiếng, ông B cũng có một con gà hay mà chưa ăn độ lần nào. Nếu hai ông cáp độ và đồng ý cho hai gà đá với nhau thì biện (kế toán của trường gà) sẽ làm sổ cho độ đá này. Vì gà của ông A đã nổi danh nên ông và bạn bè đá chung là 2.000.000 đồng, chẳng hạn, còn gà của ông B tuy hay mà chưa nổi tiếng nên chỉ đá có 1.500.000 đồng. Nếu hai chủ gà thuận thì độ này chỉ có 1.500.000 tiền độ, xâu 10%. Một số bạn bè của ông A không đá trong sổ được nên phóng cá ăn 8, ăn 7, nghĩa là ăn 800 đồng, ăn 700 đồng chẳng hạn, mà thua thì thua 1.000 đồng. Số người đá gà chuyên nghiệp, gọi là hàng xáo, chuyên “bắt cá hai tay” đứng bên gà ông B bắt cá ăn 8 và ăn 7. Sau khi thả hai gà ra đá, thấy tài sức hai gà tương đương, người phía ông A vẫn còn chắc ăn nên đá ăn đồng, nghĩa là ăn thua bằng nhau. Hết nước nhứt, qua nước nhì, gà ông B lại đá áp đảo gà ông A, nhóm hàng xáo lại nhảy (lội) qua gà ông B phóng ngược lại: phóng ăn 8, ăn 7, rồi ăn 5 (ăn 800, 700, 500, thua 1000). Các hàng xáo chuyên nghiệp lúc đầu ở bên gà của ông B bắt cá, bây giờ họ lội qua gà ông A bắt cá lại, dù gà ông A ăn hay gà ông B ăn, nhóm chuyên nghiệp này đều ăn nhiều thua ít. Nhiều độ phóng đến 5 lai (ăn 5 thua 100) vẫn bị thua phản như thường. Nhóm hàng xáo chuyên nghiệp này không đủ điều kiện nuôi gà nòi, chỉ sống nhờ ở nghề “bắt cá hai tay” nên vẫn thường bị người chung quanh khinh rẻ.

Trước kia, vì đá gà bằng cựa thật của gà nên mỗi độ nhanh nhất cũng qua hai nước (= hiệp – AC) mới biết ăn thua, còn thường là ba, bốn nước; do đó mới có chuyện “lội qua, lội lại” mà “bắt cá hai tay”. Từ thập niên 60 trở đi, các tay đá gà thiện nghệ chế ra cựa giả dài 12cm tròng vào cựa thật nên độ gà diễn ra rất nhanh, ước chừng 5 phút là thấy ăn thua. Những con gà hay nạp (từ xa phóng đến đá) chỉ trong 2 phút là có thể đâm chết gà kia. Vì thế mà nghề “bắt cá hai tay” không còn đất sống.

Trên đây là lời của ông Mai Phùng Võ, còn về phần mình thì chúng tôi xin nhắc lại như đã nói ở Kiến thức ngày nay, số 141, rằng bắt cá ở đây có liên quan đến thả cá; có thả thì mới có bắt. Và vì thả cá là “thách mọi người bắt số tiền cá của mình” (Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức) cho nên cũng chẳng có gì lạ nếu bắt cá là “nhận đánh cuộc” (Xem sđd), nghĩa là bắt số tiền cá mà mọi người đã thách.

§ 214. Kiến thức ngày nay, số 159, ngày 10-12-1994

Hỏi: Năm châu, bốn biển: năm châu thì chắc là: Âu, Á, Phi, Mỹ và Úc nhưng tại sao lại 4 biển vì trên toàn cầu có đến 5 đại dương: Bắc Băng Dương, Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Nam Băng Dương?

Học giả An Chi giải đáp: Về các châu, thì ngoài châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ (thường chia thành hai châu: Bắc Mỹ và Nam Mỹ) và châu Úc (nay gọi là châu Đại Dương), thực ra còn có một châu nữa: đó là châu Nam Cực, tiếng Pháp là Antarctique, và đôi khi Anctarctide.

Trong một cuốn sách dành riêng cho châu này, André Cailleux đã viết ở phần giới thiệu khái quát như sau:

“Trong khi mà ở trung tâm của nó, vùng Bắc Cực là một đại dương, đại dương băng giá, thì ngược lại Nam cực là một đại lục, thậm chí còn khá rộng nữa: nó lớn hơn châu Âu. Nhưng ngược đời là người ta lẽ ra không có quyền gọi nó là một vùng đất, bởi vì đất ở đây hầu như bị che lấp khắp nơi bởi băng giá bắt nguồn từ sự biến đổi của tuyết mà tuyết thì bao phủ đại lục này bằng một khối vòm bao la trắng xoá, đỉnh đạt đến 4270m. Nếu như Bắc Băng Dương được bao bọc hầu như khắp nơi bởi đất đai thì trái ngược với nó, đại lục Nam cực được bao bọc bởi các biển Phương Nam mà diện tích mênh mông đã góp phần làm chậm lại sự tiếp cận của con người. Đại lục này được phát hiện sau chót và khá muộn: năm 1820. Các biển phương Nam là những phần tận cùng phía Nam của ba đại dương lớn: Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương. Chúng bị bao phủ về phía Nam bởi vỏ băng (banquise), nhất là về mùa đông. Chúng thông với nhau rất rộng rãi, rộng rãi hơn các biển thuộc mọi vĩ tuyến khác. Vì vậy mà những khoảng cách từ châu Nam Cực đến các vùng đất đai phương Nam khác nhau rất lớn: đến Nam Phi, theo đường chIm bay là 3600km; đến Tasmania, 2500km; đến Nam Mỹ, ít xa xôi hơn là 1000km, hoặc 860km nếu xuất phát từ dãy núi Nam Shetlands, dãy này men theo vùng Nam Cực.

Châu Nam Cực, với những đảo ven bờ của nó, hoàn toàn nằm trong một vòng tròn là vĩ tuyến 60° Nam (…) Ở những vĩ độ thấp hơn, gần với chí tuyến hơn, giữa các biển phương Nam, là các đảo, như quần đảo Kerguelen (…)

Đại lục gần châu Nam Cực nhất là châu Nam Mỹ, nối liền với nó bằng một chuỗi đảo tạo thành hình một vòng cung rất rõ nét, vòng cung Scotia hay các đảo Antilles phương Nam, lồi ra về phía Đại Tây Dương. Đó là quần đảo Shetlands phương Nam và quần đảo Orcades phương Nam nằm bên trong của vĩ tuyến 60° Nam (…). Rồi, phía ngoài của vĩ tuyến đó thì đến các đảo Sandwich phương Nam và miền Georgia phương Nam (…)

(…) Những thủy thủ người Đa Đảo (Polynésiens) là những người đầu tiên đã quan sát các khối băng của châu Nam cực. Sau đó bắt đầu từ thời Phục Hưng, dựa vào niềm tin theo những truyền thống cổ xưa thừa hưởng của người Hy Lạp, người ta bắt đầu tìm kiếm miền Terra australis nondum cognita, miền đất phương Nam hãy còn chưa biết đến. Đoàn thám hiểm chính thức đầu tiên là đoàn của Bouvet, do nước Pháp cử đi năm 1738, chỉ phát hiện được có một đảo, mang tên của ông. Đoàn thứ hai là đoàn của Cook, người Anh, từ 1772 đến 1775, phát hiện ra các đảo Sandwich phương Nam, đạt được vĩ độ kỷ lục là 71° 10’ vĩ độ Nam (…) Năm 1819, người Anh William Smith thông báo sự phát hiện các đảo Shetlands phương Nam. Tháng giêng 1820, người Anh Brandsfield nhìn thấy một vùng đất có thể là bán đảo Louis-Philippe, chót cực Bắc của bán đảo Nam cực, thế là đã phát hiện ra lục địa (Nam Cực – AC)”.*

Vậy nếu cứ theo sự thực, thì lẽ ra cũng phải đổi năm châu thành sáu châu. Còn trước kia thì, sau khi tiếp nhận đạo Phật, người Trung Hoa cũng đã theo điển tịch của tôn giáo này mà cho rằng có 4 châu, gọi là tứ đại bộ châu. Đó là: Đông Thắng Thân (thường bị đọc thành Thần) Châu, cũng gọi Đông Phật Bà Đề hoặc Đông Phật Vu Đại, – Tây Ngưu Hóa Châu hoặc Tây Cù Đà Ni, – Nam Thiêm Bộ Châu hoặc Nam Diêm Phù Đề, – Bắc Câu Lô Châu hoặc Bắc Uất Đan Việt.

Còn bốn biển thì lại là một lối nói bắt nguồn ở hai tiếng tứ hải mà tứ hải trong tiếng Hán lại là một lối nói không liên quan gì đến sự tồn tại của các đại dương quen thuộc. Hai tiếng đó có nghĩa như sau:

1. Dùng để chỉ các “rợ” chung quanh dân Hoa Hạ là Đông Di, Tây Nhung, Nam Man, Bắc Địch. Sách Nhĩ Nhã, thiên Thích Địa viết: “Cửu Di, bát Địch, thất Nhung, lục Man gọi là Tứ hải”. Vậy hải ở đây không có liên quan gì đến biển.

2. Chỉ 4 vùng biển chung quanh Trung Hoa. Đó là Đông hải, Tây hải, Nam hải và Bắc hải. Đây chỉ là những cách định danh và những khái niệm mơ hồ.

3. Chỉ toàn bộ vùng nội địa của Trung Hoa; vì thế mới gọi trong nước là hải nội và ngoài nước là hải ngoại. Bởi thế mà Vương Tiên Khiêm mới cho rằng Giang Thanh đã đúng khi nói Tứ hải là cõi dân chúng (trong nước). Vậy cả trong trường hợp này, hai tiếng đang xét cũng chẳng liên quan gì đến biển. Và cũng chính vì vậy mà trong thành ngữ ngũ hồ tứ hải dùng để chỉ đất nước Trung Hoa nói chung thì hải chỉ… đất còn hồ mới chỉ nước.

Tóm lại, thành ngữ năm châu bốn biển chỉ là một lối nói có tính chất ước lệ chứ không phải là một cách ghi nhận chính xác về địa lý thế giới hiện tại.

§ 215. Kiến thức ngày nay, số 160, ngày 20-12-1994

Hỏi: Xin giải thích giúp nguồn gốc, ý nghĩa của “ông xã”, và “bà xã” trong phương ngữ Nam Bộ.

Học giả An Chi giải đáp: Từ điển tiếng Việt 1992 giảng “ông xã” là từ dùng để gọi đùa và thân mật người chồng còn “bà xã” là từ dùng để gọi đùa và thân mật người vợ. Nhưng trên đây chỉ là cái nghĩa của mấy tiếng đó trong khẩu ngữ của tiếng Việt hiện đại, vì nếu truy nguyên thì ông xã lại là người xã trưởng còn bà xã thì là người vợ của ông xã trưởng (cũng như bà lý là vợ của ông lý trưởng).

Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng rằng xã là “xã-trưởng gọi tắt” và cho ví dụ: ông xã, thầy xã. Còn xã-trưởng thì đã được quyển từ điển đó giảng như sau: Người đứng đầu hội đồng hương chính một xã ở Trung và Bắc-Việt – Cũng gọi thôn-trưởng, một hương chức ban hội tề xưa ở Nam-Việt, cùng với Hương-thân và Hương-hào làm ban Hương-chức đương-niên hành-sự: Riêng Xã-trưởng giữ mộc-ký của làng cùng những công-văn, hiểu-dụ của Nhà-nước và chuyên lo thâu thuế cùng nộp thuế cho nhà-nước”. Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên ghi và giảng “Xã (…) người đàn ông trong làng có chút chức vị cao hơn người dân thường (cũ): Bác xã”. Còn Từ điển tiếng Việt 1992 thì: “Xã (…) chức vị ở làng xã thời phong kiến, có thể bỏ tiền ra mua, lớn hơn nhiêu”.

Tóm lại, xã là một chức dịch trong làng, xã thời trước và trong các cấu trúc ông xã, thầy xã, bác xã, cụ xã, thậm chí thằng xã (thí dụ: thằng xã Xem là một tên gian tham)… thì xã là danh từ chỉ tổng loại làm phần phụ thêm nghĩa cho phần chính đứng trước nó là danh từ chỉ cá thể ông, thầy, bác, cụ, thằng, v.v.. Trong các cấu trúc trên thì ông xã vừa trung hòa về thái độ và tình cảm vừa thích hợp với tuyệt đại đa số các trường hợp cần xưng hô cho nên thông dụng và phổ biến hơn các cấu trúc còn lại mà dễ trở thành một từ tổ cố định để đi vào vốn từ vựng chung như đã thấy hiện nay.

Ông xã nhà tôi, ông xã nhà em, v.v., là những cách gọi mà những bà vợ của các ông xã thường dùng để chỉ chồng mình khi nói chuyện với người khác, giống như những bà vợ của các ông lý đã gọi chồng mình là ông lý nhà tôi, ông lý nhà em, v.v.. Đó là những lối nói rất phổ biến và có tần số xuất hiện cao trong lời ăn tiếng nói ở nông thôn Việt Nam trước đây. Một số bà ở Hà Nội và một vài thành phố lớn miền Bắc (Hải Phòng, Nam Định) – lối nói này xuất phát từ miền Bắc – có lẽ đã mượn cách nói này mà chỉ chồng mình một cách thân mật. Đến khi hai nhân vật Lý Toét và Xã Xệ xuất hiện trên mặt báo ở Hà Nội thì hình ảnh của ông Lý, ông Xã cũng đã bị ảnh hưởng mà mang thêm tính hài hước và lối nói ông xã nhà tôi, ông xã nhà em của một số bà, ngoài tính chất thân mật còn mang thêm sắc thái đùa cợt. Khi lối nói này dần dần phổ biến thì nó cũng không còn là riêng của các bà để chỉ các ông nữa mà trở thành một lối nói chung của mọi người vì ai cũng có thể dùng hai tiếng ông xã để chỉ chồng của một người đàn bà. Và khi ông xã đã là chồng thì đối lại, bà xã phải là vợ.

Lối nói trên đây, theo chúng tôi phát sinh ở miền Bắc rồi về sau (từ năm 1954?) mới du nhập vào Nam chứ vốn không phải là lối nói riêng của phương ngữ Nam Bộ.

§ 216. Kiến thức ngày nay, số 160, ngày 20-12-1994

Hỏi: Tại sao người ta gọi các nước vùng Vịnh là vùng Trung Đông? Cụ thể nó gồm có những nước nào và là Trung Đông của cái gì?

Học giả An Chi giải đáp: Đối với người châu Âu thì châu Á là phương Đông. Phần của phương Đông gần với họ nhất thì họ gọi là Cận Đông, dịch từ tiếng Anh Near East hoặc tiếng Pháp Proche-Orient. Phần của phương Đông xa với họ nhất thì họ gọi là Viễn Đông, dịch từ tiếng Anh Far East hoặc tiếng Pháp Extrême-Orient. Giữa Cận Đông và Viễn Đông là Trung Đông, dịch từ tiếng Anh Middle East hoặc tiếng Pháp Moyen-Orient. Viễn Đông là vùng Đông Á; Cận Đông thì gồm có Ai Cập ở Đông Bắc Phi cùng với bán đảo Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Jordan, Liban, Israel, và Palestine ở Tây Á. Còn Trung Đông, mặc dù tên như thế, nhưng thực tế thì lại bao gồm phần lớn Cận Đông cộng thêm Irak và Afghanistan ở châu Á rồi có khi là cả Soudan và Libya ở Đông Bắc Phi nữa. Phạm vi của Cận Đông và Trung Đông đã được quan niệm một cách không nhất quán giữa mọi người nhưng đại khái là như thế. Cũng chính vì vậy nên có người đã gộp lại mà gọi chung là vùng Trung Cận Đông cho tiện.

Tóm lại, Cận Đông, Trung Đông và Viễn Đông là những cách gọi xuất phát từ cách nhìn của người châu Âu. Nó đánh dấu một thời kỳ mà hoạt động thông tin và ngôn ngữ báo chí của các nước thuộc địa và nửa thuộc địa còn phụ thuộc nặng nề vào hoạt động thông tin và ngôn ngữ báo chí của các cường quốc phương Tây. Cũng xuất phát từ quan niệm như trên mà trước đây người ta mệnh danh Sài Gòn là “Hòn ngọc Viễn Đông” trong khi vùng Viễn Đông đối với Sài Gòn và Việt Nam thì ở… tít tận bên Châu Mỹ. Người ở phương trời Tây gọi vùng Đông Á là Viễn Đông thì có lý, nhưng “dân sở tại” mà cũng gọi nó như thế thì thật là vô duyên.

Tiếc rằng cách gọi như trên vẫn còn tiếp tục tồn tại. Chẳng hạn cái vùng biển ngoài khơi phía Đông của nước ta mà chúng ta gọi là Biển Đông, thì trên bản đồ thế giới hoặc bản đồ khu vực bằng tiếng Anh, đó lại là “South China Sea” còn bằng tiếng Pháp thì là “Mer de Chine Méridionale” nghĩa là “Biển Nam Trung Hoa”. Đây là một cách gọi phi lý vì biển này còn tiếp giáp với Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Brunei, Indonesia và Philippines là những quốc gia Đông Nam Á. Vậy để cho danh chánh ngôn thuận, đó phải là biển Đông Nam Á, tiếng Anh là Southeast Asia Sea, tiếng Pháp là Mer d’Asie du Sud-Est, chứ sao lại là “biển Nam Trung Hoa”?

§ 217. Kiến thức ngày nay, số 160, ngày 20-12-1994

Hỏi: “Sic” là gì và dùng trong trường hợp nào?

Học giả An Chi giải đáp: “Sic” là một từ La Tinh, có nghĩa là “như thế”, “thế đấy”. Từ điển tiếng Việt 1992, đã giảng nó như sau: “Từ dùng trong ngoặc đơn, đặt sau một từ ngữ hay một câu, để chỉ rằng nguyên văn (được trích dẫn – AC) là đúng như thế, nhằm nhấn mạnh tính chất kỳ quặc của từ ngữ hay câu dẫn ra ấy, hoặc nhằm biểu thị ý mỉa mai của bản thân người viết (Xin nói rõ lại: của bản thân người trích dẫn – AC)”.

Thí dụ trên Kiến thức ngày nay, số 154, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 45, cột 2, chúng tôi đã dùng chữ sic, khi trích dẫn câu của Phan Ngọc: “Trâu (sic) chết để da, người ta chết để tiếng”. Chữ “sic” thông báo rằng từ “trâu” là thuộc về nguyên văn của tác giả Phan Ngọc và rằng đó là một từ không bình thường. Người ta chỉ nói: “Hùm chết để da, người ta chết để tiếng” (Hổ tử lưu bì, nhân tử lưu danh); chẳng ai nói: “Trâu chết để da (…)”. Da hổ, nghĩa là bộ lông của nó, được dùng làm vật trang trí gắn trên tường nhà hoặc trải ở sàn nhà, còn da trâu thì chỉ dùng để căng mặt trống hoặc để nấu keo mà thôi.

Hoặc trên Kiến thức ngày nay, số 152, Chuyện Đông chuyện Tây, chúng tôi cũng đã dùng chữ sic khi trích dẫn tác giả Nguyễn Đăng Thục trong câu “Bấy giờ nó sô (sic)…” Chữ sic thông báo rằng chữ sô là thuộc về Nguyễn Đăng Thục và rằng chữ đó có một hình thức chính tả không bình thường vì hình thức chính tả chuẩn từ lâu đã là xô (trong xô đẩy).

§ 218. Kiến thức ngày nay, số 161, ngày 1 -1 -1995

Hỏi: Xưa ta theo tuần lễ mười ngày của Tàu, vậy hẳn tuần lễ bảy ngày là do ảnh hưởng của Tây? Có phải từ khi Pháp đô hộ? Lịch bảy ngày/tuần lễ của phương Tây hẳn bắt nguồn từ La Mã? Cách gọi tên bảy ngày của tuần lễ trong các ngôn ngữ quen thuộc ở châu Âu có giống nhau hoặc có cùng nguồn gốc hay không? Tàu có chịu ảnh hưởng của Tây không?

Học giả An Chi giải đáp: Tuần lễ bảy ngày được áp dụng ở nước ta từ khi các giáo sĩ phương Tây đến truyền giáo tại quốc gia Đại Việt cách đây trên dưới 400 năm. Tất nhiên bấy giờ nó chỉ mới có hiệu lực trong phạm vi giáo dân, vì trước đó và lúc đó người Việt vẫn còn theo tuần mười ngày của Tàu. Chỉ khi người Pháp đô hộ nước ta và nền hành chính của họ được áp đặt trên toàn cõi Việt Nam thì người Việt Nam mới bị bắt buộc thực hiện quy định về tuần lễ bảy ngày rồi cứ thế mà áp dụng cho đến ngày nay. Nhưng tuần lễ bảy ngày của phương Tây lại là do ảnh hưởng của phương Đông, cụ thể là của người Do Thái.

Vào thời cổ đại người Hy Lạp (đã tiến đến văn minh trước người La Mã), người Ai Cập và người Trung Hoa đều chia tháng ra làm ba thập nhật. Người Trung Hoa gọi chu kỳ này là tuần. Người Ấn Độ thì chia tháng ra làm hai bán phần gọi là pakṣa: Pùrvapakṣa, kỳ trăng trước, cũng gọi là śuklapakṣa, kỳ trăng sáng, và aparapakṣa, kỳ trăng sau, cũng gọi là krisnapakṣa, kỳ trăng tối.

Còn tuần lễ bảy ngày là một thiết chế của người Do Thái. Họ chỉ đặt tên cho một ngày trong tuần là ngày Sabbath, có nghĩa là ngày nghỉ ngơi. Sáu ngày kia thì được gọi theo số thứ tự. Vì ngày Sabbath là ngày kết thúc của một tuần nên trong tiếng Do Thái Sabbath cũng được dùng theo nghĩa rộng để chỉ tuần lễ bảy ngày.

Người Hy Lạp đã mượn từ Sabbath theo cả hai nghĩa mà nói thành sabbaton. Vì vậy trong Kinh Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp mới có các từ tổ như mia sabbaton, có nghĩa là thứ nhất của tuần lễ, hoặc prôtêsabbaton, có nghĩa là đầu tiên của tuần lễ, để chỉ ngày đầu tuần. Ngày này về sau được đổi tên thành Kuriakê êmera có nghĩa là ngày của Chúa (Chủ nhật). Tương tự, các văn bản Ki Tô giáo khác bằng tiếng Hy Lạp đã gọi các ngày còn lại trong tuần là: deutera sabbaton (thứ hai trong tuần), tritê sabbaton (thứ ba trong tuần), tetartê sabbaton (thứ tư trong tuần), pemptê sabbaton (thứ năm trong tuần). Nhưng ngày thứ sáu thì được gọi là paraskeuê, có nghĩa là ngày sửa soạn. Còn ngày thứ bảy là ngày sabbaton.

Nhưng người Hy Lạp còn có một hệ tên ngày trong tuần gọi tên theo các tinh tú quen thuộc, theo đó: ngày Chủ nhật là êmera Êlion (ngày Mặt trời); ngày thứ hai là êmera Selênes (ngày Mặt Trăng); ngày thứ ba là êmera Areôs (ngày sao Hoả); ngày thứ tư là êmera Ermôu (ngày sao Thuỷ); ngày thứ năm là êmera Dios (ngày sao Mộc); ngày thứ sáu là êmera Aphroditês (ngày sao KIm); ngày thứ bảylà êmera Kronou (ngày sao Thổ).

Người La Mã (nói tiếng La Tinh), đến lượt họ lại mượn cách gọi tên các ngày trong tuần của người Hy Lạp. Theo hệ trước, chúng ta có: dies dominica (Chủ nhật), ban đầu được gọi là una sabbati (thứ nhất trong tuần) hoặc dies prIma (ngày đầu tiên), secunda sabbati (thứ hai trong tuần); tertia sabbati (thứ ba); quarta sabbati (thứ tư…); quinta sabbati (thứ năm….); sexta sabbati (thứ sáu…); sabbatum (ngày Sabbath, tức ngày thứ bảy). Về sau, trong tên của năm ngày giữa tuần, sabbati đã được thay thế bằng feria, có nghĩa là lễ, hội nên chúng ta lần lượt có: dies dominica, secunda feria, tertia feria, quarta feria, quinta feria, sexta feria, sabbatum. Trong các ngôn ngữ Roman hiện đại (thoát thai từ tiếng La Tinh thông tục), chỉ có riêng tiếng Bồ Đào Nha mới theo hệ này mà nói thành: domingo, segunda feira, terça feira, quarta feira, quinta feira, sexta feira, sabado. Hệ tên ngày trong tuần của tiếng Việt là kết quả của một sự sao phỏng (calque) từ hệ tên trên đây của tiếng Bồ Đào Nha. Chỉ có tên của ngày sabado là không được dịch thành ngày Xa-ba vì thực ra ngày lễ Sabbath cũng chẳng có ý nghĩa gì đối với người Công giáo (Xin xem thêm Kiến thức ngày nay, số 135, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 82, c.1, 2).

Theo hệ sau mượn từ tiếng Hy Lạp, tiếng La Tinh có: Solis dies (ngày Mặt trời), Lunae dies (ngày Mặt trăng), Martis dies (ngày sao Hỏa); Mercuri dies (ngày sao Thủy), Jovis dies (ngày sao Mộc), Veneris dies (ngày sao KIm), Saturni dies (ngày sao Thổ). Các ngôn ngữ Roman còn lại đã theo hệ tên ngày này với một sự khác biệt nhỏ là thay thế tên ngày đầu tuần (Solis dies) bằng dies dominica và tên ngày cuối tuần (Saturni dies) bằng tên ngày Sabbath mà nói như sau (theo thứ tự: Pháp – Ý – Tây Ban Nha – Romania):

Chủ nhật: dImanche – domenica – domingo – duminică.

Thứ hai: lundi – lunedi – lunes – luni.

Thứ ba: mardi – martedi – martes – marti.

Thứ tư: mercredi – mercoledi – miercoles – miercuri.

Thứ năm: jeudi – giouedi – j ueves – joui.

Thứ sáu: vendredi – venerdi – viernes – vineri.

Thứ bảy: samedi – sabato – sabado – sîmbătă.

Các ngôn ngữ Germanic chỉ trùng với các ngôn ngữ Roman ở cách gọi tên ngày thứ hai (là ngày Mặt trăng). Chẳng hạn, trong tiếng Anh thì: Chủ nhật là Sunday (ngày Mặt trời); Monday (ngày Mặt trăng – mon là tha hình của moon); thứ ba là Tuesday (ngày của Tiw, thần Chiến tranh); thứ tư là Wednesday (ngày của Woden, vị thần chính của các tộc người nói ngôn ngữ Germanic); thứ năm là Thursday (ngày của Thor, thần Sấm); thứ sáu là Friday (ngày của Frig, vợ của thần Woden); thứ bảy là Saturday (ngày sao Thổ).

Các ngôn ngữ Germanic ở Scandinavia gọi ngày thứ bảy là ngày tắm rửa: tiếng Đan Mạch là Lørdar, tiếng Thụy Điển là Lördag còn tiếng Iceland là laugardagur, trong khi tiếng Đức thì gọi nó là Samstag (tiếng Đức cổ đại là sambaztag) nghĩa là ngày Sabbath, hoặc Sonnabend, nghĩa là đêm Mặt trời (xưa vốn dùng để chỉ riêng đêm thứ bảy). Tiếng Đức và tiếng Iceland gọi ngày thứ tư là ngày giữa tuần: tiếng Đức là mittwoch, tiếng Iceland là miðvikudagur.

Các ngôn ngữ Slav thì gọi ngày Chủ nhật là ngày nghỉ việc (trừ tiếng Nga), ngày thứ bảy là ngày Sabbath còn các ngày khác thì được gọi theo một thứ tự riêng. Chẳng hạn, trong tiếng Nga, các ngày trong tuần được gọi như sau:

– Chủ nhật: voskresene, nghĩa là ngày tái sinh. Xưa là nedelja, nghĩa là ngày không làm việc (ngày nay, nedelja chỉ còn có nghĩa là tuần lễ).

– Thứ hai: ponedelnik, nghĩa là ngày tiếp theo ngày không làm việc (nói một cách khác, đây là ngày làm việc thứ nhất trong tuần).

– Thứ ba: vtornik, nghĩa là thứ hai.

– Thứ tư: sreda nghĩa là giữa tuần (Ss. với tiếng Đức và tiếng Iceland).

– Thứ năm: tchetverg, nghĩa là thứ tư (vì ngày giữa tuần đã là ngày thứ ba).

– Thứ sáu: pjatnitsa, nghĩa là thứ năm.

– Thứ bảy: subbota, nghĩa là ngày Sabbath.

Các ngôn ngữ Slav khác như tiếng Ba Lan, tiếng Tiệp Khắc và tiếng Serbo-Croat đều gọi tên các ngày giống như tiếng Nga, trừ ngày Chủ nhật, như đã nói trên.

Nói chung, trong các ngôn ngữ phương Tây, ngày Chủ nhật được xem là ngày đầu tuần. Vì thế mà trong một số ngôn ngữ (Đức, Iceland, Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc, Serbo-Croat) ngày thứ tư mới được xem là ngày giữa tuần.

Người Nhật đã kết hợp tên ngày Chủ nhật và ngày thứ bảy trong tiếng Anh với tên các ngày còn lại trong tiếng Pháp mà gọi các ngày trong tuần lễ như sau:

– Chủ nhật: nichiyobi, ngày Mặt trời (bi = ngày – nichiyo là mượn từ tiếng Hán nhật diệu nghĩa là mặt trời).

– Thứ hai: getsuyobi, ngày Mặt trăng (getsuyo = nguyệt diệu)

– Thứ ba: kayobi, ngày sao Hỏa (Kayo = hỏa diệu)

– Thứ tư: suiyobi, ngày sao Thủy (suiyo = thủy diệu)

– Thứ năm: mokuyobi, ngày sao Mộc (mokuyo = mộc diệu)

– Thứ sáu: kinyobi, ngày sao KIm (kinyo = kIm diệu)

– Thứ bảy: doyobi, ngày sao Thổ (doyo = thổ diệu).

Người Trung Hoa, sau khi tiếp xúc với phương Tây và áp dụng tuần lễ bảy ngày, đã không dùng danh từ tuần để gọi chu kỳ này, mà lại dùng danh từ tinh kỳ vì hai lý do:

– Thứ nhất, trong ngôn ngữ truyền thống của họ, tuần là chu kỳ mười ngày chứ không phải bảy ngày.

– Thứ hai, quan trọng hơn, họ nhận thấy trong một số ngôn ngữ phương Tây, tên các ngày của các tuần lễ bảy ngày đã được lần lượt gọi bằng tên của các vì sao (ngày Mặt trời…, ngày sao Hỏa…, ngày sao Mộc…) cho nên họ mới gọi chu kỳ này là tinh kỳ, nghĩa là chu kỳ của các vì sao. Danh từ này cũng được họ dùng theo nghĩa rộng để gọi các tên ngày trong tuần như sau:

– Chủ nhật: tinh kỳ nhật 星期日 .

– Thứ hai: tinh kỳ nhất 星期一.

– Thứ ba: tinh kỳ nhị 星期二.

– Thứ tư: tinh kỳ tam 星期三.

– Thứ năm: tinh kỳ tứ 星期四.

– Thứ sáu: tinh kỳ ngũ 星期五.

– Thứ bảy: tinh kỳ lục 星期六 .

Thực ra danh từ tinh kỳ 星期 vốn đã tồn tại từ trước trong tiếng Hán nhưng lại có nghĩa khác, chẳng hạn như giờ sao mọc, giờ rước dâu ( Truyện Kiều: Tinh kỳ giục giã đã mong độ về ). Còn nghĩa đang xét chỉ mới xuất hiện vào thời cận đại và đồng nghĩa với cụm từ thất diệu nhật 七曜日 , nghĩa là tập hợp của những ngày mang tên của bảy ngôi sao (diệu 曜 = tinh tú), mà Từ nguyên đã chú nghĩa bằng tiếng Anh là week (= tuần lễ). Cụm từ này ra đời là do ảnh hưởng của tiếng Nhật. (Xem Tên gọi các ngày của tuần lễ trong tiếng Nhật ở phần trên). Tiếng Hán còn một từ nữa để chỉ tuần lễ bảy ngày. Đó là từ lễ bái 禮拜 nhưng từ này không thông dụng và thiên về tính chất tôn giáo.

§ 219. Kiến thức ngày nay, số 162, ngày 10-1 -1995

Hỏi: Tên các tháng trong tiếng Anh và tiếng Pháp có nghĩa gì và bắt nguồn từ đâu? Có phải toàn bộ các nước Châu Âu đều có cách gọi tên tháng giống nhau hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Các ngôn ngữ quen thuộc ở châu Âu, trước nhất là các ngôn ngữ Roman (Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Romania), rồi các ngôn ngữ Germanic (Anh, Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy) và cả tiếng Nga đều theo cách gọi tên các tháng của tiếng La Tinh. Trong ngôn ngữ này, các tháng trong năm có tên lần lượt như sau: Januarius, Februarius, Mars, Aprilis, Majus, Junius, Quintilis, Sextilis, Sep tember, October, November, December.

Tháng Giêng, Januarius, là tháng mang tên của Janus, vị thần gác cửa.

Tháng Hai, Februarius là tháng mang tên của Februo, vị thần của những người chết.

Tháng Ba, mang tên Mars, Thần chiến tranh.

Tháng Tư, Aprilis, theo nhiều người, liên quan đến động từ aperire, có nghĩa là mở ra. Tháng Aprilis được giải thích là tháng mà trái đất nở ra.

Tháng Năm, Majus, mang tên của nữ thần Maïa, mẹ của Mercurius, hoặc của thần Maius, chủ trì việc sinh trưởng.

Tháng Sáu, Junius, là tháng mang tên nữ thần Juno (Pháp: Junon), em gái và vợ của Jupiter.

Tháng Bảy, Quintilis, có nghĩa là (tháng) thứ năm (quinque = năm).

Tháng Tám, Sextilis, có nghĩa là (tháng) thứ sáu (sex = sáu).

Tháng Chín, September, có nghĩa là (tháng) thứ bảy (septem = bảy).

Tháng Mười, October, có nghĩa là (tháng) thứ tám (octo = tám).

Tháng Mười một, November có nghĩa là (tháng) thứ chín (novem = chín)

Tháng Mười hai, December, có nghĩa là (tháng) thứ mười (decem = mười).

Sở dĩ có mâu thuẫn giữa các tên gọi và thứ tự thực tế của sáu tháng hạ bán niên là vì, trước đó, một năm của người La Mã chỉ có mười tháng mà tháng đầu năm là tháng Mars. Do đó mà Aprilis là tháng thứ hai, Majus là tháng thứ ba, Junius là tháng thứ tư, Quintilis là tháng thứ năm, v.v., September đúng là tháng thứ bảy, v.v., December đúng là tháng thứ mười. Chu kỳ mười tháng này tương truyền là do Romulus, người sáng lập thành La Mã, đặt ra. Romulus tự nhận là thuộc dòng dõi của Mars nên mới lấy tên của vị thần này mà đặt cho tháng thứ nhất trong năm. Sau đó Numa Pompilius, người kế nghiệp Romulus, đã thêm vào hai tháng: Januarius vào đầu năm và Februarius vào cuối năm. Về sau, Februarius lại được đưa lên thành tháng thứ hai sau Januarius. Rồi đến đời hoàng đế Marcus Aurelius Antoninus, ông này lại đổi tên tháng Quintilis (tháng Năm, là tháng sinh của Julius Cæsar) thành Julius để tôn vinh danh tướng này. Cuối cùng, Viện nguyên lão La Mã đã đổi tên tháng Sextilis thành Augustus để tôn vinh hoàng đế Augustus vì những công tích mà ông ta đã cống hiến cho đế quốc La Mã. Do đó mà ngày nay chúng ta có tên La Tinh của 12 tháng như đã nói trên.

Tên của bốn tháng cuối cùng không còn đúng với thứ tự của chúng nữa. Nhưng, oái oăm thay, nhiều ngôn ngữ đã mượn đúng danh sách này mà dùng cho đến nay.

§ 220. Kiến thức ngày nay, số 162, ngày 10-1 -1995

Hỏi: Trong kho tàng từ ngữ Việt Nam, từ nào cũng có nghĩa riêng, đến các dấu hỏi và ngã cũng không thể lầm lẫn được. Vậy tại sao các nhà ngữ học không xét đến hai từ giống tự dạng nhưng khác nghĩa. Đó là: chiều và nhau. Tôi chậm hiểu khi nhìn và đọc các câu: – Chiều ý nàng, tôi đọc truyện Cuốn theo chiều gió ; mỗi buổi chiều; – Họ quyết không lìa nơi chôn nhau. Sự chậm hiểu của tôi cũng có thể là cùng một nguyên nhân với trở ngại cho người nước ngoài khi học tiếng Việt. Trái lại, tôi hiểu ngay khi các câu ấy là:

-Chìu ý nàng, tôi đọc truyện “Cuốn theo chìu gió: mỗi buổi chiều; – Họ quyết không lìa nơi chôn nhao.

Học giả An Chi giải đáp: Từ câu hỏi của ông suy ra, ý ông muốn dùng hai cách viết khác nhau để ghi hai cặp từ đồng âm (mà ông gọi là giống tự dạng) khác nghĩa đã nêu. Chiều trong sớm chiều khác nghĩa với chiều trong chiều gió. Vậy nên viết sớm chiều và chìu gió. Nhau trong gặp nhau khác nghĩa với nhau trong chôn nhau (cắt rún). Vậy nên viết gặp nhau và chôn nhao. Nhưng trong hệ thống chữ quốc ngữ hiện hành thì iêu-iu và au-ao là những cách viết thể hiện những vần thực sự khác nhau (theo từng cặp): iêu là /͜iew/ còn iu lại là /iw/; au là /ăw/ còn ao lại là /aw/. Nói cho rõ ra, trong chiều, âm chính là nguyên âm đôi /͜ie/ còn trong chìu thì đó chỉ là /i/. Trong nhau, âm chính là /ă/ còn trong nhao thì đó lại là /a/. Vậy không thể dùng iu để ghi vần /iew/ cũng như không thể dùng ao để ghi vần /ăw/ vì iu đã được dùng để ghi /iw/ còn ao thì đã được dùng để ghi /aw/. Tuy cách phát âm trong Nam đã nhập làm một các vần iêu – iu, và au – ao (theo từng cặp) nhưng ngoài Bắc thì vẫn còn phân biệt những vần đó (theo từng cặp) một cách hoàn toàn rõ ràng. Do đó, không thể viết chìu mà đọc thành “chiều” /c͜iew2/ cũng như không thể viết nhao mà lại đọc thành “nhau” /ñăw1/ vì chìu là /ciw2/ còn nhao là /ñaw1/. Giống như không thể viết tiển mà đọc thành “tiễn” cũng như không thể viết tiễn mà lại đọc thành “tiển” vì tiễn là /tien3/, có thanh điệu 3 còn tiển là /tien4/ thì lại có thanh điệu 4. Mặc dù trong Nam đã nhập làm một thanh điệu 3, ghi bằng dấu ngã (~) với thanh điệu 4, ghi bằng dấu hỏi (ˀ) nhưng ngoài Bắc vẫn còn phân biệt hai thanh điệu đó một cách hoàn toàn rõ ràng. Vì vậy nên phải duy trì dấu ngã cho thanh điệu 3 và dấu hỏi cho thanh điệu 4 mà phân biệt hỏi ngã một cách rành mạch, như ông cũng đã khẳng định trong câu hỏi của mình. Sự phân biệt hỏi-ngã là sự phân biệt hai hiện tượng ngữ âm học và âm vị học khác nhau chứ không phải là một biện pháp dùng hai hình thức chính tả khác nhau để phân biệt những cặp từ đồng âm.

Tóm lại không thể dùng ao để ghi /ăw/ cũng như không thể dùng iu để ghi /͜iew/. Hơn nữa, điều gợi ý của ông cũng chỉ đáp ứng được các trường hợp của hai từ đồng âm. Vậy nếu có nhiều từ đồng âm hơn, chẳng hạn ba, bốn, thậm chí năm, thì cũng không giải quyết được vấn đề. Thí dụ:

– Báo trong hổ báo; báo trong sách báo và báo trong báo hại, báo đời.

– Tàu trong trà tàu, mực tàu; tàu trong tàu bè, tàu lá, và tàu (= cũ, sờn).

– Điều (đào lộn hột), điều trong nhiễu điều và điều trong điều lệ.

– Chao trong tương chao, chao trong chao đèn, chao trong chao qua chao lại và chao trong chao ôi, v.v..

Nếu muốn giải quyết vấn đề theo hướng mà ông đã gợi ý thì tất phải đặt ra thêm nhiều cách viết khác nữa, không chỉ cho những vần đang xét mà còn cho tất cả các vần khác vì, nói chung, thuộc vần nào cũng có thể có những từ đồng âm. Chữ quốc ngữ sẽ trở nên phức tạp. Nhưng điều quan trọng hơn hết là nó sẽ đi xa dần cái tính chất ban đầu của nó là một nền văn tự ghi âm (lại là ghi âm tố chứ không phải ghi âm tiết), một loại hình văn tự đơn giản đến mức lý tưởng mà về nguyên tắc vẫn đảm bảo được một cách ghi âm chính xác, khác với chữ Pháp, chẳng hạn là một nền văn tự thiên về tính chất từ nguyên.

§ 221. Kiến thức ngày nay, số 162, ngày 10 -1 – 1995

Hỏi: Tại sao trong tiếng Pháp một âm vị có thể được ghi bằng nhiều cách, thậm chí nhiều cách khác nhau? Điều này có lợi gì hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Trong chữ Pháp, một âm vị có thể ghi bằng nhiều cách. Chẳng hạn /ɛ᷉/ có thể được ghi bằng: aIm, ain, aint, eIm, ein, eing, eint, en, Im, in, inct, inq, yn, ym như trong: faIm (cái đói), pain (bánh mì), saint (thánh), ReIms (một địa danh – đọc là rɛ᷉s), plein (đầy), seing (chữ ký), peint (sơn, vẽ), examen (sự xem xét, kỳ thi…), Impair (lẻ, không chẵn), inclus (bao gồm trong), distinct (rõ ràng), cinq (năm – khi đứng trước phụ âm), lynx (linh miêu – đọc là /lɛ᷉ks/), thym (cây húng tây). Sở dĩ có những cách viết như trên cho độc một âm vị là /ɛ᷉/ là do chính tả bị phụ thuộc vào từ nguyên: faIm bắt nguồn từ tiếng La Tinh fames; pain, từ L. panis; saint, từ L. sanctus; ReIms, từ tên của các tộc người đã sống tại đó thời cổ đại; plein từ L. plenus; seing từ L. signum; peint từ L. thông tục pinctus (L. cổ điển pictus); examen là nguyên dạng La Tinh; Impair từ L. Impar; inclus, từ L. inclusus; distinct, từ L. distinctus; cinq từ L. quinque; lynx từ tiếng Hy Lạp lunx; thym, từ L. thymus.

Do chữ viết phụ thuộc vào từ nguyên như thế mà những từ khác nghĩa nhưng có cùng âm /sɛ᷉/ đã được viết bằng những cách khác nhau sau đây: ceint (quấn thắt, chít – do L. cinctus), sain (lành mạnh – do L. sanus), sein (ngực – do L. sinus), cinq, saint và seing (ba chữ sau cùng này đã nói ở trên).

Một số người Pháp đã chủ trương dựa vào những cách viết khác nhau để phân biệt các từ đồng âm khác nghĩa, chẳng hạn như sáu từ /sɛ᷉/ trên đây. Ý tưởng này của họ đã có một chỗ dựa thuận lợi là lối viết kế thừa theo từ nguyên. Nhưng họ đã không để ý đến một điều là phần lớn những từ đồng âm trong tiếng mẹ đẻ của họ là những từ có nguồn gốc La Tinh mà chữ La Tinh lại là một nền văn tự ghi âm, cũng lại là ghi âm vị, nói chung là hợp lý, minh xác, và đặc biệt là cũng đơn giản. Việc duy trì lối viết theo từ nguyên làm cho nền văn tự của Pháp thực sự rắc rối và bị nhiều người chỉ trích. Chính vì vậy mà nhiều người đã đòi cải cách chữ Pháp.

Văn tự của tiếng Anh cũng lâm vào một tình trạng tương tự nên cũng từng được đề nghị cải cách. Người khởi xướng phong trào cải cách tại Mỹ năm 1906 là Franklin Roosevelt, vị tổng thống tương lai (1933) của Hiệp chúng quốc. Pierre Burney đã nói ngắn gọn về chữ Anh như sau: “Chính tả tiếng Anh tồi tệ đến nỗi rất khó đơn giản hóa nó nếu không hoàn toàn làm lại nó”.* H.C. Wyld một người chống lại việc cải cách chữ Anh cũng đã thừa nhận trong A short history of English rằng nó gần như là một kiểu chính tả tồi tệ nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra.*

Vậy việc dùng những cách viết khác nhau để phân biệt những từ đồng âm không phải là một biện pháp thực sự hợp lý và có tác dụng tích cực. Nó bắt trí nhớ phải làm việc nhiều hơn (để có thể ghi lại được rất nhiều cách khác nhau cho cùng một âm vị hoặc một tổ hợp âm vị) một cách không cần thiết khi mà trong thực tế thì ý nghĩa của một từ, dù từ này có đồng âm với một hoặc nhiều từ khác, luôn luôn gắn liền với ngôn cảnh khi nó được sử dụng. Ngôn cảnh là chỗ dựa quan trọng để nhận định ý nghĩa của từ. Đối với các ngôn ngữ, khi chưa có chữ viết, thì đã có từ đồng âm. Trong hoàn cảnh đó, người ta chỉ có thể dựa vào lời nói, cũng tức là ngôn cảnh, để phân biệt nghĩa của các từ đồng âm mà thôi. Ngay cả khi có chữ viết, thì không phải lúc nào người ta cũng viết, mà người ta vẫn nói nhiều hơn. Vậy khi nói thì phải làm sao vì các từ đồng âm đều được phát âm như nhau? Chỉ có thể dựa vào ngôn cảnh. Giở một quyển từ điển tiếng Hán, chẳng hạn như Hiện đại Hán ngữ từ điển (Bắc Kinh, 1992), người ta có thể đếm được đến 50 từ có âm li, với 50 cách viết khác nhau. Những cách viết khác nhau này chỉ có tác dụng trên văn tự chứ lúc nói thì chỉ có thể dựa vào ngôn cảnh để tuyển chọn 1 trong 50 từ đồng âm đó mà thôi.

Tóm lại, lý tưởng nhất vẫn là nguyên tắc: một chữ cái cho mỗi âm vị; mỗi âm vị chỉ được ghi bằng một chữ cái duy nhất.

§ 222. Kiến thức ngày nay, số 163, ngày 20-1 -1995

Hỏi: Pháo trong pháo tết, pháo trong cao xạ pháo và pháo trong xe pháo ngựa (cờ tướng) có liên quan gì với nhau, cả về nguồn gốc của sự vật lẫn nguồn gốc của từ ngữ hay không? Tại sao pháo (súng canon) cũng gọi là đại bác? Nếu đều là chữ Hán thì pháo viết thế nào và bác viết ra sao? Xin cho biết sơ lược về lịch sử của pháo Tết và pháo đại bác.

Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi xin lần lượt gọi ba loại pháo trên đây là: pháo trò chơi, pháo quân sự, và pháo cờ tướng.

Trước nhất, xin nói về pháo quân sự. Đạn của loại pháo này thoạt kỳ thủy chỉ là những viên đá, gọi là pháo thạch, bắn về phía đối phương bằng một phương tiện quân sự gọi là pháo xa. Chữ pháo ban đầu viết là 抛, về sau mới viết thành 礮 hoặc 砲 như ngày nay. Chữ 抛 có hai âm: phao và pháo như đã được ghi nhận trong Quảng vận và Khang Hy tự điển nhưng theo quyển từ điển sau thì dù đọc theo âm nào chữ đó cũng có nghĩa gốc là ném, quăng, liệng… Từ đó nó mới có nghĩa rộng là bắn, là phát đi thật mạnh. Vậy pháo xa 砲車 là xe có gắn máy bắn đá (dĩ cơ phát thạch chi xa 以機發石之車) còn pháo thạch 砲石 là những viên đá được bắn đi bằng pháo xa. Đồng nghĩa với phao/pháo còn một từ nữa là lội 儡 (Hán-Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng phiên là lụy); vì vậy mà pháo xa cũng gọi là lội xa 儡車 và pháo thạch cũng gọi là lội thạch 儡石. Pháo xa cũng còn được gọi bằng một từ khác nữa là cơ thạch 機石(đá máy).

So với đạn pháo quân sự ngày nay, những viên pháo thạch thời xưa tất nhiên không có sức công phá gì đáng kể. Nhưng ở thời ấy thì đó đã là một thứ vũ khí ghê gớm. Chẳng thế mà pháo xa thời ấy đã được gọi là phích lịch xa 霹靂車 nghĩa là xe sấm sét (phích lịch 霹靂 = sấm – chữ phích thường được đọc là tích), như đã được ghi nhận trong sách Hậu Hán thư 後漢書, truyện Viên Thiệu 袁 紹:“(Tào) Tháo bèn cho xe bắn pháo bắn vào tháp canh của Thiệu làm đổ nát cả, quân sĩ gọi là xe sấm sét”

操 乃 發 石 車 擊 紹 褸 皆 破, 軍 中 呼 曰 霹 靂 車.

(Tháo nãi phát thạch xa kích Thiệu lâu giai phá, quân trung hô viết phích lịch xa – dẫn theo Từ hải).

Tương truyền pháo xa là một phát minh của Phạm Lãi 范 蠡, người nước Sở 楚 thời Xuân Thu 春秋, đã theo vua Câu Tiễn 句 踐 nước Việt 越 để chống lại nước Ngô 呉.

Còn đạn pháo làm bằng thuốc nổ thì chỉ ra đời sau khi thuốc nổ được phát minh. Theo nhà Trung Hoa học nổi tiếng Joseph Needham thì thuốc nổ và súng là phát minh của Trung Hoa. Ông đã khẳng định và viết như sau:

“Sự phát triển các hỏa khí chắc chắn đã là một trong những thành tựu quan trọng nhất của nước Trung Hoa thời trung đại (Chúng tôi nhấn mạnh – AC). Những bước đầu của thành tựu này đã diễn ra vào cuối đời Đường, thế kỷ IX Công nguyên, niên đại có nguồn ký tải đầu tiên về hỗn hợp than củi với salpêtre (nitrat kali) và sulfure. Điều ghi chép này thấy được trong một quyển sách Đạo giáo, nó khẩn thiết nhắc nhở các nhà luyện đơn chớ có pha trộn những chất đó với nhau, nhất là nếu có thêm arsenic vì người pha trộn phải hứng chịu cảnh hỗn hợp nổ, râu của người đó bị lấm đen và phòng ốc nơi pha trộn sẽ bị lửa thiêu rụi.

(…) “Thuốc lửa”(hỏa dược 火 藥), từ ngữ đặc trưng cho các hỗn hợp thuốc súng, đã xuất hiện như tác nhân gây nổ trong một súng phun lửa năm 919 Công nguyên; khoảng năm 1000 người ta đã bắt đầu dùng thuốc súng nhồi thành bom và lựu đạn. Những công thức đầu tiên về cấu tạo của thuốc nổ xuất hiện vào năm 1044, thế là trước cả niên đại (về thuốc nổ) của châu Âu, ghi nhận được vào năm 1327 hoặc có sớm lắm cũng là năm 1285.

(…)

Từ thành tựu đó, một sự chuyển biến quan trọng đã dẫn đến (sự ra đời) của súng có nòng. Nó xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XII, khoảng năm 1120, khi người Tống phải tiến hành cuộc chiến đấu chống quân Thát Đát – nhà KIm. (…) Khoảng 1230, chúng ta bắt đầu có những đoạn miêu tả những vụ nổ thực sự có tính chất phá hủy, trong những trận đánh giữa quân Tống với quân Mông Nguyên. Rồi khoảng 1280, đâu đó tại Cựu thế giới, súng có nòng bằng kIm loại xuất hiện. (…) Những năm 1280 – 1320 là giai đoạn then chốt của sự xuất hiện nòng súng bằng kIm loại. Tôi không nghi ngờ gì rằng nó có nguồn gốc thực tế từ cái ống tre trong súng phun lửa của Trung Hoa”.*

Tóm lại thuốc nổ và súng là một phát minh của Trung Hoa. Khi đã có thuốc nổ thì, như đã thấy, cũng có thể có cả trái phá. Nhưng những trái phá đó chỉ có thể trở thành đạn của pháo quân sự khi nòng súng bằng kIm loại ra đời, nghĩa là sớm nhất cũng phải sau giai đoạn 1280 – 1320 mà Joseph Needham đã nêu. Trước giai đoạn này, chỉ có pháo thạch và pháo xa. Sau giai đoạn này mới có thể có pháo – đại bác. Sở dĩ pháo cũng gọi là đại bác thì chỉ đơn giản là vì đại pháo đã bị đọc nhầm thành đại bác mà thôi. Người ta thấy trong chữ pháo 礮 có chữ bác 駮 nên đã đọc nó thành bác mặc dù âm này không hề được ghi nhận cho chữ đó trong bất cứ quyển từ điển tiếng Hán nào, trừ một số từ điển Hán Việt (nhưng có quyển như Đào Duy Anh hoặc Nguyễn Quốc Hùng cũng chú rõ rằng âm chính của nó phải là pháo).

Bây giờ xin nói về pháo trò chơi. Nhiều người có thể cho rằng phải đợi đến khi thuốc nổ được phát minh thì mới có loại pháo này. Sự thực không phải như thế. Trước khi có pháo làm bằng thuốc nổ thì đã có pháo tự nhiên làm bằng… tre, tiếng Hán gọi là bộc trúc 爆竹 (= tre cháy nổ). Điều này đã được khẳng định bằng nhiều nguồn ký tải. Chẳng hạn, Thông tục biên của Trạch Hạo đời Thanh, thiên “Bài ưu” đã chép:

“Pháo thời xưa đều làm bằng tre thật, đốt (bằng) lửa thì nổ, do đó mà thơ của người đời Đường mới gọi là bộc can 爆竿 (= cành tre cháy nổ – AC).

Chẳng hạn bài thơ Tảo Xuân (Xuân sớm) của Lai Hộc có câu:

Tiểu đình do tụ bộc can hôi

Nghĩa là:

Sân nhỏ còn đọng đầy tro pháo

Cũng chính vì vậy mà danh từ bộc trúc (= pháo) đã được Từ nguyên giảng như sau: “Thời xưa lấy lửa đốt tre, nứt hết ra mà gây thành tiếng, gọi là pháo. Tương truyền là để xua đuổi tà ma. Đời sau lấy giấy quấn thuốc nổ, đốt bằng lửa mà gây ra tiếng động, cũng gọi là pháo. Sách Ống dũ nhàn bình (chép): “Ngày đầu năm đốt tre ngoài sân, tre đó gọi là liệu trúc. Liệu trúc (tức là) pháo vậy”.

Ngày nay pháo không còn là cây tre nữa. Chẳng những thế, còn có nhiều loại pháo nguy hiểm như pháo đại, pháo cối, nhồi bằng thuốc nổ bén lửa cực nhanh, có khi gây chết người dễ như bỡn. Nhưng tiếng Hán vẫn tiếp tục gọi pháo là bộc trúc. Hiện tượng này cũng giống như trong tiếng Việt người ta vẫn tiếp tục dùng danh từ đồng hồ 銅 壺 để gọi cái máy chỉ giờ đeo tay, để bàn hoặc treo tường mặc dù đó không còn phải là một cái hồ bằng đồng nữa (Xin xem thêm Kiến thức ngày nay, số 135, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 83, c. 2, 3). Tuy nhiên người ta cũng còn dùng một từ khác đồng nghĩa với bộc trúc. Đó là pháo trượng 砲 杖. Mấy tiếng này chỉ có thể xuất hiện trong tiếng Hán sau giai đoạn 1280 – 1320: phải có pháo đạn 砲 彈 (đạn của pháo quân sự) rồi thì từ pháo mới được dùng theo ẩn dụ để chỉ pháo trò chơi.

Cứ như trên thì pháo làm bằng tre (bộc trúc) đương nhiên chẳng có liên quan gì đến pháo thạch là những viên đá được bắn đi bằng pháo xa. Nhưng khi bộc trúc, nghĩa là pháo, bắt đầu được làm bằng giấy quấn chặt, bên trong có nhồi thuốc nổ thì rõ ràng là nó có liên quan đến cấu tạo của pháo đạn, nghĩa là đạn của pháo quân sự (nên cũng còn được gọi là pháo). Đến giai đoạn này thì rõ ràng là về mặt nguồn gốc của sự vật lẫn nguồn gốc của tên gọi, hai thứ đều có liên quan với nhau. Còn pháo cờ tướng thì chỉ là tượng trưng cho pháo quân sự giữa các loại quân cờ (chốt, xe, pháo, ngựa, tướng, sĩ, tượng) trong môn cờ tướng mà thôi.

§ 223. Kiến thức ngày nay, số 163, ngày 20-1 -1995

Hỏi: Xin hỏi An Chi, Hà Bá có lấy vợ hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Theo Từ hải thì Chử Thiếu Tôn, bổ chính truyện “Tây Môn Báo” trong Sử ký, đã chép chuyện Hà Bá lấy vợ như sau:

“Đời Ngụy Văn Hầu 魏文侯, Tây Môn Báo 西門豹 làm huyện lệnh huyện Nghiệp 鄴(thuộc đất Tề 齊 cũ), thấy dân khổ sở nên mới tìm đến các vị trưởng lão để hỏi duyên cớ. Trưởng lão trả lời: “Dân khổ là do chuyện Hà Bá lấy vợ, vì thế mà nghèo.” Báo mới hỏi rõ thêm xem tại sao. Đáp: “Tam lão và chức dịch đất Nghiệp hàng năm bắt bá tánh nộp thuế, thu tiền của thiên hạ kể đến hàng trăm vạn, dùng hai, ba mươi vạn làm lễ cưới vợ cho Hà Bá rồi cùng với bọn đồng cốt chia nhau số còn lại bỏ túi.” Tây Môn Báo nói: “Khi nào làm lễ cưới vợ cho Hà Bá, mời tam lão đến, ta cũng sẽ đến đưa dâu.” Đến ngày, Tây Môn Báo cùng dự. Có tiếng reo hò vợ hà bá đã tới. Báo thấy vợ Hà Bá xấu, bèn bảo ra khỏi màn tiến về phía trước. Ông ta nói: “Thấy rõ là cô gái này không đẹp, phiền bà cốt xuống sông báo cho Hà Bá biết, đợi tìm được gái đẹp, hôm khác sẽ đưa tới.” Nói xong liền sai quân lính khiêng bà cốt ném xuống sông. Một lúc, lại nói: “Sao bà cốt xuống dưới lâu thế?” Lại sai khiêng ba đệ tử của bà cốt ném xuống sông, rồi lại sai khiêng tam lão ném tiếp xuống sông. Lại ngỏ ý muốn sai quan duyện và hào trưởng xuống sông tìm hiểu đầu đuôi. Mặt mày tái mét, họ phải giập đầu xin tha, đến nứt trán, máu chảy ra đất. Quan và dân đất Nghiệp vô cùng khiếp sợ, từ đó về sau không ai dám nói đến chuyện Hà Bá lấy vợ nữa.”

§ 224. Kiến thức ngày nay, số 164, ngày 10 – 2 – 1995

Hỏi: Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 100 có trả lời câu hỏi: Tại sao ngoài Bắc gọi là “múa sư tử” mà trong Nam gọi là “múa lân”? Nhưng trong bài “Sư tử hay lân” đăng trên Văn nghệ (Thành phố Hồ Chí Minh) số 97 (8 đến 14-7-1993), tác giả viết: “Trò vui “múa lân (gọi theo trong Nam) là một tập tục của Trung Quốc mà người Việt Nam bắt chước chơi theo. Đối với người Hoa, trò chơi này họ gọi là “múa sư” hay “múa sư tử” tức “sư vũ” hay “sư tử vũ” mà người Quảng Đông phát âm là “Shii mụ” hay “Shii Tchii mụ” chứ không bao giờ gọi là múa lân”. Để kết luận, tác giả cho rằng “con lân” trong trò chơi kia thực ra có thể là con giải trỉ (trải). Xin An Chi cho nhận xét về ý kiến trên đây.

Học giả An Chi giải đáp: Về bài “Sư tử hay lân” đăng trên Văn nghệ (Thành phố Hồ Chí Minh) số 97 (tr. 15 và 17), chúng tôi có mấy ý kiến như sau:

1. Người Quảng Đông không gọi múa lân là “xí mộu” hoặc “xí chỉ mộu” (tác giả ghi là “shii mụ” và “shii tchii mụ”), mà gọi là mộu xí, nghĩa là họ dùng một từ tổ động từ chứ không dùng một từ tổ danh từ.

2. Tác giả viết: “Vậy đồng bào Bắc gọi múa lân là múa sư tử không phải vì “gọi nhầm lẫn lâu ngày thành quen do nhác trông thì lân giống sư tử” (…) mà thật ra họ gọi theo đúng tập quán của người Hoa, dân tộc sáng chế ra trò múa đó”. Điều khẳng định này cũng không đúng vì: – những người Việt miền Bắc đầu tiên gọi múa lân thành múa sư tử đâu có phải là những nhà dân tộc học chính cống; – họ cũng chẳng phải là người thông thạo tiếng Quảng Đông để có thể dịch mộu xí thành múa sư tử; – vả lại tiếng Việt cũng chưa bao giờ mượn tiếng Quảng Đông theo lối sao phỏng (calque); nó chỉ nhại âm mà thôi, thí dụ: xíu mại, phá xáng, lục tầu xá, v.v..

3. Tác giả đã không để ý đến điều quan trọng sau đây: danh từ sư trong tên các điệu múa hữu quan không phải lúc nào cũng được hiểu theo nghĩa gốc là con sư tử. Nó đã trở thành một danh từ có tính chất chủng loại (générique). Vì vậy nên trong điệu múa hổ (cọp) ở Hải Nam, mà chính tác giả này đã nhắc đến, con hổ mới được gọi là hổ sư hoặc kIm hổ sư. Và nếu câu nệ vào nghĩa gốc của từ ngữ thì làm sao kỳ lân lại được gọi là lân mã, thậm chí long mã như chính tác giả đã viết khi nói về lễ hội tại thánh thất Cao đài ở Tây Ninh?

4. Tác giả viết: “Ngoài ra con thú một sừng gắn trên các nóc chùa mà ta gọi là con lân rất giống hình ảnh con giải trải (trỉ), một con thú thần thoại, luôn bênh vực điều ngay lẽ phải (…) Quyển Dictionnaire vietnamien – français – chinois của Eugène Gouin (…) đã ghi:

Giải trỉ (trải): licorne; Lân: licorne

Vậy phải chăng con thú bện bằng giấy đang được dùng để múa vui trong các kỳ lễ hội hoặc ngày tết mà người Việt miền Nam gọi là múa lân, đồng bào ngoài Bắc gọi là múa sư tử cũng không phải là con kỳ lân mà là con giải trải (trỉ)?”

Nhưng danh từ licorne trong tiếng Pháp chỉ tương ứng với danh từ (kỳ) lân và vì tiếng Pháp hoàn toàn không có từ nào tương ứng với giải trãi (trĩ) nên người ta mới mượn từ licorne để tạm dịch nó. Vả lại nếu licorne hoàn toàn tương ứng với giải trãi (trĩ) thì ta sẽ có:

Giải trãi (trĩ) = licorne; Lân = licorne.

Vây giải trãi (trĩ) = lân. Đây là một điều hoàn toàn vô lý.

5. Rất có thể là do kiêng kỵ mà người Quảng Đông đã gọi con lân bằng tên con sư tử. Họ kiêng kỵ những từ đồng âm với các từ chỉ những hiện tượng không tốt lành hoặc bất lợi. Chẳng hạn lưỡi heo lẽ ra phải là chü xịt (trư thiệt) nhưng dân buôn bán sợ lỗ nên không dùng tiếng xịt vì nó đồng âm với xịt trong xịt pủn có nghĩa là lỗ vốn. Họ phải gọi lưỡi heo là chü lèj vì lèj đồng âm với 利 (lợi) có nghĩa là lời. Gan heo là chü cón (trư can) nhưng dân buôn bán và dân cờ bạc lại kiêng từ cón vì nó đồng âm với cón (can) là khô, kiệt. Họ gọi gan heo là chü joẹun (trư nhuận) vì chữ joẹun đồng âm với joẹun 潤 (nhuận) có nghĩa là làm cho sinh lợi. Vậy cũng chẳng có gì lạ nếu người Quảng Đông không dám hoặc không chịu gọi con lân bằng chính cái tên của nó là loèun 麟 (lân) vì tên này đồng âm với loèun 淪 (luân) có nghĩa là chìm đắm, lụn bại, phá sản. Ngày tết, múa lân mà xài tiếng loèun thì e là sẽ xúi quẩy cả năm chăng?

§ 225. Kiến thức ngày nay, số 164, ngày 10-2-1995

Hỏi: Có phải ta và Tàu có một số giai thoại giống nhau về câu đối hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Đúng là ta và Tàu có một số giai thoại giống nhau về câu đối. Dưới nhan đề “Ra đối dễ, đối đối khó”, Giai thoại văn học Việt Nam của Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch (in lần thứ hai, Hà Nội, 1988) đã chép như sau:

“Năm Hưng Long thứ 16 (1308) Mạc Đĩnh Chi sang sứ nhà Nguyên, ông có hẹn ngày ấy ngày nọ thì phái bộ sẽ đến cửa ải để viên quan nhà Nguyên mở cửa đón. Chẳng may hôm lên đường gặp phải mưa gió, thành ra sai hẹn. Lúc tới nơi thì trời tối, cửa ải đã đóng. Mạc Đĩnh Chi nói mãi, người Nguyên không chịu cho qua. Sau họ vứt từ trên ải xuống một vế đối, bảo hễ đối được thì mới mở cửa ải:

Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.

過 關 遲, 關 關 閉, 愿 過 客 過 關.

Nghĩa là: Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.

Thật là một câu đối hiểm hóc, trong có mười một chữ mà riêng chữ quan nhắc lại tới bốn lần. Chữ quá nhắc lại tới ba lần. Mạc Đĩnh Chi (…) ứng khẩu đọc một câu rằng:

Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối.

出 對 易, 對 對 難, 請 先 生 先 對.

Nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời tiên sinh đối trước.

Tưởng đã bí, thế mà lại hóa ra có một câu đối hay. Người Nguyên phải chịu Mạc Đĩnh Chi có tài ứng biến, liền tức tốc mở cửa ải để ông đi”.

Nhưng sách Proverbs and Common Sayings from the Chinese của Arthur H. Smith (New York, 1965) cũng có chép về đôi câu đối trên với một vài dị biệt: Một ông thầy ở gần cổng trạm thuế đã ra cho học trò của mình câu xuất như sau:

Khai quan tảo, quan quan vãn, phóng quá khách quá quan.

開 關 早, 關 關 晚, 放 過 客 過 關.

Nghĩa là: Mở cổng (trạm thuế) sớm, đóng cổng muộn, để cho khách qua đường qua cổng.

Người học trò đã đối lại bằng một câu giống hệt câu tương truyền là của Mạc Đĩnh Chi:

Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối.

出 對 易, 對 對 難, 請 先 生 先 對.

Nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời thầy đối trước.

Trong giai thoại của Trung Hoa, câu xuất của người thầy có bao hàm hai cặp từ ngược nghĩa: khai 開 (mở) – quan 關 (đóng) và tảo 早 (sớm) – vãn 晚 (muộn), bắt buộc cậu học trò cũng phải đưa vào câu đối lại của mình hai cặp từ ngược nghĩa khác: xuất 出 (ra câu đối) – đối 對 (đối lại câu xuất) và dị 易 (dễ) – nan 難 (khó), để cho câu sau theo sát đặc điểm của câu trước.

Còn trong giai thoại của Việt Nam thì lại là một đôi câu đối không chỉnh, nói cho đúng hơn, là một đôi câu đối mà câu đối lại đã không chỉnh. Trong câu trước, chữ quá 過 đã được dùng ba lần nhưng đối lại với nó, chữ tiên 先 trong câu sau chỉ được dùng có hai lần. Xin hãy đối chiếu:

Quá quan trì… quá khách quá quan

Xuất đối dị… tiên sinh tiên đối

Ở vị trí đầu của câu sau, thay vì chữ tiên 先 thì đó lại là chữ xuất 出 (vì nếu dùng tiên thì sẽ vô nghĩa). Dễ dàng thấy rằng câu đối lại không theo sát được đặc điểm quan trọng của câu xuất là hình thức điệp tự.

Còn sau đây là giai thoại liên quan đến Trạng Hiền, có chép trong Câu đối Việt Nam của Phong Châu (Hà Nội, 1991) như sau:

“Trạng Hiền khi còn bé, hay nặn voi, đặt bốn chân voi lên con cua, bắt con đỉa làm vòi. Vòi cất lên cất xuống được.

Một viên quan đi qua, đứng lại hỏi và thấy Hiền ứng đối nhanh. Viên quan mới đọc một câu:

- Đồng tử ngũ lục nhân, vô như nhĩ xảo.

童 子 五 六 人, 無 如 爾 巧.

Nghĩa là: Năm sáu đứa trẻ không đứa trẻ nào khéo bằng mày.

Hiền hỏi lại viên quan:

-Quan là chức gì mà lại hỏi chuyện tôi?

Viên quan nói:

-Ta là quan thái thú ăn lương hai nghìn hộc.

Hiền đọc luôn:

- Thái thú nhị thiên thạch, mạc nhược công…

太 守 二 千 石, 莫 若 公…

Nghĩa là: Thái thú ăn lương hai nghìn hộc, chẳng là ông…

Viên quan cười và bảo còn thiếu một chữ. Hiền bảo cho tiền rồi mới đọc nốt. Viên quan cho tiền xong, Hiền nói:

- Thái thú nhị thiên thạch, mạc nhược công liêm.

太 守 二 千 石, 莫 若 公 廉.

Tôi làm thiếu một chữ, nếu ông không tốt thì tôi sẽ đọc:

- Thái thú nhị thiên thạch, mạc nhược công tham.

太 守 二 千 石, 莫 若 公 貪.

Nhưng sách Proverbs and Common Sayings from the Chinese cũng có chép chuyện trên đây mà nhân vật là một chú bé vô danh người Trung Hoa. Chuyện rằng kiệu của một viên tri phủ đang đi qua một đường phố thị trấn thì có sáu bảy đứa trẻ chạy ùa tới và reo hò inh ỏi. Viên quan ra lệnh ngừng kiệu và thấy trong đám trẻ có một đứa mặt mày sáng láng và có vẻ vui nhộn nhất nên dễ dàng đoán ra đó là kẻ đầu têu. Ông cho gọi cậu bé đến và nghiêm mặt hỏi: “Có phải ở trường học, chú mày đã được dạy như thế không? Ta sẽ thay mặt thầy giáo của chú mày khẻ vào tay chú mày mười cái để phạt chú mày về tội quậy phá nếu chú mày không làm được câu đối vịnh về chuyện này”.

Cậu bé trả lời: “Dễ thôi!”

Rồi cậu ta ứng khẩu đọc luôn hai câu, câu trước thác lời viên quan chê bai cậu, câu sau là lời cậu nhận xét về viên quan nhưng bỏ lửng chữ cuối cùng. Nguyên văn như sau:

Đồng tử lục thất nhân thuộc nhữ thậm liệt

Thái thú nhị thiên thạch duy công tối…

童 子 六 七 人 属 汝 甚 劣

太 守 二 千 石 惟 公 最…

Nghĩa là:

Trong sáu, bảy đứa trẻ thì chú mày rất tồi.

Trong hàng tri phủ (ăn lương) hai ngàn hộc chỉ có Ngài là… nhất.

(Trong tiếng Hán, cụm từ nhị thiên thạch 二 千 石 thoạt đầu chỉ lương của chức Thái thú, về sau cũng dùng để chỉ chính chức Thái thú và danh từ Thái thú cũng còn có nghĩa là tri phủ).

Quan hỏi: “Nhất thế nào? Sao không nói luôn?”

Cậu bé trả lời: “Vì câu sau có hai cách kết thúc tùy theo ngài có thưởng hay không?”

Quan nói: “Kể như ta có thưởng cho chú mày. Vậy chữ cuối là gì?”

Câu bé đáp: “Thưa đó là chữ liêm 廉.”

Quan lại hỏi: “Còn nếu không thưởng?”

Cậu bé đáp tiếp: “Thưa đó là chữ tham 貪.”

Quan tri phủ cười. Ông thưởng cho cậu bé hai ngàn tiền mặt. Tương truyền cậu bé mới lên bảy tuổi”.

Trở lên là hai trường hợp giống nhau giữa giai thoại của ta và giai thoại của Tàu. Sở dĩ có tình trạng này là vì thực ra ta đã mượn của Tàu. Và vì ta đã mượn và kể lại không được nhuần nhuyễn nên mới thành ra vô lý. Chẳng hạn, trong giai thoại về Trạng Hiền, viên quan ta đã tự giới thiệu mình là Thái thú. Chức này chỉ có ở bên Tàu chứ không có ở bên ta (đương nhiên là trừ thời Bắc thuộc – mà cũng do Tàu áp đặt). Tác giả của giai thoại này hình như đã quên mất một điều quan trọng là dân Giao Chỉ thời xưa hẳn chẳng ưa gì hai tiếng Thái thú (xin nhớ lại Tô Định) mà hậu duệ của họ là người Đại Việt, rồi người Việt Nam ngày nay xem ra cũng chẳng mặn mà gì với nó. Chẳng qua trong câu đối đang xét thì câu sau có sẵn mấy tiếng “Thái thú nhị thiên thạch” made in China nên người ta mới bắt một ông quan của Đại Việt thời nhà Trần (Trạng Hiền sống vào thời này) gồng mình làm Thái thú mà thôi.

§ 226. Kiến thức ngày nay, số 165, ngày 20-2-1995

Hỏi: Trước đây tôi có đọc đâu đó một câu đối chữ Hán rất hay, có chiết tự chữ tư và chữ tạ rất sâu sắc nhưng nay đã quên mất nguyên văn. Xin nhờ ông An Chi sưu tầm giúp và phân tích trên Kiến thức ngày nay, để độc giả khác cùng thưởng lãm.

Học giả An Chi giải đáp: Có phải ông muốn nói đến giai thoại “Một chữ, mấy lời” chép trong Câu đối Việt Nam của Phong Châu? Đúng là trong chuyện này, có đôi câu đối chiết tự về chữ tư và chữ tạ. Chuyện như sau:

“Người ta nói xưa có một ông quan, không rõ là ông nào sang sứ Trung Quốc đã lâu không được về nước.

Một hôm, thấy ông buồn, một viên quan người Trung Quốc mới ra cho ông một câu đối:

- Thập khẩu tâm tư, tư quốc, tư gia, tư phụ mẫu.

十 口 心 思, 思 國, 思 扎, 思 父 母.

Ông quan liền ứng khẩu đáp ngay rằng:

- Thốn thân ngôn tạ, tạ thiên, tạ địa, tạ quân vương.

寸 身 言 謝, 謝 天, 謝 地, 謝 君 王.

Viên quan người Trung Quốc tâu với vua và xin cho ông kia được phép về nước.

Câu nói trên có nghĩa là: Mười miệng, bụng nghĩ, nghĩ nước, nghĩ nhà, nghĩ cha mẹ. Trong câu có bốn chữ tư 思 mà chữ tư là chữ thập 十 (mười), chữ khẩu 口 (miệng) với chữ tâm 心 (bụng) hợp lại mà thành.

Câu dưới có nghĩa là: Tấc thân nói tạ, tạ trời, tạ đất, tạ quân vương. Trong câu có bốn chữ tạ 謝 mà chữ tạ là chữ ngôn 言 (nói), chữ thân 身 (mình) và chữ thốn 寸 (tấc) hợp lại mà thành.”

Nhưng sách Proverbs and Common Sayings from the Chinese của Arthur H. Smith (New York, 1965) cũng có chép chuyện trên đây đại khái như sau:

“Một vị thượng thư nọ xin cáo quan để về chung dưỡng cha mẹ (chung dưỡng 終 養 = nuôi lúc cuối đời) vì song thân đã quá già yếu. Hoàng đế Càn Long 乾隆 mới ra cho ông một câu đối, hứa rằng hễ ông đối được thì sẽ chuẩn y. Câu ra là:

- Thập khẩu tâm tư, tư thổ, tư hương, tư phụ mẫu.

十 口 心 思, 思 土, 思 鄉, 思 父 母.

Nghĩa là: Mười người (thì hết mười người) trong lòng (đều) nhớ, nhớ làng, nhớ đất, nhớ cha mẹ (Xin nhớ rằng khẩu còn có nghĩa là người). Nhưng đây cũng là một câu đối có chiết tự vì thập khẩu tâm tư còn có nghĩa là: chữ thập 十,chữ khẩu 口 và chữ tâm 心 hợp lại thành chữ tư 思.

Vị thượng thư nọ đã đối lại như sau:

- Thốn thân ngôn tạ, tạ thiên, tạ địa, tạ quân vương.

寸 身 言 謝, 謝 天, 謝 地, 謝 君 王.

Nghĩa là: Tấc thân (= tấm thân hèn mọn này) xin nói lên lời tạ (ơn), tạ trời, tạ đất, tạ nhà vua. Phần chiết tự của câu này cũng rất đặc sắc. Thốn thân ngôn tạ còn có nghĩa là: chữ thốn 寸, chữ thân 身 và chữ ngôn 言 hợp thành chữ tạ 謝.

Xin nhận xét rằng lời dịch của Arthur H. Smith và của Phong Châu đều có những chỗ không thỏa đáng. Smith đã dịch Thập khẩu tâm tư 十 口 心 思 thành “mười cái miệng và một trái tIm làm thành sự suy nghĩ” (ten mouths and one heart constitute reflection – Sđd, tr. 58). Dịch như thế thì chẳng còn gì là chiết tự. Đồng thời Smith chỉ dịch theo kiểu chiết tự mà lại không dịch mấy tiếng Thập khẩu tâm tư 十 口 心 思 theo nghĩa của toàn câu. Vậy làm sao nêu bật được tinh thần nhân văn sâu sắc trong câu xuất của hoàng đế Càn Long? Còn Phong Châu thì dịch cả câu thành “mười miệng, bụng nghĩ, nghĩ nước, nghĩ nhà, nghĩ cha mẹ”. Thập khẩu tâm tư mà dịch thành “mười miệng, bụng nghĩ” thì có khác gì dịch hôtel de ville (tòa thị chính) thành “khách sạn thành phố”!. Hơn nữa tư 思 ở đây có nghĩa là nhớ, chứ cũng không phải là “nghĩ”. Hoàng đế Càn Long thì nói lên nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ cha mẹ của vị thượng thư còn ông này thì muốn bày tỏ lòng tri ân của mình đối với trời, đất và thiên tử. Đồng thời ông cũng khéo léo nói lên lời từ biệt của mình – ông đã đối lại rất hay nên lẽ nào vua lại không cho về? – vì chữ tạ còn có nghĩa là “từ biệt”.

§ 227. Kiến thức ngày nay, số 166, ngày 1 -3-1995

Hỏi: Khi dẫn lời của người khác, nhất là những người có tiếng tăm, ta nên cẩn thận hơn và nên kiểm soát lại xem đã đủ tin cậy chưa, vì lẽ rất giản dị là tài liệu của những vị này dễ được độc giả chấp nhận, nhưng một khi có sai sót thì rất bất lợi cho sự hiểu biết của độc giả. Thí dụ, ở mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 134, trả lời cho một nữ độc giả về truyện Chử Đồng Tử, ông An Chi đã chép lời kể trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức mà lời kể này có nhiều đoạn chưa chính xác.

1. VNTĐ kể: “Hễ cha là Chử Phù Vân mặc khố thì con là Chử Đồng Tử phải trầm mình dưới nước hay ngược lại”. Nguyễn Đổng Chi thì viết: “Chiếc khố độc nhất dùng để làm vật che thân cho cả hai mỗi lần ra ngoài. Khi người này mang khố thì người kia phải chịu cởi truồng nằm co để đợi đến lượt mình”. (Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập I, Nxb. Văn Nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 148).

Viết như Nguyễn Đổng Chi hợp lý hơn, vì làm sao trầm mình dưới nước ngày nọ qua ngày kia được.

2. VNTĐ kể: “Từ đấy, Chử Đồng Tử sống cuộc đời khốn-khổ trần-truồng cứ gìm mình dưới nước che thân và ăn xin ở các thuyền qua lại”. Nhưng Nguyễn Đổng Chi lại viết: “Từ đó Chử Đồng Tử phải làm việc về ban đêm. Cứ đến chiều hôm,… anh bắt đầu ra bãi câu cá … cũng có lúc không câu được gì cả, đành phải men theo các thuyền xin ăn” (Sđd, tr. 150).

Lời kể của Nguyễn Đổng Chi hợp lý hơn vì Chử Đồng Tử có nghề câu cá, lại là một hiếu tử, chẳng lẽ chịu nhục nhã đi ăn xin hoài.

3. VNTĐ kể. “Ngày kia nhân vắng người, Chử lên bãi cát ngồi phơi nắng cho đỡ lạnh; bỗng có đoàn thuyền của công chúa Tiên Dung… Chử bèn lật đật cào cát núp mình xuống dưới… Vô tình, công chúa truyền căng màn nơi đó để công chúa tắm mát”. Nguyễn Đổng Chi viết: “Một hôm, Đồng Tử đang mang cá đổi gạo thì chợt có tiếng huyên náo… Chử Đồng Tử bí lối không về lều được… Bỗng nghĩ ra được một kế giấu mình kỹ hơn là bới cát thành một cái huyệt rồi nằm xuống, tự vùi mình lại” (Sđd, tr. 151).

Công chúa đi trên thuyền chơi trên sông mà phải tắm mát thì hẳn tiết trời không lạnh, nếu không nói là nóng bức, thế thì làm gì Chử Đồng Tử phải phơi nắng cho đỡ lạnh. Nguyễn Đổng Chi viết là “đang đi đổi cá lấy gạo” có phần hợp lý hơn. Vả lại, bãi Tự Nhiên rộng mênh mông, lại không có người ở, lúc nào cũng vắng tanh, thì chi tiết “nhân vắng người” lại ngụ ý là lúc đông người là không sát với thực tế.

4. VNTĐ kể. “Binh triều kéo đến đóng tại bãi Tự Nhiên (thuộc phủ Khoái Châu, Hưng Yên) đối diện với cung điện Chử Đồng Tử”.

Bãi Tự Nhiên thuộc xã Tự Nhiên, phủ Thường Tín, Hà Đông, ở hữu ngạn sông Hồng, chứ không phải thuộc phủ Khoái Châu, Hưng Yên.

5. An Chi viết: “Cha của Chử Đồng Tử là Chử Phù Vân” (Kiến thức ngày nay, số 134, tr. 88, c.3). Theo Nguyễn Đổng Chi thì là Chử Cù Vân (Sđd, tr. 149) phù hợp với tên mà địa phương (tổng Mễ Sở, Khoái Châu, Hưng Yên) thường gọi.

6. An Chi Viết: “Địa danh có liên quan đến sự tích Chử Đồng Tử là Chử Xá, xưa là tên xã, nay là tên thôn thuộc xã Văn Đức huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội” (Kiến thức ngày nay, số 134, tr. 89, c.1).

Hiện nay huyện Văn Giang (huyện kế cận của huyện Khoái Châu về hướng Bắc) đã được sáp nhập với huyện Khoái Châu thành huyện Châu Giang. Ngay từ làng Phù Trạch (của huyện Khoái Châu cũ, tiếp giáp với huyện Văn Giang) đến bãi Tự Nhiên khoảng 30km. Dù Chử Xá ở cuối huyện Gia Lâm tiếp giáp với Châu Giang đi nữa, thì khoảng cách từ đó đến bãi Tự Nhiên cũng khoảng 10km. Như thế thì hàng ngày làm nghề câu cá Chử Đồng Tử làm sao có thể di chuyển 20km đi về? Do đó, có lẽ Chử Xá là tên gọi của một thôn nào đó nằm tiếp giáp với xã Phú Trạch, phủ Khoái Châu cũ.

Học giả An Chi giải đáp: Xin trả lời hai vị Hiếu Thiện và An Đạo như sau. Sở dĩ chúng tôi chọn lời kể trong Việt Nam tự điển (VNTD) của Lê Văn Đức chứ không chọn lời kể trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (KTTCTVN) của Nguyễn Đổng Chi là vì: – Lời kể trong VNTĐ có tính chất tóm tắt nên ngắn gọn và phù hợp hơn với khuôn khổ của mục Chuyện Đông chuyện Tây; – Vào thời điểm của Kiến thức ngày nay, số 134 (15-3-1994) thì KTTCTVN vừa mới được tái bản; chẳng những thế, lại còn được nhiều nhà xuất bản khác nhau in đi, in lại nên nói chung là dễ tìm thấy còn VNTĐ thì trở nên quá hiếm hoi (nên chúng tôi muốn giới thiệu với bạn đọc); – Chúng tôi muốn dẫn lời kể trong VNTĐ một phần cũng để chứng minh sự khẳng định của mình rằng “Truyện Chử Đồng Tử có những lời kể khác nhau” (chứ không phải chỉ có lời kể của Nguyễn Đổng Chi là lời kể đã được nhiều người biết đến hơn). Nhưng sở dĩ chúng tôi đã lựa chọn như thế, là vì hai lý do chủ yếu sau đây: – Nguyễn Đổng Chi đã phối hợp nhiều dị bản khác nhau thành một lời kể cá nhân trong đó có các tình tiết đã được cố ý sắp xếp lại cho chặt chẽ theo luận lý nên không còn giữ lại được lối kể ngây thơ dân dã của riêng từng dị bản; – Lời kể của Nguyễn Đổng Chi có một số chỗ không đúng về kiến thức lịch sử nên nếu được dẫn ra thì nó sẽ “rất bất lợi cho hiểu biết của độc giả”, nhất là khi người được dẫn lại là người có tiếng tăm, đúng như quý vị đã viết. Xin trình bày chi tiết như sau:

1. Maurice Durand, trong bài điểm sách “Nguyễn Đổng Chi – Trésor des contes vietnamiens” (B.E.F.E.O., no 1, 1964, pp. 223 – 224 – đã được in lại vào cuối KTTCTVN, tập I do Viện Văn học ấn hành năm 1993, tr. 489 – 493) đã nhận xét về KTTCTVN, tập I, rằng: “Nó bộc lộ một điều bất tiện là các truyện cổ tích và truyền thuyết được thuật lại bằng dị bản của tác giả mà dị bản này thường phối hợp nhiều dị bản khác nhau”*. Đúng như nhận xét chung của M. Durand, “sự tích đầm Nhất-Dạ và bãi Tự-Nhiên” trong KTTCTVN, tập I, không phải đã được thuật lại từ một dị bản duy nhất. Cứ theo cước chú của chính tác giả thì ông đã thuật lại truyện này theo lời kể trong Lĩnh Nam chích quái. Nhưng Lĩnh Nam chích quái (cả bản dịch của Lê Hữu Mục ở Sài Gòn lẫn bản dịch của Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San ở Hà Nội) đã chép tên người cha là Chử Vi Vân còn Nguyễn Đổng Chi thì lại kể là Chử Cù Vân. Hoặc nữa, như Lĩnh Nam chích quái hoàn toàn không có những tình tiết sau đây: “Thuyền của Tiên Dung vừa nhổ neo ra về thì một người em gái của nàng đã lén sai người đầy tớ trung thành, hỏa tốc báo tin không hay đó (tin vua cha cho phép Lạc tướng chém Tiên Dung trước rồi tâu sau – AC) cho nàng biết. Nàng nhận tin với một vẻ lo ngại. Nàng đã biết tính vua cha khi thương thì thương rất mực mà khi giận cũng có thể đang tay được. Hai vợ chồng cùng nhau bàn bạc. Cuối cùng, nàng hội họp tất cả những người dưới quyền mình lại rồi nói rõ ý định: “Vua cha nay không thương ta nữa, vậy vợ chồng ta quyết định không về. Cho các ngươi được về với cha ta và về với bà con làng nước”.

Đoạn trên đây chắc là do Nguyễn Đổng Chi lấy từ một dị bản khác hoặc do ông nghĩ ra. Chúng tôi không cho rằng đây là việc nên làm và hoàn toàn tán thành điều gợi ý sau đây của M. Durand: “Phải chăng tốt hơn là nên trao cho độc giả những dị bản thu thập được ngay từ gốc mà không cần chỉnh lý gì”*.

2. Lời kể của Nguyễn Đổng Chi có một số chỗ không đúng về kiến thức lịch sử. Chẳng hạn, ông đã kể: “Mấy tên quân lính do thám về báo cho vua biết nào quân lính (của Chử Đồng Tử và Tiên Dung – AC) đông hàng mấy vạn, nào giáp sắt trống đồng tề chỉnh, nào nhân dân quy phục mỗi ngày một đông… Chúng quả quyết rằng hai vợ chồng công chúa không có gì hơn là muốn rạch đôi sơn hà với thiên tử (Chúng tôi nhấn mạnh – AC)”. Ai có quan tâm đến cổ sử nước nhà hẳn cũng biết rằng chức vị vua/vương trong danh xưng Vua Hùng/Hùng Vương cũng na ná như chức vị rex trong xã hội La Mã cổ đại hoặc chức vị basileus trong xã hội Hy Lạp thời đó. Tuy cả hai danh từ đó đều được dịch thành “vua” nhưng rex hoặc basileus là một chức thủ lĩnh tối cao chứ tuyệt đối không phải là ông vua chuyên chế. Vậy làm sao có thể gọi vua Hùng là “thiên tử” được? Hơn nữa vào thời Hùng Vương, người Lạc Việt làm gì đã chịu ảnh hưởng ý thức hệ đế quyền của Trung Hoa mà có khái niệm “Thiên tử”! Lời kể này đã vi phạm hai trong ba tính chất của truyện cổ tích do chính Nguyễn Đổng Chi nêu ra: một là tính chất cổ thể hiện ở phong cách cổ, hai là tính dân tộc thể hiện ở chỗ các tình tiết không có gì xa lạ với bản sắc dân tộc (Xem KTTCTVN, tập I, phần thứ nhất, mục I4). Nguyễn Đổng Chi còn dùng thành ngữ rạch đôi sơn hà nhưng đây lại là một lối nói dùng để chỉ việc cát cứ trong thời đại chế độ phong kiến trung ương tập quyền. (Truyện Kiều: Triều đình riêng một góc trời, Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà). Nguyễn Đổng Chi đã để cho vua Hùng nói như sau: “Hễ nó (Tiên Dung – AC) vác mặt về Phong Châu thì cho phép Lạc tướng chém chết trước, tâu sau”. Việc “Tiền trảm, hậu tấu” cũng không phải là một thứ định lệ đã có từ thời Hùng Vương được. Nguyễn Đổng Chi còn để cho quân lính của vua Hùng bắc cầu phao qua sông. Chúng tôi không tin rằng ở thời Hùng Vương người ta đã thực hiện được kỹ thuật công binh xem ra có vẻ “đơn giản” này. Xin nhấn mạnh rằng “Sự tích đầm Nhất – Dạ và bãi Tự – Nhiên” là một truyện cổ tích lịch sử nên nó không thể dung nạp những yếu tố có tính chất phản niên đại (anachronique) được mặc dù, như chính Nguyễn Đổng Chi đã viết: “Nghệ thuật cổ tích cho phép tác giả bịa đặt mọi tình tiết, thậm chí bịa đặt những tình tiết không hợp lý” (KTTCTVN, tập 1, phần thứ nhất, mục I3).

Trở lên là lý do vì sao chúng tôi không dẫn KTTCTVN mà lại dẫn VNTĐ. Bây giờ xin trả lời những điểm cụ thể mà quý vị đã góp ý. Nói chung những tình tiết “không hợp lý” trong VNTĐ mà quý vị đã nêu thì lại là những tình tiết mà ngay cả Nguyễn Đổng Chi, về nguyên tắc, cũng đã thừa nhận là được phép “bịa đặt” như chúng tôi vừa dẫn ra ở đoạn trên.

Đúng như vậy, đã nói đến cổ tích thì đương nhiên phải chấp nhận các yếu tố thần kỳ hay phi thường hoặc dị thường, kể cả việc trầm mình ở dưới nước hết ngày này qua ngày khác. (Nhưng thực ra trong lời kể của VNTĐ thì không có một nhân vật nào phải trầm mình dưới nước quanh năm suốt tháng mà chỉ có cha và con thay phiên nhau khi con hoặc cha được đóng khố. Nguyên văn là: “Hễ cha là Chử Phù Vân mặc khố thì con là Chử Đồng Tử phải trầm mình dưới nước hay ngược lại”). Sự khác nhau giữa lời kể trong VNTĐ với lời kể trong KTTCTVN thực chất chỉ là sự khác nhau giữa các dị bản. Riêng về điểm 3 mà quý vị đã nêu thì xin nói rằng việc công chúa muốn tắm mát trong khi Chử Đồng Tử ngồi phơi nắng cho đỡ lạnh không có gì mâu thuẫn với nhau. Chử Đồng Tử phải ngâm mình dưới nước quá lâu nên có thể thấm lạnh, điều này không có gì nghịch lý.

Về vị trí của bãi Tự – Nhiên, thì cứ theo ngay lời kể của chính Nguyễn Đổng Chi, nó nằm cùng một bên sông với đầm Nhất Dạ. Chính vì vậy mà VNTĐ mới định vị cho nó ở phủ Khoái Châu, Hưng Yên.

Cuối cùng, quý vị cho rằng “Chử Xá” có lẽ là tên của một thôn nào đó nằm tiếp giáp với xã Phú Trạch, phủ Khoái Châu cũ mà không muốn thừa nhận rằng đó là tên một xã xưa, nay là tên thôn thuộc xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội, như chúng tôi đã nêu. Lý do của quý vị là Chử Đồng Tử làm nghề câu cá nên không thể hàng ngày di chuyển 20km vừa đi vừa về nếu Chử Xá ở vị trí mà chúng tôi đã nêu chứ không ở vị trí mà quý vị giả định. Vị trí của Chử Xá mà chúng tôi nêu là căn cứ vào hai tài liệu hoàn toàn đáng tin cậy sau đây: Bùi Thiết, Làng xã ngoại thành Hà Nội, Hà Nội, 1985 và Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (Các tổng trấn xã danh bị lãm) do Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn, Hà Nội, 1981, như đã nêu rõ ở Kiến thức ngày nay, số 134, trang 89. Còn vị trí mà quý vị giả định chỉ là kết quả của ý muốn hợp lý hóa một tình tiết “vô lý” trong truyện cổ tích. Mà thực ra, tình tiết đó cũng không vô lý chút nào. Chúng tôi được biết có những người dân ngoại ô Sài Gòn trước 1945 đã đi bộ đi làm buổi sáng từ Gò Vắp hoặc Thủ Đức vào thành phố rồi buổi chiều đi ngược lại lộ trình đó để về nhà mà vẫn đi làm được đều đặn quanh năm. Người phàm mà còn làm được như thế thì lo gì người trong truyện cổ tích như Chử Đồng Tử lại không đi được 20km vừa đi vừa về mỗi ngày.

§ 228. Kiến thức ngày nay, số 167, ngày 10-3-1995

Hỏi: “Trai tứ chiếng, gái giang hồ”: tứ chiếng là gì?

Học giả An Chi giải đáp: Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, quyển hạ, ph.II, đã giảng câu đó như sau: “Trai phải đi lính, luôn luôn được đi thú khắp bốn trấn ở Bắc Hà ngày xưa là Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương và Sơn Tây. Gái thì đảm đang việc gia đình, phải đi mua bán khắp nơi, khi thì ngồi thuyền, khi thì trẩy bộ (nghĩa thông thường): 1. Đủ hạng người từ các nơi tựu lại làm ăn đông đúc; 2. Rất xứng đôi, trai thì lão luyện, gái già dặn.”

Tứ chiếng đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm dịch thành bốn chiếng như có thể thấy ở câu sau đây trong thơ quốc âm của ông:

Dại nhơn nhơn bốn chiếng hay*

Hai tiếng bốn chiếng đã được sách trên chú giải như sau: “tức là tứ chiếng, bốn trấn quan trọng chung quanh Đông Đô: Trấn Kinh Bắc (trấn Bắc), trấn Sơn Nam (trấn Nam), trấn Sơn Tây (trấn Đoài) và trấn Hải Dương (trấn Đông). Đó là bốn chính trấn (tứ chính trấn, gọi tắt là tứ chính. Sau người ta đọc chệch tứ chính thành tứ chiếng)”.

Thực ra, chẳng phải đợi đến khi có “tứ chính trấn” thì cụm từ này mới được nói tắt thành tứ chính vì hai tiếng này đã tồn tại sẵn từ lâu trong tiếng Hán mà âm Hán Việt xưa là tứ chiếng, biết rằng iêng ~ inh, như: – (trống) chiêng ~ chinh; – (đau) điếng ~ đính 酊 (say đến không còn biết gì); – kiềng (ba chân) ~ kình 擎 (giá đèn, chân đèn); 一 (thiêng) liêng ~ linh (thiêng), v.v.. Tứ chiếng 〜tứ chính 四正 đã được Từ hải giảng như sau: “Tức là bốn phương hướng căn bản. Xem mục cơ bản phương vị”. Còn mục cơ bản phương vị thì được giảng như sau: “Tức bốn hướng Đông, Nam, Tây, Bắc vậy. Còn gọi là tứ chính”. Chính Việt Nam tự điển quyển hạ, ph.I, đã giảng hai tiếng tứ chiếng đúng với nghĩa gốc của nó là: “tứ xứ, bốn phương” và cho ví dụ bằng câu ca dao như sau:

Trai tứ chiếng, gái giang hồ

Gặp nhau làm nổi cơ đồ cũng nên.

Vậy trai tứ chiếng là trai đã từng trải khắp bốn phương trời hoặc trai từ bốn phương tụ lại, đúng với nghĩa thông thường 1 và 2 của Việt Nam tự điển.

§ 229. Kiến thức ngày nay, số 167, ngày 10-3-1995

Hỏi: Câu “Hãy trả cho Cæsar những gì của Cæsar” do ai nói và nói trong trường hợp nào?

Học giả An Chi giải đáp: Đó là câu mà chúa Jesus đã nói với những người Pha-ri-si (Pháp: pharisien) được ghi lại trong kinh Tân Ước, sách Ma-thi-ơ, đoạn 22, câu 21. Câu này nằm trong mẩu chuyện “Đức Chúa trời và Sê-sa”.

Chuyện như sau: “Bấy giờ người Pha-ri-si đi ra bàn luận với nhau, để kiếm cách bắt lỗi Đức Chúa Jesus về lời nói. Họ sai môn đồ mình với đảng vua Hê-rốt đến thưa cùng Ngài rằng: Lạy thầy, chúng tôi biết thầy là thật và theo cách thật mà dạy đạo của Đức Chúa Trời, không tư vị ai; vì thầy không xem b ề ngoài của người ta. Vậy xin thầy nói cho chúng tôi, thầy nghĩ như thế nào: có nên nộp thuế cho Sê-sa (tức Cæsar – AC) hay không? Đức Chúa Jesus biết ý xấu của họ bèn đáp rằng: Hỡi kẻ giả hình, sao các ngươi thử ta? Hãy đưa cho ta xem đồng tiền nộp thuế. Họ đưa cho Ngài một đơ-ni-ê. Ngài bèn phán rằng: Hình và hiệu này của ai? Họ trả lời rằng: Của Sê-sa. Ngài bèn phán rằng: Vậy hãy trả cho Sê-sa vật gì của Sê-sa; và trả cho Đức Chúa Trời vật gì của Đức Chúa Trời. Họ nghe lời ấy, đều bợ ngợ, liền bỏ Ngài mà đi”.*

§ 230. Kiến thức ngày nay, số 168, ngày 20-3-1995

Hỏi: Tại sao “a đổ” hoặc “a đổ vật” lại là tiền?

Học giả An Chi giải đáp: A đổ 阿 堵 là một đại từ chỉ thị có nghĩa là “này”, “cái này”, do đó a đổ vật 阿 堵 物 mới có nghĩa là “vật này” và là một từ tổ trong đó a đổ là định ngữ. Đó là một lối nói của thời Lục triều (Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần) và thời nhà Đường. Từ điển có cho một số thí dụ về lối nói này nhưng thí dụ có liên quan đến câu hỏi của ông là ở truyện Vương Diễn trong sách Tấn thư. Truyện rằng Vương Diễn vốn thanh liêm, không bao giờ mở miệng nói đến tiếng “tiền”. Vợ muốn trêu chồng nên một hôm mới sai đầy tớ gái đem tiền rải chung quanh giường nằm của họ Vương lúc ông đang ngủ say. Sáng hôm sau thức giấc, nhìn thấy cảnh tượng đó, Vương Diễn vô cùng lúng túng. Không biết làm sao bước khỏi giường, ông ta bèn gọi đầy tớ gái đến rồi chỉ vào tiền mà bảo: “Hãy đem cái vật này (a đổ vật) đi chỗ khác”. Từ câu chuyện trên, người ta mới mượn mấy tiếng a đổ vật để chỉ tiền một cách châm biếm hoặc hài hước.

Về sau, a đổ vật còn có một biến thể là a vật 阿 物. Hai tiếng a vật đã trở thành một đơn vị từ vựng được sử dụng trong bạch thoại. Các quyển từ điển như: Từ nguyên, Từ hải không thâu thập từ này nhưng Tiểu thuyết từ ngữ hội thích do Ban biên tập của Trung Hoa thư cục (Đài Loan) biên soạn (Đài Loan, 1968) thì ghi rõ rằng a vật cũng còn nói thành a vật nhi 阿 物 兒 có nghĩa là đồ (vật) và dùng để chỉ người (tựa như tiếng Việt, người ta cũng dùng từ đồ để chỉ người, thí dụ: đồ lười, đồ hư thân mất nết…). Chẳng hạn, trong Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, hồi 42, có câu: “Ngã dã lão liễu, nã lý dưỡng bất xuất nã a vật lai, hoàn phạ tha bất thành”.

Nghĩa là: “Ta cũng già rồi, không đẻ ra được cái đồ đó hay sao mà còn sợ nó?”

Hoặc hồi 58 có câu: “Liên ngã môn đích da hoàn thủ quy củ ni, nhĩ thị thập ma a vật nhi, bào lai hồ náo?”

Nghĩa là: “Đến cậu chúng tao đây (cũng) còn giữ nề nếp, mày là cái đồ gì mà đến đây làm xằng?”

Tóm lại, do liên hệ đến truyện Vương Diễn trong Tấn thư, người ta mới dùng mấy tiếng a đổ vật để chỉ tiền; bản thân hai tiếng a đổ chỉ có nghĩa là “này”, “cái này” còn từ tổ a đổ vật cũng chỉ có nghĩa là “vật này” mà thôi.

§ 231. Kiến thức ngày nay, số 168, ngày 20-3-1995

Hỏi: Trong số đếm của tiếng Pháp, từ số 1 đến số 100, tới số 70, 80 và 90 là soixante-dix, quatre-vingts, quatre-vingt-dix… Đọc các số đếm này ta tưởng chừng như đọc phép toán cộng (60 + 10 = 70), toán nhân (4 ⨯ 20 = 80), vừa nhân, vừa cộng (4 ⨯ 20 + 10 = 90). Xin nhờ ông An Chi giải thích xem tại sao người Pháp có số đếm khéo như vậy?

Học giả An Chi giải đáp: Ông có nhận xét rằng khi đọc các số đếm của tiếng Pháp mà ông vừa nêu ta tưởng chừng như mình đang đọc phép cộng, phép nhân hoặc vừa nhân vừa cộng. Thực ra trong tiếng Việt và các thứ tiếng khác cũng có hiện tượng đó. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, mười hai, mười ba, mười bảy, v.v., là những phép cộng: 10 + 2, 10 + 3, 10 + 7; hai mươi, ba trăm, chín ngàn, v.v., là những phép nhân: 2 ⨯ 10, 3 ⨯ 100, 9 ⨯ 1000; năm mươi ba, chín trăm lẻ bốn, hai ngàn không trăm mười lăm, v.v., là vừa nhân vừa cộng: (5 ⨯ 10) + 3; (9 ⨯ 100) + 4, (2 ⨯ 1000) + 15. Trong tiếng Hán, thập tam, thập tứ, thập bát… là những phép cộng: 10 + 3; 10 + 4; 10 + 8; nhị thập, tam bách, tứ thiên là những phép nhân: 2 ⨯ 10, 3 ⨯ 100, 4 ⨯ 1000 còn nhị thập tứ, tam thập bát, cửu thập lục… là vừa nhân vừa cộng: (2 ⨯ 10) + 4; (3 ⨯ 10) + 8; (9 ⨯ 10) + 6. Trong tiếng Anh cũng thế: forty-one (41), sixty-nine (69), ninety-five (95), v.v., là những phép cộng: 40 + 1; 60 + 9; 90 + 5. Còn one hundred (100) thì đã là phép nhân: 1 ⨯ 100 (cũng y như thế trong tiếng Việt: một trăm = 1 ⨯ 100). Rồi four hundred and nine (409), eight hundred and seventy-two (872), là vừa nhân vừa cộng: (4 ⨯ 100)+ 9; (8 ⨯ 100) + 70 + 2…

Ngoài ra, có khi người ta còn trừ để đếm nữa, chẳng hạn trong tiếng La Tinh: duodetriginta (28) là hai (duo) trừ ra khỏi (de) ba mươi (triginta), undequadraginta (39) là một (un) trừ khỏi (de) bốn mươi (quadraginta), undecentum (99) là một (un) trừ đi khỏi (de) một trăm (centum), v.v.. Cũng do lối trừ đi này mà số La Mã mới có những cách ghi chẳng hạn: IV cho 4 (hiểu là một trừ đi khỏi năm), IX cho 9 (hiểu là một trừ đi khỏi mười), XL cho 40 (hiểu là mười trừ đi khỏi năm mươi – L = 50), XC cho 90 (hiểu là mười trừ đi khỏi một trăm – C = 100), CD cho 400 (hiểu là một trăm trừ đi khỏi năm trăm – D = 500) hoặc CM cho 900 (hiểu là một trăm trừ đi khỏi một ngàn – M = 1000).

Đó là còn chưa kể đến những phép cộng hoặc những phép nhân không nhìn thấy được nữa. Trong tiếng Pháp: onze (11), douze (12), treize (13), v.v., là những phép cộng như thế vì onze là do tiếng La Tinh undecIm có nghĩa là một với mười (un = 1, decIm = 10), douze là do L. thông tục dodece (L. cổ điển duodecIm) có nghĩa là hai với mười (do/duo = 2, dece/decIm = 10) còn treize là do L. tredecIm có nghĩa là ba với mười (tre = 3), v.v..

Trong tiếng Anh eleven (11) và twelve (12) cũng là những phép cộng khó nhận ra: eleven có nghĩa gốc là một bị bỏ lại (với mười) còn twelve là hai bị bỏ lại (với mười). Từ 13 (thirteen) đến 19 (nineteen) thì đã dễ thấy hơn: đó là 3, 4, 5, v.v., + 10 (teen là tha hình – allomorph – của hình vị ten = 10). Về phép nhân khó nhận ra thì nhập/nhực 廾 (20), táp 卅 (30), trong tiếng Hán là những trường hợp như thế: nhập là một hình vị ríu của hai hình vị nhị thập (= 2 ⨯ 10) còn táp là hình vị ríu của hai hình vị tam thập (= 3 ⨯ 10). Tương tự, trong tiếng Việt, ham/hăm, bam/băm của khẩu ngữ cũng là những hình vị ríu của các hình vị hai mươi, ba mươi.

Vậy các hiện tượng mà ông đã nêu không phải là riêng cho tiếng Pháp và ngay trong tiếng Pháp thì cũng không phải chỉ có soixante-dix, quatre-vingts và quatre-vingt-dix mới là những trường hợp như thế. Dix-sept (17), dix-huit (18), dix-neuf (19), v.v., cũng là những phép cộng: 10 + 7, 10 + 8, 10 + 9; deux cents (200), quatre mille (4000), un million (1.000.000) là những phép nhân: 2 ⨯ 100, 4 ⨯ 1000, 1 ⨯ 1.000.000 còn deux cent dix (210), deux mille deux cent cinquante (2250), v.v., là vừa nhân, vừa cộng: (2 ⨯ 100) + 10; (2 ⨯ 1000) + (2 ⨯ 100) + 50 v.v..

Tuy nhiên, hai trường hợp sau trong ba trường hợp mà ông đã nêu lại có một điểm bất thường so với cách đếm trong nhiều ngôn ngữ quen thuộc khác. Trong hai trường hợp đó (quatre-vingts và quatre-vingt-dix), người ta thấy được bội số của 20 chứ không phải là của 10. Sở dĩ như thế là vì ngày xưa tổ tiên của người Pháp đã theo hệ đếm nhị thập phân (vicésImal) thông dụng và phổ biến tại xứ Gaule trước khi xứ này bị người La Mã chinh phục. Sau khi Cæsar chinh phục xứ này thì người Gaulois dần dần từ bỏ tiếng mẹ đẻ của họ để nói tiếng La Tinh. Nhưng họ đã không bỏ ngay cách đếm nhị thập phân của tổ tiên họ mà chuyển phương thức đếm đó vào tiếng La Tinh nói tại xứ Gaule rồi hai cách đếm của người La Mã và của người Gaulois đã song song tồn tại trong suốt thời Trung đại. Do đó người ta có thể nói: trente et deux (ba mươi và hai) hoặc vingt et douze (hai mươi và mười hai) cho 32; quarante et trois (bốn mươi và ba) hoặc deux vingt et trois (hai hai chục và ba) cho 43; cent cinquante et huit (một trăm năm mươi và tám) hoặc sept vingts et dix-huit (bảy hai chục và mười tám) cho 158; cent vingts (một trăm hai mươi) hoặc six-vingts (sáu hai chục) cho 120; trois cents (ba trăm) hoặc quinze-vingts (mười lăm hai chục) cho 300. Những văn bản viết tay ngày xưa vẫn được đánh số trang theo hệ đếm nhị thập phân. Chẳng hạn để đánh số trang 138 người ta đã ghi VI.XX.XVIII (= 6 lần 20 cộng 18). Ở Paris, nay còn có bệnh viện mang tên là Quinze-Vingts (15 ⨯ 20) vì là nơi vốn do Thánh Louis tạo lập để đón tiếp 300 người.

Cuối cùng xin nói thêm với ông rằng ngày xưa ngoài soixante-dix, quatre-vingts và quatre-vingt-dix, tiếng Pháp còn có setante/septante để chỉ 70, oitante/huitante để chỉ 80 và nonante để chỉ 90 trong đó chúng ta cũng thấy được hình vị -ante như đã thấy trong quarante (40), cinquante (50) và soixante (60).

§ 232. Kiến thức ngày nay, số 168, ngày 20-3-1995

Hỏi: Từ trước đến nay mỗi dịp Tết, đến nhà các bạn người Hoa chúc Tết, tôi vẫn thấy người ta viết hoặc dán trong nhà chữ phúc 福. Thế nhưng hôm xem phIm “Ăn tết” của Trung Quốc (do Đài truyền hình Đà Nẵng phát hôm mồng 5 tháng Giêng ÂL) tôi thấy nhà ông Ty (nhân vật chính trong phIm có dán bên phải chữ 福 , bên trái chữ ). Xin hỏi chữ là chữ gì vậy? Đọc như thế nào? Có ý nghĩa gì không? Ông Ty cố ý viết lộn hay ông ta chơi chữ?

Học giả An Chi giải đáp: Chữ đó cũng chính là chữ phúc 福 nhưng dán (hoặc treo) ngược, tiếng Bắc Kinh gọi là fú dào (ghi theo lối pīnyīn hiện nay) nghĩa là chữ Phúc lộn ngược. Nhưng fú dào trong tiếng Bắc Kinh lại đồng âm với phúc đáo 福 到, nghĩa là phúc đến (nhà) mà âm Bắc Kinh cũng là fú dào (trong tiếng Bắc Kinh, chữ đảo và chữ đáo đều đọc là dào). Vì vậy người ta thích treo hoặc dán chữ Phúc lộn ngược, xem đó là một dấu hiệu tốt lành về hạnh phúc. Bảo rằng đó là do cố ý viết (dán hoặc treo) ngược thì cũng đúng mà bảo rằng đó là chơi chữ cũng không sai vì sự treo (hoặc dán) ngược đó chính là một hình thức… chơi chữ.

Về chữ Phúc ngược này, xin mời xem thêm bài “Chữ phúc dán ngược, một phong tục độc đáo của người Trung Hoa” của Trần Bình, đăng trên Kiến thức ngày nay, số Xuân Quý Dậu, trang 62 – 63. Mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số Xuân Giáp Tuất, trang 80 cũng có nhắc lại nhân nói về sự sùng thượng hoặc sự kiêng kỵ bắt nguồn từ hiện tượng đồng âm.

§ 233. Kiến thức ngày nay, số 168, ngày 20-3-1995

Hỏi: “Cây thước vàng” (règle d’or) là cây thước gì?

Học giả An Chi giải đáp: Hẳn là bạn muốn chơi chữ nên mới dịch règle d’or là “cây thước vàng” (ghi chú cho một số bạn đọc khác: trong tiếng Pháp, règle có nghĩa gốc là cây thước, rồi nghĩa phái sinh là “quy tắc”). Còn nếu muốn dịch đúng thì đó là “quy tắc vàng (ngọc)”.

Règle d’or là một ẩn dụ mà người ta dùng để chỉ lời nói của Chúa Jesus, được ghi lại trong Kinh Tân ước, sách Matthieu, VII: 12, như sau:

“Ấy vậy, hễ đều (sic) chi mà các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì cũng hãy làm đều (sic) đó cho họ, vì ấy là luật pháp và lời tiên tri” (Bản dịch của Thánh Kinh Hội tại Việt Nam, Sài gòn, 1975).

§ 234. Kiến thức ngày nay, số 169, ngày 1 -4-1995

Hỏi: Hai câu:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

là của ai, trích từ bài thơ nào và có nghĩa là gì? Xin cho biết nguyên văn của toàn bài và lời dịch.

Học giả An Chi giải đáp: Đó là hai câu kết trong bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” 黃 鶴 樓 của Thôi Hiệu 崔顥 (cũng đọc là Hạo) đời Đường.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

日 暮 鄉 關 何 處 是

煙 波 江 上 使 人 愁

có nghĩa là:

Chiều xuống quê nhà ở chốn nao?

Trên sông khói sóng khiến ta sầu!

(Nhật mộ 日 暮 : ngày về chiều – hương quan 鄉 關 : cổng làng; dùng theo hoán dụ để chỉ quê hương).

Cứ theo nội dung của toàn bài thì Thôi Hiệu đã tức cảnh làm bài thơ trên tại Hoàng Hạc Lâu (Lầu Hoàng Hạc). Nơi đây, thi nhân đã có thể nhìn bao quát toàn cảnh vùng Vũ Xương 武昌 trong tiết trời đẹp đẽ. Dòng sông tạnh (tình xuyên 晴川) Trường Giang lặng lẽ trôi giữa hàng cây cối Hán Dương hiện rõ. Bãi Anh Vũ xanh rì lớp lớp cỏ thơm tươi tốt. Mở đầu bài thơ, tác giả đã nhắc lại sự tích truyền kỳ của Hoàng Hạc Lâu:

Người xưa đã cỡi hạc vàng đi

(昔 人 已 乘 黃 鶴 去

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ)

Theo Nam Tề thư 南齊書(phần “Châu Quận chí” 州郡志 , thì xưa có vị tiên là Tử An 子安 cỡi hạc vàng bay qua đây nhân đó có tên. Còn Hoàn Vũ ký 寰宇記 thì chép rằng Phí Văn Huy 费文挥 lên tiên, thường cỡi hạc vàng bay qua, nghỉ lại đây; nhân đó có tên. Nhưng dù vị tiên đó là ai thì đây cũng chỉ là chuyện truyền kỳ còn chuyện tả thực thì lại chính là nỗi lòng của Thôi Hiệu. Trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ và kỳ thú của huyện Vũ Xương 武昌,tỉnh Hồ Nam lúc về chiều, bất giác ông chạnh nhớ đến quê nhà ở tận huyện Khai Phong tỉnh Hà Nam mà thốt lên niềm thương nhớ quê hương, làm thành hai câu kết cho một bài thơ bất hủ. Mới biết chuyện tiên, cảnh tiên cũng không làm cho người ta thoát ly được thực tại của cuộc đời!

Nguyên văn cả bài thơ như sau:

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu

Hoàng hạc nhất khứ bấtphục phản

Bạch vân thiên tải không du du

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

昔 人 已 乘 黃 鶴 去

此 地 空 餘 黃 鶴 樓

黃 鶴 一 去 不 復 返

白 雲 千 載 空 悠 悠

晴 川 歷 歷 漢 陽 樹

芳 草 萋 萋 鸚 鵡 洲

日 暮 鄉 關 何 處 是

煙 波 江 上 使 人 愁

Mục Chuyện Đông chuyện Tây, trên Kiến thức ngày nay, số 148, trang 55, đã có giới thiệu ba bản dịch bài thơ trên đây ra tiếng Việt: một của Tản Đà bằng thơ lục bát, một của Trần Trọng KIm cũng bằng thơ lục bát và một của Nguyễn Quảng Tuân bằng thơ thất ngôn.

§ 235. Kiến thức ngày nay, số 169, ngày 1 -4-1995

Hỏi: Câu “Bất hoạn bần nhi hoạn bất quân” là của Khổng Tử hay Mạnh Tử? Nó được giảng dạy trong dịp nào (nếu có) và được ghi trong cuốn sách nào?

Học giả An Chi giải đáp: Câu đầy đủ là như sau: “Hữu quốc hữu gia giả, bất hoạn quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi hoạn bất an; cái quân vô bần, hòa vô quả, an vô khuynh”.

有 國 有 家 者, 不 患 貧 而 患 不 均, 不 患 寡 而 患 不 安 ; 蓋 均 無 寡, 和 無 寡, 安 無 傾

Nghĩa là:

“Người có nước có nhà, không lo ít mà lo không đều, không lo nghèo mà lo không yên. Thật vậy, đều thì không nghèo, hòa thì không ít, yên thì không nghiêng”.

Đây là lời của Đức Khổng Tử răn dạy thầy Nhiễm Hữu 冉有 và thầy Quý Lộ 季路, chép trong sách Luận ngữ 論語 , thiên “Quý thị” 李 氏 , chương thứ nhất. Hoàn cảnh dẫn đến lời răn trên đây đã được thuật rõ trong cả chương này. Xin chép lời dịch toàn chương như sau:

“Họ Quý sắp đánh nước Chuyên Du. Thầy Nhiễm Hữu và thầy Quý Lộ đến yết kiến Đức Khổng Tử, nói: “Họ Quý sắp có việc chinh phạt nước Chuyên Du.”

Đức Khổng Tử nói rằng: “Cầu (tức Nhiễm Hữu – AC)! Không phải lỗi của trò ư? Ôi! Nước Chuyên Du, Tiên vương đời xưa đã phong làm chủ tế tại núi Đông-mông, vả lại ở trong khu vực của nước nhà, đó là bầy tôi của xã tắc, sao lại đánh nước ấy?”

Thầy Nhiễm Hữu thưa: “Đó là thầy Quý-Tôn muốn như thế, chứ hai chúng tôi là kẻ gia thần đều không muốn.”

Đức Khổng Tử nói rằng: “Cầu! Sử thần Chu Nhâm nói: “Hết sức trình bày (đại nghĩa) thì nên giữ chức vị, nếu không thể can ngăn được thì nên thôi.” Ví như dẫn dắt người mù lòa, khi nguy, không giữ gìn được, khi nghiêng ngả, không nâng đỡ được; thì còn dùng người dẫn dắt giúp đỡ để làm gì? Vả lại lời nói của trò thật sai lầm. Con hổ, con trâu rừng xổ cũi ra; mai rùa và ngọc quý bị vỡ nát ở trong rương, đó là lỗi của ai?”

Thầy Nhiễm Hữu thưa: “Hiện nay, nước Chuyên Du có thành quách kiên cố, lại ở gần ấp Phí. Nếu nay không đánh lấy nước ấy, hẳn là mối lo cho con cháu đời sau.”

Đức Khổng Tử nói rằng: “Cầu! Người quân tử rất ghét kẻ che giấu lòng tham muốn của mình, lại nói đó là việc tất phải làm. Khưu này nghe nói người có nước, có nhà, không lo ít dân mà lo dân không đều, không lo nghèo mà lo không yên. Nếu dân đã đều thì không nghèo, đã hòa thì không ít, đã yên thì không nghiêng đổ. Như thế, nếu biết người ở xa không phục, hãy sửa văn đức để người ta đến với mình. Người ta đã đến thì làm cho người ta yên.”

“Nay trò Do (tức Quý Lộ – AC) cùng trò Cầu giúp phu tử họ Quý, biết người ở xa không phục, không hay làm cho người ta đến với mình, nước chia rẽ, lìa tan, không hay giữ gìn. Lại mưu toan dấy động can qua ở trong nước, ta sợ mối lo của con cháu họ Quý không tại nước Chuyên Du mà chính ở trong bức bình phong vậy.”*

“Ở trong bức bình phong”, nguyên văn tiếng Hán là tại tiêu tường chi nội 在 蕭 檣 之 内. Từ câu chuyện Đức Khổng Tử răn hai thầy Nhiễm Hữu và Quý Lộ này, mấy tiếng tiêu tường chi nội đã được dùng làm thành ngữ để chỉ chuyện phát sinh từ trong nội bộ. Nó còn có những biến thể cụ thể hơn là tiêu tường chi họa 蕭 檣 之禍 hoặc họa khởi tiêu tường 禍 起 蕭 檣 (tai họa phát sinh từ nội bộ).

Cuối cùng, chúng tôi xin cải chính một điểm trong lời dịch, nói cho đúng hơn là trong cách phiên âm của Lê Phục Thiện mà chúng tôi đã trích dẫn. Trong khi biện bạch với Đức Khổng Tử, Thầy Nhiễm Hữu có nhắc đến “ấp Phí”. Đây thực ra là ấp Bí. Chữ 費 có nhiều âm: phí, phất, phật và bí. Dùng để ghi tên ấp hữu quan của nước Lỗ, nó phải được đọc là Bí (trong “Bí ấp”, “Bí huyện”) vì thiết âm của nó trong trường hợp này, theo Từ nguyên và Từ hải, đều là “bỉ dị thiết, âm bí”. Cũng vì những sự nhầm lẫn tương tự mà nhiều người đã đọc Thân Thư Uất Luật 神 荼 鬱 壘 thành “Thần Đồ (hoặc Trà) Uất Lũy”(Xem Kiến thức ngày nay, số Xuân Giáp Tuất, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 79, 80), Triệu Giả 趙 嘏 , thành “Triệu Hỗ” (Xem Kiến thức ngày nay, số 140, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 53) v.v..

Vậy, xin sửa lại hai tiếng “ấp Phí” trong lời biện bạch của Nhiễm Hữu thành ấp Bí cho đúng.

§ 236. Kiến thức ngày nay, số 169, ngày 1 -4-1995

Hỏi: “Hoa” trong “Trung Hoa”, “người Hoa” bắt nguồn từ đâu và có ý nghĩa gì?

Học giả An Chi giải đáp: Trung Quốc xưa gọi là Hoa Hạ. Danh xưng này đã được ghi nhận trong Thư Kinh 經書, quyển thứ IV (Chu thư 周書), thiên “Vũ thành” 武成, câu “Hoa Hạ, Man, Mạch, võng bất suất bỉ” 華夏蠻貊 罔不率俾 nghĩa là “Từ đất Hoa Hạ đến đất Man, đất Mạch không đâu là không quy phục”. Người ta thường vẫn thích chú giải rằng hoa 華 là áo mão rực rỡ, đẹp đẽ còn hạ 夏 là đất nước rộng lớn (Miện phục thái chương viết hoa, đại quốc viết hạ 冕 服 来 章 曰 華, 大 國 曰 夏). Thực ra đó chỉ là giải thích theo lối suy diễn. Chúng tôi cho rằng cách giải thích của Chương Thái Viêm 章太炎 (Bỉnh Lân 炳麟, mới đúng với thực tế. Theo ông, người Trung Hoa phát tích từ châu Ung 雍(nằm trên đất Thiểm Tây, Cam Túc và Thanh Hải ngày nay) và châu Lương 梁 (nằm trên đất Thiểm Tây và Tứ Xuyên ngày nay) trên đó có núi Hoa (Hoa Sơn 華 山)là một trong Ngũ Nhạc nên mới lấy tên núi này làm tên nước (Xem Từ hải, mục “Hoa Hạ”). Hoa Sơn là một vùng núi hùng vĩ nằm ở phía Nam huyện Hoa Âm 華陰, tỉnh Thiểm Tây 陕西. Nó đã được người Trung Hoa xếp vào hàng Ngũ Nhạc 五嶽 (năm đỉnh núi cao) và được gọi là Tây Nhạc 西嶽, bên cạnh Thái Sơn 太山 (Đông Nhạc 東嶽) ở Sơn Đông 山東, Hành Sơn 衡山 (Nam Nhạc 南嶽) ở Hồ Nam 湖南, Hằng Sơn 恆山 (Bắc Nhạc 北嶽) ở Hồ Bắc 湖北 và Tung Sơn 嵩山 (Trung Nhạc 中嶽) ở Hà Nam 河南. Ngọn giữa của Hoa Sơn là Liên Hoa Phong 蓮花峰 (ngọn Hoa Sen), ngọn phía Đông là Tiên Nhân Chưởng 仙人掌 (Bàn tay của người tiên), ngọn phía Nam là Lạc Nhạn Phong 落雁峰 (ngọn Nhạn rơi). Ngoài ra còn có các ngọn Vân Đài 雲 臺 , Công Chúa 公主, Mao Nữ 毛女 , v.v., quây quần chung quanh ngọn giữa.

Nhà thơ Đỗ Phủ 杜 甫 có câu thơ: Chư phong la liệt tự nhi tôn 諸 峰 羅 列 似 兒 孫, nghĩa là: Các đỉnh bày quanh tựa cháu con.

Câu thơ trên đây của thi thánh họ Đỗ chính là nói về núi Hoa. Và cứ theo thuyết của Chương Thái Viêm 章太炎, mà chúng tôi cho là đúng đắn và khoa học, thì người Trung Hoa đã lấy tên núi này làm tên nước của họ từ thời viễn cổ. Còn cách chú giải danh từ đặc xưng hữu quan bằng những lời lẽ mỹ miều và khoa đại thường thấy, theo chúng tôi, chẳng qua chỉ là biểu hiện của một lối suy diễn thiếu căn cứ mà thôi.

§ 237. Kiến thức ngày nay, số 170, ngày 10-4-1995

Hỏi: Tôi có được đọc một bài viết trên một tuần báo, tác giả là một nhà điện ảnh người Quảng Nam sống và làm việc tại Hà Nội. Trong bài, tác giả có nói rằng hai từ “ba, má” mà người miền Nam sử dụng là do hai từ “papa” và “maman” của tiếng Pháp mà ra và tác giả có ý nhạo báng việc dùng mấy từ gốc Pháp này… Ông nghĩ sao?

Học giả An Chi giải đáp: Một số người khác cũng nói rằng hai từ ba, má mà người miền Nam sử dụng là do tiếng Pháp papa, maman mà ra. Đây là một lời khẳng định không có căn cứ vì nó chỉ dựa vào “sự na ná” về ngữ âm giữa các từ mà thôi. Dictionnaire annamite-français của J. F. M. Génibrel, deuxième édition, Saigon, 1898 đã có ghi nhận hai từ ba, má rồi. Ở thời điểm 1898, tiếng Pháp của các nhà cai trị làm gì đã có đủ thế lực – và cả tư cách nữa – để xen vào hệ thống thân tộc của người Việt miền Nam dễ dàng đến thế. Thực ra, ba, má là hai từ Việt gốc Quảng Đông: đó là pa 爸 và má 媽.

Ngoài ra, ở miệt dưới, người ta còn dùng từ tía bắt nguồn từ tiếng Triều Châu tia 爹 để chỉ hoặc gọi người cha nữa. Khi nhạo báng như thế, người ta cứ ngỡ rằng các từ cha và bố mà mình dùng là những từ “thuần Việt”! Tiếc rằng đó lại là những từ gốc Hán 100%.

Cha, chữ Hán là , âm Hán-Việt cũng là cha vì thiết âm của nó là chính xa thiết (Quảng vận) hoặc chi xa thiết (Từ hải), còn nghĩa của nó thì… cũng là cha.

Gốc Hán của từ bố thì khó thấy hơn. Các nhà nghiên cứu gần như đều nhất trí khẳng định rằng đó là một từ “thuần Việt” Cao Huy Đỉnh đã viết: “Bố Rồng (…) là biểu tượng của tinh thần dũng cảm, ý thức dựng nước của nhân dân ta. Bố là cha của mọi người, của đất nước; Bố là chủ quyền của người Lạc Việt. Người Lạc Việt mỗi khi gặp khó khăn thường gọi “Bố ơi! Về với chúng con”. Bố ở đây gợi lên một cách gọi cổ, có thể là Bố Rồng, Bố Hùng… và phải chăng trong đó có chứa chất một tình cảm thân mật hay hơn thế nữa một quan hệ xã hội cổ – quan hệ huyết thống phụ quyền – giữa người Lạc Việt với tầng lớp thủ lĩnh chăng?”.* Còn Đặng Đức Siêu thì viết: “Kể ra, người xưa có thể dịch hai từ bố cái (cha mẹ) thành phụ mẫu. “Bố cái đại vương” có thể chuyển dịch thành ngôn ngữ thuần Hán là “phụ mẫu đại vương”. Nhưng, đối với người Việt thời xưa, phải chăng hai tiếng bố (cha) cái (mẹ) có khả năng biểu thị một tình cảm rất mực sâu sắc thân thuộc mà hai từ phụ mẫu ngoại lai kia không thể đảm đương nổi”.*

Tiếc rằng bố cũng ngoại lai chẳng kém gì chữ phụ: đó đều là những yếu tố Việt gốc Hán và đều là âm của chữ 父, bố là âm đời Hán còn phụ là âm đời Đường. Trường hợp này cũng đã được Vương Lực 王力 phân tích và khẳng định trong thiên “Hán Việt ngữ nghiên cứu” 漢 越 語 研究 , bên cạnh cặp song lập thể mùi – vị mà chúng tôi đã đề cập trên Kiến thức ngày nay, số 156, cũng ở mục Chuyện Đông chuyện Tây (Xem Hán ngữ sử luận văn tập 漢 語 史 論 文 集, Bắc Kinh, 1958, tr. 363). Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu thêm một luận cứ quan trọng như sau: chính chữ phụ 父 (là cha) đã được dùng làm thanh phù (yếu tố hài thanh) cho chữ bố 布 (là vải). Đây là điều mà hầu như không ai để ý đến. Thể triện của chữ phụ là còn thể triện của chữ bố là (trên phụ 父 dưới cân 巾). Nếu không bị lược nét thì ngày nay chữ bố phải viết thành . Vậy bố là một hình thanh tự mà nghĩa phù là cân 巾 còn thanh phù là phụ 父, nay đã bị viết thành * (vô hình trung đồng dạng với chữ tả * – là hình thức nguyên thủy của 左 ). Chính vì thanh phù của nó là phụ 父 nên Thuyết văn giải tự 說文解字 của Hứa Thận 許慎 mới viết về chữ bố 布 rằng đó là chữ “tùng cân, phụ thanh” 從巾父聲 nghĩa là “thuộc bộ cân, đọc là phụ”. Trong ngữ âm học lịch sử về tiếng Hán, có một quy luật như sau: “Hễ có cùng thanh phù thì là đồng âm với nhau hoặc đã có thời là đồng âm với nhau.” Vậy cũng chẳng có gì lạ nếu chữ phụ xưa đã từng đọc là bố. Ngoài ra, ngay từ xưa, bố cũng còn có một biến thể ngữ âm nữa là bô trong bô lão. Bô lão chẳng phải gì khác hơn là phụ lão 父老 .

Tóm lại, bố (= cha) là một từ Việt gốc Hán, nằm trong hệ thống những từ Việt gốc Hán dùng để chỉ quan hệ thân tộc: tổ, cụ, kỵ, ông, bà, cha, mẹ, chú, bác, bá, cô, dì, cậu, mợ, thím, dượng, anh, chị, con, cháu (mà chúng tôi sẽ trình bày rõ từ nguyên nếu có dịp). Vậy, thật là nhầm lẫn khi nhạo báng cách gọi bố bằng ba và mẹ bằng má mà cứ ngờ rằng bố và cha mới là từ “thuần Việt” còn ba và má thì lại là tiếng Tây!

§ 238. Kiến thức ngày nay, số 170, ngày 10-4-1995

Hỏi: Trong Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 159, ông An Chi có trả lời về câu “bắt cá hai tay” và khẳng định rằng đó là cá độ. Theo tôi thì cá ở đây là tôm cá bởi đối với người Việt Nam thì bắt cá là việc thường xuyên mà bắt bằng tay (mò cá) thì càng thường xuyên hơn từ cổ chí kIm. Khi mò cá nếu tay ta chỉ chạm một con cá thì khỏi nói làm gì. Thực tế nhiều khi tay ta chạm vào ổ cá (nhiều con cá cùng một lúc). Người mò cá giỏi khi đó tập trung hai tay để bắt một con cá (bởi chỉ có hai tay). Ngược lại người không biết mò thì mỗi tay cố tóm một con nên kết quả thường chẳng được con nào (xôi hỏng bỏng không). Như vậy câu “bắt cá hai tay” ở đây có thể hiểu là cùng một lúc dùng hai tay bắt hai con cá nên thường là không được con nào. Từ nhỏ tôi đã từng sống bằng nghề dân dã là mò cá ở sông hồ nên cứ thế mà suy. Có gì sai xin chỉ bảo.

Học giả An Chi giải đáp: Ông đã nói người bắt cá giỏi “tập trung hai tay” để bắt một con cá. Thưa đó là người bắt cá xoàng. Người bắt cá giỏi, khi nước đã cạn và cá chỉ còn ngọ nguậy thì có thể dễ dàng mỗi tay bắt một con cá.

Ngoài ra, theo chúng tôi, ông đã hiểu nhầm ý nghĩa và công dụng của cấu trúc hai tay trong thành ngữ “bắt cá hai tay”. Đó là một từ tổ dùng để diễn đạt động tác của hai bàn tay phối hợp với nhau mà cùng làm một việc liên quan đến một đối tượng duy nhất. Giã gạo hai tay là cả hai tay cầm một cái chày mà giã gạo chứ không phải mỗi tay cầm một cái chày để giã vào hai cái cối khác nhau. Ném bóng hai tay là cả hai tay cầm một quả bóng mà ném vào rổ chứ không phải là mỗi tay cầm một quả bóng mà ném vào rổ khi chơi bóng rổ. Dâng hai tay là cả hai tay cùng cầm một vật rồi nâng lên mà trao một cách cung kính chứ đâu có phải mỗi tay cầm một vật mà dâng lên cho người trên.

Bắt cá hai tay cũng cùng kiểu cấu trúc trên đây nên phải được hiểu là dùng cả hai tay mà bắt một con cá chứ dứt khoát không thể là mỗi tay bắt một con cá được. Nếu muốn diễn ý mỗi tay bắt một con cá thì phải dùng cấu trúc sóng đôi “hai… hai” mà nói “hai tay bắt hai con cá” chứ không thể nói “bắt cá hai tay”. Đó là quy tắc về cách dùng từ. Ca dao, chẳng hạn, đã tôn trọng quy tắc đó một cách nghiêm cẩn. Thí dụ:

Mặt vàng đổi lấy mặt xanh

Hai tay hai gậy lạy anh sông Bờ.

Nhưng nếu “bắt cá hai tay” lại là dùng cả hai tay để bắt một con cá thì việc làm này có gì đáng chê bai? Trớ trêu là ở chỗ ở đây hai tiếng hai tay không phải đã được dùng theo nghĩa gốc của từ tay mà lại dùng theo nghĩa phái sinh. Tay ở đây đâu có phải là “bộ phận phía trên của cơ thể con người, từ vai đến các ngón…” (Từ điển tiếng Việt 1992) mà là bên, là phía, là phe. Hội nghị tay tư là hội nghị bốn phe, quẹo tay mặt là rẽ phải, còn bắt cá hai tay là bắt cả hai bên trong cá độ. Cá ở đây không phải là lớp động vật sống dưới nước mà tay ở đây cũng chẳng phải là bộ phận cơ thể của con người. Hai tay trong “bắt cá hai tay” chỉ là một cấu trúc đồng âm với hai tay trong “giã gạo hai tay”, “ném bóng hai tay”, v.v., chứ không đồng nhất với cấu trúc này, do đó cũng không phải là đồng nghĩa với nó.

§ 239. Kiến thức ngày nay, số 171, ngày 20-4-1995

Hỏi: Báo Sài Gòn giải phóng, số xuân Ất Hợi (1995), trang 25 có đăng bài “Thử bàn lại ý nghĩa một câu đối trong giai thoại Tú Xương” của ông Sơn Vân. Bài báo này đã đề cập đến phần nói về Trần Tế Xương trong cuốn “Chân dung kẻ sĩ” của Nxb. Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, giai thoại về đôi câu đối của Tú Xương viếng ông Hàn Chén. Ông Sơn Vân đã thuật lại lời kể và lời bình trong sách đó như sau: “Theo sách (…) cụ Tú Xương đã lấy luôn dòng chữ trên chén tàu làm câu đối phúng người đã khuất. Đó là câu:

“Vị thủy đầu can nhật

Kỳ sơn nhập mộng hồn”

Câu này được một vị tôn trưởng giải thích: “Tích này nói về Khương Tử Nha lúc hàn vi ngồi bên sông Vị đợi thời, may mắn gặp được vua Văn Vương nhà Chu rước về làm quân sư. Tích này bác Tú dùng sao mà hợp với ông Hàn Chén thế: Khi còn phong trần ngồi câu cá bên bờ sông Vị-Hoàng, Nam Định, nay ông đã chết về nơi cực lạc vậy…”. Ông Sơn Vân không tán thành cách mà sách Chân dung kẻ sĩ giải thích vế sau của câu đối (Kỳ sơn nhập mộng hồn) nên nêu lên cách giải thích của mình nhưng cũng mặc nhận chữ cuối của vế sau là chữ hồn .

Chúng tôi có ba cái dĩa (không phải là chén) đựng bốn chung trà của ba lò sản xuất cổ ngoạn Trung Hoa như sau:

1. Nhược thâm trân tàng

2. Đại Anh hiên chế

3. Phước thọ viên chế

Cả ba dĩa đều vẽ trong lòng một ông câu ngồi trên bàn thạch, có ghi hai câu đối trên. Tuy nhiên, câu sau lại viết “Kỳ sơn nhập mộng thần (thìn)”. Dĩa Nhược thâm trân tàng viết chữ thần 晨 có nhật 日 trên đầu, còn hai dĩa kia chữ thần 辰 viết không có nhật 日.Vậy xin nhờ ông An Chi:

1. Cho biết lò sản xuất nào có vẽ cảnh trên đây mà lại ghi câu sau là “Kỳ Sơn nhập mộng hồn 魂.”

2. Giải nghĩa giúp hai câu đối:

Vị Thủy đầu can nhật

渭 水 投 竿 日

Kỳ sơn nhập mộng thần.

岐 山 入 夢 晨

Học giả An Chi giải đáp: 1. Vì không phải là người sưu tầm cổ ngoạn, cũng không phải là người sành sỏi về đồ sứ cổ Trung Hoa nên chúng tôi không biết có lò sứ nào đã ghi “Kỳ sơn nhập mộng hồn” hay không. Chúng tôi đã may mắn còn giữ lại được một ít đồ kiểu. Liên quan đến vấn đề đang bàn thì có mấy thứ (chung trà, dĩa đựng chung trà, chén – mà ngoài Bắc gọi là bát) trên đó cũng vẽ cảnh Lã Vọng 呂望 ngồi câu bên sông Vị (Vị tân thùy điếu 渭 津 垂 釣) và đôi câu đối đang xét. Ở vị trí chữ “hồn” (theo sách Chân dung kẻ sĩ) cũng là chữ thần như trên các cổ vật của ông. Chữ thần cũng có chỗ viết 辰,có chỗ viết 晨. Chúng tôi cho rằng chữ “hồn” là một chữ rất đáng ngờ. Quyển Tú Xương-tác phẩm, giai thoại của Hội Văn Nghệ Hà Nam Ninh, ấn hành năm 1987, cũng có chép giai thoại đang xét dưới nhan đề “Tống quân nam phố” mà cũng chép thần chứ không phải “hồn”. Vậy theo chúng tôi, chữ “hồn” rất có thể chỉ là một chữ chép sai. Trang 284 của sách “Chân dung kẻ sĩ” có đính chính chữ “Van” ở trang 182 thành “Văn” nhưng không đả động gì đến chữ “hồn” ở cùng trang. Vậy chữ này không phải là do lỗi morasse mà lại là do các nhà biên soạn có dụng ý ghi như thế. Nhưng làm như thế là đã ghi khác với nguyên văn, trừ phi có một số cổ vật nào cùng loại mà trên đó lại ghi chữ “hồn” thay vì chữ “thần”.

2. Về ý nghĩa của đôi câu đối, đặc biệt là câu sau thì Sơn Vân đã viết trong bài báo kia như sau: “Câu Kỳ sơn nhập mộng hồn là nói về tích Gia Cát Lượng Khổng Minh, quân sư của Lưu Bị, thời Tam Quốc. Sau khi lấy được đất Thục cho Lưu Bị, Khổng Minh luôn ôm mộng đánh Kỳ Sơn, uy hiếp kinh thành nhà Ngụy. Từ khi vào Thục cho đến chết, Gia Cát Lượng sáu lần đều ôm hận lui binh. Có thể nói ý đồ chiếm đoạt Kỳ Sơn làm cửa ngõ tiến vào đất Ngụy là chiến dịch bất di bất dịch của Khổng Minh. Sự việc không thành, tới lúc chết vẫn không nguôi mộng tưởng. Như vậy, câu đối “Vị Thủy đầu can nhật – Kỳ Sơn nhập mộng hồn” phải được hiểu bao gồm hai tích. Câu đầu nói về tích Lã Vọng câu cá bên sông Vị chờ thời. Câu sau nói về tích Gia Cát Lượng khi về chín suối vẫn ôm mộng chiếm đoạt Kỳ Sơn. Hai tài năng, hai số phận, hai địa danh gắn liền sự định đoạt của mỗi người, được thâu tóm vào câu đối 10 chữ. Người làm câu đối quả là biệt tài.”*

Thực ra đôi câu đối đang xét chỉ nói về một người mà thôi. Người đó là Lã Vọng 呂望, tức Khương Thượng 姜尚, còn gọi là Khương Tử Nha 姜子牙, Thái công vọng 太公望 của vua Văn Vương 文 王 nhà Chu 周. Xưa nay, nói đến các cổ vật có tranh và cảnh đang xét, người ta chỉ nói chén, dĩa, v.v., Lã Vọng thả câu, chẳng ai nói chén, dĩa, v.v., Lã Vọng thả câu và Khổng Minh đánh Ngụy. Vả lại nếu đôi câu đối đó bao gồm hai tích, một tích về Lã Vọng, một tích về Khổng Minh, thì tại sao chỉ vẽ Lã Vọng mà lại không vẽ Khổng Minh?

Sở dĩ Sơn Vân đã phân làm hai tích như trên là vì tác giả này không nghĩ rằng Kỳ Sơn 岐 山 là đất gốc của Hậu Tắc mà con cháu sau này sẽ dựng nên cơ nghiệp nhà Chu. Chu Văn Vương – đây là tên thụy do con là Vũ Vương tôn xưng – khi hãy còn là Cơ Xương và nhận tước Tây Bá 西伯 do vua Trụ 紂 của nhà Ân 殷 phong cho thì đã là chủ của một nước nhỏ mà lãnh thổ nằm ở vùng chân núi Kỳ Sơn 岐 山, thuộc huyện Kỳ Sơn, tỉnh Thiểm Tây. Bấy giờ Trụ càng ngày càng bạo ngược và nhà Ân đang buổi mạt vận. Cơ Xương đã khôn ngoan và khéo léo chỉnh đốn chính trị ở trong nước. Khi gặp được quân sư Lã Vọng thì tiền đồ nhà Chu như đã mở ra trước mắt: nhiều nước chư hầu khác đã theo về và trong thiên hạ, ba phần thì Chu đã nắm hết hai. Sau khi Văn Vương qua đời, con là Vũ Vương tiếp tục tôn Lã Vọng làm thầy, huy động các nước chư hầu Đông chinh để tiêu diệt nhà Ân, đánh bại Trụ Vương ở Mục Dã 牧野. Trụ phải tự thiêu mà chết. Vũ Vương lấy được thiên hạ, lên ngôi hoàng đế, đóng đô ở đất Hạo, tôn thụy hiệu cho cha là Văn Vương, ở ngôi 19 năm và dựng lên cơ nghiệp nhà Chu kéo dài đến hơn 800 năm.

Nói về Lã Vọng, sau khi thất sủng vì phản đối việc xây dựng Lộc Đài, ông bèn bỏ nhà Ân – ông vốn làm quan cho nhà này – mà đi ở ẩn bên bờ sông Vị Thuỷ. Ngày nào ông cũng ra bến sông để buông câu. Nhưng ông câu mà lại dùng lưỡi câu thẳng và không dùng mồi. Có người hỏi thì ông trả lời rằng mình câu đây là câu thời, câu vận, câu chức, câu tước, chứ không câu cá. Thời vận và chức tước này tất nhiên không thể đến từ dòng họ đang suy tàn của nhà Ân mà từ một thế lực mới đang lên và đang chuẩn bị tiêu diệt dòng họ kia. Bởi vậy mà tuy người ông thì ngồi câu cá bên bờ sông Vị nhưng lòng ông thì lại hướng về miền đất tổ của thế lực mới là đất Kỳ Sơn.

“Vị Thủy đầu can nhật – Kỳ Sơn nhập mộng thần” chính là như thế.

Bấy nhiêu chi tiết tưởng cũng đã đủ để chứng minh rằng Kỳ Sơn ở đây chẳng có gì liên quan đến Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Và hai câu đối tả cảnh tả tình trên các đồ sứ có vẽ tích “Vị tân thùy điếu” 渭 津 垂 釣 :

Vị Thủy đầu can nhật

渭 水 投 竿 日

Kỳ sơn nhập mộng thần.

岐 山 入 夢 晨

có nghĩa là: “Những ngày mà Lã Vọng ngồi buông câu bên bờ sông Vị chính là những lúc mà ông đang mơ về núi Kỳ, nơi phát tích của dòng họ nhà Chu”.

Xin tạm “vịnh” thành câu đối Nôm như sau:

Buông cần bên sông Vị

Câu chức tận non Kỳ.

• Ghi nhận về chữ thần và đặc điểm ngữ pháp của đôi câu đối:

1. Nguyên đó là chữ thìn 辰. Thìn là âm xưa, còn âm nay là thần: “thì dần thiết, âm thần” (Từ nguyên, Từ hải).

Ngoài việc dùng để ghi chi thứ năm của mười hai địa chi, chữ đó còn có nghĩa là “giờ”, “ngày”, “thời”, “khi”, “lúc” (Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S. Couvreur: “heure, jour, époque, moment”). Chính chữ này mới phối hợp chặt chẽ với chữ nhật 日 của câu trên và đối lại với nó một cách thật chỉnh (nhật và thần đều thuộc phạm trù thời gian) để diễn đạt cái hàm nghĩa thâm thúy của cả đôi câu đối, còn chữ “hồn” chỉ là một chữ lạc lõng. Chữ 辰 về sau đã được một số nghệ nhân viết thành 晨 vì nói chung hai chữ có thể thay thế cho nhau trong một số trường hợp.

2. Mỗi câu đối ở đây tự nó đã là một cấu trúc đề thuyết hoàn chỉnh. Đề: “Vị Thuỷ”, đối với “Kỳ Sơn”. Thuyết: “đầu can nhật”, đối với “nhập mộng thần”. Nhưng đây không phải là hai cấu trúc đề thuyết độc lập với nhau về mặt cú pháp mà cấu trúc trước (câu trên) bản thân nó lại là phần đề liên quan chặt chẽ đến phần thuyết là cấu trúc sau (câu dưới).

Quan hệ này cũng giống như quan hệ giữa hai câu:

Đương quân hoài quy nhật

Thị thiếp đoạn trường thì

當君懷歸日

是妾斷腸時

(trong bài “Xuân tứ” 春思 của Lý Bạch 李白 ), có nghĩa là “lúc mà chàng nóng lòng mong đợi ngày về cũng chính là lúc thiếp đau xót tột cùng vì nhớ thương”. Trần Trọng KIm đã diễn tả đúng quan hệ cú pháp đó khi dịch hai câu trên đây thành thơ lục bát như sau:

Đương khi chàng muốn về quê

Chính là khi thiếp đau tê tấm lòng*

Khác nhau chỉ là ở chỗ trong đôi câu đối đang xét thì không có hệ từ thị 是 (=là). Nhưng điều này không có gì trái với quy tắc ngữ pháp vì trong văn ngôn khi danh từ, danh tổ hoặc danh cú đứng làm phần thuyết cho câu phán đoán thì hệ từ vẫn bị lược bỏ.

§ 240. Kiến thức ngày nay, số 172, ngày 30-4-1995

Hỏi: Xin cho biết ở Huế có địa danh “Thọ Xương” hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Về địa danh này, PTS. Võ Xuân Trang có viết bài “Về một câu ca dao xưa ở Huế” đăng trên Thế giới mới số 13, trang 53 – 54. Trong bài này, ông Võ Xuân Trang đã khẳng định rành mạch như sau: “Trước hết phải khẳng định rằng ở Huế không hề có địa danh Thọ Xương (Chúng tôi nhấn mạnh – AC) như tờ báo nọ (tức Kiến thức ngày nay, số 152 – AC) đã viết. Trên một tờ báo khác, một tác giả cũng khẳng định rằng ở Huế không có địa danh Thọ Xương (…). Chúng tôi đã tiến hành một cuộc điền dã trên bộ và dưới thuyền dọc cả hai bờ Nam – Bắc sông Hương từ Phường Đúc lên Nguyệt Biều, Lương Quán (bờ Nam) và từ KIm Long đến Thiên Mụ, Hương Hồ (bờ Bắc). Kết quả khảo sát cho thấy trong ký ức dân gian vùng này hầu như không mấy ai biết đến địa danh Thọ Xương (…) là ở đâu? (…) Thế nhưng nhiều người lại nhắc đến địa danh khác, đó là vạn Thọ Khương (…). Chính cái tên Thọ Khương này mới liên quan trực tiếp đến câu ca dao trên ở Huế”.

Còn chúng tôi thì xin khẳng định rằng ở Huế cũng đã có địa danh Thọ Xương. Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn do Phạm Trọng Điềm dịch và Đào Duy Anh hiệu đính, tập I (Huế, 1992), đã chép như sau:

“Ở xã Nguyệt Biều thuộc huyện Hương Thủy, gò gối bờ phía nam sông Hương, đối diện với núi Thiên Mụ ở bên kia sông, trước gọi là Kho Thọ Khang thượng (chữ khang cũng đọc là “khương” – AC). Tương truyền trước kia trên gò có nhà, từng rước tử cung Anh Tông, Hiển Tông, Túc Tông và Thế Tông để tạm ở đấy. Sau trải qua loạn lạc, nhà bị bỏ, đầu niên hiệu Gia Long đổi tên là Thọ Xương (Chúng tôi nhấn mạnh – AC); năm vua Minh Mệnh thứ 5, đổi tên là Long Thọ Cương, dựng nhà bát giác ở trên gò, cho tên hiện nay, lại dựng bia ghi việc để lưu thắng tích”.*

Cứ như trên thì cái gò ở bên này sông Hương, đối diện với chùa Thiên Mụ bên kia sông, trước có tên là Thọ Khang, đến đầu niên hiệu Gia Long thì đổi thành Thọ Xương và đến năm Minh Mạng thứ 5 (1824) mới đổi thành Long Thọ. Vậy không thể dựa vào “ký ức dân gian” để phủ nhận sự tồn tại của địa danh Thọ Xương ở Huế như PTS. Võ Xuân Trang đã làm vì ký ức đó làm sao đáng tin cậy bằng giấy trắng mực đen của thư tịch. Đó là còn chưa nói rằng có nhiều khi chính “ký ức dân gian” lại rất chóng quên. Xin đơn cử một ví dụ cụ thể. Quê nội chúng tôi là một vùng thuộc ngoại ô Sài Gòn trước đây, có tên là Xóm Gà, thuộc Bình Hòa xã, Gia Định (Đây cũng chính là nơi mà thi sĩ Tản Đà từng đến ở khi ông vào Sài Gòn). Tại đó có một ngã tư gọi là ngã tư Xóm Gà, nay là ngã tư Nguyễn Văn Đậu – Lê Quang Định, thuộc quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Trước năm 1954 dân địa phương chẳng ai lại không biết ngã tư Xóm Gà. Nhưng nay (1995) hỏi rất nhiều người thường trú trên đường Lê Quang Định và Nguyễn Văn Đậu gần ngã tư Xóm Gà xem cái ngã tư có tên đó nằm ở đâu thì hầu như chẳng ai biết. Mới có bốn thập kỷ mà còn như thế, huống chi gò Long Thọ ngày nay đã mang tên Thọ Khương cách đây hơn 190 năm và mang tên Thọ Xương cách đây trên 170 năm.

Về địa danh và câu ca dao hữu quan, Ưng Luận cũng đã viết trong Ca dao xứ Huế, tập I (Sở văn hóa thông tin Thừa Thiên – Huế, 1991) như sau: “Năm 1918, một nhà báo hữu danh ngoài Bắc, nhân một dịp dạo thuyền trên sông Hương lúc đêm khuya đã cao hứng viết hai câu:

Gió đưa cành trúc là đà

Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.

Không ngờ hai câu này đã gây nên nhiều cuộc bàn cãi sôi nổi, vì chùa Thiên Mụ ở Huế, mà huyện Thọ Xương ở Hà Nội. Có lẽ nhà báo này đã nhớ đến mấy câu của một nhà thơ ngoài Bắc (cụ Dương Khuê):

Phất phơ ngọn trúc trăng tà,

Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương

là hai cảnh đều ở Hà Nội. Nhưng trong “Đại Nam Nhất Thống Chí” có ghi rằng gò Long Thọ dưới thời Gia Long cũng có tên là Thọ Xương, đến đời vua Minh Mạng, đổi là Long Thọ Cương. Bởi vậy mà có người muốn đổi câu hát thành Thọ Cương. Nhưng dân Huế vẫn quen hát là Thọ Xương (Chúng tôi nhấn mạnh – AC), chứ không nghe ai hát là Thọ Cương cả”. Còn “Thọ Khương” thì Ưng Luận hoàn toàn không nhắc đến.

Từ những điều trên đây suy ra, việc PTS. Võ Xuân Trang gắn liền câu ca dao đang xét với “vạn Thọ Khương” là một việc làm không có căn cứ. Việc ông khẳng định ở cuối bài viết của mình rằng phải ghi “Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Khương” mới đúng cũng là một việc làm võ đoán. Đặc biệt, việc ông phủ nhận địa danh Thọ Xương ở Huế là một việc làm phản thực tế.

§ 241. Kiến thức ngày nay, số 172, ngày 30-4-1995

Hỏi: Có người nói rằng Khổng Tử lúc làm quan cũng có giết người. Điều này có đúng không? Nếu đúng, xin cho biết cụ thể?

Học giả An Chi giải đáp: Sử ký của Tư Mã Thiên có chép như sau:

“Năm thứ 14 đời Định Công, Khổng Tử 56 tuổi, rời chức tư khấu, quyền giữ chức tướng quốc. Thấy Khổng Tử có vẻ mừng rỡ, một người học trò nói:

-Tôi nghe thầy nói “Người quân tử khi tai họa đến thì không sợ, khi phúc đến thì không mừng”.

Khổng Tử nói:

-Câu nói ấy cũng có đấy. Nhưng chẳng có câu “Vui vì ở địa vị cao quý mà khiêm tốn với mọi người” hay sao?

Khổng Tử bèn giếtquan đại phu nước Lỗ làm rối loạn chính sự là Thiếu Chính Mão (Chúng tôi nhấn mạnh – AC). Sau khi tham dự chính quyền trong nước ba tháng, những người bán cừu bán lợn không dám bán thách, con trai con gái ở trên đường đi theo hai phía khác nhau, trên đường không nhặt của rơi. Những người khách ở bốn phương đến thành ấp không cần phải nhờ đến các quan, bởi vì người ta đều xem họ như người trong nhà”.*

§ 242. Kiến thức ngày nay, số 172, ngày 30-4-1995

Hỏi: “Lúa tốt xem biên, người hiền xem tướng”: nhữngchữ trong câu này có đúng với dạng gốc ban đầu không?

Học giả An Chi giải đáp: Về câu hỏi này của ông, trên Văn hóa & Đời sống Xuân Giáp Tuất (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1-1994), trong mục “Từ chữ đến nghĩa”, tác giả Huệ Thiên đã có đề cập. Xin chép lại hiến ông như sau:

“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (Hà Nội, 1989) có mục sau đây: “Lúa tốt xem biên, người hiền xem tướng” (Biên là bờ ruộng, trong chế độ cũ, người thợ cấy thường cấy cẩn thận những hàng lúa ở gần bờ hơn là giữa ruộng). Ý nói: Chỉ nhìn tướng mạo của một người cũng biết đó là người hiền hay người dữ”.

Cách giải thích trên đây rõ ràng không thuận lý. Thứ nhất, bờ ruộng là bờ ruộng; người ta vẫn nói bờ, không ai nói biên. Thứ hai, đã biết cái thói của thợ cấy là cấy kỹ gần bờ mà cấy dối bên trong – nếu quả đúng như thế – thì muốn rõ lúa tốt thật hay không, người ta phải xem tận bên trong, không ai xem khơi khơi ngoài bờ. Thứ ba, gán cho thợ cấy cái thói xấu nói trên có thể là đã gieo tiếng oan cho họ. Bởi dù là “trong chế độ cũ”, việc làm ăn vẫn phải lấy chữ tín làm đầu. Thợ cấy là những người sống bám vào cái nghề có thể coi như chung thân của mình. Cấy dối được mùa này còn những mùa sau thì sau? Chủ ruộng nào dám mướn nữa?

Thật ra, nguyên văn của câu tục ngữ là “Lụa tốt xem biên, người hiền xem tướng”. Biên là cái mép chạy suốt chiều dài của xấp lụa, ở hai đầu của khổ lụa, được dệt thật chắc để cho các sợi ngang không nhích tới nhích lui, nhất là để cho các sợi dọc không tuột ra được. Muốn biết lụa có tốt hay không người ta thường quan sát biên lụa, biên có săn, có mịn thì lụa mới tốt. Lụa tốt xem biên là thế.

Trở lên là nói về lụa và lúa. Bây giờ xin nói về dữ và ngu . Khi người ta đã đem người hiền mà đối với lụa tốt thì hiền không phải là hiền lành mà là hiền tài: nó không đối với dữ mà đối với ngu. Nếu quả thật ở đây hiền đối với dữ thì có lẽ chỉ cần nói vải tốt là được, hà tất phải nói đến lụa. Cũng như xưa kia, để ban thưởng, người ta thường dùng lụa, không ai lại ban vải”.

§ 243. Kiến thức ngày nay, số 173, ngày 10-5-1995

Hỏi: Xin phân tích và cho biết xuất xứ bài thơ tứ tuyệt sau đây:

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi

Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi

Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

葡萄美酒夜光杯

欲飲琵琶馬上催

醉臥沙場君莫笑

古來征戰幾人回.

Học giả An Chi giải đáp: Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt này là của Vương Hàn 王翰 đời Đường, nhan đề là “Lương Châu từ” 涼州詞. Việc tìm hiểu nhan đề của bài thơ có thể góp phần vào việc tìm hiểu xuất xứ và nội dung của nó.

Từ là “thể thơ thường dùng làm lời của các khúc nhạc, không hạn định số chữ, số câu, câu ngắn xen kẽ với câu dài tùy theo tiết tấu, và vần thường ở cuối câu” (Từ điển tiếng Việt 1992). Còn Lương Châu, vốn là tên của một châu, đã được dùng theo hoán dụ để chỉ những bản nhạc của người bản địa châu này, do đô đốc của phủ Tây Lương là Quách Trí Vận tiến hiến cho nhà Đường vào đời Đường Huyền Tông. Những bản nhạc này mang đậm sắc thái địa phương và đã phối hợp những điệu hát của người Khương, người Hồ ở phía Tây Trung Hoa. Thiên “Lễ nhạc chí” của sách Đường thư chép rằng “các bản nhạc đời Thiên Bảo (một trong hai niên hiệu của Đường Huyền Tông – AC) đều lấy tên đất biên giới làm tên, như Lương Châu, Cam Châu, Y Châu. Những bản nhạc đó là do các quan trấn nhậm tiến hiến cho triều đình, chẳng hạn Y Châu là bài hát do tiết độ sứ Tây Lương là Cáp Gia Vận tiến dâng, vốn là một điệu hát của xứ Tân Cương (Xem Từ nguyên và Từ hải, các mục Lương Châu, Lương Châu phá, Cam Châu, Y Châu v.v.). Nội dung những bài hát đó đương nhiên đề cập đến sinh hoạt và tâm tình của người địa phương. Bài Lương Châu cũng nằm trong trường hợp đó.

Vậy “Lương Châu từ” là bài từ mà lời lẽ ứng với giai điệu của bản nhạc Lương Châu. Còn bài thơ “Lương Châu từ” của Vương Hàn thì lại là một bài thơ mà cảm hứng đã bắt nguồn từ nội dung của bài từ trên đây. Đúng như Lý Việt Dũng đã viết, “Lương Châu từ có thể là bài thơ nói về sinh hoạt của rợ Hồ miền Lương Châu xưa”*. Ông đã nêu những luận cứ sau đây:

-Rượu bồ đào là “quốc tửu” của người Hồ;

一 Chén dạ quang, theo sách “Đông Phương Sóc, Thập châu Ký (thực ra là sách Thập châu ký của Đông Phương Sóc – AC), cũng do người Hồ tiến hiến cho Trung Hoa vào thời Chu Mục Vương. Vậy nó cũng là đặc sản của người Hồ.

一 Đàn tỳ bà cũng vốn là của người Hồ;

一 Đặc biệt, việc thúc giục quân sĩ lên đường bằng tiếng đàn tỳ bà là nét độc đáo riêng của người Hồ không thể lẫn lộn được.

Vậy Lương Châu từ của Vương Hàn là một bài thơ cảm khái của tác giả trước cảnh ngộ và tâm tình của một quân nhân người Hồ. Quân nhân này là một vị tướng (nên mới được dùng chén dạ quang) và vị tướng này sắp sửa chia tay với một người mà ngôn từ của bài thơ, cũng là lời nói (hoặc tâm tư) của vị tướng, đã gọi bằng từ quân. Người này là một mỹ nữ có lẽ đang còn dở chuốc rượu cho vị tướng lúc tiếng tỳ bà trên lưng ngựa thúc giục quân sĩ lên đường xuất chinh (các tướng lãnh người Hồ có quyền mang theo người đẹp để phục thị trong trướng). Vì vậy, theo Lý Việt Dũng, từ quân trong câu thứ ba của bài thơ có thể được dịch là nàng. Ông viết: “Vậy tiếng “quân” (…) nên hiểu là Nàng cho ý vị bài thơ thêm nồng nàn, thơ mộng? Như vậy, hẳn có độc giả sẽ trách chúng tôi cường điệu, vì từ xưa đến nay, chữ “quân” chỉ dùng để gọi nam giới trong cách xưng hô (…). Từ lâu, do quán tính ngữ pháp, chữ “quân” ít phổ biến để gọi phụ nữ trong xưng hô, nên bài thơ trên, người ta đã không chịu dụng công tìm hiểu bối cảnh của nó nên đã giản dị hóa mà dịch là “bạn” hay “các người”. Dịch như thế thiết tưởng đã làm giảm mất một phần ý vị của bài thơ, nhất là cảnh bi hùng giữa tướng quân và người đẹp trong mối cảm khái lần chia tay hầu như sẽ vĩnh biệt! Thơ hay, gái đẹp, rượu nồng. Cảnh vậy mới có tình”.

Chúng tôi thấy Lý Việt Dũng đã có lý. Chỉ xin nói thêm rằng ông quá dè dặt khi phải phân trần về cách dịch từ quân thành nàng. Vì quá dè dặt như thế cho nên ông còn phải chứng minh thêm cho cách dịch đúng của mình bằng hai đoạn của truyện “Thanh Mai” và truyện “Bành Hải Thu” trong Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh. Thực ra việc gọi phụ nữ bằng từ quân trong xưng hô là một hiện tượng bình thường đã được ghi nhận trong các từ điển, như chúng tôi đã nêu rõ ở mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 124, trang 38, chứ không phải “từ xưa nay, chữ quân chỉ được dùng để gọi nam giới trong cách xưng hô”, như Lý Việt Dũng đã viết. Vì vậy mà chúng tôi nhất trí với ông rằng quân ở đây là người đẹp mà vị tướng người Hồ đã đem theo trong trướng của mình. Và cũng chính vì vậy nên từ quân ở đây có thể dịch là nàng, là em (nếu dịch là người thì cũng chú rõ đây là phụ nữ) cho đúng với bối cảnh và cảm hứng của bài thơ và đúng với ý muốn diễn đạt của nhà thơ, chứ không thể nói như Lý Việt Dũng rằng “nên hiểu là Nàng cho ý vị bài thơ thêm nồng nàn, thơ mộng”. Nếu quân ở đây thực tế là một đấng mày râu thì cũng không thể vì muốn “cho ý vị bài thơ” thêm “nồng nàn, thơ mộng” mà dịch thành “nàng” được.

Sau đây xin chép bản dịch bài thơ đó thành thơ lục bát của Trần Trọng KIm:

Bài hát Lương Châu

Rượu nho kèo chén lưu ly

Uống thì trên ngựa tiếng tì dục sôi

Say nằm bãi cát chớ cười

Xưa nay chinh chiến mấy ai đã về.*

§ 244. Kiến thức ngày nay, số 173, ngày 10-5-1995

Hỏi: Tả Từ Hải, Nguyễn Du đã viết: “Vai năm tấc rộng, lưng mười thước cao”. Tỷ lệ giữa vai và lưng như vậy có cân đối không?

Học giả An Chi giải đáp: Mặc dù tiếng Việt có thành ngữ “lưng dài, vai rộng” nhưng Nguyễn Du lại viết: “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.

Tuy nhiên “thân mười thước cao” vẫn cứ là một hiện tượng không bình thường, nghĩa là vẫn chưa cân đối. Trong bài phiếm luận “Truyện Kiều và Y học” (Kiến thức ngày nay, số Xuân Giáp Tuất, tr. 62 – 63), BS Lê Quang Thông đã viết: “Theo đo đạc để lấy huyệt châm cứu, người xưa dùng đơn vị tấc không cố định mà gọi là “tấc du thân”, nghĩa là lấy ngay trên cơ thể từng người, nên người cao người thấp sẽ có tấc thích hợp nhưng cũng xê dịch khoảng 2 – 2,2cm. Như vậy vai Từ Hải khoảng 10 – 11cm (nếu đây chỉ là một bên vai thì cũng là nhỏ bé – AC). Thước của Trung Hoa, dù là thước Lỗ Ban đi nữa, cũng xê dịch 20 – 40cm, như vậy Từ Hải cao khoảng 2m trở lên?”. Đây là cách tính của BS Lê Quang Thông. Còn nếu theo thông tin của Đào Duy Anh và nếu thông tin này đúng thì Từ Hải có thể chỉ cao tối đa là 70cm. Phải có thêm 30cm nữa đấng anh hùng này mới đạt được chiều cao đúng… 1 thước Tây. Đào Duy Anh cho biết rằng tấc là “phần mười của một thước, chiều dài bao nhiêu thì tùy từng thời; có ý kiến cho rằng thời Minh (Từ Hải là người thời này – AC) một thước chỉ ăn hai tấc”.* Dù cho tấc Tàu có “chiều dài là bao nhiêu thì tùy từng thời” nhưng, theo chúng tôi biết, nó cũng chỉ xê dịch từ 2cm đến 3,5cm. Vậy 2 tấc, nghĩa là một thước theo thông tin trên đây, bằng từ 4 đến 7cm và 10 lần hai tấc nghĩa là 10 thước, thì bằng từ 40 – 70cm. Từ Hải sẽ là một chú tí hon. Còn nếu cho rằng Nguyễn Du tuy tả người Tàu nhưng lại dùng thước ta thì một thước ta bằng 0,4m hoặc 0,425m; vậy 10 thước thì bằng 4m hoặc 4,25m. Từ Hải sẽ là một anh khổng lồ. Hình như được đo theo đơn vị nào thì nhân vật này cũng là một kẻ dị tướng.

Vậy theo chúng tôi, lối miêu tả của Nguyễn Du chẳng qua chỉ là một lối miêu tả có tính chất ước lệ. “Râu hùm, hàm én, mày ngài” chẳng phải ước lệ là gì? Người xưa, mà chánh cống là người Tàu, đã quan niệm rằng thân người đo được 7 thước (đương nhiên là thước Tàu) cho nên đã dùng từ tổ thất xích (bảy thước) để chỉ thân người. Chẳng hạn trong văn bia “Vương Kiệm bi minh” của Thẩm Ước có câu: “Khuynh phương thốn dĩ phụng quốc, vong thất xích dĩ sự quân” nghĩa là: “Dốc tấc lòng mà giúp nước, quên tấm thân để thờ vua”.

(Ngay trái tIm người cũng đã được “miêu tả” để định danh một cách ước lệ là “tấc vuông” (phương thốn). “Tấc vuông” là trái tIm, rồi trên cơ sở của nghĩa này, mới có nghĩa phái sinh là “tấm lòng” như đã thấy trong câu văn bia trên đây).

Thân người trung bình được tính là 7 thước. Vậy trên mức này thì được xem đã là cao. Trong Tam quốc diễn nghĩa, Lưu Bị cao 7 thước rưỡi, Trương Phi cao 8 thước còn Quan Vân Trường thì cao đến 9 thước. Bản dịch ra tiếng Việt của tác phẩm trên đây (dịch giả: Phan Kế Bính) do Lê Huy Tiêu và Lê Đức Niệm giới thiệu và sửa chữa (Hà Nội, 1988) đã chú thích ở trang 35 của tập I rằng “một thước Trung Quốc bằng 1/3 mét”. Theo chú thích này thì Lưu Bị cao gần 2,5m, Trương Phi cao gần 2,7m còn Quan Vân Trường cao gần 3m. Vậy có nên quy ra thước Tây (mét) để hiểu cách miêu tả chiều cao theo La Quán Trung trong Tam quốc diễn nghĩa hay không? Nếu cứ theo chú thích trên – không nói rõ là thước của thời nào – thì Đức Thánh Khổng còn cao được đến 3,2m vì Sử ký của Tư Mã Thiên đã chép: “Khổng Tử người cao chín thước sáu tấc, ai cũng cho là con người cao lớn và lấy làm lạ”.* Còn nếu lấy mức thấp nhất là một thước Tàu ăn 1/5m thì Khổng Tử cao 1,92m. Nhưng chính Khổng Tử lại nói về chiều cao của con người như sau: “Họ Tiêu Nghiêu cao ba thước, đó là hạng người thấp nhất, người lớn nhất cao cũng không gấp mười lần ba thước”. Đây là lời của Khổng Tử trả lời cho sứ giả của nước Ngô. Cứ theo lời của Khổng Tử thì người Tiêu Nghiêu có thể cao từ 60cm đến gần 1m còn người lớn nhất cũng không vượt qua được 6m (hoặc 10m). Không vượt qua được có nghĩa là gần đạt được như thế. Vậy người lớn nhất, theo Khổng Tử, có thể cao gần 6m (hoặc 10m)? Thước của Tàu và cách phát biểu của Tàu về độ dài quả là mơ hồ.

Trở lại với câu thơ của Nguyễn Du thì dù có lấy tấc dài bao nhiêu làm chuẩn để tính, năm tấc vai trên mười thước thân cũng không thể là tỷ lệ của một thân thể cường tráng và một dáng điệu oai hùng được. Ngược lại đó là một dạng người có vai so, vai rút cho nên nếu bắt chước cách nói trong bài phiếm luận của BS Lê Quang Thông thì phải đặt câu hỏi xem Từ Hải có phải là người đã mắc bệnh phổi hay không? Nhưng Nguyễn Du đâu có đo Từ Hải một cách chính xác như ban giám khảo các kỳ thi hoa hậu đo từng vòng trong ba vòng của các người đẹp. Vậy “vai năm tấc rộng thân mười thước cao” ở đây chỉ là ước lệ.

§ 245. Kiến thức ngày nay, số 174, ngày 20-5-1995

Hỏi: Âm thanh có diễn tả sự vật hay không, chẳng hạn o diễn tả vật to, hoặc tròn, e vật hẹp hoặc vật mỏng, còn i vật chi bé nhỏ (kiểu như tiếng Việt li ti, tiếng Anh, tiếng Pháp mini)?

Học giả An Chi giải đáp: Một số nhà ngữ học có tên tuổi đã chủ trương như thế, do đó mà có khái niệm “biểu trưng ngữ âm”, tiếng Pháp là symbolisme phonétique còn tiếng Anh là sound symbolism, linguistic iconism hoặc phonesthesia (Mỹ)/phonaesthesia (Anh).

Thí dụ nêu ra thì rất nhiều. Chẳng hạn người ta nói rằng d trong tiếng Anh diễn tả ý “ngu xuẩn”, “đần độn”: daft (ngớ ngẩn), dead (tê cóng, không còn cảm giác), dense (ngu đần), dIm (lờ mờ), dithery (run lập cập), dizzy (hoa mắt), dopey (tê mê, uể oải), dotty (gàn dở), dozey (ngủ gà, ngủ gật), dud (vô dụng), dull (tối dạ), dumb (câm), dupe (người bị bịp)…

Dwight Bolinger còn viết một cách đầy hình tượng như sau: “Có vẻ như có một sự liên quan, vượt qua ngôn ngữ có tính chất cá nhân, giữa những âm tố nguyên âm khi lưỡi nâng cao và đưa ra phía trước miệng, đặc biệt là [i] (âm tố nguyên âm trong wee “nhỏ xíu”, teeny “nhỏ xíu”) với ý nghĩa về “sự nhỏ bé” trong khi những âm tố nguyên âm tạo ra với lưỡi hạ thấp thì lại gợi ý về “sự rộng lớn”. Kích thước của vòm miệng – [i] có độ mở nhỏ nhất trong tất cả – được phối hợp với ý nghĩa (của từ ngữ – AC). Chúng ta chip (đẽo bào, làm sứt mẻ – AC) một miếng nhỏ nhưng chop (chặt, đốn – AC) một miếng lớn hơn; một slip (mảnh giấy nhỏ, mẩu gỗ nhỏ – AC) thì nhỏ hơn một slab (tấm ván bìa – AC) còn một nib (đầu, mũi nhọn, mỏ chIm – AC) thì nhỏ hơn một knob (cục, hòn – AC)”. Trên đây là lời của Bolinger trong Aspects of language (Harcourt, Brace & World, Inc. 1968, p. 17). Mới đây nhất, I.E. Reay, người soạn thảo mục “Sound Symbolism” trong bộ The Encyclopedia of Language and Linguistics (ELL), 10 vols, do R.E. Asher làm tổng biên tập và do Pergamon Press (Oxford – New York -Seoul – Tokyo) ấn hành năm 1994 (vol.8, pp. 4064 – 4070) cũng đã cung cấp những nguồn thông tin thiên về việc thừa nhận luận điểm trên đây. Chẳng hạn, ở tiểu mục “The Iconocity of Language” (Tính tượng hình của ngôn ngữ) của mục đã nói, Reay đã viết: “Các nhà ngữ học như Bolinger và Wescott nói về tính hình tượng của ngôn ngữ và qua đó họ muốn nói đến chiều hướng tích cực của ngôn ngữ để phối hợp (mặt) âm và (mặt) nghĩa. Biểu trưng âm thanh chắc chắn là rất phổ biến trong ngôn ngữ (…) Các thi sĩ đã từng thừa nhận và sử dụng biểu trưng âm thanh và giờ đây với công tác nghiên cứu ngôn ngữ học tâm lý hiện đại nhằm vào chính bản thân từ vựng, càng ngày càng nhiều dữ kiện đang được thu thập để chứng minh một cách khoa học điều mà trước đây chỉ được cảm nhận một cách thần tình”.*

Một nhà ngữ học hiện đại người Pháp đặc biệt nhiệt thành với hiện tượng biểu trưng ngữ âm là Pierre Guiraud cũng viết như sau: “Ngày nay, các nhà tâm lý học dựa vào các cuộc điều tra và các cuộc thử nghiệm vấn đáp đã thừa nhận những giả thuyết của Platon nói rằng i biểu đạt (ý niệm về) sự nhỏ bé, đối với a chỉ (ý niệm về) sự rộng lớn.*

Tuy nhiên, một số nhà ngữ học có tên tuổi khác, mà người chủ xướng là Ferdinand de Saussure, ông tổ của ngữ học cấu trúc luận hiện đại, thì lại nhấn mạnh rằng “tín hiệu ngôn ngữ là “võ đoán”*, nghĩa là trong thực tế nó không có bất cứ mối liên hệ tự nhiên nào với cái mà nó biểu hiện. Còn Louis Hjelmslev thì đã viết như sau: “Vì trong việc sử dụng ngôn ngữ những từ như tiếng Anh little (nhỏ bé – AC), bit (miếng nhỏ – AC), a little wee bit (một chút xíu – AC), kid (nhóc con – AC) bao gồm một yếu tố thể hiện về mặt ngữ âm học bằng i và vì, bằng cách này hay cách khác, tất cả những từ đó đều gợi lên ý niệm về sự nhỏ bé thông qua sự biểu đạt ý nghĩa của chúng, cho nên có thể định hình cái cảm tưởng rằng có một mối tương quan mơ hồ nào đó giữa âm i với ý niệm về một cái gì nhỏ bé. Chúng tôi xin vạch rõ ngay lập tức rằng những sự giống nhau hoặc khác nhau giữa các âm, giữa các chữ hoặc nữa giữa các âm hoặc các chữ với những thực tế tồn tại ngoài ngôn ngữ là chủ quan biết bao. Một vật nào đó giống hay không giống một vật khác, điều này hoàn toàn tùy thuộc vào quan điểm theo đó người ta thiết lập sự so sánh: một vật không bao giờ giống một vật khác về mọi phương diện, mà chỉ ở một thế tương quan nhất định và với một sự khôn khéo vừa phải, người ta sẽ tìm ra được thế tương quan theo đó hai sự vật giống nhau, cho dù chúng có khác nhau đến đâu về những mặt khác. Giữa hai âm của một ngôn ngữ, hoặc giữa hai ý nghĩa của tín hiệu, người ta luôn luôn có thể tìm thấy một sự giống nhau nào đó chỉ với một chút tưởng tượng mà thôi”.*

Trở lên là lý thuyết. Còn trong thực tế thì ngay trong tiếng Anh, âm i cũng không chỉ diễn đạt ý niệm về “sự nhỏ bé” mà còn diễn đạt ý niệm về sự to lớn trong từ big (to lớn) như nhiều người đã từng chỉ ra. Đến như âm d thì chúng tôi xin nhấn mạnh rằng nó không chỉ diễn đạt ý niệm về “sự ngu xuẩn”, “sự đần độn” như trong những ví dụ trên kia (do I.E. Reay nêu lên trong ELL) mà còn diễn đạt cả cái ý niệm về sự khôn khéo, sự sáng sủa trong hàng loạt từ như: dab (khéo, thạo), daedal (khéo léo), dandy (bảnh bao, đúng mốt), dapper (sang trọng), daring (táo bạo), diddle (lừa gạt), decent (lịch sự, tao nhã), dodgy (tinh ranh, láu cá), doll (diện, mặc đẹp), dulcet (dịu dàng, êm ái), duly (đúng đắn, chính đáng), duper (kẻ lừa bịp), v.v.. Đặc biệt là hai danh từ dupe “người bị bịp” và duper “kẻ lừa bịp” đều cùng có d!

Trong tiếng Việt, người ta cũng có hàng loạt thí dụ để phản bác luận điểm về hiện tượng “biểu trưng ngữ âm”. Chẳng hạn, âm o vừa có mặt ở trong to lại vừa có mặt ở trong nhỏ. Vậy tuyệt không thể nói rằng nó chỉ diễn đạt ý niệm về sự to lớn mà không diễn đạt ý niệm về sự nhỏ bé. Nó vừa có mặt ở trong tròn lại vừa có mặt ở trong móm, móp. Vậy quyết không thể nói rằng nó chỉ diễn đạt ý niệm về sự tròn trĩnh mà không diễn đạt ý niệm về sự méo mó. Nó lại có mặt trong nhọn, thon mà đã nhọn hoặc thon thì tất nhiên không tròn, mà cũng không móm, không móp . Nó có mặt trong co nhưng cũng có mặt trong thò, trong ló. Vậy dứt khoát không thể nói rằng nó chỉ diễn đạt sự co vào mà lại không diễn đạt sự thò ra, ló ra.

Về những âm khác cũng thế. Âm e không chỉ góp phần “diễn tả” cái gì hẹp, lép, xẹp, dẹp mà còn góp phần diễn tả ý niệm ngược lại ở trong kép và ghép , nghĩa là làm cho bớt xẹp, bớt lép đi. Âm i không chỉ diễn tả cái gì nhỏ bé mà còn diễn tả cái gì to lớn: vi (trong “vi trùng”, v.v.) là nhỏ nhưng vĩ (trong “vĩ đại” v.v.) thì lại là to…

Dễ dàng thấy rằng hiện tượng “biểu trưng ngữ âm” chỉ là một ảo giác của các nhà ngữ học đã đề xướng và tán dương nó. Nhiệt thành với nó đến như Pierre Guiraud cũng đã phải khách quan và thẳng thắn thừa nhận rằng phần lớn các nhà ngữ học đều ngần ngại không muốn chấp nhận nó*. Ở một quyển sách khác, Guiraud cũng đã phải tiếc rẻ mà nói rõ thêm một chút nữa rằng phần lớn các nhà ngữ học đã phủ nhận nó.*

Chúng tôi cho rằng ý kiến sau đây của Claude Lévi-Strauss thỏa đáng hơn: “Xét về tiên thiên thì tín hiệu ngôn ngữ là võ đoán nhưng xét theo hậu nghiệm thì nó không còn là võ đoán nữa”.* Ông đã diễn giải rõ thêm như sau: “Khi chúng ta xét từ vựng theo hậu nghiệm, nghĩa là sau khi nó đã được thành tạo, thì các từ mất đi phần lớn tính võ đoán của chúng, vì ý nghĩa mà chúng ta gán cho chúng không chỉ phụ thuộc vào một sự quy ước (như trước đó – AC). Nó phụ thuộc vào cách mỗi ngôn ngữ chia cắt thế giới ý nghĩa mà mỗi từ có liên quan, nó biến thiên theo sự hiện diện hoặc sự khiếm diện của các từ khác để diễn đạt những nghĩa tương cận”.

Tuy nhiên chúng tôi cũng không hoàn toàn tán thành ý kiến của Lévi-Strauss vì, theo chúng tôi, dù là xét theo hậu nghiệm, thì ký hiệu ngôn ngữ cũng vẫn cứ là võ đoán. Sở dĩ một số âm trong một số từ có vẻ như có tính chất tượng hình chỉ là vì người ta có cảm giác như thế và cảm giác này sở dĩ có được là do người ta đặt chúng vào trong một thế liên tưởng với các từ vừa diễn đạt những ý nghĩa tương cận lại vừa có cùng những âm đó với chúng. Chính vì thế mà ở những người sử dụng ngôn ngữ có vốn từ vựng càng phong phú thì tính chất tượng hình đó càng cao.

Tóm lại, theo chúng tôi, cái gọi là biểu tượng ngữ âm chỉ là ảo giác chủ quan của người sử dụng ngôn ngữ – và người ta đương nhiên có thể triệt để khai thác ảo giác này cùng với tác dụng của nó cho việc giảng văn – chứ không phải là một tính chất khách quan của bản thân ký hiệu ngôn ngữ.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3