Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 1: Câu hỏi 176 - 210

§ 176. Kiến thức ngày nay, số 147, 8 – 1994

Hỏi: Trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 15 – 3 – 1994, trong bài “Đào tạo học sinh giỏi – Con đường còn lắm gập ghềnh”, tác giả Trúc Quân đã dẫn hai câu ca dao để dạy học trò “tôn sư trọng đạo”:

Muốn sang thì bắc cầu kiều

Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy.

Tôi nhớ lúc còn học cours Supérieur, thầy tôi đã dạy:

Muốn sang thì bắc cầu kiều

Muốn cho hay chữ phải yêu mến thầy.

Hai câu này khác nhau ở chữ “mến” và chữ “lấy”. Trong Nam thường không dạy chữ lấy vì nó có nghĩa không mấy thanh. Tôi xin kể một “tự truyện” để minh họa cho việc trong Nam kỵ tiếng lấy: Hồi 26 tuổi, tôi và hai bạn gái, cũng có chút nhan sắc, tới xin việc ở một công sở Tây, gặp ông trưởng phòng personnel (nhân sự) lại là người Bắc. Tôi được mời vô trước và được nhận. Hai cô bạn của tôi vào sau. Tôi hãy còn đứng đó. Ông trưởng phòng đế cho một câu để đời. Ông ta trỏ vào tôi và nói với hai cô kia: “Tôi đã lấy cô này rồi, tôi không thể lấy thêm hai cô được”. Hai nàng kia phá lên cười còn tôi thì mặt đỏ cứ như dưa hấu chín. Ba đứa tôi chạy ù ra khỏi cổng, không dám nhìn lại bộ mặt ngơ ngác của ông ta. Bạn tôi nhạo tôi: “Bạn có lấy ông đó thì nhào vô. Cái ông ăn nói vô duyên chết mồ!”.

Vậy giữa thầy tôi và ông Trúc Quân, ai là người đúng?

Học giả An Chi giải đáp: Cá nhân chúng tôi cũng là người Nam Bộ và nơi mục Chuyện Đông chuyện Tây chúng tôi vẫn thích dùng từ của phương ngữ Nam Bộ ở một số trường hợp mà người khác không dùng. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì chúng tôi suy nghĩ hơi khác với bà. Việc kiêng kỵ động từ lấy không phải là đặc điểm riêng của người Nam Bộ vì chúng tôi thấy ở miền Bắc cũng có nhiều người kỵ nó khi đọc đến hai câu ca dao mà bà đã nêu (nên cũng thay nó bằng mến).

Theo chúng tôi, sự kiêng kỵ trong trường hợp này tuy có thể thông cảm được nhưng lại không có cơ sở hợp lý và xác đáng.

Trong cấu trúc yêu lấy thầy, lấy là một động từ thuộc loại đặc biệt, làm phần phụ thêm nghĩa cho động từ đứng trước nó để diễn đạt một loại ý nghĩa ngữ pháp mà Từ điển tiếng Việt 1992 ghi là “biểu thị hướng của hành động nhằm mang lại kết quả cho chủ thể”. Còn Nguyễn KIm Thản thì gọi lấy là phó động từ chỉ định hướng*. Vậy nó không phải là một động từ có thể hành chức một cách độc lập về mặt cú pháp. Do đó, không thể tách nó và danh từ đứng sau nó ra khỏi cấu trúc yêu lấy thầy thành lấy thầy như có thể tách lấy vợ khỏi cấu trúc muốn lấy vợ, tách lấy vợ đẹp khỏi cấu trúc thích lấy vợ đẹp, tách lấy chồng khỏi cấu trúc không chịu lấy chồng, v.v.. Nói một cách khác, trong cấu trúc yêu lấy thầy thì danh từ thầy không phải là đối tượng của động từ lấy – động từ này không thể có đối tượng – mà là của động từ yêu. Do đó, về nguyên tắc, lấy ở đây không thể bị nhầm lẫn với động từ lấy trong lấy vợ, lấy chồng, v.v. được. Chỉ có ngoại động từ lấy mới có thể bị “nhầm lẫn” như thế, chẳng hạn trong cái câu mà ông trưởng phòng nhân sự kia đã nói với hai người bạn gái của bà mấy chục năm về trước. Trong trường hợp này, chúng tôi sẵn sàng đứng về phía quý bà mà thừa nhận rằng cái ông ấy ăn nói thật là…

Tóm lại, theo chúng tôi, không có lý do ngữ học xác đáng nào để kiêng kỵ động từ lấy trong câu ca dao đang xét mặc dù có một số nhà sư phạm cũng đã làm như thế. Sự kiêng kỵ chỉ có ý nghĩa khi nó được thực hiện đúng lý và đúng chỗ.

§ 177. Kiến thức ngày nay, số 147, 8-1994

Hỏi: Xin cho biết tên (Hán Việt) của 18 cảnh đẹp ở Hà Tiên (Hà Tiên thập bát cảnh) do Mạc Thiên Tứ (?) đặt ra.

Học giả An Chi giải đáp: Theo chúng tôi biết thì ở Hà Tiên chỉ có mười cảnh đẹp (Hà Tiên thập cảnh). Đó là: 1. phá Hà Tiên, 2. biển Nam Phố, 3. rạch Giang Thành, 4. chùa Phù Dung, 5. rạch Vược, 6. mũi Nai, 7. núi Lăng, 8. Thạch động, 9. Tô Châu, 10. núi Đá dựng. Mạc Thiên Tứ, tức Mạc Thiên Tích, đã làm mười bài thơ vịnh mười cảnh đẹp đó gọi là Hà Tiên thập vịnh như sau (theo thứ tự các cảnh đã nêu): 1. Đông Hồ ấn nguyệt, 2. Nam Phố trừng ba, 3. Giang Thành dạ cổ, 4. Tiêu tự thần chung, 5. Lư khê ngư bạc, 6. Lộc trĩ thôn cư, 7. Bình sơn điệp tuý, 8. Thạch động thôn vân, 9. KIm dự lan đào, 10. Châu nham lạc nhạn.

§ 178. Kiến thức ngày nay, số 147, 8-1994

Hỏi: Trên Kiến thức ngày nay, số 141, ông có giải thích từ “mặc khải” là biểu lộ, bày tỏ. Tôi cảm thấy không ổn vì nếu giải nghĩa như vậy thì câu “Phật Thích Ca không nhận bất cứ sự mặc khải từ đâu đến” phải được hiểu như thế nào? Tôi hiểu “mặc khải” có nghĩa là sự ban phát, sự ban ơn. Xin ông cho ý kiến.

Học giả An Chi giải đáp: Trên Kiến thức ngày nay, số 141, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 50, chúng tôi có viết: “Trong bài ông đã nêu, tác giả chỉ dùng từ mặc khải theo nghĩa thông thường là bộc lộ, biểu lộ, v.v. mà thôi”. Ông ở đây là độc giả Trịnh Thế Tường ở 293 Lê Lợi, thị xã Sơn Tây. Còn bài mà ông Trịnh Thế Tường đã nêu là bài ở trang 47 – 51 trên Kiến thức ngày nay, số 104. Chỉ đối với bài này, chúng tôi mới nói rằng tác giả đã dùng từ mặc khải theo nghĩa thông thường là bộc lộ, biểu lộ, v.v.. Còn trong toàn bộ câu trả lời của mình, chúng tôi đã khẳng định và phân tích rằng mặc khải là một thuật ngữ tôn giáo tương ứng với tiếng Pháp révélation và tiếng Anh revelation. Thuật ngữ này có nghĩa là “sự dự báo hoặc sự hiển hiện của điều mầu nhiệm tạo ra bởi quyền năng của Đấng thiêng liêng”, cũng tức là cái mà trong câu hỏi của mình, ông Trịnh Thế Tường đã gọi là “linh ứng”. Đây cũng là nghĩa của từ mặc khải trong câu “Phật Thích Ca không nhận bất cứ sự mặc khải từ đâu đến” mà ông đã nêu. Mặc khải không phải là ban phát, ban ơn.

§ 179. Kiến thức ngày nay, số 147, 8 – 1994

Hỏi: Trong tên bằng tiếng Anh của quốc gia New Zealand thì new là mới, land là đất, xứ. Nhưng Zea là gì?

Học giả An Chi giải đáp: Trong tiếng Anh, New Zealand là hình thức vừa dịch nghĩa vừa phiên âm từ tiếng Hà Lan Nieuw Zeeland – mà người Pháp cũng vừa dịch vừa phiên thành Nouvelle Zélande. New là dịch nghĩa của Nieuw, có nghĩa là mới. Còn Zealand là vừa dịch vừa phiên từ Zeeland. Trong tiếng Hà Lan, Zeeland có nghĩa là vùng đất (ven) biển. Đây là tên của một tỉnh duyên hải của Hà Lan. Năm 1642, nhà hàng hải người Hà Lan là Abel Janszoon Tasman đã phát hiện ra vùng đất nay là New Zealand và đã đặt tên cho nó là Nieuw Zeeland để nhắc đến tên tỉnh Zeeland của Hà Lan. Thực ra người Anh vẫn có thể dịch Nieuw Zeeland thành New Sealand vì zee của tiếng Hà Lan cũng cùng gốc với tiếng Đức See và tiếng Anh sea, có nghĩa là biển còn land cũng là một từ cùng gốc của tiếng Hà Lan, tiếng Đức, tiếng Anh, và của cả tiếng Đan Mạch và tiếng Thụy Điển. Nhưng họ đã không làm như thế.

Nhân tiện, xin nói thêm rằng Tasmania, nay là một bang ở Đông Nam của nước Australia, là một hòn đảo mang tên của nhà hàng hải Tasman. Ông cũng đã phát hiện ra nó vào năm 1642.

§ 180. Kiến thức ngày nay, số 147, 8-1994

Hỏi: Theo như tục truyền thì chùa Linh Mụ ở Huế còn có tên khác là Thiêng Mụ. Tại sao người ta hay gọi là Thiên Mụ?

Học giả An Chi giải đáp: Tục vẫn truyền và sách vẫn ghi rằng đó là chùa Thiên Mụ. Từ điển di tích văn hóa Việt Nam của Viện nghiên cứu Hán Nôm do Ngô Đức Thọ chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội và Nxb. Mũi Cà Mau, 1993) đã chép về chùa này như sau:

“Ở xã Hà Khê, huyện KIm Trà, sau đổi là huyện Hương Trà, nay thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Chùa do Đoan quốc công Nguyễn Hoàng cho xây dựng năm Tân Sửu niên hiệu Hoàng Định thứ 2 (1601). Bấy giờ, sau hơn 6 năm ở kinh đô Thăng Long giữ chức Thái bảo, Nguyễn Hoàng trở về Thuận Hóa xây dựng thế lực để biệt lập với họ Trịnh. Một hôm nhân khi rỗi việc, Nguyễn Hoàng đi thăm các nơi núi sông cảnh đẹp trong bản trấn. Khi đến xã Hà Khê, huyện KIm Trà, thấy giữa chốn đồng bằng đột khởi một đồi cao tựa đầu một con rồng đang nhìn về núi mẹ. Đoan quốc công thầm khen là nơi danh thắng, bèn trèo lên đồi cao ngắm khắp xung quanh. Chợt thấy một đoạn hào cắt ngang dưới chân núi, chưa rõ nguyên do ra sao. Nguyễn Hoàng sai hỏi người địa phương. Các bô lão nói: tương truyền núi này rất linh thiêng. Cao Biền (nhà Đường) sang làm An Nam đô hộ phủ từng đi khắp nơi ở nước ta xem nơi nào có vượng khí thì lập phép trấn yểm. Đêm hôm ấy Biền chiêm bao thấy một bà lão đầu tóc bạc phơ ngồi dưới chân núi này kêu gào than vãn, rồi cất tiếng nói to: “Đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi này để làm mạnh cho Nam triều thì nên lập chùa thờ Phật, cầu linh khí trở về để giúp nước yên dân, tất không có sự gì đáng phải lo ngại”. Nói xong, bà lão biến mất. Dân địa phương từ đó đặt tên núi là Thiên Mụ (bà lão nhà Trời). Nguyễn Hoàng nghe nói cả mừng, bảo rằng: “Ấy là bà lão nhà Trời bảo ta mở nền định đất, biến nhà thành nước để gây nghiệp lớn”. Nói đoạn sai người cất dựng chùa Phật, tự tay viết biển đề tên chùa là “Thiên Mụ tự”.

Cứ theo sự tích như trên, thì đó phải là chùa Thiên Mụ chứ không phải là “Thiêng Mụ” vì rõ ràng thiên ở đây là trời.

§ 181. Kiến thức ngày nay, số 147, 8-1994

Hỏi: Nghe thấy những chuyện trái ngược, người ta thường hay gọi là mâu thuẫn . Xin cho biết xuất xứ của hai tiếng này.

Học giả An Chi giải đáp: Sách Hàn Phi tử có chép chuyện một người bán binh khí, vừa bán mâu lại vừa bán thuẫn (mâu dùng để đâm, còn thuẫn dùng để che chắn). Quảng cáo cho loại mâu của mình, anh ta nói: “Mâu này rất sắc nhọn, đâm cái gì cũng thủng”. Quảng cáo cho loại thuẫn của mình, anh ta nói: “Thuẫn này rất chắc chắn, không gì đâm thủng nổi”. Có người cắc cớ hỏi anh ta: “Vậy nếu lấy mâu của anh đâm vào thuẫn của anh thì sẽ ra sao?”. Anh ta đành cứng họng. Từ mâu thuẫn bắt nguồn từ câu chuyện này.

§ 182. Kiến thức ngày nay, số 148, 9-1994

Hỏi: Trên Kiến thức ngày nay, số 143, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 70, An Chi đã nêu một “dẫn chứng nóng hổi” (ở đây là danh từ canary) để phê bình quyển Từ điển Anh-Việt của Viện ngôn ngữ học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và nhân văn quốc gia do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh mới phát hành. Ông đã khẳng định: “Chẳng có ai dám quả quyết rằng đã là từ điển thì không bao giờ sai”. Vậy quyển từ điển trên đây còn có những định nghĩa nào là không chính xác nữa hay không? Hay canary chỉ là một trường hợp mà ông An Chi may mắn nhặt ra được để minh họa cho lời khẳng định trên đây của mình? Mong ông sẵn sàng trả lời một cách “nóng hổi” cho câu hỏi trên đây.

Học giả An Chi giải đáp: Muốn phê bình một quyển từ điển thì phải có kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực. Nhưng điều kiện tiên quyết là phải đọc kỹ nó từ đầu đến cuối. Chúng tôi chưa có đủ thì giờ để làm công việc này đối với Từ điển Anh-Việt của Viện ngôn ngữ học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và nhân văn quốc gia. Và cũng chẳng có ý định phê bình nó.

Nhưng nếu ông cần biết thêm những định nghĩa không chính xác khác trong quyển từ điển đó thì chúng tôi xin tạm nhặt ra hầu ông một số trường hợp nữa như sau:

– “Avocado (…) trái cây nhiệt đới hình quả lê”. Cứ theo định nghĩa này thì giống ổi mà người Sài Gòn gọi là ổi xá lị còn giống quả lê hơn nhiều. Nhưng tất nhiên trái ổi xá lị không phải là trái avocado (trái bơ).

– “Bear (…) 1. loại thú to nặng có lông dày”. Con ma-mút (mammoth) còn to hơn, nặng hơn và cũng có bộ lông không mỏng. Nhưng tất nhiên con ma-mút không phải là con bear (con gấu).

“Bidet (…) chậu thấp dùng để rửa bộ phận sinh dục và hậu môn”. Cứ theo định nghĩa này thì chẳng làm sao có thể lần ra rằng đó là cái bồn dùng để làm vệ sinh có hình dáng na ná cái bàn ngồi kiểu “xí bệt” (siège à l’ anglaise) trong toa-lét thời hiện đại. Và tuy có thấp nhưng nó cũng phải cao ít nhất là 40cm. Thấp quá thì e rằng nó sẽ thành ra cái chậu… thau. Xin nói thêm rằng “chậu thấp” là cách diễn đạt để phân biệt với “chậu cao” là cái lavabo dùng để rửa… mặt hoặc rửa tay.

“Breadth (…) khoảng cách đo từ mép này đến mép kia; bề rộng”. Vậy chẳng có lẽ bề dài (length) lại không là “khoảng cách đo từ mép này đến mép kia”? Còn length thì được giảng là “kích thước hoặc phạm vi từ đầu này đến đầu kia”. Vậy chẳng có lẽ breadth (bề rộng) lại không phải là một “kích thước hoặc phạm vi” như thế?

“Cauldron (…) cái bình lớn sâu lòng dùng để đun nấu; cái vạc”. Đối với người Việt Nam thì những dụng cụ nấu nướng thuộc loại vạc, chảo, quánh, xanh, v.v., không bao giờ được xem là có hình dạng của những cái bình.

“Chrysanthemum (…) cây trồng trong vườn có hoa màu sắc rực rỡ”. Cây trồng trong vườn có hoa màu sắc rực rỡ thì có biết bao nhiêu thứ, cứ gì chrysanthemum!

Trở lên là năm bảythí dụ mà chúng tôi đã nhặt thêm trong Từ điển Anh-Việt, “phản ánh một cách trung thành những gì đã có trong cuốn Oxford Advanced Learner’s Dictionary, 1992” theo đề nghị của ông. Chúng tôi chưa có thì giờ đọc kỹ quyển từ điển đó từ đầu đến cuối nhưng tin rằng còn có thể nhặt ra thêm nhiều định nghĩa không chính xác theo kiểu đó. Chúng tôi có cảm giác rằng hình như đó là những định nghĩa theo xu hướng mà chúng tôi tạm gọi là… xu hướng Oxford.

§ 183. Kiến thức ngày nay, số 148, 9 – 1994

Hỏi: Gần đây trên các phương tiện thông tin đại chúng thường thấy xuất hiện các cách gọi Hàn Quốc hoặc Đại Hàn Dân Quốc để chỉ Cộng hòa Triều Tiên (Nam Triều Tiên). Phải chăng quá trình bầu cử tổng thống dân sự ở nước này được đánh dấu bằng việc thay đổi quốc hiệu vì tên cũ không còn phù hợp? Nhưng tại sao tiếng Anh vẫn dùng một từ như cũ là KOREA ? Và Republic of Korea lẽ ra phải được dịch là Cộng hòa Cao Ly. Xin nhờ giải đáp giúp và nhân tiện cũng xin giải thích tên gọi nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên).

Học giả An Chi giải đáp: Về việc sửa cách gọi tên nước Cộng hòa Triều Tiên (Nam Triều Tiên), công văn số 733/ĐBA-NG ngày 21 tháng 4 năm 1994 của Bộ ngoại giao, do Thứ trưởng Vũ Khoan ký, đã giải thích như sau:

“Đại sứ quán Cộng hòa Triều Tiên, trong công hàm gửi Bộ Ngoại giao số KEV-398 ngày 23/3/1994, đề nghị ta gọi Quốc hiệu của họ là “Đại Hàn Dân Quốc” hoặc gọi tắt là “Hàn Quốc”, không gọi là “Cộng hòa Triều Tiên” hoặc “Nam Triều Tiên” vì tên gọi “Triều Tiên” chỉ để dùng cho miền Bắc (CHDCND Triều Tiên).

Năm 1948, ở hai miền Bắc và Nam Triều Tiên thành lập 2 nhà nước với quốc hiệu riêng: Miền Bắc gọi là “Triều Tiên”, tên một vương triều thời kỳ 1392 – 1910. Miền Nam gọi là “Đại Hàn Dân Quốc” gọi tắt là “Hàn Quốc”, tên một triều đại cuối thế kỷ 19.

Các nước Trung Quốc, Nhật Bản và cả hai miền Bắc -Nam Triều Tiên trong giao dịch chính thức đều sử dụng các quốc hiệu trên. Ngôn ngữ phương Tây gọi chung hai miền là KOREA, tên của triều đại KORYO (918 – 1392), ta gọi theo âm Hán Việt là Cao Ly.

Theo đề nghị của phía Cộng hòa Triều Tiên và từ thực tế trên, từ nay ta nên gọi quốc hiệu của Nam Triều Tiên trong giao dịch chính thức với tên đầy đủ là “Đại Hàn Dân Quốc” hoặc gọi tắt là “Hàn Quốc”, không gọi là “Cộng hòa Triều Tiên” hoặc “Nam Triều Tiên” nữa”.

Trên đây là nội dung công văn của Bộ ngoại giao gởi các cơ quan Bộ, Tổng cục, các cơ quan thông tin, tuyên truyền và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành trong cả nước. Công văn đó đã giải đáp đầy đủ và rõ ràng các khía cạnh của câu hỏi đã nêu. Dưới đây chúng tôi chỉ xin nói thêm mấy điểm về từ ngữ.

Đại Hàn Dân Quốc, tiếng Triều Tiên là Tāyhan minkwuk (Chúng tôi ghi theo New Korean-English Dictionary của Samuel E. Martin, Yang Ha Lee và Sung-Un Chang). Đây là một cụm từ Triều Tiên gốc Hán trong đó hai tiếng Tāyhan (Đại Hàn) là địa danh còn hai tiếng minkwuk là một ngữ danh từ chỉ chính thể của nhà nước, mượn từ tiếng Hán dân quốc 民國, âm Bắc Kinh là mínguó, có nghĩa là nước cộng hòa. Trung Hoa Dân Quốc thành lập năm 1912 sau Cách mạng Tân Hợi (1911), chẳng phải gì khác hơn là nước Cộng hòa Trung Hoa. Trung Hoa Dân Quốc thường nói tắt thành Trung Quốc (Xem Từ hải). Cũng thế, Đại Hàn Dân Quốc nói tắt thành Hàn Quốc.

Tuy dân quốc đồng nghĩa với cộng hòa nhưng hai tiếng sau cùng này lại là do người Nhật Bản đặt ra bằng hai hình vị tiếng Nhật gốc Hán, đọc theo âm Hán Hòa là kyōwa. Vậy trong tiếng Việt, tuy dân quốc và cộng hòa đều là những từ Hán Việt nhưng từ trước là do chính người Trung Hoa đặt ra để dịch từ tiếng Anh republic (hoặc tiếng Pháp république) còn từ sau thì lại là sản phẩm của Nhật Bản, cũng đặt ra để dịch tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp) nói trên. Các từ điển của Trung Hoa như Từ nguyên, Từ hải đều khẳng định rằng danh từ cộng hòa 共和 là “Nhật Bản dịch ngữ”

Vì nghĩa của minkwuk là như thế nên Tāyhan minkwuk mới được dịch sang tiếng Anh thành Republic of Korea. Korea, tiếng Triều Tiên là Kolye (phiên âm theo sách đã dẫn), tiếng Nhật là Koryo, âm Hán Việt là Cao Ly. Tiếng Anh đã gọi chung hai miền và hai nhà nước Nam và Bắc Triều Tiên bằng danh xưng Korea – còn tiếng Pháp là Corée và tiếng Nga là Koreia, v.v. – vì đó là cách gọi truyền thống trước khi Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền với hai nhà nước riêng. Trước kia người Việt Nam cũng đã gọi Triều Tiên là Cao ly.

Vậy không biết chính phủ Đại Hàn Dân Quốc có gởi công hàm cho các nước Anh, Pháp, Nga, v.v., để đề nghị cái việc mà họ đã đề nghị với ta hay không.

§ 184. Kiến thức ngày nay, số 149, 9 – 1994

Hỏi: Gần đây, một tờ báo có giới thiệu Chùa Vàng của Myanmar và nói rằng chùa xây dựng cách nay đã 2800 năm. Tôi nghĩ Đức Thích Ca thành Phật năm 543 trước Công nguyên thì làm sao ngôi chùa lại được xây dựng sớm thế? Nhân tiện xin cho biết về lịch sử và kiến trúc của ngôi chùa.

Học giả An Chi giải đáp: Con số 2800 thì hơi quá nhưng cứ theo truyền thuyết dân gian Myanmar thì Chùa Vàng, tiếng Myanmar là Suê Đa-gôn, đã được xây dựng cách đây 2500 năm. Sau đây là những điều mà tác giả Ngô Văn Doanh đã viết để giới thiệu về ngôi chùa này:

“Có một truyền thuyết nói về nguyên nhân khiến Suê Đa-gôn được dựng lên cách đây 2500 năm. Chỉ những kết quả nghiên cứu thật cụ thể và chi tiết về khảo cổ học mới cho ta câu trả lời chính xác về niên đại thực của Suê Đa-gôn. Những cứ liệu có thể tin cậy được nói về Suê Đa-gôn chỉ có niên đại thế kỷ XIV Theo sử liệu Miến Điện (nay gọi là Myanmar -AC), vào năm 1372 nhà vua Pê-gu là Bi-nia U dựng tháp Suê Đa-gôn gần làng chài Đa-gôn (từ đó mới có tên là “Hoàng KIm Đa-gôn” hay “Đa-gôn tuyệt mỹ” – trong tiếng Miến, “Suê” vừa có nghĩa là “vàng”, vừa có nghĩa là “tuyệt đẹp”). Ngôi tháp mà sử liệu nói tới cũng cao 20 mét. Từ thời điểm đó trở đi, tài liệu về Suê Đa-gôn cứ nhiều dần. Các sử liệu nói nhiều tới những lần tu sửa Suê Đa-gôn. Chiều cao hiện giờ của tháp là chiều cao được dựng vào thời Kôn-ba-un. Năm 1774, vua A-va đã nâng ngôi tháp lên cao 99 mét so với mặt nền. Không chỉ có tháp chính, nền của cả khu chùa cũng được nâng cao. Nhìn chung, bố cục của Suê Đa-gôn đã ổn định vào cuối thế kỷ XVI, nhưng từng chi tiết vẫn luôn luôn được thay đổi và bổ sung cho đến ngày nay.

Quanh nền tháp chính của Suê Đa-gôn được bao bọc bởi một vòng đai 72 điện thờ nhỏ chứa các hình Phật. Trên bốn điểm trụ, ở ngay chân nền tháp là bốn te-da-un (nhà thờ tự) nhiều lớp mái nhấp nhô uyển chuyển. Tầng nền thứ nhất của tháp cũng được bao quanh bằng 64 ngôi tháp nhỏ cao chừng 3 đến 4 mét. Cũng ở bốn điểm trụ trên tầng nền này, người ta dựng bốn ngôi tháp to hơn so với 64 tháp nhỏ đứng hai bên. Đỉnh của những kiến trúc phụ lô nhô, lấp lánh quanh những tháp khổng lồ ở giữa. Tất cả vừa tạo cho kiến trúc một dáng uy nghi đường bệ, vừa tạo nên cảm giác “hướng về”, “quy về” cái hào quang rực rỡ của đức Phật.

Nói đến Suê Đa-gôn, không thể không nói tới đỉnh (hti) của cây tháp chính. Cả bộ phận này được làm theo mô hình cũ vào năm 1871. Hiện giờ đỉnh của Suê Đa-gôn cao 10 mét, gồm 7 vòng đai bằng vàng. Có thể nói, trên thế giới, không có một công trình kiến trúc nào lại sử dụng lượng vàng và đá quý nhiều như Suê Đa-gôn. Ngoài phần thân được phủ ken bằng 9.300 lá vàng (mỗi lá có kích thước 30 x 30cm) với trọng lượng 500 kilôgam, phần trụ của Suê Đa-gôn cũng có trị giá không kém. Cái trụ bằng bạc. Đỉnh chóp là quả cầu vàng (đường kính 25cm). Cái cờ gió cũng bằng vàng. Ba phần này được khảm 5.448 viên kIm cương to nhỏ khác nhau và gồm 1.065 chuông vàng, 421 chuông bạc.

Suê Đa-gôn, hay Chùa Vàng, xứng đáng là biểu tượng của đất nước Miến Điện giàu đẹp”.*

§ 185. Kiến thức ngày nay, số 149, 9-1994

Hỏi: Hai câu đối sau đây:

Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách

Sắc bất ba đào dị nịch nhân

là của một người làm hay của một người ra và một người đối lại? Người (hoặc những người) đó là ai?

Học giả An Chi giải đáp: Hai câu đối trên đã được Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch ghi lại trong giai thoại sau đây:

“Nguyễn Giản Thanh, người làng Ông-mặc (làng Me) huyện Đông-ngàn (nay là Từ-sơn) Bắc-ninh. Sống vào khoảng đầu thế kỷ XVI, sinh năm 1482, mất năm nào không rõ. Ông lúc nhỏ, học rất thông minh, mới mười sáu tuổi đã thông hiểu rất nhiều sách vở, sau đỗ trạng nguyên nên tục gọi là Trạng Me.

Một hôm đang học ở trường, thầy học là thượng thư Đàm Thận Huy vừa giảng bài xong thì trời sập mưa, học trò đều phải ngồi lại. Ông Huy nhân thấy vậy, bèn ra một câu đối để học trò cùng đối cho vui:

Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách

nghĩa là: Mưa không có then khóa mà giữ được khách.

Nguyễn Giản Thanh đối ngay rằng:

Sắc bất ba đào dị nịch nhân

nghĩa là: Sắc đẹp chẳng phải sóng gió mà làm đắm đuối người ta.

Ông Huy xem xong khen rằng: “Câu này đối hay lắm, giọng văn này có thể đỗ trạng được, nhưng sau tất mê đắm vào vòng sắc dục làm hại lây đến sự nghiệp!”.

Tiếp đó, mộtngười học trò tên là Nguyễn Chiểu Huấn lại đối:

Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân

nghĩa là: Mặt trăng giống cái cung mà chẳng bắn ai.

Ông Huy phê: “Câu này kém sắc sảo, không hay bằng câu kia, nhưng tỏ ra khí chất hiền hòa, sau này sẽ làm nên, cuộc sống sẽ chu toàn”.

Sau đó, lại có một người học trò khác đối rằng:

Phẩn bất uy quyền dị sử nhân

nghĩa là: Phân cứt chẳng uy quyền gì mà dễ sai khiến người.

Ông Huy phê: “Sau này sang nhưng là hạng bỉ lậu!”

Quả nhiên, mấy năm sau, Nguyễn Giản Thanh đỗ thủ khoa, rồi đỗ trạng nguyên đời vua Lê Uy Mục (1508), làm Lễ bộ thượng thư, nhưng vì say đắm một cô gái đẹp ở Kinh mà đến ô danh bại giá. Còn Chiểu Huấn chỉ đỗ bảng nhãn nhưng làm quan và sống yên ổn không xảy ra chuyện gì cả. Riêng người học trò kia sau cũng vào bậc hào phú trong vùng, nhưng ai cũng chê là hạng thô lỗ, bỉ ổi”.*

Nhưng Việt-nam tự-điển của Lê Văn Đức, quyển hạ, phần II, trang 301, thì lại chép như sau:

“Thuở nhỏ, Nguyễn Trãi đi học tại nhà một ông đồ. Một bữa tan học mà trời mưa dai, tất cả học trò đều không về được. Thấy thế, thầy bèn ra câu đối để các trò có việc làm mà đợi mưa tạnh:

Vũ vô thiết-tỏa năng lưu khách

Trong tất cả các câu đối lại của học trò, chỉ có câu của Nguyễn Trãi hay nhất:

Sắc bất ba đào dị nịch nhân

nên được thầy khen nhưng bảo sau này Nguyễn Trãi sẽ bị hại vì nhan sắc đàn bà”.

§ 186. Kiến thức ngày nay, số 149, 9-1994

Hỏi: Việt Nam hiện nay có bao nhiêu dân tộc?

Học giả An Chi giải đáp: Ngày 2 tháng 3 năm 1979, Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê Hoàng Trình đã ký quyết định ban hành “Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam”, nội dung như sau:

“Các dân tộc trong danh mục này là những cộng đồng được xác định dựa trên ba tiêu chuẩn cơ bản: đặc điểm ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt – văn hóa và ý thức tự giác dân tộc. Tính đến 31-12-1978, số lượng dân tộc trong toàn quốc là 54, sắp xếp theo thứ tự số lượng dân số như sau:

01. Kinh (Việt), -02. Tày, -03. Thái, -04. Hoa (Hán), -05. Khơme, -06. Mường, -07. Nùng, -08. Hmông (Mèo), -09. Dao, -10. Gia-rai, -11. Ngái, -12. Ê-đê, -13. Ba-na, -14. Xơ-đăng, -15. Sán Chay (Cao Lan – Sán Chỉ), -16. Cơ-ho, -17. Chăm (Chàm), -18. Sán Dìu, -19. Hrê, -20. Mnông, -21. Ra-glai, -22. Xtiêng, -23. Bru-Vân Kiều, -24. Thổ, -25. Giáy, -26. Cơtu, -27. Gié-Triêng, -28. Mạ, -29. Khơ-mú, -30. Co, -31. Ta-ôi, -32. Chơ-ro, -33. Kháng, -34. Xinh-mun, -35. Hà Nhì, -36. Chu-ru, -37. Lào, -38. La Chí, -39. La Ha, -40. Phù Lá, -41. La Hủ, -42. Lự, -43. Lô Lô, -44. Chứt, -45. Mảng, -46. Pà Thẻn, -47. Cơ Lao, -48. Cống, -49. Bố Y, -50. Si La, -51. Pu Péo, -52. Brâu, -53. Ơ-đu, -54. Rơ-măm”.

§ 187. Kiến thức ngày nay, số 149, 9-1994

Hỏi: Tôi vẫn nghĩ rằng thông, tùng, liễu, bách là những từ Hán nhưng các chữ tùng 松, liễu 柳, bách 柏 thì ai cũng biết mà chữ thông thì không tìm ra. Xin nhờ An Chi tìm giúp.

Học giả An Chi giải đáp: Đó là chữ 樅 nhưng âm Hán-Việt chính thống hiện đại của nó lại là thung vì thiết âm của nó là “thất cung thiết”. Trong Quảng vận, thượng bình thanh, quyển đệ nhất, thì nó được xếp vào vận bộ thứ ba tức vận chung (chức dung thiết). Một số chữ thuộc vận này cũng có biến thể ngữ âm là chữ thuộc vận -ông, chẳng hạn: -xung trong xung phá cũng đọc thành xông trong xông pha, -lung trong lao lung chính là lồng trong lồng chIm, -nùng (hậu) chính là nồng (hậu). Cũng vậy, thung ở đây chính là thông. Chữ 樅 đã được Dictionnaire classique de la langue chinoise dịch là “mélèze” còn Quảng vận thì giảng là “tên cây, lá giống lá tùng, thân như thân bách” (mộc danh tùng diệp, bách thân).

§ 188. Kiến thức ngày nay, số 150, 9-1994

Hỏi: Xin giải thích giúp thành ngữ “già kén kẹn hom”. “Kẹn hom” đúng hay là “kẹn hon” mới đúng?

Học giả An Chi giải đáp: Hình thức đúng là già kén kẹn hom. Câu này vốn là một lối nói bắt nguồn từ nghề nuôi tằm.

Đời sống con tằm đã được Nguyễn Huy Hồng tóm tắt như sau: “Mới nở đến ba ngày là rụng lông, con tằm từ màu đen chuyển dần sang màu trắng, rồi nằm một ngày một đêm không ăn uống gì, lột xác đổi lốt lớn lên gọi là dậy vào ăn mốt, ba ngày lại nằm một ngày dậy vào ăn hai, ba ngày lại nằm một ngày dậy vào ăn ba, ba ngày lại nằm một ngày dậy vào ăn dỗi (Từ điển tiếng Việt 1992 cũng như nhiều người thường viết ăn rỗi – AC), bốn ngày thì chín” (…) Tằm chín (là con) tằm đã to lớn hết cỡ (thường bằng ngón tay út), thân mình từ trắng bên ngoài, đen trong ruột chuyển sang toàn thân vàng óng, trông trong trong (vì dâu đã tiêu hết thành chất tơ trong bụng tằm)”.*

Tằm chín là những con tằm đã phát triển đến giai đoạn mà người nuôi tằm phải thả chúng trên những cái né để cho chúng kéo kén. “Né là một tấm phên mắt cáo bằng nan tre nan nứa có nẹp buộc chắc chắn, có hai thanh tre cứng buộc chéo ra bốn góc làm chân (cao cách mặt đất khoảng 0,20m), khi dựng đứng có que chắc chống đỡ phía sau, rộng khoảng 1m, cao khoảng 1,50m. Trên mặt né có dắt các búi rơm sóng hoặc dây củ từ để cho tằm làm tổ”*. Còn hom thì chính là những cái nan tre, nan nứa dùng để đan né (Việt Nam tự-điển của Lê Văn Đức đã ghi nhận và giảng như sau: “Hom: Nan tre để đan”).

Thế là con tằm kéo kén trên cái né đan bằng những cái hom. Nếu người nuôi tằm gỡ kén đúng lúc thì đương nhiên là dễ dàng. Còn nếu để cho kén già, nghĩa là quá hạn, thì kén sẽ khó róc do dính quá chặt vào hom, nghĩa là kén sẽ bị kẹn (Cũng ViệtNam tự-điển của Lê Văn Đức giảng: “Kẹn: sát quá, không róc”). Vì thế mà những nhà nuôi tằm mới đúc kết thành kinh nghiệm: già kén kẹn hom.

Khi lối nói trên đây của các nhà nuôi tằm đi vào ngôn ngữ chung của toàn xã hội thì nó dần dần bị người sử dụng ngôn ngữ hiểu sai lệch đi – có phải ai cũng thạo nghề nuôi tằm đâu! – theo kiểu từ nguyên dân gian (cũng gọi là từ nguyên thông tục) mà cho rằng kén là một động từ có nghĩa là chọn lựa tỉ mỉ theo tiêu chuẩn hoặc theo sở thích riêng. Và già kén được hiểu là đã chọn lựa tỉ mỉ như thế mà lại còn chọn lựa kéo dài trong một thời gian quá lâu. Vì đã hiểu vế đầu như thế cho nên trong tiếng Việt hiện nay người ta mới hiểu cả câu già kén kẹn hom là “kén chọn kỹ quá để đến nỗi tình duyên lỡ làng, cuối cùng có thể gặp cảnh không như ý” (Từ điển tiếng Việt 1992). Người ta đã mặc nhiên cùng nhau hiểu như thế mà không cần biết kẹn hom vốn có nghĩa là gì nữa.

Những lối nói riêng của các nghề khi đi vào vốn ngôn ngữ chung vẫn thường có thể bị hiểu sai lệch đi như thế, chẳng hạn câu Mũi vạy lái phải chịu đòn vốn là một lối nói của nghề ghe thuyền đã bị hiểu sai thành Mũi dại lái phải chịu đòn (Về câu này, xin xem Kiến thức ngày nay, số 98, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 24 – 25).

§ 189. Kiến thức ngày nay, số 150, 9 – 1994

Hỏi: Hai tiếng “câu đương” có nghĩa là gì? Có phải đó là một chức sắc hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Nhà dân tộc học Trần Từ đã viết về hai tiếng câu đương như sau:

“Câu đương: Riêng từ này hoàn toàn tối nghĩa, nếu chỉ quy về tiếng Việt hiện đại. Phải chăng đây là một từ cổ (gốc Nam Á hay Nam Đảo?) chỉ còn đọng lại trong trường hợp đang bàn, và một trường hợp khác tương tự trong hội đồng hương chức của làng Việt ở Nam Bộ trước năm 1904 (tức trước năm người Pháp tiến hành cuộc “cải lương hương chính” đầu tiên trong miền này), chức câu đương giữ nhiệm vụ giải quyết các trường hợp kiện cáo lặt vặt giữa dân làng với nhau.

“Giáo sư Trần Quốc Vượng còn nhắc chúng tôi rằng, nếu căn cứ vào Đại Việt sử ký toàn thư, bộ sử ra đời hồi thế kỷ XV, dưới triều Lê, thì chức câu đương vẫn còn có mặt trong bộ máy chính quyền ở cơ sở ít nhất cũng cho đến thế kỷ XIII, dưới triều Trần: bấy giờ, thái sư Trần Thủ Độ có lần đi kinh lý các xã đã kiểm tra sổ sách, kiểm tra xong thì cho cử “câu đương”. Vẫn theo anh Vượng, văn cảnh của đoạn sử ấy không cho phép người đọc ngày nay định rõ chức năng cụ thể đương thời mà chức viên đó đảm nhiệm.”*

Có đúng câu đương là một từ cổ có gốc “Nam Á” hoặc “Nam Đảo” như Trần Từ đã giả định hay không? Hoàn toàn không vì đó là một từ Việt gốc Hán mà chữ viết là 句當, đã được Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu giảng như sau: “(…) người phải liệu biện một công việc gọi là cấu đương. Ta quen gọi là câu đương”. Việt Hán thông-thoại tự-vị của Đỗ Văn Đáp phiên là câu đương và giảng là “cáng đáng công việc”. Hán-Việt tân từ-điển của Nguyễn Quốc Hùng cũng phiên là câu đương và giảng là “sắp xếp giải quyết công việc”. Tuy âm chính thức của chữ 句 trong trường hợp này phải là cấu vì thiết âm của nó là “cá hậu thiết” (Xem Từ nguyên, Từ hải) nhưng Từ nguyên còn chú rõ là có thể đọc thành câu (“dịch đọc bình thanh”). Vậy cấu đương cũng đọc là câu đương. Từ này có nghĩa là liệu biện, xử lý công việc. Nhưng ngoài nghĩa trên, Từ hải có cho biết thêm rằng câu đương còn là một chức danh đặt ra từ đời Tống nữa. Khi Tống Cao Tông lên ngôi (1127) thì vì kỵ húy của ông vua này (húy của Tống Cao Tông là 構,chữ viết tuy khác nhưng cũng đọc là cấu) nên mới đổi mà gọi cấu (câu) đương thành cán biện (Đây là trường hợp thay thế từ bị kiêng kỵ bằng một từ đồng nghĩa với nó).

Xét về cấu tạo thì câu đương và cán biện đều vốn là những ngữ động từ đẳng lập (gồm hai động từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với nhau) được chuyển loại thành danh từ để chỉ một chức danh. Danh từ này đã được người Việt Nam mượn để chỉ một chức dịch ở làng. Chức dịch này đương nhiên có thể không giống với chức viên câu đương của Trung Hoa (Nhiều từ Việt gốc Hán khi đi vào tiếng Việt thì lại có thêm nghĩa khác mà chúng đã không hề có trong tiếng Hán).

Trần Từ đã không đúng khi ông khẳng định rằng câu đương là một từ “hoàn toàn tối nghĩa nếu chỉ quy về tiếng Việt hiện đại”. Thực ra ta không nên vì chính mình không biết được nghĩa của một từ mà bảo rằng nó tối nghĩa hoặc không có nghĩa. (Tiếc rằng hiện tượng này đang là thời thượng trong giới Việt ngữ học). Chỉ có thể nói rằng mình không tìm được hoặc chưa tìm được nghĩa của nó mà thôi. Vả lại chỉ có cách diễn đạt tối nghĩa, câu văn tối nghĩa chứ không có từ tối nghĩa. Từ mà tối nghĩa thì sự giao tiếp sẽ trở nên hỗn loạn.

Tóm lại, cứ theo Trần Quốc Vượng thì câu đương là một chức dịch ở cấp xã còn tồn tại đến thế kỷ XIII, thời nhà Trần. Cứ theo chính Trần Từ thì đó là một chức dịch “giữ nhiệm vụ giải quyết các trường hợp kiện cáo giữa dân làng với nhau” trong hội đồng hương chức ở nông thôn Nam Bộ trước năm 1904. Còn cứ theo Đại-Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của thì đó là “chức việc làng coi sóc các việc trong làng” (Xem chữ câu), là “chức làm lớn trong làng coi lãnh các việc” (Xem chữ đương). Cuối cùng, cứ theo Từ điển Việt-Bồ-La của A. de Rhodes thì câu đang (chữ 當 cũng đọc là đang) là “người quản lý công việc” (Xem chữ câu), là “người quản lý được trao phó công việc” (Xem chữ đang). Ít nhất người ta cũng có thể biết được như trên về từ câu đương, xưa còn đọc là câu đang, chứ đây không phải là “một từ gốc Nam Á hay Nam Đảo”, càng không phải là một “từ tối nghĩa”.

§ 190. Kiến thức ngày nay, số 150, 9-1994

Hỏi: Xin cho biết nguồn gốc và ý nghĩa của từ “đăng cai”.

Học giả An Chi giải đáp: Đăng cai là một biến thể ngữ âm của đang cai, cũng đọc thành đương cai. Đây là một từ Việt gốc Hán, chữ viết là 當 該 (chữ 當 có thể đọc là đương hoặc đang) mà Việt-Hán thông thoại tự-vị của Đỗ Văn Đáp phiên là đương cai. Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức cũng như Tự-điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập chỉ ghi nhận có đương cai (mà không có đang cai và đăng cai) còn Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên thì chỉ ghi nhận có đương cai và đăng cai. Riêng Từ điển tiếng Việt 1992 thì ghi nhận đăng cai và đương cai và ghi chú rằng đương cai là từ cũ, ít dùng.

Việt Hán thông-thoại tự vị của Đỗ Văn Đáp giảng đương cai là “người vừa khi chủ biên việc tế tự”. Từ điển tiếng Việt 1992 giảng đương cai là “đăng cai” và giảng đăng cai như sau: “1. Chịu trách nhiệm, theo sự phân công lần lượt, tổ chức vật chất một đám hội trong làng xóm ngày trước: Đăng cai việc làng. 2. Đứng ra tổ chức một cuộc gì đó có nhiều người hoặc nhiều tổ chức tham gia: Đăng cai đêm liên hoan văn nghệ. Nước đăng cai tổ chức hội nghị (có nhiều nước tham gia).” Việt-nam tự-điển của Lê Văn Đức giảng đương cai là “người được làng cắt ra lo việc đình đám”. Tự-điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập giảng đương cai là “Đứng ra cai quản – Người phải trông nom tiệc lệ đám sá ở thôn quê”. Còn Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên thì giảng đang cai là “chịu trách nhiệm tổ chức một đám, một cuộc vui, một hội nghị”. Các định nghĩa trên đây thực ra đều chỉ là đại đồng tiểu dị với nhau vì chúng cùng có chung nét nghĩa sau: chịu trách nhiệm (hoặc người chịu trách nhiệm) tổ chức.

Hình thức gốc của từ đang xét là đương cai hoặc đang cai còn đăng cai chỉ là một lối nói trại của đang cai, mới phát sinh ở miền Bắc từ sau năm 1954 mà thôi. Khi nói đang cai, người ta đã liên tưởng đến yếu tố đăng trong đăng ký, là một từ rất thịnh hành trong sinh hoạt xã hội về mọi mặt ở miền Bắc từ “đăng ký mua hàng”, “đăng ký khám bệnh”, “đăng ký vé xe” cho đến “đăng ký hộ khẩu”, “đăng ký kết hôn”, v.v.. Do áp lực của đăng trong đăng ký mà đang trong đang cai đã bị phát âm thành đăng vì nghĩa của từ này làm liên tưởng đến nghĩa của từ kia. Bởi không thừa nhận đăng cai là hình thức phát âm chuẩn nên Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên mới không ghi nhận nó (mà chỉ ghi nhận hình thức chuẩn là đang cai). Còn sở dĩ Việt-Nam từ-điển của Lê Văn Đức không ghi nhận đăng cai thì chỉ đơn giản vì đây là một lối nói tuy thịnh hành ở miền Bắc nhưng trước năm 1975, miền Nam lại không hề biết đến. Với tinh thần thực sự cầu thị, Từ điển tiếng Việt 1992 đã ghi nhận đăng cai vì hiện nay, ở cả miền Bắc lẫn miền Nam, hình như chẳng còn ai nói đương cai hoặc đang cai nữa mà chỉ nói đăng cai, đặc biệt là trên các phương tiện thông tin đại chúng.

§ 191. Kiến thức ngày nay, số 151, 9-1994

Hỏi: Tại sao người ta hay nói “đầu Ngô mình Sở” mà không nói “đầu Yên mình Triệu” hoặc không dùng tên nước nào khác?

Học giả An Chi giải đáp: Sở dĩ nói đầu Ngô mình Sở mà không nói “đầu Yên mình Triệu” hoặc không dùng tên của nước nào khác là vì câu thành ngữ này của tiếng Việt bắt nguồn từ câu thành ngữ tiếng Hán: Ngô đầu Sở vĩ. Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức (quyển thượng, ph.II, tr. 112) cũng khẳng định xuất xứ của câu đó là như thế. Vì xuất xứ bằng tiếng Hán đã có sẵn tên nước Ngô và nước Sở nên câu tiếng Việt cũng nhắc lại tên hai nước đó chứ không đưa tên của nước nào khác vào. Còn trong nguyên văn tiếng Hán thì nhất định phải là Ngô và Sở chứ không thể là nước nào khác vì Ngô đầu Sở vĩ là một lối nói dùng để mô tả vị trí địa lý của đất Dự Chương, một miền đất nay thuộc tỉnh Giang Tây, giáp với miền thượng du của tỉnh Giang Tô, xưa là đất Ngô – nên mới nói “Ngô đầu” – và miền hạ du của tỉnh Hồ Bắc, xưa là đất Sở – nên mới nói “Sở vĩ”. Theo Từ hải thì Chức phương thặng của Hồng Sô có câu: “Dự Chương chi địa, vi Ngô đầu Sở vĩ” (Đất Dự Chương là (đất) ở đầu Ngô cuối Sở). Phương dư thắng lãm cũng có câu: “Dự Chương chi địa, vi Sở vĩ Ngô đầu” (Đất Dự Chương là (đất) cuối Sở đầu Ngô). Vị trí địa lý đã “trót” như thế rồi nên không thể đưa Yên đưa Triệu hoặc đưa nước nào khác vào mà thay thế cho Ngô và Sở ở đây được. Câu tiếng Việt, vì chỉ là “diễn Nôm” của câu tiếng Hán đang xét, cho nên tất nhiên phải nhắc lại tên nước Ngô và tên nước Sở cho đúng với “nguyên bản”. Tuy nhiên, “bản dịch” cũng có “cải biên” về chi tiết thứ yếu mà nói mình Sở thay vì “đuôi Sở” (Sở vĩ).

Cuối cùng, xin lưu ý rằng trong tiếng Hán thì từ ngữ được hiểu như đã nói nhưng sang đến tiếng Việt thì “bản dịch” lại được dùng theo nghĩa khác hẳn. Lại xin lưu ý rằng Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức đã giảng câu đầu Ngô mình Sở như sau: “Cái đầu bên nước Ngô (đầu đội mão nước Ngô), cái mình bên nước Sở (ăn-vận quần áo nước Sở)”. Chúng tôi không biết là tác giả đã căn cứ vào tích nào, điển nào hay đó chỉ là suy diễn để giảng cho “hợp lý” mà thôi. Vậy xin nêu lên để thỉnh giáo các bậc thức giả.

§ 192. Kiến thức ngày nay, số 151, 9-1994

Hỏi: Trên Kiến thức ngày nay, số 134, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 87 – 88, ông An Chi có giảng rằng “thò lò là cái bong vụ sáu mặt (nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục) có tra cốt ở giữa để bong cho quay”. Nhưng sách Kể chuyện thành ngữ tục ngữ của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994, tái bản lần thứ nhất, có sửa chữa), nơi mục “Thò lò sáu mặt, Thò lò hai mặt”, trang 340 – 341, lại giảng như sau: “Về hình dáng cấu tạo thò lò trông như một khối lập phương bóp méo đi và đánh số vào các mặt, ở giữa hai mặt đó có một chiếc cán nhỏ bằng que tre xuyên qua để quay khi chơi bạc” (tr. 340). Và: “Có lẽ (…) trong thực tế còn có loại thò lò làm bằng gỗ mỏng hay bìa cứng chỉ có hai mặt xấp và ngửa để đánh bạc” (tr. 341). Vậy xin ông An Chi cho biết ai đúng, ai sai.

Học giả An Chi giải đáp: Cái thò lò không phải là “một khối lập phương bóp méo đi” theo sự diễn tả trong sách Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ (KCTNTN) của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên. Thứ nhất, đó là một vật nhỏ hình khối hoàn toàn đều đặn và cân đối. Thứ hai, đó không phải là một khối lập phương vì khối lập phương chỉ có sáu mặt trong khi cái thò lò dùng để đánh bạc lại là một hình lăng trụ có đến tám mặt: sáu mặt bên là những hình chữ nhật bằng nhau, có đánh dấu (bằng những chấm tròn) thành các mặt: nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục còn hai mặt đáy là những hình lục giác đều (và cũng bằng nhau). Cái cốt dùng để bong thì xuyên suốt cái thò lò từ đúng điểm giữa của mặt đáy này sang đúng điểm giữa của mặt đáy kia và thừa ra ở mỗi đầu khoảng 1cm. Tùy kích thước của cái thò lò mà hai đầu thừa ra này có thể dài hoặc ngắn hơn, miễn sao cho cân đối để cái thò lò có thể quay đều và đằm vì một trong hai đầu (bất cứ đầu nào cũng được) sẽ là “chân” của cái thò lò khi nó quay. Nếu “chân” mà quá cao -nghĩa là cái đầu cốt thừa ra quá dài – so với “thân” của cái thò lò thì nó sẽ chao đảo trong khi quay, thậm chí có thể ngã liền mà không quay được. Khi một đầu đã là “chân” của cái thò lò thì đầu kia sẽ là cái “cán” mà người ta kẹp vào giữa ngón cái và ngón trỏ (hoặc ngón giữa) để bong cho nó quay. Chẳng làm gì có chuyện “người ta dùng hai lòng bàn tay kẹp vào cán thò lò và xiết mạnh rồi tung lên không; nó sẽ quay tít và rơi xuống đất” như KCTNTN đã diễn tả. Cứ y như là thủ thành của môn bóng đá phát bổng trái banh lên phần giữa sân cỏ hoặc như đấu thủ môn quần vợt lốp (tiếng Anh: to lob) trái banh sang phần sân của đối thủ! Thực ra, người ta chỉ bong cái thò lò ngay trên mặt một cái dĩa hoặc trong lòng một cái chén (bát), cũng có khi bong nó ngay trên mặt tờ giấy hoặc cái khay gỗ (có kẻ hoặc khắc sáu ô từ một đến sáu nút) được dùng để làm sòng bạc mà thôi.

KCTNTN trang 340 đã viết: “Ngày nay, chắc ít người biết đến con thò lò và trò chơi của nó ra sao” nhưng cứ theo những gì đã thấy được trong mục “Thò lò sáu mặt, thò lò hai mặt” của sách này thì có thể khẳng định rằng chính tác giả của mục đang xét cũng chưa hề biết đến nó. Tác giả đã cứ theo lời giảng trong từ điển của Khai trí tiến đức, của Lê Văn Đức và của Thanh Nghị, rằng thò lò có sáu mặt được đánh số mà luận ra rằng nó là một khối lập phương (vì khối lập phương có sáu mặt!). Thực ra các quyển từ điển đó, và cả chúng tôi nữa (trên Kiến thức ngày nay, số 134, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 87) chỉ nói đến những mặt số, tức là những mặt bên – mà không nói đến hai mặt đáy – của cái thò lò nhưng đều có nói rõ rằng thò lò là cái bong vụ (hoặc con quay) có sáu mặt. Sáu mặt này đương nhiên chỉ có thể là sáu mặt bên mà thôi. Còn cái vật nho nhỏ hình khối lập phương – nhưng phải là khối lập phương thật sự đều đặn và cân đối chứ không “bị bóp méo đi” – mà tất cả sáu mặt đều có đánh dấu từ một đến sáu (thành sáu mặt nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục), thì trong Nam lại gọi là hột lúc lắc, hoặc hột xí ngầu (xí ngầu = tứ ngũ, nói theo âm Triều Châu) còn ngoài Bắc thì gọi là con xúc xắc (Từ điển tiếng Việt 1992 cho rằng cách viết chuẩn là súc sắc). Nếu cái thò lò là một khối lập phương mà hai mặt đã bị dùng để “tra cán” như KCTNTN đã khẳng định thì nó chỉ còn lại có bốn mặt bên, lấy đâu ra đủ sáu mặt để đánh nút cho từng mặt thành: nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục?

Vậy cái thò lò, mà trong Nam gọi là cái bong vụ và hột lúc lắc, mà ngoài Bắc gọi là con xúc xắc, đều là những đổ cụ có “chức năng” như nhau. Khác nhau chỉ là ở chỗ nếu dùng cái thò lò, tức cái bong vụ, thì phải bong còn nếu dùng hột lúc lắc, tức con xúc xắc thì phải lắc.

Tác giả lại còn nghĩ ra thêm rằng “có lẽ (…) trong thực tế còn có loại thò lò làm bằng gỗ mỏng hay bìa cứng chỉ có hai mặt xấp (sic) và ngửa để đánh bạc!” Người thực sự biết cái thò lò sẽ thấy ngay rằng đây là chuyện ngộ nghĩnh mà vô lý và rằng các nhà biên soạn sách Kể chuyện thành ngữ tục ngữ quả đã có một trí tưởng tượng “bay bổng”.

§ 193. Kiến thức ngày nay, số 151, 9-1994

Hỏi: Xin cho biết nguồn gốc của tên gọi chùa Hương và cho biết vài nét về cảnh chùa.

Học giả An Chi giải đáp: Chùa Hương là tên thường gọi và là tên gọi tắt của chùa Hương Tích. Sở dĩ gọi chùa Hương Tích là vì chùa được cất trên núi Hương Tích, cũng gọi là Hương Sơn, thuộc huyện Hoài An, phủ Ứng Hòa xưa, nay thuộc huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây.

Từ điển di tích văn hóa Việt Nam của Viện nghiên cứu Hán Nôm do Ngô Đức Thọ chủ biên đã chép về chùa này như sau: “Tương truyền Phật Quan âm Bồ tát từng Nam du đến trụ trì tại đây. Thắng cảnh chùa Hương bao gồm một số di tích chùa đền, hòa hợp với cảnh sắc hang động, núi non sông suối thiên nhiên hùng vĩ, khiến chùa trở nên nổi tiếng khắp trong nước. Muốn vào chùa phải đi bằng thuyền nhỏ, trước tiên đến đền Trình, tục gọi đền Quan Lớn, sau đó tới chùa Thiên Trù (Bếp trời) có hai tháp lớn bằng đá và bằng gạch. Đi tiếp tới chùa Giải Oan có giếng nước tương truyền là nơi Phật tắm. Qua chùa Tiên Sơn có các pho tượng đá, vượt đỉnh Mai Lĩnh có rừng mơ thì tới cửa chùa Hương. Chùa ở trong động đá giữa lưng chừng núi, cửa động khắc đá 5 chữ “Nam thiên đệ nhất động”, tương truyền do vua Lê Thánh Tông ban cho chùa từ thời Hồng Đức. Trước cửa động có cầu Liên Kiều, do vua Lê cho xây bằng gạch, hai bên vách đá treo chuông và trống đồng do đệ tử tiến cúng. Động đá rất rộng, có thể chứa trên 500 người. Trong động nhũ đá ngũ sắc lung linh ẩn hiện thành đủ thứ hình thù được người đời gọi là Ngọc Tỉnh, Long Tuyền, Lẫm Gạo, Kho Tiền, Án Sách, v.v.. Ở giữa một phiến đá cao phẳng nổi lên tảng đá hình tượng Phật. Thuộc quần thể thắng cảnh chùa Hương còn có chùa Tuyết Sơn và chùa Hinh Bồng. Chùa Tuyết Sơn cũng nằm trong động đá giữa sườn núi Tuyết Sơn ở phía Tây “Bạch Tuyết môn”, bên trong có tượng Phật bằng đá. Triều Lê đã dựng hành cung tại đây, gọi là Bảo Đài, có bàn đá rộng phẳng, từ đó nước suối chảy qua, tươngtruyền là chỗ tắm của vua. (…) Chùa Hinh Bồng trên núi Hinh Bồng ở mé ngoài Hương Tích, cũng là nơi cảnh sắc sơn thủy hữu tình.”*

Ở miền Trung, cũng có một chùa tên là Hương Tích, mà cũng Từ điển di tích văn hóa Việt Nam chép như sau: “(Chùa) ở trên ngọn núi cùng tên thuộc dãy Hồng Lĩnh về địa phận huyện Can Lộc (tức là Thiên Lộc), tỉnh Nghệ Tĩnh. Chùa có từ thời Trần, nhưng truyền thuyết gắn với sự tích còn xa xưa hơn, như nói con gái Trang Vương nước Sở tên là Mậu đến tu hành và hóa thân tại đây, hoặc nói Trang Kiệu tướng nước Sở, sau làm vua nước Dạ lang, lập chùa tu hành ở đây (Theo Thoái thực ký của Trương Quốc Dụng). Qua nhiều đợt trùng tu, trên nền cũ hiện nay chỉ còn di tích chùa thời Lê với quả chuông lớn và gạch cổ có chạm chữ và hình hoa lá. Từ dưới chùa đi lên, đường núi quanh co qua khe suối, nhiều chỗ dốc đứng. Tương truyền mùa xuân đi lễ, càng gần đến chùa càng nức hương thơm, do đó mà đặt tên là chùa Hương Tích. Tên núi do đó cũng gọi theo tên chùa. Trước chùa có suối thác chảy quanh năm. Sau chùa có am Đá Trắng, thường gọi là am Thánh Mẫu. Một vùng thông trúc xanh tốt, cảnh đẹp núi sông thu hút vào tầm mắt, được coi là nơi đệ nhất danh thắng của đất Hoan Châu.”*

§ 194. Kiến thức ngày nay, số 152,10 – 1994

Hỏi: Câu “nhàn cư vi bất thiện” xuất xứ từ đâu? Có người lại bảo là “nhàn cư vi bất tiện”, có đúng không?

Học giả An Chi giải đáp: Xuất xứ của câu “Nhàn cư vi bất thiện” là thiên “Đại học” trong sách Lễ ký. Nguyên văn đầy đủ là: “Tiểu nhân nhàn cư vi bất thiện” nghĩa là kẻ tiểu nhân (hễ) ở không (thì hay) làm điều xằng bậy. Nguyễn Đăng Thục đã luận về vấn đề này như sau: “Vậy người biết đạo-lý luôn luôn nội tỉnh, tự soi xét lấy mình khi ngồi không một mình, không để cho những tư tưởng gian tà nó tiêm nhiễm vào, và đột nhiên, một ngày kia thấy nó bùng khởi, với một sức mạnh không sao cản trở được nữa. Bấy giờ nó sô (sic) đẩy mình như trôi theo giòng(sic) nước. Ấy sở dĩ tại sao mà người quân tử phải luôn luôn thận kỳ độc (cẩn thận giữ mình khi chỉ có một mình – AC). Thận kỳ độc để nội tỉnh, chứ không như tiểu nhân nhàn cư vi bất thiện”.*

§ 195. Kiến thức ngày nay, số 152,10-1994

Hỏi: Câu ca dao:

“Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”

cũng có người lại bảo câu dưới là:

“Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương”

Như vậy câu nào đúng?

Học giả An Chi giải đáp: Nguyên văn đầy đủ gồm có bốn câu như sau:

Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Mịt mù khói tỏa ngàn sương

Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.

Đây là những câu được xem là ca dao nói về kinh thành Thăng Long xưa. Trấn Vũ là Trấn Vũ quán, tục gọi đền Quan Thánh, ở góc đường Quan Thánh giáp với đầu đường Cổ Ngư, nay là đường Thanh Niên (Hà Nội). Thọ Xương là một trong hai huyện của phủ Phụng Thiên thuộc kinh thành xưa, nay là phạm vi quận Hoàn Kiếm và quận Hai Bà Trưng của Hà Nội. Yên Thái là làng Bưởi nổi tiếng về nghề làm giấy (tiếng chày ở đây là tiếng chày giã bột để làm giấy) nay thuộc quận Ba Đình, Hà Nội. Còn Tây Hồ thì đương nhiên là… hồ Tây, rộng trên 500ha, nằm ở phía Tây Bắc nội thành Hà Nội.

Ngay tại Hà Nội, câu thứ hai cũng có một dị bản là “Tiếng chuông Trấn Quốc…” (thay vì “Trấn Vũ”). Trấn Quốc là chùa Trấn Quốc, tọa lạc ở phía nam hồ Tây, trên đường Cổ Ngư, cách đền Quan Thánh (Trấn Vũ quán) độ vài trăm mét. Còn câu thứ nhất cũng có một dị bản là:

Phất phơ ngọn trúc trăng tà

Có thể là về sau người ta đã lấy hai câu đầu và thay Trấn Vũ (hoặc Trấn Quốc) bằng Thiên Mụ để nói về Huế vì ở Huế cũng có địa danh Thọ Xương.

Cuối cùng, xin nói thêm rằng, theo một số tác giả, đặc biệt là Dương Thiệu Tống trong quyển Tâm sự Dương Khuê và Dương Lâm (Văn học, 1995) thì bốn câu tưởng là ca dao trên đây chính lại là một bài thơ của Dương Khuê có nhan đề là “Hà Nội tức cảnh”.*

§ 196. Kiến thức ngày nay, số 152,10-1994

Hỏi: Nói về vai trò của người bảo trợ văn hóa, bài “Khang Hy, hoàng đế lỗi lạc Thanh triều dưới mắt người phương Tây” trên Kiến thức ngày nay, số 149, trang 52, đã viết về ông vua này như sau: “Về lãnh vực truyền thống, ông là người khởi hứng cho ít nhất năm công trình lớn: một bộ tự điển tiếng Hán gồm hơn 40 ngàn chữ, làm cơ sở cho nhiều bộ từ điển về sau, bốn bộ bách khoa văn học rất phong phú những trích dẫn, tra cứu (một trong các bộ ấy, T’ou chou che tch’ eng (?) gồm tới 1.628 tập”. Xin cho biết âm Hán-Việt của “T’ou chou che tch’ eng” và xin giới thiệu cụ thể về bộ sách này.

Học giả An Chi giải đáp: Bộ tự điển đó là Khang Hy tự điển mà thỉnh thoảng chúng tôi có nhắc đến ở mục Chuyện Đông chuyện Tây. Bốn bộ bách khoa văn học là: Biền tự loại biên (240 quyển), Tử sử tinh hoa (160 quyển), Uyên giám loại hàm (450 quyển) và Bội văn vận phủ (212 quyển).

Còn T’ou chou che tch’eng là Đồ thư tập thành, tên gọi tắt của Cổ kIm đồ thư tập thành, một bộ sách đồ sộ gồm 10.000 quyển chính văn và 40 quyển mục lục. Theo Từ nguyên thì Cổ kIm đồ thư tập thành chia làm 6 vựng biên (có thể coi như phạm trù) là: lịch tượng, phương dư, minh luân, bác vật, lý học và kinh tế. Vựng biên lịch tượng (các hiện tượng và sự việc có liên quan đến năm tháng, thời tiết) chia làm 4 điển. Điển càn tượng (các hiện tượng liên quan đến trời) có 21 bộ gồm 100 quyển. Điển tuế công (thứ tự tháng, mùa và nông sự) có 43 bộ gồm 116 quyển. Điển lịch pháp có 6 bộ gồm 140 quyển. Điển thứ trưng (nhân mưa tạnh, rét ấm mà đoán kiết hung) có 50 bộ gồm 188 quyển. Vựng biên phương dư (địa lý nói chung và địa lý hành chính) chia làm 4 điển. Điển địa dư có 20 bộ gồm 140 quyển. Điển chức phương (chức quan lo công tác địa chính địa bạ ở các địa phương) có 223 bộ gồm 1544 quyển. Điển sơn xuyên có 401 bộ gồm 320 quyển. Điển biên duệ (các vùng đất xa ở biên giới) có 542 bộ gồm 140 quyển. Vựng biên minh luân (làm rõ luân thường) chia làm 8 điển. Điển hoàng cực (thiên tử đặt ra chuẩn tắc cho muôn dân tứ phương tuân theo) có 31 bộ gồm 300 quyển. Điển cung vi (cung thất) có 25 bộ gồm 140 quyển. Điển quan thường (quan lại và các chức quan) có 65 bộ gồm 800 quyển. Điển gia phạm có 31 bộ gồm 116 quyển. Điển giao nghị (giao tế, hữu nghị) có 37 bộ gồm 120 quyển. Điển thị tộc có 2694 bộ gồm 640 quyển. Điển nhân sự có 97 bộ gồm 112 quyển. Điển khuê viện (đức hạnh và dung mạo phụ nữ) có 117 bộ gồm 376 quyển. Vựng biên bác vật chia làm 4 điển. Điển nghệ thuật có 43 bộ gồm 824 quyển. Điển thần dị (chuyện thiêng liêng huyền bí) có 70 bộ gồm 320 quyển. Điển cầm trùng (động vật) có 317 bộ gồm 192 quyển. Điển thảo mộc có 700 bộ gồm 320 quyển. Vựng biên lý học chia thành 4 điển. Điển kinh tịch có 66 bộ gồm 500 quyển. Điển học hạnh có 96 bộ gồm 300 quyển. Điển văn học có 49 bộ gồm 260 quyển. Điển tự học (nghiên cứu văn tự) có 24 bộ gồm 160 quyển. Vựng biên kinh tế chia làm 8 điển. Điển tuyển cử có 29 bộ gồm 136 quyển. Điển thuyên hành (cân lường) có 12 bộ gồm 120 quyển. Điển thực hóa (lương thực, vải vóc, v.v.) có 83 bộ gồm 360 quyển. Điển lễ nghi có 70 bộ gồm 348 quyển. Điển nhạc luật có 46 bộ gồm 136 quyển. Điển thú chính (việc trấn thủ biên giới) có 30 bộ gồm 300 quyển. Điển tường hình (thận trọng về việc hình án) có 26 bộ gồm 180 quyển. Điển khảo công (chế tạo các loại đồ dùng) có 154 bộ gồm 252 quyển.

Tổng cộng là 6 vựng biên, 32 điển, 6109 bộ gồm 10.000 quyển (và 40 quyển mục lục). Sách soạn trong 10 năm cuối đời Khang Hy (Thanh Thánh Tổ) đến đầu đời Ung Chính (Thanh Thế Tông) mới xong.

§ 197. Kiến thức ngày nay, số 152,10-1994

Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 143, trang 58, có nói rằng tr~đ là một cặp tương ứng ngữ âm mà người ta có nhan nhản những thí dụ nhưng lại không cho thí dụ. Tôi biết đó là do khuôn khổ bài viết có hạn. Vậy lần này, xin nêu thêm thí dụ để chứng minh cho mối quan hệ ấy.

Học giả An Chi giải đáp: Trường hợp đầu tiên mà chúng tôi muốn nêu lên là trường hợp của tiếng trò trong học trò. Học trò không phải gì khác hơn là học đồ 學徒 mà Mathews, Chinese-English Dictionary dịch là “a pupil; an apprentice”. Hai chữ này cùng với nghĩa trên đây cũng đã được ghi nhận trong nhiều quyển từ điển tiếng Hán như Từ nguyên, Từ hải, Vương Vân Ngũ đại từ điển và cả Hiện đại Hán ngữ từ điển của Phòng biên tập từ điển, Sở nghiên cứu ngôn ngữ, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc do Thương vụ ấn thư quán ấn hành tại Bắc Kinh năm 1992. Đồng âm với trò trong học trò là trò trong giở trò. Trò ở đây là mưu mẹo, mánh mung, thực ra cũng chẳng phải gì khác hơn là đồ 圖 trong ý đồ, mưu đồ. Trò trong trò chơi cũng chính là đồ. Trò chơi chẳng qua là mẹo chơi, luật chơi, sự sắp xếp cách chơi. Đó là những thí dụ đầu tiên về mối tương ứng âm vị tr~đ trong lãnh vực Hán Việt học.

Thứ hai là trường hợp của chữ trọc 濁 trong ô trọc mà âm xưa là đục (trong vẩn đục). Vương Lực đã chứng minh rằng chữ trọc này xưa thuộc thanh mẫu định, nghĩa là có phụ âm đầu đ- vì thiên “Thích ngôn ngữ” trong sách Thích danh đã chú âm cho nó bằng chữ độc 漬.* Xin nói thêm rằng chữ trọc 濁 được hài thanh bằng chữ thục 蜀 mà chữ thục cũng lại hài thanh cho chữ độc 獨. Vậy chẳng có gì đáng lấy làm lạ nếu có một thời, chữ trọc cũng đã có phụ âm đầu là đ-.

Thứ ba là trường hợp của từ trợt trong phương ngữ Nam Bộ mà phương ngữ Bắc Bộ phát âm là trượt. Đây chính là âm xưa của chữ điệt 跌 (địch khiết thiết) có nghĩa là sẩy chân, té ngã. Lại còn một chữ điệt khác, tự hình là 脱 (thuộc bộ nhục 肉), có nghĩa là sai khớp xương. Chữ này có một âm thông dụng là trật trong trật khớp, trật xương, mà trặt là một biến thể ngữ âm trong phương ngữ Nam Bộ (trặt xương, trặt gân, v.v.). Chữ trặt này đã bị các quyển từ điển ghi thành trặc do người Nam Bộ phát âm -t cuối thành -k. Trong cái gọi là “từ láy” trục trặc thì trặc cũng vốn là trặt mà -t cuối đã bị -c [k] cuối của trục đồng hóa. Trục trặt có nghĩa gốc là cái trục, cái cốt (trong xe cộ, máy móc) bị “sai khớp”. Do nghĩa gốc này mà ngày nay trục trặc mới có nghĩa phái sinh thông dụng là “ở tình trạng gặp khó khăn, vướng mắc, không được trôi chảy” (Từ điển tiếng Việt 1992). Cả hai chữ điệt trên đây đều được hài thanh bằng chữ thất 失, chữ này cũng còn hài thanh cho chữ trật 秩 trong trật tự) mà âm xưa là đợt (trong đợt sóng, từng đợt, v.v.). Vậy rõ ràng là 失 đã từng hài thanh cho những chữ có phụ âm đầu là tr- hoặc đ-.

Thứ tư là trường hợp của chữ trất 窒, có nghĩa là nhét, lấp, làm cho nghẹt, mà Dictionaire classique de la langue chinoise của F.S. Couvreur dịch là “boucher”. Chữ trất này chẳng phải gì khác hơn là đút trong đút nút (= nhét nút vào). Chữ Hán đang xét được hài thanh bằng chữ 至 và chữ này cũng đã hài thanh cho nhiều chữ điệt khác nhau như là , 蛭, 姪, v.v., có phụ âm đầu là đ-.

Thứ năm là trường hợp của tiếng đìa trong (nước mắt) đầm đìa mà có thể sẽ có người cho là một từ láy. Thực ra đầm đìa là nhiều như nước đầm nước đìa. Đây là một từ ghép đẳng lập gồm hai danh từ đồng nghĩa, trong đó đìa là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một tiếng Hán ghi bằng chữ 池 mà âm Hán Việt chính thống hiện đại đọc là trì, có nghĩa là cái ao. Chữ trì được hài thanh bằng chữ dã 也, chữ này còn hài thanh cho chữ địa 地 là đất. Vậy chẳng có gì lạ nếu chữ 池 xưa kia đã từng đọc thành đìa. (Chữ đầm cũng là một từ Việt gốc Hán mà âm Hán Việt hiện đại là đàm, tự hình là 潭).

Nếu đi vào vấn đề yếu tố hài thanh (thanh phù) trong chữ Hán đọc theo âm Hán Việt thì sự tương ứng âm vị tr~đ có rất nhiều thí dụ mà chúng tôi không thể nêu thêm được.

§ 198. Kiến thức ngày nay, số 153, 10 – 1994

Hỏi: Chuyện Đông chuyện Tây trên một kỳ Kiến thức ngày nay có nói rằng Cæsar là quan chấp chính và quan độc tài của La Mã cổ đại. Nhưng trong một băng video mang chủ đề “Đêm Sài Gòn” do Asia Productions và Cæsar’s Palace (Las Vegas) thực hiện thì người giới thiệu lại nói rằng Cæsar là hoàng đế khi hai người sắm vai Cæsar và Cléopâtre xuất hiện trên sân khấu để chào khán giả. Tôi cho rằng Cæsar phải là hoàng đế mới đúng chứ tại sao lại chỉ là quan chấp chính hoặc quan độc tài mà thôi?

Học giả An Chi giải đáp: Hoàng đế, tiếng La Tinh là Imperator. Cæsar đã nhiều lần được quân sĩ của mình tung hô là Imperator sau mỗi lần thắng trận nhưng ông ta chưa bao giờ là hoàng đế. Danh từ Imperator có nhiều nghĩa: 1. người chỉ huy, người đứng đầu, người chủ. 2. tổng tư lệnh một quân đội, đại tướng, 3. tước hiệu danh dự dành cho một vị tướng thắng trận. 4. hoàng đế La Mã (đi chung với danh từ riêng và luôn luôn đứng trước). 5. người thắng cuộc (trong đấu cờ). 6. biệt danh của Jupiter.*

Nghĩa của từ Imperator mà quân sĩ của Cæsar đã dùng chỉ là nghĩa thứ 3 trên đây chứ không phải là nghĩa thứ 4 (nghĩa này chỉ phát sinh sau khi Cæsar đã chết). Cæsar rất muốn trở thành hoàng đế nhưng đáng tiếc là sau khi ông ta chết đến 17 năm thì đế chế La Mã mới được thiết lập (27 trước Công nguyên – 476 của Công nguyên) và hoàng đế La Mã đầu tiên lại là Octavianus Augustus (27 tr. CN – 14 của CN), cháu và con nuôi của ông ta. Tuy không phải là hoàng đế nhưng Cæsar chính là nhân vật đã khởi xướng ý thức hệ đế quyền và là người đã đặt nền móng cho chế độ quân chủ của La Mã cổ đại.

Lúc sinh thời, Cæsar đã giành được một sự ưu đãi hiếm có của Viện nguyên lão: quyền được đặt tôn hiệu Imperator ở trước tên của mình mà tập quán bấy giờ bắt phải luôn luôn đặt sau. Caius Julius Cæsar Imperator (Caius là tên riêng của Cæsar, Julius là tên của thị tộc, Cæsar là tên của gia tộc, Imperator là tướng thắng trận) trở thành Imperator Cæsar. Chính là xuất phát từ cấu trúc sau cùng này mà về sau danh từ riêng Cæsar mới trở thành danh từ chung chỉ tôn hiệu – vì nó chiếm vị trí của từ chỉ tôn hiệu Imperator – cho các ông vua La Mã không những của dòng Cæsar, mà cả của các dòng Flavius, Antoninus và Constantinus. Thế là từ chỗ được dùng làm tên riêng cho một nhà (kiểu như tiếng Việt nói nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, v.v.) danh từ riêng Cæsar đã trở thành danh từ chung có nghĩa là hoàng đế, dùng để chỉ cả các ông vua của nhà Flavius, nhà Antoninus và nhà Constantinus tại La Mã. Hơn thế nữa, nó còn đi vào tiếng Đức mà trở thành Kaiser để chỉ các hoàng đế của nước Đức và đi vào tiếng Nga mà trở thành tsar để chỉ các Nga hoàng (mà có một số người gọi là Sa hoàng theo phiên âm).

Tiếc thay cho Cæsar vì ông ta đã là hoàng đế hụt! Trước khi ông ta lên đường đi đánh người Parthicus (ở Trung Cận Đông) ấn định vào ngày 18 tháng 3 năm 44 tr. CN, tất cả các quan bốc phệ đều báo rằng La Mã phải có một ông vua thì mới trị nổi dân Parthicus. Thế là Aurelius Cotta, cậu của Cæsar, một trong các ông thầy bói đó, bèn đề nghị với Viện nguyên lão làm lễ đăng quang cho cháu mình trong phiên họp ngày 15 tháng 3, ba ngày trước khi Cæsar xuất chinh. Đúng ngày này, Viện nguyên lão họp tại Campus Martius (là nơi tụ họp để tổ chức các trò chơi hoặc để họp đại hội quốc dân tại thành La Mã), trong hội trường của Viện do Pompeius xây dựng. Khi Cæsar vào thì ông ta đã bị hạ sát bằng 35 nhát dao găm ngay dưới chân tượng Pompeius. Thi thể của ông ta nằm lại tại đây cho đến chiều thì ba người nô lệ của ông ta mới đến để khiêng đi. Cæsar chưa bao giờ là hoàng đế. Và lịch sử La Mã cổ đại cũng chưa bao giờ gọi ông ta như thế.

Người dẫn chương trình “Đêm Sài Gòn”, nam ca sĩ Anh Quý, đã nói trong diễn từ khai mạc rằng Cæsar’s Palace là “một nơi chốn để ghi lại dấu tích lịch sử oai hùng và làm sống lại quá khứ truyền kỳ và huyền thoại của đại đế Cæsar”. Có lẽ vì thấy bên cạnh Cæsar còn có nữ hoàng Cleopatra nên nghệ sĩ mới cho Cæsar “ăn theo” mà phong ông ta làm “đại đế”. Vậy xin mạn phép thay “đế” bằng “tướng” để trả lại cho Cæsar cái gì đích thực là của Cæsar.

§ 199. Kiến thức ngày nay, số 153,10-1994

Hỏi: Tại sao người ta thường gọi người đàn bà dữ là “sư tử Hà Đông”?

Học giả An Chi giải đáp: Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc do Lê Huy Tiêu biên dịch (Hà Nội, 1993) đã giải thích như sau:

“Ngày xưa có một người tự xưng là Long Khâu tiên sinh, rất sợ vợ, nhà thơ Tô Đông Pha làm một bài thơ trêu ông ta: “Long Khâu cư sĩ cũng đáng thương – Nói có nói không đêm chẳng ngủ – Bỗng nghe Hà Đông sư tử rống – Gậy chống rời tay lòng hoang mang” (Xem Dung Trai tùy bút, quyển 3 của Hồng Mại đời Tống). Hà Đông là quê hương của Liễu Thị, vợ Long Khâu tiên sinh, nay thuộc phía Nam tỉnh Sơn Tây. “Sư tử hống” là câu nói của nhà Phật, biểu thị uy nghiêm. Long Khâu tiên sinh bình thường vẫn nói về Phật nên Tô Đông Pha mượn tiếng nhà Phật để trêu ông. Đời sau dùng “Hà Đông sư hống” (sư tử Hà Đông gào rống) để chỉ người vợ hay ghen, đanh đá, bạc ác, hung hãn.

Nguyên văn tiếng Hán của bài thơ là:

Long Khâu cư sĩ diệc khả liên

Đàm không thuyết hữu dạ bất miên

Hốt văn Hà Đông sư tử hống

Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên

Long Khâu cư sĩ chính là Trần Tháo, tự Quý Thường, người Vĩnh Gia, đời Tống, vợ là người đàn bà họ Liễu (Liễu thị là người đàn bà họ Liễu chứ không phải là họ và tên của vợ Trần Tháo), tính hay ghen lại hung dữ. Một hôm, Tháo thết tiệc đãi khách, có ca kỹ đàn hát; nàng họ Liễu bèn vung gậy đập tường mà la hét om sòm, khiến cho khách khứa bỏ đi về cả. Vì vậy Tô Đông Pha mới làm bài thơ trên đây để vịnh chuyện này mà trêu chọc Trần Tháo.

Sư tử hống là ẩn dụ mà Kinh Phật dùng để chỉ tiếng thuyết pháp sang sảng và uy nghiêm của Đức Phật. Long Khâu cư sĩ Trần Tháo là người thường thích nói chuyện nhà Phật (cư sĩ là người tu tại gia) nên Tô Đông Pha mới dụng tâm dùng ba tiếng sư tử hống để ám chỉ sự la hét của nàng họ Liễu. Ngoài ra, nhà thơ còn có ý đối sư tử với rồng nữa: Long Khâu là gò Rồng. Vị cư sĩ náu mình ở gò Rồng mà lại được nghe tiếng sư tử gầm thì còn gì… thú vị bằng.

Địa danh Hà Đông đã được Từ nguyên và Từ hải giải thích khác với Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc. Theo hai quyển từ điển đó thì Hà Đông không phải quê hương của vợ Trần Tháo. Đó là hai tiếng mà Tô Đông Pha mượn ở một câu thơ của Đỗ Phủ. Câu đó là:

Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu

nói về một người con gái họ Liễu người Hà Đông. Thi sĩ họ Tô đã mượn hai tiếng Hà Đông của câu thơ này làm định ngữ cho danh từ sư tử để ám chỉ vợ Trần Tháo vì người đàn bà này cũng họ Liễu. Chúng tôi cho rằng cách giải thích của Từ nguyên và Từ hải đúng hơn. Và câu thơ của Tô Đông Pha quả là thâm thúy và tế nhị vì nó không có lấy một tiếng nào trực tiếp đả động đến phu nhân của Long Khâu cư sĩ cả.

Gút lại, xuất xứ của mấy tiếng sư tử Hà Đông là bài thơ trên đây của Tô Đông Pha. Nhà thơ đã dùng mấy tiếng đó để ám chỉ vợ của Trần Tháo rồi người đời mới dùng chúng để chỉ người đàn bà hay ghen và hung dữ nói chung.

§ 200. Kiến thức ngày nay, số 154, ngày 20 – 10 – 1994

Hỏi: Thế nào là một câu đối hay?

Học giả An Chi giải đáp: Câu đối hay phải là câu đối đáp ứng được sáu yêu cầu sau đây:

1. Các tiếng đối nhau trong hai câu phải cùng từ loại với nhau (chúng tôi đã tách điểm này ra theo truyền thống còn thực chất đây chỉ là một biểu hiện của đặc điểm 3).

2. Các tiếng cuối nhịp của hai câu phải đối nhau về đường nét thanh điệu: bằng (ngang, huyền) đối với trắc (hỏi, ngã, sắc, nặng) hoặc ngược lại.

3. Tiếng đối lại của câu dưới phải theo sát tiếng tương ứng của câu trên về tất cả các đặc điểm ngữ học của nó.

4. Cấu trúc của câu sau phải đồng dạng với cấu trúc của câu trước.

5. Các từ đối nhau ở hai câu phải cùng trường nghĩa với nhau hoặc phải thuộc hai trường nghĩa có thể đối ứng với nhau một cách không miễn cưỡng.

6. Hai câu đối phải hài hòa với nhau về nội dung hoặc về hoàn cảnh chúng được sáng tác.

Các yêu cầu 1, 2, 3, 4 là những yêu cầu về hình thức, còn các yêu cầu 5, 6 là những yêu cầu về nội dung của câu đối.

Để làm dẫn chứng, xin nêu đôi câu đối do Phan Ngọc đưa ra trong bài “Cấu trúc ngôn ngữ và cảm giác thẩm mỹ” đăng trên Sông Hương số 1 (40) năm 1990 (Xuân Canh Ngọ). Tác giả đã dẫn ra đôi câu đối của đồng châu Nghệ Tĩnh viếng Nguyễn Phong Di (trước theo phong trào Đông Du, sau về theo Pháp):

Một nén hương đưa người chí sĩ

Trăm năm còn mãi tiếng đình nguyên

rồi nhận xét về câu dưới như sau: “Cuối cùng ai cũng phải thừa nhận vế này là tuyệt hay (…) Nó phi thường ở chữ “tiếng”. Chữ này lập tức nhắc đến cái chết do câu tục ngữ: “Trâu (sic) chết để da, người ta chết để tiếng”, tức là người chết không phải bình thường mà có để tiếng lại. Nó lại có hai nghĩa, hiểu là “danh tiếng” cũng được, mà hiểu là “tai tiếng” càng hay. Do áp lực của cấu trúc, khi “tiếng đình nguyên” là tai tiếng thì “người chí sĩ” tức khắc thành “người đầu thú”.

Các cụ tranh luận hàng giờ mới tìm ra được chữ “tiếng” làm mọi người thỏa mãn. Rõ ràng cái đẹp là khách quan và có ngữ pháp của nó”. Tiếc rằng ngữ pháp của cái đẹp ở đây đã bị Phan Ngọc hiểu một cách sai lệch: Câu đối mà ông đã tán tụng là một câu đối không chỉnh nên làm sao có thể cho là tuyệt hay được!

Thật vậy, tiếng thứ ba của câu trên (hương) là danh từ còn tiếng thứ ba của câu dưới (còn) là động từ thì làm sao chúng có thể đối với nhau cho chỉnh được. Tiếng thứ tư của câu trên (đưa) là động từ, còn tiếng thứ tư của câu dưới (mãi) là phó từ thì làm sao chúng có thể đối với nhau cho chỉnh được. Cấu trúc “một nén hương” có ba tiếng, còn cấu trúc “trăm năm” chỉ có hai tiếngthì làm sao chúngcó thể đối với nhau cho chỉnh được. Cấu trúc “đưa người chí sĩ” có bốn tiếng, còn cấu trúc “còn mãi tiếng đình nguyên” lại có đến năm tiếng thì làm sao chúng có thể đối với nhau cho chỉnh được. Nhịp của câu trên là 3 – 4 (Một nén hương – đưa người chí sĩ) còn nhịp của câu dưới là 2 – 5 (Trăm năm – còn mãi tiếng đình nguyên) thì làm sao chúng có thể đối với nhau cho chỉnh được. Rõ ràng là ở đây tác giả đã nhìn ngữ pháp của cái đẹp một cách hoàn toàn sai lệch.

Câu đối hay không nhất thiết phải là câu đối dài (nhiều tiếng). Có khi nó chỉ có hai tiếng như trong giai thoại “ba sông, bốn mắt” liên quan đến Lê Quý Đôn. Khi ông bạn của cha nhìn ra khúc sông rẽ ba cạnh nhà mà xướng lên “Tam xuyên” 三川 (ba sông) thì Lê Quý Đôn tương truyền bấy giờ mới có bảy tuổi, đã nhanh trí đối lại là “Tứ mục” 四 目 (bốn mắt) vì nhìn thấy ông khách có đeo mục kỉnh. Đây là một câu đối hay. Tứ đối với tam, đều là số từ. Mục đối với xuyên, đều là danh từ. Nếu chữ tam 三 dựng đứng sẽ thành chữ xuyên 川 thì chữ tứ 四 dựng đứng sẽ thành chữ mục 目 (Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch, trong Giai thoại văn học Việt Nam, Hà Nội, 1988, tr. 84 còn phân tích thêm rằng chữ tứ 四 và chữ mục 目 mỗi chữ đều có bốn nét. Thật ra chúng có đến 5 nét). Tuy mỗi câu đối ở đây chỉ có hai tiếng nhưng nhờ ngôn cảnh trong giai thoại mà ta có thể biết được rằng đó là những phần thuyết liên quan đến những phần đề xác định. Phần đề liên quan đến tam xuyên là cảnh quê của Lê Quý Đôn còn phần đề liên quan đến tứ mục là người bạn của ông bố. Tuy tứ mục không thể nào hài hòa một cách viên mãn về nội dung với tam xuyên (vì thuộc hai phạm trù khác hẳn nhau) nhưng bù lại chúng rất thích hợp với hoàn cảnh trong đó ông khách đã ra câu xướng cho Lê Quý Đôn đối lại. Đó vẫn là những câu đối thỏa mãn được yêu cầu thứ 6. Vậy đó là những câu đối hay.

Lâu nay, khi phân tích cái hay của câu đối, người ta thường chỉ chú trọng đến các yêu cầu 1, 2, 3 mà hầu như không đề cập đến các yêu cầu 4, 5, 6. Thực ra, đáp ứng được yêu cầu 1, 2, 3 chỉ mới là câu đối chỉnh, phải đáp ứng được các yêu cầu 4, 5, 6 thì mới có thể là câu đối hay.

§ 201. Kiến thức ngày nay, số 154, ngày 20-10-1994

Hỏi: Người La Mã thời xưa có thờ cúng người chết hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Về vấn đề này, Raymond Bloch đã cho biếtnhư sau:

“Sự cúng kiến người chết vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong tôn giáo La Mã, dù đó là tôn giáo của gia đình hay tôn giáo của nhà nước. Đó là một di sản của tín ngưỡng cổ xưa đã bắt rễ sâu vào tâm khảm của người La Mã nguyên thủy. Quả vậy, họ không thể quan niệm được rằng người chết không còn là gì nữa. Vẫn còn lại hồn ma của nó mà tuy không hình dung được rõ ràng nhưng người ta vẫn có thể biết rằng nó sẽ đem đến điều tốt lành nếu nó được mãn nguyện và nó sẽ quấy phá khi nó bị những người sống đối xử thờ ơ. Do đó mà có cúng kiến và tế lễ nơi mồ mả. Tính chất hai mặt của linh hồn người chết – tính chất này nhắc đến tính hai mặt của chính khái niệm cái linh thiêng (tức mặt cát, thiện và mặt hung, ác – AC) – dẫn đến những cách gọi tên khác nhau cho các hồn ma đó.”

Trong trường hợp được xem là hiền hòa và tác thiện, chúng được gọi là Manes; ngược lại, trong trường hợp bị xem là đáng sợ đối với con người, chúng được gọi là Larves hoặc Lemures. Tầm quan trọng của sự thờ cúng các hồn thiện (Manes) biểu hiện ở lễ cúng thường niên và công cộng gọi là Parentalia (lễ cúng tổ tiên, do từ gốc parens là cha mẹ, ông bà, tổ tiên – AC), cử hành vào cuối tháng Hai và kéo dài trong mười ngày. Tất cả mọi công việc đều đình lại, các đền thờ đều đóng cửa, các bàn thờ chẳng có đèn hương. Trong những ngày đó việc kết hôn bị cấm ngặt. Cũng trong những ngày đó, người ta cảm thấy chung quanh mình sự hiện diện thần bí của hồn ma những người chết và thành La Mã như bị chế ngự bởi các lực lượng siêu nhiên nên không thể nào chăm chú đến những điều lo toan thường nhật. Còn Larves và Lemures là những hồn ma không thỏa mãn của người chết; chúng thường trở về dương trần vào những ngày nhất định nào đó để quấy nhiễu người sống. Người ta tìm cách xoa dịu chúng bằng việc cử hành lễ cúng gọi là Lemuria vào các ngày 9, 11 và 13 tháng Ba hằng năm. Những ngày này bị coi là những ngày xấu. Trong những cuộc cúng bái đó, các đền thờ cũng đóng cửa và hôn lễ cũng bị cấm cử hành. Người ta tìm cách trừ khử tà ma. Đúng nửa đêm, người chủ gia đình trở dậy, búng ngón tay rồi sau khi tự tẩy uế, bèn lấy những hạt đậu tằm đen mà ném về phía sau mình, miệng lầm rầm nhắc lại chín lần câu khấn: “Tôi ném những hạt đậu tằm này để chuộc tội cho tôi và những người thân của tôi”. Rồi ông ta lại tẩy uế một lần nữa và gõ vào chiếc bình bằng đồng xanh mà nhắc lại chín lần câu khấn: “Xin các hồn ma của gia đình đi ra khỏi nhà!”.*

Vậy người La Mã thời xưa cũng có cúng người chết và cúng theo cách của họ.

§ 202. Kiến thức ngày nay, số 154, ngày 20-10-1994

Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 141, mục Chuyện Đông chuyện Tây có giải thích rằng mặc khải là một từ Hán-Việt mà người ta dùng để dịch từ Révélation của tiếng Pháp. Xin mạn phép có đôi lời góp ý:

Ta biết rằng Révélation (tiếng Pháp) và Revelation (tiếng Anh) có nguồn gốc bởi một từ trong tiếng La Tinh là Revelatio. Trong từ Revelatio có chữ Velum nghĩa là “bức màn”. Revelatio dịch sang tiếng Hán-Việt là mạc khải, bởi chữ mạc nghĩa là “bức màn” và khải nghĩa là “mở ra”. Còn chữ mặc trong từ mặc khải thì lại có nghĩa là “sự tối tăm” (mặc nghĩa là “mực”) nên hai từ mặc khải và mạc khải tuy đồng nghĩa với nhau nhưng cách dùng chữ có khác biệt. Vậy có nên dùng từ mạc khải thay cho từ mặc khải hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Về phần từ nguyên tiếng La Tinh, bạn đã phân tích rất đúng. Nhưng khi đối dịch từ thứ tiếng này sang thứ tiếng khác, người ta chỉ căn cứ theo nghĩa (hoặc những nghĩa) thực tế mà mỗi từ có thể có trong thứ tiếng đang xét. Chẳng hạn người ta chỉ dịch bridegroom của tiếng Anh thành (chàng, chú) rể; không ai dịch thành người giữ ngựa của cô dâu, viện lẽ rằng bride là cô dâu còn groom là người giữ ngựa (Vả lại, nghĩa từ nguyên của bridegroom vốn lại là người anh hùng của cô dâu – Xem Kiến thức ngày nay, số 113, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 91). Người ta chỉ dịch woman là phụ nữ, đàn bà; chẳng ai dịch thành người (làm) vợ mặc dù xét theo từ nguyên thì wo chính là tha hình (allomorph) của hình vị (morpheme) wife có nghĩa là vợ còn man thì có nghĩa là (người) đàn ông.

Ngay cả trong tiếng La Tinh, người nói thứ tiếng này cũng chẳng cần biết rằng revelatio có liên quan đến velum là bức màn. Người La Mã ngày xưa chỉ cần biết revelatio có nghĩa là gì, huống chi người Trung Hoa khi dịch Revelation (< revelatio) sang tiếng Hán. Vì vậy mà họ đã dịch nó thành mặc khải. Chữ mặc ở đây chẳng có liên quan gì đến “sự tối tăm” vì nghĩa đen của nó cũng chẳng phải là “mực”. Tự hình của nó là 默 (gồm có chữ hắc 黑 và chữ khuyển 犬 ) còn nghĩa của nó là Im lặng, không nói gì. Đây cũng là chữ mặc trong mặc thị mà người Nhật đã mượn và đọc thành mokuji. Từ này cũng đã được họ viết bằng Kanji (Hán tự) là 默. Các vị trong Ban giáo sư Đại chủng viện Bùi Chu, nhóm biên soạn quyển Danh từ Thần học và Triết học (Trí-đức thư-xã, Hà Nội, 1953), đã không nhầm lẫn khi họ dịch Révélation là mặc khải. Vả lại, tiếng Hán chỉ có khải mạc đồng nghĩa với khai mạc mà nghĩa đen là mở màn chứ không có “mạc khải”. Vậy xin cứ yên tâm dùng từ mặc khải để dịch Révélation như vẫn làm lâu nay.

§ 203. Kiến thức ngày nay, số 155, ngày 1-11-1994

Hỏi: Mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 105 đã khẳng định là chỉ có 16 vị La Hán. Nhưng gần đây, Nhà xuất bản Đồng Nai đã cho ra mắt 18 quyển truyện tranh nhan đề Thập bát La Hán; mỗi quyển kể về một vị La Hán riêng biệt. Vậy xin người phụ trách mục Chuyện Đông chuyện Tây cho biết ý kiến: vẫn có 16 vị La Hán hay là có đến 18 vị.

Học giả An Chi giải đáp: Như chúng tôi đã khẳng định trên Kiến thức ngày nay, số 105, trang 91 – 92 và Kiến thức ngày nay, số 109, trang 81, chỉ có 16 vị La Hán mà thôi.

Bộ Thập bát La Hán (TBLH) mà bạn nói là do Lý Hương dịch lời nhưng hoàn toàn không cho biết về nguyên bản tiếng Hán: của tác giả nào, do nhà nào xuất bản, xuất bản tại đâu và năm nào nên khó đối chiếu. Nhưng cứ theo tên của từng quyển thì có tất cả 18 vị La Hán như sau: La Hán rồng giáng, La Hán nâng tháp, La Hán tai thính, La Hán túi vải, La Hán suy tư, La Hán tay dài, La Hán Di Lặc, La Hán tiên tri, La Hán cỡi voi, La Hán sư tử cười, La Hán thân thấp, La Hán cứu nguy, La Hán mày dài, La Hán cao kều, La Hán ánh sáng bạc, La Hán thắng cọp, La Hán qua sông và La Hán cỡi hươu. Mỗi vị La Hán được gọi bằng một đặc điểm (tay dài, tai thính, thân thấp, v.v.) nhưng chung quy vẫn là những vị có tên bằng tiếng Sanskrit mà chúng tôi đã nói đến và chính bộ Thập bát La Hán cũng đã xác định, chẳng hạn La Hán tai thính là Na Gia Tê Na, La Hán túi vải là Nhân Yết Đà, La Hán tiên tri là Nặc Cự La, v.v..

Danh sách 18 vị La Hán trong bộ Thập bát La Hán vẫn phạm sự nhầm lẫn mà chúng tôi đã phân tích trên Kiến thức ngày nay, số 105. Theo sách đó thì La Hán mày dài là Tân Độ La còn La Hán thắng cọp là Tân Đầu Lư. Nhưng, như đã nói, Tân Độ La và Tân Đầu Lư (Lô) chỉ là hai cách phiên âm khác nhau từ một tên duy nhất bằng tiếng Sanskrit nên nó chỉ là tên của một người. Cũng theo sách đó thì La Hán rồng giáng chính là Khánh Hữu. Nhưng như cũng đã phân tích, Khánh Hữu chẳng qua chỉ là dịch nghĩa của NandImitra (Nan Đề Mật Đa La); tên của vị này không thuộc danh sách 16 vị La Hán được Đức Phật phái đi truyền giáo ở nước ngoài. Trong Thập bát La Hán, có một vị được mệnh danh là La Hán Di Lặc. Nhưng Đức Di Lặc lại không phải là La Hán mà là Bồ Tát. Lại còn La Hán rồng giáng và La Hán thắng cọp. Đây thực ra chính là Hàng Long và Phục Hổ mà cả Từ hải lẫn Hiện đại Hán ngữ từ điển (của Phòng biên tập từ điển, Sở nghiên cứu ngôn ngữ, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh) đều thừa nhận là đã được thêm vào danh sách chính thống của 16 vị La Hán.

Tóm lại, bộ truyện tranh Thập bát La Hán, với 18 truyện của nó, dù nguyên bản hay bản dịch, cũng đều không thể là căn cứ có giá trị để khẳng định con số các vị La Hán là 18. Để góp phần khẳng định con số 18 này, trước đây ông Trương Ngọc Tường ở Ban Tuyên giáo Cai Lậy (Tiền Giang) đã có gửi bài góp ý cho chúng tôi. Ông viết: “Theo quan niệm Phật giáo, mỗi con người có 6 căn: nhân (mắt), nhĩ (tai), tĩ (mũi), thiệt (lưỡi), thân, ý. Nếu tính ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai thì có 18, gọi là “thập bát xứ” (mười tám cõi). Mỗi người có 18 chỗ tạo nên nghiệp. Nếu chúng ta buông thả thì đó là 18 tên giặc cướp. Còn nếu kềm chế được thì đó là 18 vị La Hán. Vì nguyên cớ ấy nên trong dân gian có truyền thuyết 18 vị La Hán là 18 tên giặc cướp biết ăn năn tu thành chánh quả. Các chùa Nam Bộ (ngay cả vùng Hoa Nam) thường thờ 18 vị La Hán. Nét mặt các pho tượng thường dữ tợn, tay cầm các bảo bối như chuông, khánh, bình hoa, kinh… tượng trưng cho sáu căn của con người”.

Chúng tôi đã thú thật với ông Trương Ngọc Tường rằng mình không tìm được nguồn thư tịch Phật học nào có đề cập đến vấn đề “mười tám cõi, tức thập bát xứ, là mười tám tên giặc cướp nếu chúng ta buông thả nhưng sẽ là mười tám vị La Hán nếu chúng ta kềm chế được”.

Còn theo chỗ chúng tôi biết thì mười tám cõi là thập bát giới mà thập bát giới thì gồm có lục căn (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý) gọi là nội giới, lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) gọi là ngoại giới và lục thức (nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) gọi là trung giới. Vậy mười tám cõi là sáu cõi trong (nội giới), sáu cõi ngoài (ngoại giới) và sáu cõi giữa (trung giới) chứ không phải là mười tám tên giặc cướp hay mười tám vị La Hán. Chỉ có lục trần – chứ không phải lục căn – mới thường được Kinh Phật dùng ẩn dụ mà gọi là lục tặc (sáu tên giặc)! Chẳng hạn: “Trong Niết bàn kinh, quyển 23, Phật khuyên các nhà tu hành nên quán tưởng rằng: “Ngoại lục nhập (lục trần) là lục-tặc, tức là sáu kẻ cướp, bọn cướp sáu đứa. Còn nội lục nhập (lục căn) là không-tụ-lạc, tức là xóm nhà trống không, chẳng có người ở, chẳng có đồ ăn uống, chẳng có tiền của. Quán tưởng như vậy, liền dứt khổ não, luân hồi”.* Trong đoạn trích trên đây, cả hai hình thức tu từ lục tặc và không tụ lạc đều chỉ là những ẩn dụ chứ lục căn đâu phải là “xóm vắng” thiệt thọ mà lục trần cũng chẳng phải là những “tướng cướp” bằng xương, bằng thịt.

Lại theo chỗ chúng tôi biết thì điển tịch Phật học còn có khái niệm già lam thần mà Từ hải đã giảng như sau: “(Là) những vị thần bảo vệ chùa, cũng gọi tắt là già lam. Sách Thích thị yếu lược dẫn Thất Phật Kinh nói: “Có mười tám vị thần bảo vệ chùa: một là Mỹ Âm, hai là Phạn Âm, ba là Thiên Cổ, bốn là Thán Diệu, năm là Thán Mỹ, sáu là Ma Diệu, bảy là Lôi Âm, tám là Sư Tử, chín là Diệu Thán, mười là Phạn Hưởng, mười một là Nhân Âm, mười hai là Phật Nô, mười ba là Tụng Đức, mười bốn là Quảng Mục, mười lăm là Diệu Nhãn, mười sáu là Triệt Thính, mười bảy là Triệt Thị, mười tám là Biến Thị”. Vậy phải chăng “dân gian” đã nhầm lẫn mười tám vị thần giữ chùa này với mười sáu vị La Hán kia nên mới tăng số lượng các vị ấy lên thành mười tám?

Tóm lại, Từ hải đã khẳng định rằng con số 18 (vị La Hán) không thể tìm thấy trong điển tịch Phật học (ư Phật điển vô khả khảo) còn Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn cũng nói rõ rằng: “Thường thường, người ta tưởng lầm là 18 vị, và chính nhà chùa cũng thờ 18 vị La Hán, chớ quả có 16 vị thôi.”*

§ 204. Kiến thức ngày nay, số 155, ngày 1-11-1994

Hỏi: Mục Chuyện Đông chuyện Tây của Kiến thức ngày nay thường hay nhắc đến tên của Huình-Tịnh Paulus Của. Tôi xin được phép sửa lại cho đúng vì Thiên chúa giáo không ai dùng thế. Người ta chỉ nói Paulus Huình Tịnh Của hoặc Paulus Của. Cách thứ nhất là cách gọi đầy đủ: Tên Thánh, họ và tên. Cách thứ hai là cách gọi đơn giản: chỉ có tên Thánh và tên, không có họ. Thí dụ: trường hợp Đức Cha Phaolô (Paulus) Nguyễn Văn Bình, hay Phaolô Bình. Không ai gọi và dùng Nguyễn Văn Phaolô Bình. Chữ y dài (trong họ Huỳnh) đổi thành i ngắn cũng không ổn vì: Nếu nói bên Tây mà viết bên Tâi thì không thể đọc được; trong tay và trong tai hai nghĩa này khác nhau; thuyền và thuiền cũng khác nhau. Vậy kính mong ông vui lòng sửa lại cho đúng, không riêng gì cho người đọc báo hiện nay mà cho cả tương lai con, cháu, chắt của chúng ta sau này nữa.

Học giả An Chi giải đáp: Chính tác giả của Đại Nam quấc âm tự vị (ĐNQÂTV) đã ký Huình-Tịnh Paulus Của ở nhan sách của mình do ImprImerie Rey, Curiol & Cie ấn hành tại Sài Gòn năm 1895 (tome I) và năm 1896 (tome II). Vì tôn trọng cách thức do chính tác giả đã dùng để ghi tên họ của mình nên, mỗi khi nhắc đến tác giả của Đại Nam quấc âm tự vị, chúng tôi mới luôn luôn viết: Huình-Tịnh Paulus Của. Nhà sách Khai Trí cũng đã làm rất đúng khi cho mạ vàng các chữ Huình Tịnh Paulus Của nơi bìa và gáy bọc sImili màu đỏ của ĐNQÂTV do nhà này tái bản và phát hành ngày 20-9-1974 (chỉ tiếc là còn thiếu gạch nối). Vậy nếu cách ghi này không đúng với thể thức và tập quán của người theo đạo Thiên chúa thì người chịu trách nhiệm không phải ai khác hơn là chính Huình-Tịnh Paulus Của.

Về các thí dụ tai, tay và tây mà ông đã nêu, xin nhấn mạnh rằng các chữ cái -i cuối và -y cuối, chẳng qua chỉ là hai ký hiệu văn tự để ghi một âm vị bán nguyên âm duy nhất là /j / mà thôi. Sự khác nhau giữa tai và tay thực chất không phải là ở -i và -y mà là ở a đích thực của tai với ă bị viết thành a của tay. Nói cách khác, chúng chỉ khác nhau ở âm chính (a ≠ ă) còn âm cuối của chúng thì đều là /j /. Vì trong hệ thống chữ viết hiện hành, âm cuối /j/ được thể hiện bằng -i hoặc -y cho nên, về lý thuyết, chữ tây mà ông đã nêu hoàn toàn có thể viết là tâi mà cách đọc cũng không khác, lại càng không phải là không đọc được như ông đã tưởng (trong cả hai cách viết đó, âm cuối đều là /j/).

Thuyền và thuiền cũngchỉ khác nhau về cách viết chứ không khác nhau về cách đọc. Trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha -La Tinh, A.de Rhodes đã viết: khuyên, nguyên, nguyền, nguyện, quyền, quyển thành khuiên, nguiên, nguiền, nguiện, quiền, quiển và trong Đại Nam quấc âm tự vị, Huình-Tịnh Paulus Của cũng viết khuyên, quyên, quyền thành huiên, quiên, quiền.

Trở lại với chữ Huình, xin nói rằng -uynh và -uinh cũng chỉ khác nhau về cách viết mà không khác nhau về cách đọc.

Chính Huình-Tịnh Paulus Của viết huynh, huỳnh, (gỗ) huỹnh, khuynh, khuỷnh (= khoảnh), (lính) quýnh thành huinh, huình, huĩnh, khuinh, khuỉnh, quính. Mà chữ i thì chắc chắn là gọn hơn, nhất là hợp lý hơn chữ y rất nhiều. Vậy chính Huình-Tịnh Paulus Của là một người đã đi tiên phong trong việc thay -y bằng -i (trước u, mà thực chất là /w/). Chỉ tiếc rằng ông đã không làm được triệt để cho tất cả mọi trường hợp có thể.

§ 205. Kiến thức ngày nay, số 156, ngày 10-11 -1994

Hỏi: Tôi đã đọc mục Chuyện Đông chuyện Tây của Kiến thức ngày nay, số 142 và có ý kiến như sau:

Tôi nhất trí về cơ bản với lời giải đáp của An Chi về sự đồng nhất và khác biệt giữa các họ Chu-Châu, Võ-Vũ, Hoàng-Huỳnh. Tôi chỉ tiếc là An Chi quá dứt khoát, quá quyết đoán với họ Hoàng-Huỳnh. Tôi biết một trường hợp cụ thể mà Huỳnh với Hoàng chỉ là một, không như An Chi đã khẳng định một cách dứt khoát đó là “hai họ riêng biệt và độc lập với nhau”.

Chúng ta đều biết giáo sư Hoàng Tuệ, Viện trưởng Viện ngôn ngữ là cháu nội của cố Lễ bộ thượng thư Huỳnh Côn. Trưởng nam của cụ Huỳnh Côn là Hoàng Chu Tích, tức là thân sinh của giáo sư Hoàng Tuệ. Các con đẻ khác của cụ Huỳnh Côn có người là Huỳnh Kham, Huỳnh Quân, Huỳnh Đồng, có người là Hoàng Khắc Thẩm, Hoàng Khắc Đương… Đến đời thứ ba, tức cháu nội cụ Huỳnh Côn vẫn xen lẫn Huỳnh-Hoàng: Hoàng Thị Cam, Hoàng Bảo Ninh, Huỳnh Tôn… Đây là một gia đình lớn, một “thế gia vọng tộc” có truyền thống nhiều đời chiếm những vị trí cao trong các nấc thang chức quyền, học vấn, khoa học. Họ rất nghiêm túc trong các vấn đề về truyền thống dòng họ, gia pháp, gia phong. Sở dĩ có tình hình trên, theo tôi có thể đơn giản vì họ cho Huỳnh-Hoàng là một, là đồng nhất, không có gì đáng quan tâm.

Tôi không biết có trường hợp nào như thế nữa không, hay đây chỉ là một ngoại lệ. Nhưng ngoại lệ này rơi vào một gia đình đặc biệt như vậy thì quyết đoán như tác giả An Chi có thể làm người ngoài hiểu sai mối quan hệ huyết thống của dòng họ Huỳnh-Hoàng này, một dòng họ đã cống hiến cho đất nước không ít gương mặt đáng kính nể. Vậy phải chăng ta nên có mấy dòng đính chính hoặc xin lỗi đối với họ Hoàng-Huỳnh này?

Học giả An Chi giải đáp: Họ Hoàng đã trở thành Huỳnh tại Đàng Trong từ bao nhiêu đời nay và tại phần Nam Đàng Trong là đất Nam Bộ hiện nay thì do hoàn cảnh lịch sử – xã hội đặc biệt mà rất nhiều gia đình đã không có gia phả, tộc phả nên việc truy tìm một đức viễn tổ họ Hoàng nào đó đối với rất nhiều họ Huỳnh là một việc làm không dễ dàng, nếu không nói là hoàn toàn không thể thực hiện được. Vì vậy mà họ đã yên trí và yên tâm mang họ Huỳnh từ lâu. Đến khi nền hành chính của Pháp được thiết lập rồi chữ quốc ngữ ngày càng trở nên phổ biến và thông dụng thì thứ chữ này đã góp phần cố định cách phát âm cho họ Huỳnh, hoàn toàn khác với họ Hoàng, nhất là trên phương diện hồ sơ giấy tờ. Chính là căn cứ vào những điều kiện trên đây mà chúng tôi đã khẳng định rằng hiện nay Hoàng với Huỳnh là hai họ khác nhau.

Họ người ngoài khía cạnh tông tộc, còn có cả khía cạnh xã hội. Mà về mặt xã hội thì đã rõ Huỳnh và Hoàng là hai họ riêng biệt và độc lập với nhau. Việc làm cho người ngoài hiểu đúng mối quan hệ huyết thống của dòng họ Hoàng-Huỳnh mà ông đề cập thì lại không thuộc về trách nhiệm của chúng tôi. Chúng tôi chỉ có bổn phận phải xin lỗi khi nào có người trong dòng họ đó ký Huỳnh X chẳng hạn, mà chúng tôi lại tự tiện đổi thành Hoàng X, hoặc khi nào có người trong dòng họ đó ký Hoàng Y, chẳng hạn, mà chúng tôi thì lại tự tiện đổi thành Huỳnh Y.

§ 206. Kiến thức ngày nay, số 156, ngày 10-11 -1994

Hỏi: Tại sao các nhà Nho dịch âm trại xa tiếng ngoại quốc?

Học giả An Chi giải đáp: Sở dĩ như thế là vì thực ra các nhà Nho của ta đã không dịch thẳng âm của tiếng nước ngoài. Họ chỉ đọc theo âm Hán-Việt những chữ Hán mà người Trung Hoa đã dùng để phiên âm tiếng nước ngoài sang tiếng Hán. Khi phiên âm tiếng nước ngoài sang tiếng Hán, người Trung Hoa thường dùng tiếng Phổ thông tức phương ngữ Bắc Kinh, xưa gọi là tiếng Quan thoại. Nếu các nhà Nho của ta đọc những chữ Hán đó theo âm Bắc Kinh thì, tuy không thể “tuyệt đối trung thành”, những âm đó cũng vẫn phần nào giúp cho người ta có điều kiện để liên hệ mà tìm ra âm gốc một cách thuận lợi. Đằng này họ lại đọc những chữ đó theo âm Hán Việt, vốn khác xa âm Bắc Kinh, nên càng khác xa với âm gốc của tiếng nước ngoài được phiên âm. Sau đây là một số thí dụ (theo thứ tự: – tiếng được phiên âm, – âm phiên bằng tiếng Bắc Kinh ghi theo lối Pinyin, – âm Hán Việt): EskImo – àisìjìmo – ái tư cơ ma; antipirin(e)- àntìbǐlín – an thế tỉ lâm; bolchevik – bùershíwéikè – bố nhĩ thập duy khắc; ultImatum – àidImeidùn – ái đích mỹ đôn; v.v.. Trong những thí dụ trên đây, rõ ràng là những hình thức phiên âm bằng tiếng Bắc Kinh vẫn còn mang dáng dấp của âm gốc. Còn những “ái đích mỹ đôn” hoặc “bố nhĩ thập duy khắc” thì thực sự chẳng còn dính dáng gì đến ultImatum hoặc bolchevik cả.

§ 207. Kiến thức ngày nay, số 156, ngày 10-11 -1994

Hỏi: Tại sao năm Mùi cũng gọi là năm Vị và năm Mẹo cũng gọi là năm Mão?

Học giả An Chi giải đáp: Mùi là âm xưa của chữ vị 未. Xét về thanh mẫu, tức phụ âm đầu, thì mùi ~ vị cũng giống như mạng (nhện), màng (lưới) ~ võng 網 (=lưới); muôn, (cơ) man ~ vạn 萬 (= 10 ngàn); (sương) mù ~ (vân) vụ 霧; mùa (màng) ~ (thời) vụ 務 mong, (mơ) mòng ~ (hy) vọng 望; muộn ~ vãn 晚; mượn, mướn ~ vấn 問 (= hỏi); v.v.. Còn xét về vận mẫu tức là vần, thì mùi ~ vị cũng giống như bùi 裴 hài thanh bằng chữ phi 非; như (phanh) phui ~ phi 揭 (= mở ra, banh ra); như bùi (= béo thơm) ~ phì 肥, v.v..

Chữ 未 đã được dùng theo lối giả tá để ghi tên gọi của chi thứ tám trong 12 địa chi. Mùi là âm Hán-Việt mà người Việt Nam đã mượn từ đời nhà Hán (hoặc trước nữa) còn vị là âm Hán-Việt mượn từ đời nhà Đường. Vị là âm mà mãi về sau này mới được dùng nhưng cho đến nay cũng chưa thực sự thông dụng. Từ mùa thu 1939 đến mùa hè 1940, Vương Lực (thuộc Trường Đại học Thanh Hoa) có sang Hà Nội làm công tác nghiên cứu tại Pháp quốc Viễn Đông học viện (Ecole française d’Extrême-Orient). Ông đã đi sâu nghiên cứu các yếu tố Hán-Việt và sau đó đã viết thành một luận văn quan trọng, trong đó riêng về chữ 未, ông đã viết: “Chữ 未 trong can chi chỉ được đọc theo âm mùi, không đọc là vị, chứng tỏ rằng thời gian mà các yếu tố can chi được truyền sang Việt Nam là rất xa xưa”.*

Trường hợp chi mùi = vị ứng với con dê trên đây hoàn toàn giống với vị 味 trong hương vị mà âm xưa cũng là mùi.

Mùi và vị là một cặp song lập thể (doublets) đã đi chung với nhau để tạo thành danh ngữ đẳng lập mùi vị trong đó cả hai thành tố đều bắt nguồn ở một nguyên từ (étymon) duy nhất của tiếng Hán. Tóm lại sở dĩ năm Mùi cũng gọi là năm Vị là vì Mùi và Vị đều là âm của chữ 未, một đằng là âm xưa hãy còn lưu truyền rất phổ biến, một đằng là âm nay tuy đã được dùng nhưng vẫn chưa thực sự trở thành thông dụng. Đặc biệt trong khẩu ngữ ở Nam Bộ người ta chỉ nói Mùi, chẳng ai nói Vị.

Còn Mẹo là âm xưa của chữ Mão 卯. Chữ này thuộc vận mẫu hào nghĩa là có vần -ao, xưa đọc là -eo. Cùng vận mẫu này còn có áo 拗 (= bẻ cong, bẻ gãy) mà âm xưa là éo (trong uốn éo); (hổ) báo xưa là (hùm) beo; giao (tất) xưa là keo (sơn); háo, cũng đọc hao xưa là héo; (kỹ) xảo xưa là khéo; trạo (= chèo) xưa là chèo, v.v.. Vậy mẹo cũng đọc thành mão vì đây đều là âm của chữ 叩, một đằng là âm xưa, một đằng là âm nay. Tuy cả hai âm đang tồn tại song song với nhau nhưng mẹo được dùng phổ biến hơn ở trong Nam (so với ngoài Bắc) và riêng trong Nam thì mẹo phổ biến trong khẩu ngữ còn mão chỉ được dùng hạn chế trên một số lịch, sách.

Giữa thế kỷ XVII, âm mẹo hãy còn phổ biến cả ở Đàng Ngoài (miền Bắc). Bằng chứng là trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh, xuất bản năm 1651 tại La Mã, A. de Rhodes chỉ ghi nhận mẹo (mà không có mão), biết rằng tiếng Việt trong từ điển của ông là tiếng Đông Kinh, nghĩa là tiếng Đàng Ngoài.

Xét về mặt văn tự thì chữ Hán dùng để ghi tên gọi của chi thứ 4 trong thập nhị địa chi này (Mẹo, Mão) lại có liên quan chặt chẽ đến chữ mẹo trong mộng mẹo, mà nhiều người cứ điềm nhiên cho là tiếng đệm hoặc là yếu tố láy (trong “từ láy” mộng mẹo!), do đó mà đã hồn nhiên cho rằng nó là một yếu tố “thuần Việt”. Những người đó không ngờ rằng mẹo là một từ đích thực, đương nhiên là có ý nghĩa cụ thể và rành mạch. Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh của A. de Rhodes đã ghi nhận: “Mẹo: Nhét vào, tra vào, mộng mẹo. Mẹo hòm: những mộng ở các góc của hòm, rương”(Xem bản dịch do Nxb. Khoa học Xã hội ấn hành năm 1991). Mẹo thực sự là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 卯 mà âm Hán-Việt chính thống hiện đại là mão (mổ giảo thiết, âm mão). Từ nguyên, Từ hải, Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển đều giảng rằng mão là cái lỗ mộng. Đây cũng chính là nghĩa mà Mathews, Chinese-English Dictionary (p. 165,ch.4369) dịch là “a mortise”. Tiếng Hán có thành ngữ tuẩn đầu mão nhãn (chữ tuẩn thường bị đọc thành duẫn) có nghĩa là mộng và lỗ mộng. Vậy mẹo là cái lỗ mộng và mộng mẹo không phải gì khác hơn là mộng và lỗ mộng. Trong giáp cốt văn, chữ mão, tức chữ mẹo 卯, có tự hình là ⦶. Đây không phải gì khác hơn là một chữ tượng hình cho “tuẩn đầu mão nhãn”: hai gạch đứng song song tượng hình cho cái mộng còn hai nửa vòng tròn tượng hình cho cái lỗ mộng.

Tóm lại chữ 卯 có âm Hán-Việt xưa là mẹo và âm Hán-Việt nay là mão và có nghĩa gốc là cái lỗ mộng. Chữ này về sau còn được dùng theo lối giả tá để ghi tên gọi của chi thứ tư trong thập nhị địa chi là chi Mẹo, cũng còn đọc là Mão.

§ 208. Kiến thức ngày nay, số 157, ngày 20-10-1994

Hỏi: Trong một số sách báo, nhân danh và địa danh Trung Quốc thường được phiên âm theo tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Tại sao không phiên theo âm Hán Việt cho vừa hợp với đặc điểm của tiếng Việt vừa hợp với tình cảm và tập quán của người Việt Nam hơn? Lối phiên âm từ tiếng Hán sang tiếng Pháp và tiếng Anh có khác nhau không? Và khác nhau như thế nào?

Học giả An Chi giải đáp: Sở dĩ một số sách báo không phiên nhân danh, địa danh Trung Hoa theo âm Hán Việt mà phải phiên âm theo tiếng Pháp hoặc tiếng Anh là vì người dịch từ tiếng Pháp hoặc tiếng Anh không biết tiếng Hán nên không liên hệ để diễn hình thức phiên âm đó thành âm Hán Việt được. Ngay cả người thông thạo Hán ngữ nhiều khi cũng không thực hiện được điều mà bạn mong muốn vì khó mà có thể biết được tất cả mọi nhân danh và địa danh của Trung Hoa. Vả lại một cách ghi âm của tiếng Pháp hoặc tiếng Anh có thể ứng với nhiều âm Hán Việt khác nhau nên dịch giả cũng khó biết phải chọn âm nào mà phiên cho thật đúng. Thí dụ: một hình thức phiên âm của tiếng Anh là chen có thể ứng với các âm Hán Việt sau đây: chân, chẩn, chấn, châm, chẩm, trăn, trân, trấn, trận, trẫm, v.v.. Hoặc một hình thức phiên âm của tiếng Anh như hsieh có thể ứng với các âm Hán Việt: ta, tà, tả, tạ, hiệp, hiệt, tiếp, tiết, v.v.. Bởi vậy trong nhiều trường hợp, ta không có cách nào khác hơn là phải ghi lại chính hình thức phiên âm của tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Đó là những trường hợp thực sự bất khả kháng.

Học giả Nguyễn Hiến Lê, tác giả của bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc chẳng hạn, cũng vẫn lâm vào tình trạng nói trên khi dịch Lịch sử văn minh Trung Quốc của Will Durant (Trung Tâm thông tin Đại học Sư phạm-Thành phố Hồ Chí Minh in lại năm 1990). Trước một hình thức như Yu Tseu, Nguyễn Hiến Lê đã phải viết: “Những tên nhân danh hay địa danh như tên này, chúng tôi không tra được tiếng Hán nên phải giữ lối phiên âm của Pháp”.*

Trước một hình thức phiên âm như Mang He, ông cũng đã đặt câu hỏi: “Mang he, chữ Hán là gì?”*. Và ông đã phải giữ nguyên hình thức phiên âm bằng tiếng nước ngoài ở nhiều trang khác nữa như: 62, 66, 134, 135, 136, 143, 154, 181, 182, 202, 203, v.v. cũng có một số trường hợp thông thường, song học giả Nguyễn Hiến Lê cũng không phiên, chẳng hạn trong đoạn “muốn lên đền phải theo một đường dốc đắp lài lài, có những cổng trang hoàng gọi là P’ai lu (…)*. P’ai lu là bài lâu 牌 樓 mà Mathews’ Chinese-English Dictionary dịch là “an honorific arch or portal”. Hoặc như Ching-te-chen* chẳng qua là Cảnh Đức Trấn.

Lối phiên âm từ tiếng Hán sang tiếng Pháp và tiếng Anh có khác nhau. Có sự khác nhau này là vì tuy người Anh và người Pháp đều căn cứ vào âm Bắc Kinh nhưng hệ thống văn tự của hai thứ tiếng đó lại khác nhau. Chẳng hạn để phiên âm [u] của tiếng Hán thì người Anh có thể dùng chữ cái u nhưng người Pháp lại phải dùng hai chữ cái ou vì chữ u của Pháp lại đọc là [ü]. Hoặc để ghi âm [ʂ] của tiếng Hán thì người Anh dùng sh nhưng người Pháp phải dùng ch vì hệ thống chính tả của Pháp không có kiểu phối hợp sh…

Trên sách báo Phương Tây hiện nay, người ta đã bắt đầu ghi theo lối phanh âm (pīnyīn) tức phương án La Tinh hóa của nước CHND Trung Hoa. Nhiều học giả nổi tiếng và nhiều nhà báo Âu – Mỹ đều đã làm như thế. Bộ từ điển tiếng Pháp quen thuộc với độc giả Việt Nam là Petit Larousse Illustré đã làm như thế từ nhiều năm nay: Nó đã chính thức ghi nhận danh và địa danh Trung Hoa theo lối pīnyīn và cẩn thận chú thích bên cạnh đó hình thức phiên âm truyền thống của người Pháp cho người đọc khỏi bỡ ngỡ, thí dụ: Cao Cao ou Ts’ao Ts’ao là Tào Tháo; Deng Xiaoping ou Teng Siao-ping là Đặng Tiểu Bình; Han Wudi ou Han Wou-ti là Hán Vũ Đế, Jiang Jieshi ou Tchang Kai-chek là Tưởng Giới Thạch, Laozi ou Lao-Tseu là Lão Tử, v.v.. Tuy nhiên, họ vẫn theo tập quán của họ mà không ghi dấu thanh điệu vốn có của lối pīnyīn.

§ 209. Kiến thức ngày nay, số 157, ngày 20-11 -1994

Hỏi: Có thật là tiếng nói của loài người đã ra đời cách đây 2 triệu năm như ông Hồ Lê đã viết tại trang 7 và 8 của Kiến thức ngày nay, số 146 hay không? Có bằng chứng gì không?

Học giả An Chi giải đáp: Nếu cho rằng hễ có con người là đã có ngay tiếng nói thì tiếng nói của loài người không chỉ có 2 triệu năm tuổi vì theo những cứ liệu mới nhất thì con người đã có đến 2,6 triệu năm tuổi (Xem, chẳng hạn, G.N. Machusin, Nguồn gốc loài người, Hà Nội – Maxcơva, 1986, tr. 236), thậm chí đến trên 3 triệu năm (Xem, chẳng hạn, Nguyễn Quang Quyền, Tổ tiên của người hiện đại, in lần thứ hai có sửa chữa, Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 66 và 69). Chúng tôi không tin ở thuyết này mà tin theo G. Olivier rằng Người khéo léo (Homo habilis) thì chưa biết nói, Người đứng thẳng (Homo erectus) chỉ mới biết bập bẹ và chỉ có Người khôn ngoan (Homo sapiens) mới thực sự biết nói, nghĩa là mới có ngôn ngữ mà thôi. Vì Người khôn ngoan chỉ mới có khoảng 100 đến 200 ngàn năm tuổi cho nên tuổi của tiếng nói cũng chỉ có thể là từ 100 đến 200 ngàn năm chứ không hơn.

Sự ra đời của ngôn ngữ có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của hộp sọ và não bộ. Về vấn đề này, Jules Carles đã nhận xét như sau:

“Dung lượng sọ của nó (Người khéo léo – AC) đạt đến khoảng 700cm³ và có khi đạt đến 900, còn dung lượng sọ của Vượn phương Nam là khoảng từ 400 đến 650cm³. Nhưng dung lượng này còn thấp vì nó chỉ mới đạt gần phân nửa dung lượng sọ của người hiện đại. Sự sinh sản tế bào thần kinh để tạo ra những sự định hướng đa dạng, những sự tuyển chọn và suy nghĩ, xem ra rất sơ đẳng. Trong khoảng một triệu rưỡi năm chúng ta nhận thấy có rất ít tiến bộ trong những công cụ bằng đá vốn đã quá thô vụng (hiểu ngầm là do chưa có ngôn ngữ, nghĩa là cũng chưa có tư duy – AC).

Trong vòng 500.000 năm, Người đứng thẳng đã để lại dấu vết cuộc hành trình của nó trên khắp Cựu lục địa, có khi là những mẩu xương, thường thường là các công cụ kiểu Abbeville hoặc kiểu Acheul (…) Hộp sọ chưa phát triển theo chiều cao nhưng đã kéo dài ra rõ rệt. Trán hãy còn rất khó nhận thấy, dung lượng sọ thì đã nhảy vọt một bước và từ 700cm³đã đạt đến khoảng 1000 và cả 1100cm³.

Mặc dù so với Người khéo léo những tiến bộ đã đạt được là lớn lao nhưng hình như họ cũng đã nhanh chóng khựng lại và những chiếc rìu kiểu Abbeville đã không hề thay đổi trong vòng 300.000 năm trên khắp lục địa Âu Á (cũng vì nguyên nhân được hiểu ngầm như trên – AC).

Với một dung lượng sọ đạt đến hoặc vượt qua 1500cm³, Người khôn ngoan (…) đã thế chỗ cho Người đứng thẳng mà dấu vết càng ngày càng hiếm hoi sau 200.000 năm (hiểu ngầm rằng từ đây trở đi mới có thể có ngôn ngữ và tư duy – AC)”.*

Gút lại, ở một phần khác, Jules Carles đã viết:

“Một triệu rưỡi năm sau (khi Người khéo léo tuyệt tích – AC), chúng ta tìm thấy trên toàn bộ lục địa Âu, Á những Người đứng thẳng. Trong số họ, vào một niên đại mà chúng ta có thể ấn định với một sai số là 50000 năm, tức là giữa 150 và 200 ngàn năm, đã xảy ra một sự đột biến quyết định.

Sự đột biến này hình như liên quan đến thể tích của não làm cho nó tăng thêm 50% dung lượng của nó và từ 1000 đã đạt đến 1500cm³. Sự tăng trưởng này là trọng đại: nó làm cho sự thụ đắc ngôn ngữ có thể thực hiện được (Chúng tôi nhấn mạnh -AC). Người ta học nói vào khoảng 1 hoặc 2 tuổi, vào lúc mà trọng lượng của não đạt đến phân nửa trọng lượng quyết định của nó, 700 đến 800g. Trọng lượng này hầu như chỉ đạt được bởi Người khéo léo ở tuổi trưởng thành nhưng với Người đứng thẳng thì nó có thể đạt được vào lúc 6 tuổi. Vì độ tuổi này là giới hạn cuối cùng mà người ta hãy còn có thể học nói nên G. Olivier nghĩ rằng Người khéo léo thì không biết nói còn Người đứng thẳng chỉ mới có một ngôn ngữ “sơ cấp” mà thôi”.*

Cuối cùng, Jules Carles kết luận:

“Vậy sự xuất hiện của con người đích thực có thể ấn định vào khoảng 200.000 năm nay vì phải vào lúc đó thì não mới đạt được kích thước quyết định của nó”.*

Từ trên suy ra, ngôn ngữ cũng có thể chỉ ra đời cách đây khoảng 200.000 năm. Thời gian dài dằng dặc 1,5 triệu năm trong đó công cụ lao động của Người khéo léo không hề có tiến bộ là một sự kiện đầy ý nghĩa cho phép người ta hoài nghi sự tồn tại của ngôn ngữ ở thời đó. Cũng thế đối với 300.000 năm đã nói của Người đứng thẳng. Chỉ có với Người khôn ngoan thì công cụ lao động mới tiến bộ không ngừng và với tốc độ càng ngày càng nhanh hơn như ai nấy đều biết. Điều này chỉ có thể có được nhờ có ngôn ngữ và tư duy.

Ngoài ra ta còn có một cứ liệu quan trọng khác nữa là hiện tượng lồi cằm. Dưới tiêu đề “Lồi cằm – một bằng chứng của tiếng nói”, Nguyễn Quang Quyền đã viết như sau: “Lồi cằm (chỗ phần trước xương hàm dưới vểnh ra) là một đặc trưng của loài người. Ở những người tối cổ Java và Bắc Kinh, không có lồi cằm. Đến người Nêăngđectan, lồi cằm chưa xuất hiện một cách rõ rệt. Chỉ có “Người khôn ngoan” như chúng ta ngày nay cằm mới vểnh hẳn ra phía trước. Người ta cho rằng sự xuất hiện lồi cằm liên quan đến sự xuất hiện lời nói có âm tiết”.*

Từ đó suy ra ngôn ngữ chỉ có thể xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Người khôn ngoan mà thôi.

§ 210. Kiến thức ngày nay, số 158, ngày 1 -12-1994

Hỏi: Xin cho biết tiểu sử của Alexandre de Rhodes.

Học giả An Chi giải đáp: Sau đây là tiểu sử của A. de Rhodes dưới dạng niên biểu:

-15-3-1591 (1593?): Ra đời tại Avignon (Pháp).

– 14-4-1612: Vào tập viện Dòng Tên ở Roma.

– 15-4-1614: Gởi lá đơn thứ nhất xin đi truyền giáo.

– 15-5-1617: Đơn thứ hai xin được sai đi truyền giáo ở Trung Quốc và Nhật Bản.

– Mùa thu 1617: Đơn thứ ba xin đi truyền giáo.

– 1618: Chịu chức Linh mục.

– Tháng 10-1618: Rời Roma.

– Tháng 1-1619: Đến Lisboa.

– Tháng 4-1619: Rời Lisboa đi truyền giáo.

– 9-10-1619: Đến Goa (Ấn Độ).

– 12-4-1622: Rời Goa.

– 27-7-1622: Đến Malacca.

– 29-5-1623: Đến Macao (Trung Quốc).

– Tháng 12-1624: Rời Macao đến Đàng Trong.

– 1624 – 1626: Học tiếngViệt ở Thanh Chiêm (Quảng Nam)

– 7-1626: Rời Đàng Trong trở về Macao.

– 12-3-1627: Đến cửa Bạng (Thanh Hoá).

– 4-1627: Gặp gỡ lần đầu với Chúa Trịnh Tráng.

– 3-5-1627: Nhà thờ đầu tiên của Giáo hội Đàng Ngoài được cất lên tại An Vực (Thanh Hoá).

– 6-1627: Đến Kinh đô Thăng Long.

– 11-1627: Hội sở Dòng tên đầu tiên ở Đàng Ngoài do Chúa Trịnh ra lệnh xây cất.

– 28-5-1628: Lệnh trục xuất. A.de Rhodes bị chỉ định cư trú có giám sát.

– 3-1629: Bị đưa đi Nghệ An và Bố Chính để trả về Đàng Trong.

– 11-1629: Trở lại Kinh đô Thăng Long.

– 5-1630: Thành lập cơ chế Kẻ giảng ở Đàng Ngoài. Bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Đàng Ngoài.

– 1630 – 1640: Giáo sư Thần học tại Học viện Dòng Tên ở Macao.

– 2-1640: Đến cửa Hàn (Đà Nẵng). Gặp Chúa Nguyễn Phước Lan.

– 9-1640: Bị trục xuất khỏi Đàng Trong. Về lại Macao.

– 17-12-1640: Trở lại Cửa Hàn. Hoạt động truyền giáo ở Thanh Chiêm, Hà Lâm, Cát Lâm, Bầu Gốc và Dinh Phú Yên.

– 2-7-1641: Về lại Macao qua ngả Manila.

– 1-1642: Trở lại Cửa Hàn.

– 31-7-1643: Thành lập cơ chế Kẻ giảng ở Đàng Trong.

– 11-6-1645: Bị giam giữ tại kinh đô Đàng Trong. Bị kết án trảm quyết, nhưng được cải lại thành án trục xuất.

– 17-6-1645: Bị dẫn về Hội An và giam giữ 22 ngày để chờ tàu.

– 9-6-1645: Bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Đàng Trong.

– 23-7-1645: Đến Macao.

– 20-12-1645: Rời Macao.

– 27-6-1649: Đến Roma.

– 1649 – 1652: Hoạt động tại Roma cho Giáo hội Việt Nam.

– 1651: Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh được in tại Roma.

– 1652 – 1654: Hoạt động tại Marseille, Lyon và Paris cho Giáo hội Việt Nam.

– 16-11-1654: Rời Marseille đến Iran.

– 11-12-1654: Đến Syria.

– 11-1655: Đến Ispahan (Iran).

– 5(16?)-11-1660: Từ trần tại Ispahan.*

Chú ý là về năm sinh có hai ý kiến: 1591 hoặc 1593; về ngày mất cũng có hai ý kiến: 5-11 hoặc 16-11-1660.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3