Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 1: Câu hỏi 141 - 175
§ 141. Kiến thức ngày nay, số 134, ngày 15 – 3 – 1994
Hỏi: Trong Việt-nam sử-lược, kết luận chương IV nói về nhà Lý, cụ Trần Trọng KIm đã viết: “Vì vua Cao-tôn hoang chơi, làm mất lòng người, cho nên giặc-dã nổi lên, loạn thần nhiễu sự. Vua Huệ-tôn lại nhu nhược bỏ việc chính-trị, đem giang sơn phó thác cho người con gái còn đang thơ dại, khiến cho kẻ gian hùng được nhân dịp mà lấy giang sơn nhà Lý, và lập ra cơ nghiệp nhà Đông-A vậy”. Hẳn nhà Đông A phải là nhà Trần. Nhưng tại sao lại gọi như thế?
Học giả An Chi giải đáp: Nhà Đông A đúng là nhà Trần và đó là do chiết tự mà ra. Chữ Trần 陳 gồm có chữ đông 東 bên phải và chữ 阝bên trái mà một số người đã cho là chữ a. Vì vậy mà theo họ thì “đông + a = Trần”.
Nhưng cách phân tích trên đây lại không đúng vì 阝 không phải là chữ a mà là chữ phụ 阜 viết tắt khi nó đứng làm bộ thủ ở bên trái như trong các chữ nguyễn 阮, trở 阻, lăng 陵, v.v.. Cũng cái tự hình đó, nếu đứng làm bộ thủ ở bên phải, thì lại là chữ ấp 邑 viết tắt như trong các chữ bang 邦, hàm 邯, tà 邪, v.v.. Vậy tự hình 阝 không thể là chữ a. Thuộc bộ phụ, có một chữ mà tự hình là 阿. Chữ này có ba âm: a (= cái gò lớn, chỗ quanh co), ả (trong ả nả = mềm dẻo, ôn hòa) và ốc (là một phát ngữ từ). Một số người đã khẳng định một cách võ đoán rằng chữ 阝 chính là dạng tắt của chữ 阿 đọc theo âm thứ nhất là a. Đó là một điều khẳng định vô căn cứ. Tóm lại, nếu chiết tự thì trần phải là đông phụ chứ không phải là đông a.
Tuy nhiên – vì đã gần như thành lệ – hễ nghe đến hai tiếng “Đông A” thì có thể biết rằng người nói muốn nhắc đến nhà Trần.
§ 142. Kiến thức ngày nay, số 134, ngày 15 – 3 – 1994
Hỏi: Tại sao lại nói “quay tít thò lò?” “Thò lò” là gì?
Học giả An Chi giải đáp: Thò lò là cái bong vụ sáu mặt (nhất, nhì, tam, tứ, ngũ, lục) có tra cốt ở giữa để bong cho quay. Đây là một từ Việt gốc Hán mà âm Hán Việt hiện đại là đà loa, âm Bắc Kinh là tuó luó, chữ viết là 陀 螺. Đà loa vốn là một thứ đồ chơi của trẻ con, thoạt đầu được làm bằng gỗ, đẽo gọt cho tròn và từa tựa hình con ốc (loa là con ốc) mà cân đối, chúm lại phía dưới thành một điểm nhọn để có thể bong cho nó quay đều và đằm. Xét theo nguồn gốc của đồ vật thì cái thò lò, tức cái bong vụ, của trẻ con Trung Hoa thời xa xưa, có thể cũng chỉ là một con ốc, nhưng phải là con ốc đều đặn, cân đối mà chúng đã lựa chọn được để bong chơi.
Trong tiếng Việt ngày nay, người ta chỉ còn dùng hai tiếng thò lò để chỉ cái bong vụ sáu mặt nói trên với tính cách là một đổ cụ (= đồ dùng để đánh bạc), như đã được ghi nhận trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức hoặc Từ điển tiếng Việt 1992. Nhưng chắc chắn là danh từ thò lò đã đi vào tiếng Việt với cái nghĩa gốc là một món đồ chơi của trẻ con như đã nói. Bằng chứng là tại nhiều vùng thuộc Bắc Bộ người ta vẫn còn dùng nó theo nghĩa này, ít nhất cũng là tại một số vùng thuộc tỉnh Thái Bình là những nơi mà trong 20 năm ở miền Bắc chúng tôi đã từng lưu ngụ. Thậm chí tại đây người ta còn nói con thò lò, chứ không nói cái thò lò, với ý thức rõ ràng là mình dùng danh từ chỉ cá thể con để gọi một vật “hoạt động”. Và chính là căn cứ vào cái nghĩa này mà nhiều người dân ở Thái Bình đã dùng từ thò lò theo ẩn dụ để chỉ củ su hào: họ gọi đây là củ thò lò. Phải hiểu hai tiếng thò lò theo cái nghĩa nguyên thủy đã miêu tả thì mới so sánh như thế được, chứ cái thò lò sáu mặt thì so sánh thế nào được với củ su hào về hình dáng.
Vậy thò lò là cái bong vụ và quay tít thò lò là quay tít như cái bong vụ.
§ 143. Kiến thức ngày nay, số 134, ngày 15 – 3 – 1994
Hỏi: Xin nhắc lại truyện Chử Đồng Tử và xin cho biết tích này có liên quan đến địa danh nào ở miền Bắc. Có phải tên Chử Đồng Tử có nghĩa là cậu bé ở bãi sông?
Học giả An Chi giải đáp: Truyện “Chử Đồng Tử” có những lời kể khác nhau dưới cái tên “Truyện đầm Nhất Dạ (Nhất Dạ Trạch)”. Ở đây, xin chép lời kể trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, quyển thượng, ph. II, như sau:
“Đời Hùng-vương thứ 3, nhà họ Chử đã nghèo lại bị cháy nhà, chỉ còn một cái khố cho hai cha con cùng mặc. Hễ cha là Chử-phù-Vân mặc khố thì con là Chử-đồng-Tử phải trầm mình dưới nước, hay ngược lại. Lúc hấp hối, cha trối dặn con cứ để cha trần truồng mà chôn, dành cái khố lại cho con mặc. Nhưng vì quá thương cha, Chử-đồng-Tử đành cãi lời cha mà đóng khố cho cha trước khi chôn. Từ đấy Chử-đồng-Tử sống cuộc đời khốn-khổ trần-truồng, cứ dìm mình dưới nước che thân và xin ăn ở các thuyền qua lại. Ngày kia, nhân vắng người, Chử lên bãi cát ngồi phơi nắng cho đỡ lạnh; bỗng có đoàn thuyền của công-chúa Tiên-Dung đi ngoạn cảnh vừa đến. Chử bèn lật đật cào cát núp mình xuống dưới và hất cát phủ lên trên. Vô tình, công-chúa truyền quân căng màn nơi đó để công chúa tắm mát. Nước giội cát trôi, trơ ra chàng thanh-niên họ Chử cùng công chúa Tiên-Dung ở giữa bốn bức màn kín đáo. Âu cũng là duyên trời, công-chúa đành lấy Chử làm chồng và vì sợ uy vua cha, công-chúa đành cùng chàng ở lại làng Chử-xá dựng nhà mua bán với dân-chúng trong miền. Chử-đồng-Tử lại theo khách buôn vượt biển mua bán nơi xa, gặp tiên ban cho gậy và nón phép. Chử trở về cùng vợ tìm thầy học đạo. Đường xa vắng-vẻ, vợ chồng không nơi trú-ngụ, Chử bèn cắm gậy úp nón xuống, tức thì lâu-đài cung-điện hiện ra, có cả văn-ban võ-bá cùng quân lính hầu-hạ. Tiếng đồn tới tai vua cha, Hùng-vương bèn sai quan quân tới dẹp. Binh triều kéo đến đóng tại bãi Tự-nhiên (thuộc phủ Khoái-châu, Hưng-yên) đối diện với cung điện Chử-đồng-Tử. Đang đêm nhìn qua sông, bỗng thấy cung-điện cùng vợ chồng công-chúa từ từ bay lên trời cả. Nơi có cung-điện trở thành cái đầm, gọi là đầm Nhất Dạ”.
Chử Đồng Tử không có nghĩa là cậu bé ở bãi sông như nhiều người vẫn tưởng. (Một số từ điển cũng đã giảng theo kiểu đó). Vì hiểu sai như trên cho nên có tác giả đã viết chữ Chử theo bộ thủy là 渚 (= bãi sông). Thực ra, Chử ở đây là họ người nên phải viết theo bộ y 衣 thành 褚 mới đúng. Việt-Hán thông thoại tự vị của Đỗ Văn Đáp (phần “Nhân danh, địa danh”) đã ghi đúng tên của Chử Đồng Tử bằng chữ Chử bộ y 衣 này, vì đây mới chính là chữ đã được dùng trong Lĩnh Nam chích quái. Có thể kiểm chứng thêm nơi các từ điển của Trung Hoa: chữ chử bộ y mới dùng để ghi họ người còn chữ chử bộ thủy thì không. Cha của Chử Đồng Tử là Chử Phù Vân (có bản ghi là Cù Vân hoặc Vi Vân): Chử ở đây hẳn hoi là họ người. Vậy Chử Đồng Tử có nghĩa là cậu bé họ Chử.
Địa danh có liên quan đến sự tích Chử Đồng Tử là Chử Xá, xưa là tên xã, nay là tên thôn thuộc xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội*. Xá có nghĩa gốc là nhà rồi, trong quá trình chuyển nghĩa, lại có thêm các nghĩa sau đây: – những người trong nhà, – những người trong họ, – làng ấp. Vậy Chử Xá là làng của người họ Chử. Tập quán lấy họ để đặt tên cho làng đã xuất hiện từ thế kỷ X tại nước ta. Nó đã được ghi chép như sau:
“Bên cạnh các làng cũ, thành lập từ lâu đời, có một số làng mới của người Trung Quốc sang ngụ cư, của một vài họ lớn hoặc là làng đã phong kiến hóa của một địa chủ kiêm quan lại nào đó. Các làng sau này thường lấy ngay họ khai sáng hay họ lớn nhất làm tên gọi như Ngô xá…, Dương xá…, Lê xá, Bùi xá…”*
Theo Bùi Thiết thì Chử Xá xưa gọi là Chử Xá Châu (Xem sđd, tr. 280). Địa danh Chử Xá Châu đã được ghi nhận trong Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (Các tổng trấn xã danh bị lãm), Dương Thị The, Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn, Hà Nội, 1981, trang 195. Trong sách này, chữ Chử được ghi theo bộ y, còn chữ Châu được viết là 洲 (= bãi đất nổi giữa nước, giữa sông hoặc giữa biển). Vậy Chử Xá Châu có nghĩa là bãi đất nổi trên đó có làng của người họ Chử. Chúng ta lại có thêm một bằng chứng rõ ràng nữa để khẳng định rằng Chử ở đây là họ người. Nếu nó có nghĩa là bãi sông thì Chử Xá đã là “họ của những người sống ngoài bãi” rồi nên chữ châu là hoàn toàn thừa thãi. Vậy chử ở đây không phải là bãi sông.
§ 144. Kiến thức ngày nay, số 134, ngày 15 – 3 – 1994
Hỏi: Trong “khỏe như vâm” thì “vâm” có phải là con voi không? Đâu là xuất xứ của từ này?
Học giả An Chi giải đáp: Vâm là con voi đúng như bạn đã hiểu. Xuất xứ của nó liên quan đến chữ vi 為 là làm, vì chữ này trong giáp cốt văn đời nhà Thương chính là hình một con voi như đã nói ở Kiến thức ngày nay, số 111, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 32, cột 3. Vương Lực đã chứng minh rằng voi là âm xưa của chữ vi còn tồn tại trong tiếng Việt ngày nay*. Khi mà tự hình cổ xưa của chữ vi là một con voi và âm cổ xưa của nó (voi) cũng là tên của con vật này thì ta có cơ sở để luận ra rằng vi ngày xưa có nghĩa là voi.
Chữ vi này, theo phép âm dương đối chuyển trong tiếng Hán cổ, còn có thể đọc là viêm. Các quyển từ điển quen thuộc như Khang Hy tự điển, Từ nguyên, Từ hải, Hình âm nghĩa tổng hợp đại từ điển, v.v. đều không ghi nhận âm này. Nhưng Lo Tch’ang-Pei (La Thường Bồi), trong một bài thông báo nhan đề Correction de j-en Yj- dans le système du chinois ancien de M. Karlgren, đọc tại Hội nghị lần thứ 158 của tổ chức American Oriental Society tại New York ngày 30-3-1948, có cho biết rằng ông đã khảo chứng được một âm nữa của nó là viêm. Ông đã nêu các thiết âm sau đây: vu liêm, vu triêm, vinh kiềm. Cả ba thiết âm này nói lái lại thì đều cho âm viêm (lu, tru, kình). Vậy rõ ràng chữ vi đang xét còn có thể đọc là viêm. Và từ viêm sang vâm thì chỉ có một bước (Nhớ rằng nhậm cũng đọc thành nhiệm).
Tóm lại, vâm (= voi) là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn từ một tiếng Hán được ghi bằng chữ 為 mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là vi nhưng xưa kia còn có thể đọc thành viêm mà vâm là một biến thể ngữ âm còn tồn tại trong tiếng Việt ngày nay. Chữ vi hiện nay chỉ còn được dùng theo lối giả tá (mượn chữ mượn âm) để ghi một động từ có nghĩa là “làm” mà thôi.
§ 145. Kiến thức ngày nay, số 135, ngày 1 -4-1994
Hỏi: Mục Chuyện Đông chuyện Tây của Kiến thức ngày nay có khẳng định rằng “giao thừa” là tiếng Hán chứ không phải do “giao thời” nói trại mà ra. Quý ông có bộ Từ hải, tôi mong quý ông tra xem trong đó có từ “giao thừa” không. Nếu không thì nên tra đến các bộ Từ nguyên, Khang Hy. Một khi thấy có trong một bộ sách nào hay thấy có trong một bộ từ điển Hán của người Hoa nào khác – chứ không phải trong từ điển Hán-Việt của người Việt – thì thuyết cho rằng “từ giao thừa là do giao thời nói trệch đi” mới bị đánh đổ được. Nếu quý ông tìm thấy được từ “giao thừa” trong bộ từ điển Tàu nào thì xin đăng vào báo để cho lời giảng giải của quý ông trước thêm CỨNG và bác bỏ hẳn các ý tưởng bất đồng.
Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi đã tra cứu các từ điển sau đây: Khang Hy tự điển, Từ nguyên, Từ hải, Vương Vân Ngũ đại từ điển, Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển của Cao Thụ Phiên và Liên miên tự điển (dày 4775 trang mà chỉ chuyên thu thập các tiếng đôi) của Phù Định Nhất thì không thấy các quyển này ghi nhận hai tiếng giao thừa. Nhưng tất cả những quyển đó cũng không ghi nhận hai tiếng giao thời. Vậy cũng chẳng có cơ sở nào để nói rằng giao thời là tiếng Hán cả.
Đúng ra, có một quyển đã ghi nhận hai tiếng giao thời nhưng đây không phải là từ điển tiếng Hán, cũng không phải từ điển Hán-Việt, mà lại là từ điển Việt-Hán. Đó là quyển Việt Hán tự điển tối tân do nhà sách Chin Hoa ở Chợ Lớn in lần đầu tiên năm 1961. Đây chỉ là một bản sao chép (có rút gọn và trừ phần phụ lục) không hơn không kém của quyển Từ điển Việt Hán do tập thể tác giả Hà Thành, Trịnh Ngọa Long, Chu Phúc Đan, Vương Đức Luân, Vương Minh Thư và Lương Phong biên soạn, xuất bản lần đầu tiên tại Bắc Kinh năm 1960. Tập thể tác giả này lại là những người đã từng học tập hoặc công tác tại Việt Nam (Hà Nội) nên phần đối dịch của họ có chỗ đã chịu ảnh hưởng của việc sử dụng tiếng Hán tại Việt Nam. Còn từ mục giao thời mà họ đưa vào từ điển của họ thì đương nhiên là một đơn vị từ vựng của tiếng Việt.
Trong thực tế, đã có rất nhiều từ thông dụng không được ghi nhận vào từ điển. Chỉ xin đơn cử một thí dụ. Hai tiếng sung sướng 充 暢 không hề được ghi nhận trong những quyển từ điển tiếng Hán mà chúng tôi kể ra bên trên. Nhưng nó lại được dùng để giảng tiếng hàm 酣 trong Từ điển tứ giác nhỏ in ở Bắc Kinh rất thông dụng trong học sinh và sinh viên. Nếu vì không thấy sung sướng được ghi thành từ mục trong từ điển tiếng Hán mà cho rằng nó không phải là tiếng Hán thì đã kết luận trái ngược với sự thật.
Vậy cũng không đáng lấy làm lạ nếu giao thừa không được ghi nhận trong từ điển. Và cũng không đáng lấy làm lạ nếu người Trung Hoa dùng hai tiếng đó để diễn đạt ý “giao phó và thừa tiếp” nói chung mà người Việt Nam lại dùng nó để diễn đạt ý “giao phó và thừa tiếp trong đêm trừ tịch”. Nhiều từ gốc Hán khi đi vào tiếng Việt đã có thêm những cái nghĩa mà chúng không hề có trong tiếng Hán, chẳng hạn: tử tế, lịch sự, khốn nạn, v.v..
Cuối cùng cho rằng giao thừa là do giao thời nói trại mà ra thì không hợp lý, vì giao thừa khó hiểu hơn giao thời mà thông thường người ta chỉ nói trại âm khó hiểu thành âm dễ hiểu hơn. Thí dụ: sáp nhập nói thành sát nhập trong tiếng Việt; laudanum (cồn thuốc phiện) thành lait d’ânon trong tiếng Pháp hoặc fēberfūge (hạ nhiệt thảo) của tiếng Anh cổ đại thành feverfew (do không hiểu rằng fūge là gốc La Tinh có nghĩa là trốn, xua đuổi, làm cho giảm bớt nên mới thay nó bằng few, nghĩa là ít).
Viết thêm cho lần in năm 2018. – Khi soạn thảo câu trả lời này, chúng tôi chưa dùng máy tính. Bây giờ lên mạng gõ 2 chữ giao thừa 交 承 thì ta sẽ được vô số nguồn giải đáp.
§ 146. Kiến thức ngày nay, số 135, ngày 1 – 4 – 1994
Hỏi: Cách gọi tên các ngày trong tuần: thứ hai, thứ ba…, chủ nhật bắt nguồn từ đâu?
Học giả An Chi giải đáp: Cách gọi tên các ngày của tuần lễ từ thứ hai, thứ ba, v.v., đến chủ nhật trong tiếng Việt hiện đại là do ảnh hưởng của tiếng Bồ Đào Nha. Sau đây là tên gọi các ngày của tuần lễ trong tiếng Bồ: domigo (chủ nhật, được coi là ngày đầu tuần), segunda feira (phiên chợ thứ hai), terça feira (phiên chợ thứ ba), quarta feira (phiên chợ thứ tư), quinta feira (phiên chợ thứ năm), sexta feira (phiên chợ thứ sáu), và sabado (thứ bảy – đúng nghĩa gốc là ngày Xa-ba). Những tên gọi đó của tiếng Bồ bắt nguồn từ những tên gọi sau đây trong tiếng La Tinh: dies dominica, secunda feria, tertia feria, quarta feria, quinta feria, sexta feria và sabbatum. Theo danh sách trên đây, có thể thấy rằng từ chủ nhật đến thứ sáu, tiếng Việt đã theo rất sát tiếng Bồ. Nhân vì ngày sabado, tức ngày lễ Xa-ba, chỉ có ý nghĩa đối với người Do Thái mà thôi, cho nên khi diễn hệ thống tên gọi các ngày trong tuần từ tiếng Bồ sang tiếng Việt, người ta đã dịch luôn ngày sabado thành ngày thứ bảy. Âu cũng là một việc làm hợp lý.
§ 147. Kiến thức ngày nay, số 135, ngày 1 -4-1994
Hỏi: Tại sao người ta cũng gọi cái rựa (để đốn cây, bửa củi) là “đực rựa”? Có lẽ nào đồ vật cũng “ái nam ái nữ”?
Học giả An Chi giải đáp: Trong Đại Nam quấc âm tự vị, Huình-Tịnh Paulus Của đã cho rằng đực rựa là một lối nói đùa bắt nguồn từ câu chuyện mà ông ghi lại như sau: “Tích rằng: hai vợ chồng chia gia tài, giao với nhau, vật chi kêu là cái thì về vợ; té ra vật gì cũng gọi là cái, người chồng tức mình, còn có một cái rựa chưa chia, bèn giành mà kêu là đực rựa”. Đây chỉ là một lối giải thích theo kiểu từ nguyên dân gian. Gần đây, có nhà nghiên cứu cũng đã tán thành và nhắc lại cách giải thích của từ điển gia họ Huỳnh trên mặt báo. Đó là tác giả Lê Trung Hoa trong bài “Tìm hiểu nghĩa gốc một số từ” đăng trên báo Sài Gòn giải phóng ngày 22-3-1980. Sự thật không phải như thế.
Đực rựa là một lối nói thông thường của tiếng Việt thời xưa. Đây là một ngữ danh từ mà thành tố thứ nhất (đực) là một đơn từ (= danh từ chỉ đơn vị) còn thành tố thứ hai (rựa) là một loại từ (= danh từ chỉ tổng loại – có người gọi là danh từ khối) trong đó đực cũng hành chức tương tự và ngang hàng với các đơn từ khác như: con, cái, cục, chiếc, v.v.. Cho đến nay nó vẫn còn tồn tại trong thổ ngữ Vĩnh Hoàng như Võ Xuân Trang đã miêu tả trong bài “Truyện Trạng Vĩnh Hoàng, một hiện tượng trào phúng độc đáo trong văn học dân gian Bình Trị Thiên”*. Trong thổ ngữ này, người ta vẫn nói đực cá thay vì con cá, đực rạ (= rựa) thay vì cái rựa, đực đá thay vì cục đá, v.v.. Các nhà Việt ngữ học đều nhất trí thừa nhận rằng, tiếng Việt ở miền Bắc Trung Bộ còn bảo tồn được nhiều yếu tố cổ xưa đã mất đi khỏi tiếng nói ở Bắc Bộ và Nam Bộ. Thổ ngữ Vĩnh Hoàng nằm trong địa bàn đó nên việc nó còn lưu giữ nhiều yếu tố Việt cổ là điều dễ hiểu. Vậy đực rựa là một cấu trúc cổ xưa của tiếng Việt mà phương ngữ Nam Bộ còn bảo tồn được cho đến gần đây, chứ chẳng có liên quan gì đến câu chuyện ngộ nghĩnh mà nhà từ điển họ Huỳnh đã kể lại.
Xin nói thêm rằng người ta cũng còn khai thác công dụng riêng biệt của đơn từ đực trong các phương ngữ mà hư cấu tình tiết cho truyện cổ tích Hà rầm hà rạc. Trong truyện này, có chi tiết sau đây về việc hai anh em chia của:
“Đến ngày chia của, anh chìa một tờ giấy bảo em:
– Của cải của cha mẹ để lại có ba giống: giống đực, giống cái và giống con. Mày bé bỏng nên tao nhường cho mày tất cả những đồ đạc giống đực, còn giống cái và giống con thì phần tao. Nếu mày bằng lòng thì ký vào đây!
Em ngây thơ tưởng là anh thương thật nên không nghi ngờ gì cả ký ngay vào giấy. Cuộc chia của bắt đầu. Nhưng đồ vật nào mà chả gọi là “cái” hay “con”. Người anh đếm mãi:
– Cái nhà này: của tao, con trâu này: của tao, cái chum này: của tao, cái cày, cái bừa này: của tao…
Suốt từ sáng đến chiều, những của chìm, của nổi, chia đã sắp vợi mà vẫn chưa có một vật nào thuộc giống đực cả. Mãi đến lúc trời đã tối người em tức mình mới chụp lấy một cây dao rựa dựng ở hè nhà mà nói rằng:
– Đây là “đực rựa” thuộc về phần tôi”*.
Có thể khẳng định rằng truyện này, ít nhất cũng là những chi tiết đã trích dẫn trên đây, chỉ ra đời sau khi đực không còn được dùng làm đơn từ trong một số phương ngữ, đồng thời xuất xứ của nó không phải là địa bàn của phương ngữ hoặc thổ ngữ nơi đó đực vẫn còn hành chức như một đơn từ.
Câu chuyện mà Huình-Tịnh Paulus Của đã kể cũng là một dị bản đơn giản của câu chuyện này.
§ 148. Kiến thức ngày nay, số 135, ngày 1 – 4 – 1994
Hỏi: Tại sao không gọi cái “báo giờ” hay “chỉ giờ” mà gọi cái “đồng hồ”? Tại sao không nói “làm một giờ”, “làm hai giờ” mà nói “làm một tiếng”, “làm hai tiếng”?
Học giả An Chi giải đáp: Ở Trung Hoa ngày xưa người ta dùng dụng cụ chỉ giờ “chạy” bằng nước. Về đại thể, nó gồm có hai phần. Phần trên, chứa nước, có lỗ cho nước chảy xuống. Ở phần dưới, có cắm một cái cọc chia thành một trăm vạch (Mặt đáy được coi là một vạch, coi như có tất cả 101 vạch). Khoảng cách giữa 2 vạch chỉ một khoảng thời gian bằng 1/100 thời gian của một ngày-đêm, tức 14 phút 24 giây. Người ta cứ theo nước đã ngập được bao nhiêu vạch mà tính được bao nhiêu lần 14’24” đã trôi qua. Vì thứ dụng cụ đo giờ đó hoạt động theo đặc điểm đã nói trên, nên người ta gọi nó là lậu hồ (= hồ nhỏ giọt) và vì lậu hồ thường làm bằng đồng nên người ta cũng gọi nó là đồng hồ. Vậy đồng hồ là dụng cụ đo giờ, chỉ giờ của thời xưa.
Khi máy chỉ giờ của phương Tây du nhập vào Việt Nam thì người nước ta cũng gọi nó là đồng hồ, mặc dù đó không phải là cái hồ bằng đồng. Đồng hồ của phương Tây lại thường là đồng hồ gõ kiểng (= đánh chuông), cứ mấy giờ thì gõ mấy tiếng (không kể phần nhạc mở đầu). Vậy tiếng kiểng đồng hồ là dấu hiệu chỉ thời gian. Một tiếng kiểng đổ là một lần một giờ đã trôi qua. Tiếng kiểng (hoặc tiếng chuông) đồng hồ, nói gọn thành tiếng đồng hồ, gọn hơn nữa là tiếng, do đó đã được dùng theo phép hoán dụ (lấy dấu hiệu của hiện tượng để chỉ hiện tượng) để chỉ khoảng thời gian đã nói. Vậy làm một tiếng, làm hai tiếng cũng có nghĩa là làm một giờ, làm hai giờ đó thôi.
Nhân tiện, xin nói thêm rằng tiếng khắc (= 15 phút) cũng là hệ quả của một sự chuyển nghĩa theo phép hoán dụ. Những vạch trên cái cọc cắm ở phần dưới cái lậu hồ, tiếng Hán gọi là khắc. Khi nước ngập thêm một khắc là lại thêm một lần thời gian 14’24” trôi qua như đã nói. Do đó mà người ta dùng khắc theo phép hoán dụ để chỉ khoảng thời gian này. Do điều chỉnh theo đồng hồ Tây mà ngày nay 1 khắc mới bằng 15 phút. Vì vậy, tính theo đồng hồ Tàu thời xưa thì một ngày đêm có 100 khắc, nhưng tính theo đồng hồ Tây ngày naythì chỉ có 96 khắc mà thôi.
§ 149. Kiến thức ngày nay, số 136, ngày 15-4-1994
Hỏi: Tại sao trước đây Thái Lan được gọi là Xiêm hoặc Xiêm La? Tại sao lại đổi làm Thái Lan? Các tên đó có ý nghĩa gì?
Học giả An Chi giải đáp: Xiêm không phải là tên tự gọi của người Thái Lan (trở xuống xin gọi là Xiêm). Đó là tên mà người Khmer và người Chàm đã dùng để gọi họ. Danh xưng Syām (ghi theo Coedès) đã xuất hiện trên văn bia của người Chàm từ thế kỷ XI, còn hình ảnh của họ (được khẳng định là người Syām) cũng đã hiện diện trên phù điêu của di tích văn hóa Angkor ở Campuchia từ thế kỷ XII*.
Người Việt Nam trước kia cũng theo cách gọi của người Khmer và người Chàm mà gọi họ là Xiêm. Người Trung Hoa cũng phiên âm tên gọi này thành Tiêm (âm Bắc Kinh: Xiàn), rồi ghép với tên nước La Hộc thành Tiêm La (người Việt Nam đọc thành Xiêm La). Danh xưng Tiêm La đã được Từ hải giảng như sau: “Tên nước, tương truyền xưa phân làm hai nước Tiêm và La Hộc, sau hợp nhất làm một, do đó có tên (Quốc danh, tương truyền cổ phân vi Tiêm dữ La Hộc nhị quốc, hậu hợp vi nhất, cố danh). La Hộc đã được khẳng định là phiên âm từ địa danh Lvo, nay là Lopburi của Thái Lan, ở hạ lưu sông Mênam*.
Người Pháp cũng phiên âm tên gọi trên đây thành Siam. Người Anh theo cách phiên âm của người Pháp mà ghi là Siam. Nhưng bộ Enciclopedia Italiana (Bách khoa thư Italia) lại giải thích rằng tiếng Pháp và tiếng Anh Siam bắt nguồn từ tiếng Xiêm “Saiam”, “Sayam”, rằng đây là do người Xiêm đọc trại âm tiếng Miến Điện Shan, vốn là tộc danh chung cho các cư dân láng giềng phía Đông của Miến Điện*. Lời giải thích của bộ bách khoa thư trên đây không đúng với sự thật lịch sử. Người Xiêm vốn vẫn tự gọi là Thay và gọi người Shan là Nghiệu. Còn Sayam (thực ra, trong tiếng Xiêm, âm tiết thứ hai của từ này có thanh điệu đi lên) chỉ là danh xưng mà mãi đến thời cận đại họ mới phiên âm từ tiếng Anh Siam.
Người Xiêm vẫn tự gọi là Thay và gọi tên nước mình là Mương Thay (cách gọi thông tục) hoặc Prathêt Thay (cách gọi tao nhã), nghĩa là nước Thái. Đến triều vua Rama IV (1851 -1868) mới chính thức lấy tên nước là Sayam, tức Xiêm. Rama IV là một vị vua có đầu óc canh tân, chủ trương học tập phương Tây và bang giao với các nước phương Tây. Ông đã lấy tên nước là Xiêm để đánh dấu cho công cuộc canh tân của mình. Tên Xiêm được dùng cho đến năm 1939; khi tướng Phibul Songgram lên làm thủ tướng, nó được thay thế bằng tên Thái. Năm 1945, lại đổi thành Xiêm rồi đến 1948 thì lại gọi là Thái cho đến nay. Người Anh đã phiên âm Thay thành Thai và dịch mương hoặc prathêt thành land mà gọi nước Thái là Thailand. Tên này của tiếng Anh đã được phiên âm sang tiếng Pháp thành Thailande và sang tiếng Việt thành Thái Lan.
Có ý kiến cho rằng tên Sayam, tức Xiêm có nghĩa là người ở giáp biên giới. Còn tên Thay tức Thái, thì một số người đã giảng là “tự do”. Tuy trong tiếng Xiêm, có một từ thay có nghĩa là tự do nhưng tộc danh Thay lại có nghĩa là người. Trên thế giới, có nhiều dân tộc đã lấy từ có nghĩa là người trong ngôn ngữ của mình để làm tên dân tộc. Điều này đã được khẳng định. Cũng vậy với người Xiêm, mà tộc danh Thay tương ứng với Tày của người Tày (trước đây gọi là Thổ), với Táy của người Thái Tây Bắc Việt Nam, với Đioi của người Đioi ở Quý Châu (Trung Quốc), với Đày của người Lê ở đảo Hải Nam, v.v.. Thay, Tày, Táy, Đioi, Đày là những từ cùng gốc và nghĩa gốc của chúng là người. Theo chúng tôi, cái gốc chung của những từ này đã được ghi nhận trong từ đại của tiếng Hán mà chữ viết là 大 . Đây là một chữ tượng hình. Tự hình của nó trong giáp cốt văn đời Thương là một hình người nhìn chính diện, giơ hai tay và giạng hai chân ra hai bên. Văn tự học Trung Hoa cũng khẳng định nghĩa gốc của đại là người. Nếu điều chúng tôi nêu là đúng thì người Trung Hoa đã biết đến các tộc người Thái muộn nhất cũng là từ đời nhà Thương. Hơn thế nữa, nếu điều đó đúng thì nó sẽ là một cứ liệu ngôn ngữ, bên cạnh nhiều cứ liệu ngôn ngữ khác mà chúng tôi không thể nêu ra ở đây, buộc người ta phải nghĩ đến một nguồn gốc chung cho tiếng Hán và các ngôn ngữ Thái đã từng được một số người nói đến từ lâu.
§ 150. Kiến thức ngày nay, số 136, ngày 15-4-1994
Hỏi: Trong bức ảnh đính kèm theo đây là kiến trúc gì, tọa lạc tại đâu và được xây cất vào niên đại nào? Ba chữ Hán ở giữa phần trên của kiến trúc này được đọc ra sao?
Đền Hùng
Học giả An Chi giải đáp: Đó là Lăng Hùng Vương, nằm trong khu Đền Hùng trên núi Hy Cương (cũng gọi là Nghĩa Lĩnh hoặc Nghĩa Cương, Hùng Lĩnh hoặc Hùng Sơn), nay thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Núi Hy Cương nằm giữa một miền đồi núi lô nhô vốn là hình ảnh thực tế cho truyền thuyết về con voi bất nghĩa mà Nguyễn Khắc Xương đã ghi lại như sau:
“Vua Hùng mở nước Văn Lang, đóng đô ở thành Phong Châu, đặt cung ở núi Nghĩa Lĩnh, có một trăm con voi từ khắp các nơi trong nước cùng rủ nhau về chầu mừng. Tất cả đàn voi đều phủ phục quanh núi Nghĩa Lĩnh, như đàn con nằm vây quanh mẹ, tỏ ý thần phục nhà vua. Vua Hùng rất đẹp lòng. Nhưng trong đàn voi ấy có một con bước ra khỏi bầy, quay đuôi lại vua, đầu ngoảnh về phương khác. Vua bèn đùng đùng nổi giận, gọi con gái là công chúa Bầu, trao cho kiếm báu hạ lệnh chém đầu con voi bất nghĩa. Công chúa Bầu nhận kiếm, cất tiếng kể tội trạng con voi bỏ đàn rồi giơ cao kiếm báu bổ xuống một nhát vỡ sọ voi, lại chém một nhát nữa đứt cổ voi. Từ đó tới nay con voi bất nghĩa vẫn đứng trơ trơ chịu tội với dòng máu nhớp nhơ rỉ ra từ cổ và cái sọ bị vỡ toang một góc”*. Nguyễn Khắc Xương đã chú thích như sau: “Con voi bất nghĩa đó nay là một quả đồi thuộc địa phận xã Phú Lộc, huyện Phù Ninh. Còn 99 con voi theo mẹ và vua Hùng là các quả đồi lớn nhỏ quanh Đền Hùng thuộc địa phận Lâm Thao, Việt Trì, Phù Ninh”.*
Từ điển di tích văn hóa Việt Nam của Viện nghiên cứu Hán Nôm do Ngô Đức Thọ chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, 1993) đã viết về Đền Hùng như sau:
“Miếu Hùng Vương thường gọi là Đền Hùng (…) Theo Đại Nam nhất thống chí, sau khi Hùng Vương mất, dân địa phương lập miếu thờ; theo thần tích và văn bia ở đền thì chính An Dương Vương Thục Phán cảm kích vì được Hùng Vương nhường ngôi, nên sau khi Hùng Vương mất, đã đến núi Nghĩa Lĩnh dựng đền thờ. Từ phía dưới đi lên, đầu tiên là Đền Hạ, tương truyền là nơi bà Âu Cơ sinh bọc trăm trứng. Tiếp đến là đền Trung nơi vua Hùng thường họp bàn việc nước với các Lạc hầu, Lạc tướng. Trên hết là đền Thượng, tương truyền là nơi Hùng Vương thứ 6 lập đàn cầu trời xin cho thiên tướng xuống giúp đánh giặc Ân (sau đó là nơi thờ Thánh Gióng). Bên phải Đền Thượng còn có hai cột đá là di tích miếu cổ. Gần đó có lăng thờ vọng Hùng Vương (tức kiến trúc trong ảnh mà ông đã gởi đến – AC). Đền Giếng ở phía tây nam núi Nghĩa Lĩnh, có giếng đá tương truyền là nơi con gái Hùng Duệ Vương (vua Hùng thứ 18) là công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung thường đến múc nước gội đầu. Các đền hiện nay chủ yếu là di tích kiến trúc do Tổng đốc Tam Tuyên là Nguyễn Bá Nghi theo sắc chỉ tu tạo năm Tự Đức thứ 27 (1874). Năm Duy Tân thứ 6 (1912) trùng tu, xây sửa lại như kiểu thức hiện nay. Năm Khải Định thứ 7 (1922), tu sửa lăng thờ vọng”.
Lê Tượng, người đã tham gia khai quật thăm dò khu Đền Hùng, đã cho biết cụ thể thêm như sau: “Trên Núi Hùng, từ xưa vẫn có 4 đền và 1 chùa do ba làng trông coi và hương khói. Đền Thượng, Đền Giếng do dân làng Cổ Tích trông coi. Đền Trung do dân làng Triệu Phú (tức Làng Trẹo) và Đền Hạ do Làng Vi (…) Đền Trung được lập từ rất sớm, ít ra cũng vào thời Lý hoặc Trần (…) trước khi bị tàn phá đã lợp ngói và có quy mô khá lớn, ít nhất cũng vào khoảng 8 cột (3 gian). Trong đền còn có bệ thờ bằng đất nung trang trí cánh sen và hoa chanh nổi và những viên đất nung chạm khắc công phu. Làng Cổ Tích được thành lập sau chiến thắng quân Minh, năm 1427, và dần dần phát triển. Dân làng đã cùng nhau xây dựng Đền Thượng, chuyển Đền Hạ (cũ) sang vị trí ngày nay và xây chùa vào nền cũ (của Đền Hạ – AC). Chùa, Đền Thượng và Đền Hạ được xây dựng vào trước năm 1470 vì theo bản ngọc phả viết năm Hồng Đức thứ 1 (1470) đã nói đến Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ và chùa. Lăng và Đền Giếng lúc đó chưa có (…) Làng Cổ Tích lúc đầu dựng chùa ở Điếm Mánh (theo tộc phả họ Hoàng), sau khi vào ở sát chân Núi Hùng, mới đưa chùa lên núi và dựng trên nền Đền Hạ cũ (…) Lăng Hùng Vương, theo các bi ký thì xây năm 1874. Còn Đền Giếng xây dựng năm nào đến nay chưa rõ”*.
Cứ như trên thì Lăng Hùng Vương, tức kiến trúc trong bức ảnh mà ông đã gởi đến, được xây dựng năm Tự Đức thứ 27 (1874) rồi được trùng tu năm Khải Định thứ 7 (1922). Tuổi của nó mới tròn 120 năm.
Ba chữ Hán mà ông đã hỏi là ba chữ : 陵王雒, tức: Lạc vương lăng (đọc từ phải sang trái).
Chữ lạc 雒 là một chữ hình thanh mà nghĩa phù là chuy 隹 còn thanh phù là các 各 (do nét thứ ba bị viết ngắn đi nên mới có tự hình là , vì vậy mà có người đã nhầm nó với chữ danh 名, chẳng hạn như Hoa Bằng trong Hùng Vương dựng nước, tập II, Hà Nội, 1972, tr. 287), khác hẳn với chữ hùng 雄 tuy cũng có nghĩa phù là chuy 隹 nhưng thanh phù lại là quăng 厷 (về sau bị viết sai thành chữ hữu 右 nên chữ hùng cũng viết thành ). Hai nét đầu tiên của chữ lạc là *, còn hai nét đầu tiên của hùng lại là * . Trong ảnh mà ông đã gởi đến, hai nét đầu tiên của chữ đang xét là * chứ không phải là * nên phần bên trái của nó là chữ các 各 chứ không phải là chữ hữu 右”. Vậy đó là chữ lạc 雒.
Nhưng trên đây chỉ là trả lời theo cách nhìn riêng của cá nhân (thấy hai nét đầu tiên là * chứ không phải là *) nên chúng tôi phải dè dặt nói kỹ thêm rằng trong “hiện trường”, có thể đó lại là chữ hùng nhưng do được tô đắp từ lâu nên nét chữ không còn sắc sảo và rạch ròi, ảnh chụp lại mờ, làm cho người quan sát có thể thấy 右 thành . Phải đến tận nơi quan sát thật kỹ thì mới có thể khẳng định một cách thật dứt khoát.
§ 151. Kiến thức ngày nay, số 137, ngày 1 – 5 – 1994
Hỏi: Có phải “Phù Nam” là hai chữ Hán dùng để phiên âm tiếng Campuchia “phnom” có nghĩa là núi hay không? Tại sao lại lấy tiếng “núi” để gọi tên một nước?
Học giả An Chi giải đáp: Năm 1911, L. Finot đã đề xướng cách giải thích cho rằng Phù Nam là hình thức phiên âm bằng tiếng Hán của tiếng Khmer phnom, có nghĩa là núi. Ý kiến này sau đó đã được nhiều người tán thưởng, mà người đã góp phần truyền bá nó một cách rộng rãi có lẽ là G. Coedès khi học giả này khẳng định như sau: “Những ông vua của xứ sở này (tức Phù Nam – AC) có tước hiệu (diễn đạt bằng) một nhóm từ có nghĩa là vua núi, tiếng Sanskrit là parvatabhūpāla hoặc çailarāja, tiếng Khmer là Kurung bnam”.* Bnam nay là phnom và Kurung bnam, theo Coedès là vua núi. Với cách giải thích trên đây, người ta đã mặc nhiên đồng ý với nhau rằng Phù Nam là tên gọi cổ xưa của nước Campuchia. Trong nhiều thập kỷ qua, ý kiến này đã từng được xem như một giáo điều không có gì cần phải bàn cãi.
Nhưng Claude Jacques đã nhận xét một cách chí lý rằng khi nói về Campuchia tiền Angkor, các tác giả thường thích dùng cái tên Phù Nam vốn là cách gọi của người Trung Hoa hơn là dùng chính cái tên “Campuchia” hoặc một trong những tên bản xứ của nó, nói cho đúng ra là những cái tên bằng tiếng Sanskrit đã trở thành tên bản xứ, mặc dù một số tên chẳng hạn như Bhavapura, đã được biết rõ từ lâu. Claude Jacques nhấn mạnh rằng cách giải thích đang lưu hành về danh xưng Phù Nam, tuy có vẻ ổn thỏa về phương diện ngữ âm nhưng lại không chắc chắn. Cách gọi tên như thế cho thấy rõ rằng lịch sử của nước Campuchia tiền Angkor đã được dựng lại bằng cách dựa vào những nguồn ký tải của Trung Hoa nhiều hơn là vào các văn bia tìm thấy được tại chính Campuchia. Đã thế, về sau các học giả lại còn cố lấp những lỗ hổng của cái sườn tổng quát, mà họ đã dựa vào những cứ liệu của Trung Hoa để cấu thành, bằng những dữ kiện do văn bia Campuchia cung cấp; những văn bia này được phát hiện càng ngày càng nhiều. Lẽ ra phải đặt vấn đề hoài nghi những điều ghi chép của Trung Hoa, họ lại điều chỉnh những sự kiện mới phát hiện được qua văn bia theo cái sườn tổng quát kia. Bằng cách đó – Claude Jacques khẳng định dứt khoát – người ta đã phạm những sai sót rất căn bản về lịch sử, những sai sót ngày nay càng trở nên đặc biệt nghiêm trọng bởi chúng đã được in ấn trong từng quyển sách yếu lược*.
Đúng như lời cảnh báo trên đây của Claude Jacques, cho đến năm 1978, tại Việt Nam, người ta vẫn còn đọc được, chẳng hạn như sau: “Vương tước của Phù Nam là Xai-la-ra-gia (Sailarāja), hay Pác-va-ta-bu-pa-la (parvatabhūpāla), theo chữ Phạn, hay Cu-rung bơ-nam (Kurung Bnam), theo tiếng Môn-Khơme, có nghĩa là Vua Núi”*. Rõ ràng là giáo điều của G. Coedès đã có ảnh hưởng đến nhiều người mặc dù nó thực sự không có căn cứ. Claude Jacques đã vạch rõ rằng cụm từ “Kurung bnam” không hề xuất hiện trên một văn bia nào của Campuchia, còn từ Sanskrit “parvatabhūpāla” thực chất cũng chỉ xuất hiện có một lần trên một văn khắc nơi trụ cửa. Từ này được dùng ở số nhiều để chỉ những ông vua đã bị vua Bhavavarman (đệ nhất hoặc đệ nhị) đánh bại. Vậy parvatabhūpāla không chỉ vào vua của Phù Nam, mà nhiều ông vua đồng thời với nhau, còn địa điểm những vương quốc của họ thì văn bia tuyệt nhiên không hề nói đến*. Tóm lại, đó cũng chẳng phải là tước hiệu của các ông vua Phù Nam như G. Coedès đã suy diễn và khẳng định một cách hoàn toàn võ đoán.
Với sự phát giác trên đây của Claude Jacques, ta có thể thấy rõ ràng rằng cơ sở của luận điểm do Finot và Coedès đưa ra rất là bấp bênh, mặc dù uy tín của họ thì quá lớn. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với Claude Jacques khi tác giả này viết: “Sẽ là không tôn trọng các học giả lỗi lạc lão thành nếu chúng ta chỉ đơn thuần chấp nhận giả thuyết của họ mà không thảo luận gì. Chắc hẳn là họ sẽ từ bỏ một số trong những giả thuyết đó nếu có người trình bày cho họ những lý lẽ đủ sức thuyết phục”*.
Lạ một điều là người ta không tự hỏi xem tại sao người Trung Hoa lại lấy núi làm đặc trưng của nước mà họ gọi là Phù Nam, trong khi chính nước của họ mới trùng trùng điệp điệp những sùng sơn tuấn lĩnh. Thấy rõ điều dị kỳ này, một tác giả Việt Nam là Lương Ninh đã bắt đầu điều chỉnh lý thuyết của Coedès mà viết như sau:
“Chủ nhân của nước Phù Nam hẳn là một bộ lạc Môn cổ – một bộ lạc Pnong. Tên gọi Phù Nam có lẽ đã được phiên âm từ tên tộc người đó. Hơn nữa, từ Phnom (Núi) trong từ vựng Khmer sau này cũng có thể chỉ là sự tiếp nhận và chuyển hóa từ Môn cổ Pnong với ngữ nghĩa gần giống nhau. Pnong là phiên âm ngày nay; giữa thế kỉ XIX, P.C.E. Bouillevaux phiên âm là Penong, Bunong, ngày nay có bộ phận còn được gọi là Bnơm. Trong từ vựng Khmer, phnom (Núi) được phát âm là vnam hay bnam từ thế kỉ VII. Như thế vào đầu Công nguyên, bnam hay vnam vừa có nghĩa là Núi, vừa có nghĩa là “dân miền Núi”, nhưng chủ yếu là để gọi tên tộc một bộ phận Môn cổ. Hiểu như thế, hi vọng có thể gỡ được mối băn khoăn của một số nhà nghiên cứu về việc tại sao các thư tịch Trung Hoa lại gọi tên một nước ngoài bằng cách phiên âm một từ xem ra có vẻ “vớ vẩn”: Núi”*.
Tuy Lương Ninh đã có ý điều chỉnh cách giải thích của Coedès, chúng tôi vẫn không cho rằng cách điều chỉnh này có nhiều sức thuyết phục hơn là cách giải thích của chính Coedès. Chỉ riêng về mặt ngữ học, nó đã vấp phải ba điều sau đây. Thứ nhất, ai cũng thừa nhận rằng tiếng Khmer và tiếng Môn là cùng một gốc. Vậy nói rằng phnom của tiếng Khmer cùng một gốc với pnong của tiếng Môn sẽ thuận lý hơn là nói rằng phnom của tiếng Khmer lại là “tiếp nhận và chuyển hóa từ Môn cổ Pnong”. Thứ hai, theo hiểu biết thông thường về việc chuyển nghĩa và việc tạo từ phái sinh, có hình thái hoặc phi hình thái, thì từ có nghĩa là “người núi” phải bắt nguồn ở từ có nghĩa là “núi” chứ không phải là ngược lại như Lương Ninh đã nói (tên tộc “người núi” trong tiếng Môn là Pnong đã đưa đến sự phát sinh của danh từ Khmer phnom có nghĩa là “núi”). Vậy lẽ ra phải nói danh từ tiếng Môn Pnong là một ethnonyme, tức một nom ethnique (= tên dân tộc phái sinh từ tên một địa phương), phái sinh từ danh từ phnom (= núi) của tiếng Khmer. Thứ ba, nếu quả thật người Trung Hoa đã phiên âm tên tộc người Pnong sang tiếng của họ như Lương Ninh đã nói thì đó sẽ là *Phù nang chứ không phải “Phù Nam”. Khó có thể viện lý rằng vì người Trung Hoa, nhất là người Trung Hoa phương Bắc, hay nhầm lẫn các phụ âm cuối nên -nong vẫn có thể được họ phiên âm thành nam. Không, tiếng Bắc Kinh chỉ nhầm lẫn m với n ở vị trí cuối âm tiết đưa đến sự đồng hóa của m vào n còn ng [ŋ] ở vị trí cuối âm tiết thì xưa nay vẫn là một âm vị riêng biệt trong phương ngữ trên đây của tiếng Hán. Nó không hề bị lẫn lộn.
Tóm lại cách hiểu hai tiếng Phù Nam như là một hình thức phiên âm hình như đã tỏ ra bế tắc. Chúng tôi cho rằng hợp lý nhất là nên sử dụng một trong những cái tên do chính văn bia của Campuchia cung cấp như Claude Jacques đã gợi ý. Còn việc lựa chọn tên nào cho đúng thì lại là công việc của các nhà chuyên môn.
§ 152. Kiến thức ngày nay, số 138, ngày 1 -5-1994
Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 111, Chuyện Đông chuyện Tây có nói về voi ở lưu vực sông Hoàng Hà (Trung Hoa). Tôi tin ở quý báo nhưng muốn được biết thêm bằng chứng vì số 111 đã nói quá vắn tắt.
Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi xin trình bày hầu ông thêm một bằng chứng về nghề chạm khắc ngà voi ở Trung Hoa cổ đại như sau:
Nơi mục Ivory carving, bộ Encyclopaedia Britannica đã viết:
“Chạm khắc bằng ngà là một trong những nghệ thuật lâu đời nhất của Trung Hoa. Những mẫu mực về ngà chạm khắc tuyệt xảo, cùng với những cổ vật tinh tế bằng đồng vào loại xưa nhất, nhờ đó mà Trung Hoa nổi tiếng, đã được tìm thấy trong mộ táng của các vua nhà Thương ở An Dương (Bắc Hà Nam). Những đồ chạm khắc của nhà Thương đã được tạo dáng một cách khéo léo và đã được hoàn tất một cách chu đáo đến độ chúng bắt phải liên tưởng đến một quá trình phát triển lâu dài từ trước, hẳn là phải đi ngược lên đến tận thời tiền sử.
Vào thời nhà Thương, voi hãy còn sống lang thang trong những khu rừng thuộc miền Hoàng Hà đến độ nguồn cung cấp ngà rất dồi dào như đã được biết qua những cứ liệu ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ (Chúng tôi nhấn mạnh – AC). Phần lớn những đồ ngà tìm thấy được gồm có những thẻ bài nhỏ, những chiếc cặp tóc (có tác dụng) trang sức hoặc những mẩu chạm còn lại từ các đồ dùng trong những mộ táng. Nhưng Kinh Thi gồm một số bài tụng ca cũng còn nói đến những đầu mũi tên bằng ngà, và ông vua cuối cùng của nhà Thương (tức vua Trụ – AC) tương truyền là đã chế ra đũa ngà (biểu hiện của) một trong những thói xa hoa sành sỏi của ông ta. Ngay cả ở giai đoạn tảo kỳ đó (của lịch sử Trung Hoa – AC) ngà cũng đã được quý chuộng ngang hàng với vàng và ngọc”.
Không thể hình dung được rằng nghề chạm khắc ngà voi của Trung Hoa cổ đại phát triển đến như thế chỉ nhờ ở những con voi hoặc những chiếc ngà voi do các nước khác tiến cống. Huống chi những cứ liệu ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ mà Encyclopaedia Britannica đã khẳng định còn là những bằng chứng rất hùng hồn.
§ 153. Kiến thức ngày nay, số 138, ngày 1 -5-1994
Hỏi: Trong Kiến thức ngày nay, số 127, trang 67, ông Huệ Thiên có khẳng định rằng cụ Trương Vĩnh Ký đã phiên âm sai ít nhất là 41 chỗ và đã chú giải sai ít nhất là 32 chỗ trong Truyện Kiều. Nhưng ông lại nói rằng đó là do ông Nguyễn Quảng Tuân chỉ ra. Vậy phải chăng ông Nguyễn Quảng Tuân chủ quan cho là sai trong khi cụ Trương vẫn đúng?
Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi vẫn khẳng định rằng tác giả Nguyễn Quảng Tuân đúng. Để làm bằng, xin chép hiến ông lời nhận xét sau đây của Nguyễn Quảng Tuân về một trường hợp mà học giả Trương Vĩnh Ký giảng sai:
“Câu 2494:
Đống xương Vô định đã cao bằng đầu.
Trương Vĩnh Ký đã giảng câu ấy như sau: “Làm cớ cho người ta chết, không biết tông tích nó ở đâu”.
Chú thích như vậy chứng tỏ Trương Vĩnh Ký đã không nghĩ đến điển tích của câu thơ qua bài Lũng tây hành của Trần Đào.
Thệ tảo Hung Nô bất cố thân,
Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần.
Khả liên Vô Định hà biên cốt,
Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
(Lúc ra đi, thề quét sạch rợ Hung nô, không tiếc đến thân mình,
Năm nghìn người chiến sĩ mặc áo bào làm bằng da con điêu chôn xác ở nơi cát bụi đất Hồ.
Thương thay! Nắm xương bên sông Vô Định tàn rụng đã lâu rồi mà vẫn còn là người trong mộng của những thiếu phụ chốn phòng khuê).
Nguyễn Du đã dùng chữ Vô Định trong bài thơ trên để tả những cảnh người chết vì chiến tranh, xương chất đầy đống bên sông.
Sông Vô Định là con sông ở tỉnh Thiểm Tây và tỉnh Tuy Viễn, Trung Quốc.
Trương Vĩnh Ký không nghĩ đến bài thơ trên nên giảng “vô định” là “không biết tông tích” thì không đúng.
Chúng tôi, qua ba phần kể trên, chỉ nêu ra một số thí dụ về các chữ và các câu đã bị Trương Vĩnh Ký viết sai, phiên âm sai và chú thích sai. Theo nhận xét của chúng tôi thì Trương Vĩnh Ký đã để khá nhiều lỗi khi phiên âm và chú thích quyển Truyện Kiều. Có nhiều chữ rất phổ thông mà ông cũng giảng không đúng. Điều này làm cho chúng ta phải thắc mắc vì từ xưa đến nay Trương Vĩnh Ký vẫn nổi tiếng là một học giả uyên bác.
(…) Sự phiên âm sai lầm của Trương Vĩnh Ký đã làm cho Abel des Michels lầm lẫn theo và dịch quyển KIm Vân Kiều sang tiếng Pháp với nhiều sai lầm không thể chấp nhận được.
Một nhà soạn từ điển, giáo sĩ J. F. M. Génibrel đã phạm rất nhiều sai lầm khi dịch một số câu trong Truyện Kiều sang tiếng Pháp. Chắc ông cũng đã dựa theo bản KIm Vân Kiều do Trương Vĩnh Ký phiên âm”*.
Trở lên là lời của Nguyễn Quảng Tuân, xin chép ra làm bằng để tiện nhận xét.
§ 154. Kiến thức ngày nay, số 139, ngày 15-5-1994
Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 130, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 57 có trả lời về việc chữ “t” của từ “thành phố” trong địa danh Hồ Chí Minh nên viết như thế nào. Xin trao đổi với An Chi như sau: Việc nhân danh Hồ Chí Minh được đặt tên cho một thành phố tuy là một tiền lệ trong tiếng Việt nhưng trên thế giới người ta đã làm từ rất lâu: nhân danh Whashington (sic) đã được dùng đặt tên cho thủ đô Hoa Kỳ, nhân danh Lê-nin đã được dùng đặt tên cho một thành phố của Liên Xô, thành phố Lê-nin, v.v..
Vì được dùng đặt tên cho một thành phố nên Hồ Chí Minh đã trở thành địa danh chứ không còn là nhân danh nữa. Vì vậy, người ta vẫn có thể nói “đi từ Hồ Chí Minh đến Cần Thơ” nhưng người ta không nói không phải là không nói được mà vì những lý do sau: 1. để phân biệt giữa nhân danh Hồ Chí Minh và địa danh Hồ Chí Minh (bởi trước đó người ta chỉ quen với Hồ Chí Minh là nhân danh). Sự phân biệt này chỉ tồn tại một thời gian nhất định. Ngày nay, người ta không cần phải nói “đi thủ đô Whashington (sic)” mà chỉ cần nói “đi Whashington (sic)” bởi ai cũng biết Whashington (sic) là thủ đô của nước Mỹ rồi. 2. để cụ thể hóa địa danh Hồ Chí Minh là gì (tỉnh, thành phố, quận, huyện, hay là một cơ quan, một con đường…).
Vậy cụm từ “thành phố Hồ Chí Minh” vẫn bao gồm hai thành phần riêng lẻ: từ “thành phố” (danh từ chung chỉ đơn vị hành chính) và từ “Hồ Chí Minh” (nhân danh đã trở thành địa danh). Do đó, thiển nghĩ chữ “t” của từ thành phố Hồ Chí Minh nên viết thường là hay hơn.
Học giả An Chi giải đáp: Trong phần trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 130, chúng tôi chỉ hạn chế vấn đề trong phạm vi của tiếng Việt và chữ Việt. Nay bạn đã dẫn đến chuyện thế giới thì xin hầu chuyện thế giới với bạn.
Bạn đã khẳng định rằng “ai cũng biết Washington (Chúng tôi lạm phép bỏ chữ h của bạn sau chữ W – AC) là thủ đô của nước Mỹ”. Vậy nếu có người nói rằng Washington là một tiểu bang ở Tây Bắc của nước Mỹ, trên bờ Thái Bình Dương, mà thủ phủ là Olympia thì bạn sẽ trả lời thế nào? Bạn viết: “Người ta không cần nói: đi thủ đô Washington mà chỉ cần nói: đi Washington”. Nhưng vì ở Mỹ có một tiểu bang cũng mang tên Washington nên về nguyên tắc thì danh từ “thủ đô” vẫn là cần thiết vì nó giúp cho người ta phân biệt Washington thủ đô với Washington tiểu bang. Còn trong thực tế thì người Mỹ đã có cách riêng của họ: khi cần phân biệt với tiểu bang Washington, họ nói Washington D.C. để chỉ thủ đô của nước mình*.
Bạn lại nhắc đến thành phố mang tên Lê-nin, ngụ ý rằng nhân danh Lê-nin đã trở thành địa danh Lê-nin. Nhưng trong tiếng Nga, Lenin chưa bao giờ là địa danh dùng để chỉ thành phố mà trước kia là Saint-Petersbourg. Thành phố Lê-nin mà bạn nói, tiếng Nga là Leningrad. Đây mới đích thực là một địa danh. Nó gồm có hai thành tố: nhân danh Lenin + danh từ chung grad (một từ cổ tương ứng với danh từ gorod trong tiếng Nga hiện đại), có nghĩa là thành phố. Cả cái khối ngữ âm – từ vựng Leningrad chặt chẽ đó mới là địa danh. Từ địa danh này, người ta mới cấu tạo nên những từ phái sinh như Leningradets (người Leningrad) và leningradskiy (thuộc về Leningrad). Trong những từ phái sinh này, danh từ -grad-(= thành phố) đã nằm lọt tõm vào giữa nhân danh Lenin và hậu tố -ets hoặc -sk(iy). Đây là một bằng chứng về sự phụ thuộc của grad vào địa danh Leningrad: nó không phải là một “thành phần riêng lẻ”. Và trong ba từ Leningrad, Leningradets, leningradskiy, thành tố Lenin vẫn cứ luôn luôn là một nhân danh. Vậy không thể nói “đi Lenin” mà phải nói “đi Leningrad”. Nếu lý thuyết của bạn đúng (Lenin là địa danh) thì người ta đã nói Leninets để chỉ người Leningrad và leninskiy để diễn đạt cái nghĩa “thuộc về Leningrad” rồi. Nhưng Leninets lại là người theo chủ nghĩa Lê-nin còn leninskiy lại là “của Lê-nin”.
Trở lên là tiếng Nga. Bây giờ xin sang tiếng Anh. Trong ngôn ngữ này, chúng tôi muốn giới thiệu hai địa danh: Georgetown, hải cảng và thủ đô của Guyana và George Town, hải cảng của Malaysia. Nếu muốn đến một trong hai nơi đó thì phải nói “đi Georgetown (hoặc George Town)” chứ không ai nói “đi George” theo lý thuyết của bạn được. Sở dĩ không nói như thế được là vì George trước sau vẫn chỉ là một nhân danh. Chỉ có Georgetown và George Town mới là địa danh và hai địa danh này đều bao gồm hai thành tố: nhân danh George + danh từ chung town (thành phố).
Cuối cùng xin nói sang tiếng Pháp với hai địa danh đáng chú ý là Brazzaville và Léopoldville. Brazzaville là thành phố mang tên của Pierre Savorgnan de Brazza, nhà thám hiểm người Pháp gốc Ý đã tìm ra miền đất về sau là Congo thuộc Pháp; còn Léopoldville, nay là Kinshasa, là thành phố mang tên một vị quốc vương của nước Bỉ là Léopold đệ nhị. Hai địa danh trên đều bao gồm mỗi từ một nhân danh (Brazza hoặc Léopold) và danh từ chung ville (thành phố). Hai nhân danh Brazza và Léopold tự chúng chưa bao giờ trở thành địa danh. Chỉ khi được ghép với ville, chúng mới góp phần tạo ra hai địa danh Brazzaville và Léopoldville mà thôi.
Trong tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp, các danh từ chung grad, town, ville đều được viết liền với nhân danh đứng trước chúng. Điều này chứng tỏ rằng chúng đã trở nên những thành tố của địa danh chứ không còn phải là “thành phần riêng lẻ” như bạn đã khẳng định trong lý thuyết của mình. Nếu người ta không viết liền thì người ta lại viết hoa chữ cái đầu tiên của từ có nghĩa là thành phố, chẳng hạn George Town (với chữ t hoa = T). Cùng một nguyên tắc này, người Pháp đã dịch địa danh Thành phố Hồ Chí Minh thành Hô Chi Minh – Ville (Xem, chẳng hạn Petit Larousse Illustré 1992) và viết Ville với chữ v hoa. Danh từ chung Ville trong trường hợp này rõ ràng đã trở nên một thành tố của địa danh mà sự viết hoa chữ cái đầu tiên của nó là một dấu hiệu không thể nào chối cãi được. Gạch nối giữa Hô Chi Minh và Ville cũng chứng tỏ rằng Ville là một thành tố của địa danh Hô Chi Minh – Ville. Trong tiếng Pháp lại còn có trường hợp danh từ chung đứng trước chứ không phải sau nhân danh nhưng nguyên tắc chính tả vẫn là một. Thí dụ: Bourg-Léopold là một địa danh tiếng Pháp, dịch từ tiếng Hà Lan Leopoldsburg để chỉ một địa phương của nước Bỉ (bourg là điểm cư dân tập trung nhất của một vùng nông thôn, thường tương đương với một xã). Chữ B của Bourg đã được viết hoa, giữa Bourg và Léopold có gạch nối.
Từ trên đây suy ra, Thành phố Hồ Chí Minh rõ ràng là một địa danh năm âm tiết gồm có hai thành tố: danh từ chung Thành phố (mà chữ t phải được viết hoa) + nhân danh Hồ Chí Minh. Như chúng tôi đã nói kỳ trước, đây là một trường hợp chưa có tiền lệ trong tiếng Việt: lần đầu tiên người ta đã dùng tên người mà chính thức đặt tên cho một thành phố. Kỳ này xin nói rõ thêm: đây là cách đặt tên cùng kiểu với các mẫu của tiếng nước ngoài như Brazzaville của tiếng Pháp, Georgetown của tiếng Anh hoặc Leningrad của tiếng Nga, trong đó có một thành tố là nhân danh còn thành tố kia là một danh từ có nghĩa là thành phố. Cả hai thành tố đó gắn chặt với nhau mới tạo thành địa danh.
Kiểu cấu tạo địa danh trên đây hoàn toàn khác với kiểu cấu tạo của địa danh Washington. Washington mới đích thực là một địa danh trực tiếp bắt nguồn từ nhân danh. Ở đây người ta đã lấy thẳng nhân danh làm địa danh. Tên của Christophe Colomb cũng đã được dùng theo kiểu này để gọi thủ phủ của bang Ohio (Mỹ). Đó là Columbus (hình thái tiếng Anh của Colomb). Columbus cũng còn là tên của một thành phố khác nữa ở bang Georgia (Mỹ). Đối với các địa danh Washington và Columbus, nếu bạn có muốn thêm “town” vào mà gọi là “Washingtontown” và “Columbustown” thì cũng chẳng ai cho. Nhưng đối với các địa danh Brazzaville, Georgetown và Leningrad, nếu bạn có muốn bỏ ville, town, grad thì cũng chẳng ai chịu. Cũng y hệt như thế đối với địa danh Thành phố Hồ Chí Minh trong đó Thành phố là một thành tố không thể tách rời được.
Vậy vấn đề không phải là ở chỗ người ta đã quen hoặc chưa quen với “địa danh Hồ Chí Minh”, như bạn đã nói mà là ở chỗ người ta đã chọn cách đặt địa danh như thế nào: lấy thẳng nhân danh làm địa danh (như Washington, Columbus) hay ghép nhân danh với danh từ chung thành phố (kiểu như Brazzaville, Georgetown, Leningrad). Vấn đề cũng chẳng phải là ở chỗ người ta muốn “cụ thể hóa địa danh Hồ Chí Minh” (tỉnh, thành phố hay một con đường v.v.) như bạn đã nói vì ngay cả khi ngôn cảnh hoàn toàn rõ ràng, không cho phép xảy ra một sự hiểu lầm nào, thì người ta vẫn cứ luôn luôn nói Thành phố Hồ Chí Minh mà không bao giờ nói Hồ Chí Minh trống trơn. Bằng chứng là trên tất cả các văn thư của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, khi đề ngày, người ta vẫn ghi đầy đủ 5 âm tiết Thành phố Hồ Chí Minh mặc dù nếu chỉ ghi 3 âm tiết Hồ Chí Minh thì người đọc vẫn có thể biết được rằng những văn thư đó đã được thảo ra tại Thành phố Hồ Chí Minh chứ không phải tại bất cứ nơi nào khác.
Cuối cùng bạn còn phản bác chúng tôi bằng cách lập luận rằng nếu “Thành phố Hồ Chí Minh là một địa danh năm âm tiết thì chẳng lẽ gọi địa danh Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố Thành phố Hồ Chí Minh”, “chẳng lẽ người nước ngoài mà cụ thể là người Anh khi gọi địa danh trên cũng phải gọi là Ho Chi Minh City City?” Thưa: về nguyên tắc thì hoàn toàn có thể nói như thế được nhưng trong thực tế thì dù là người Việt hay người Anh, chẳng có ai dại dột mà tạo ra một kiểu redundancy (tạm dịch là lời rườm) ngờ nghệch đến thế. Tuy nhiên, cách nói trùng lặp đó sẽ rất ý nhị nếu nó được dùng đúng chỗ, chẳng hạn như trong trường hợp sau đây:
Ở Ontario (Canada), có một thành phố tên là Belleville, có nghĩa là thành phố xinh đẹp. Để chơi chữ, người ta hoàn toàn có quyền nói: La ville de Belleville estune belle ville (Thành phố Thành phố Xinh Đẹp là một thành phố xinh đẹp).
Cấu trúc ville de Belleville (thành phố Thành phố xinh đẹp) không có gì trái ngược với tập quán ngôn ngữ của người Pháp. Nó lại càng không sai ngữ pháp. Và nhất là cũng chẳng vô duyên chút nào!
§ 155. Kiến thức ngày nay, số 140, ngày 1 -6-1994
Hỏi: Trên Kiến thức ngày nay, số Xuân Giáp Tuất, tác giả Phan Nghị có ghi lại bài “Đả cẩu thi” của H.G.K, nhái bài “Giang lâu thư hoài” của Triệu Hỗ. Vậy bài “Giang lâu thư hoài” như thế nào, xin giới thiệu cho biết.
Học giả An Chi giải đáp: Giang lâu thư hoài là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, nguyên văn như sau:
Độc thướng giang lâu tứ tiễu nhiên
Nguyệt quang như thủy, thủy như thiên
Đồng lai ngoạn nguyệt nhân hà tại?
Phong cảnh y hy tự khứ niên.
Nguyễn Quảng Tuân đã dịch nghĩa như sau:
“Lên lầu bên sông tả mối cảm hoài.
Một mình lên lầu ở bên sông yên lặng đứng nghĩ ngợi.
Trăng sáng như nước, nước sáng trong như trời.
Người đã cùng ta lên đây ngắm trăng nay ở đâu?
Phong cảnh nhìn xem y như xưa vậy”.*
Tản Đà đã dịch thành thơ thất ngôn như sau:
“Lầu bên sông tả hoài
Lên gác bên sông một ngậm ngùi,
Sáng trăng như nước, nước như trời.
Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?
Trăng nước như xưa chín với mười”.
Còn Trần Trọng KIm thì đã dịch thành thơ lục bát như sau:
“Ở trên lầu bên bờ sông viết những điều nghĩ trong bụng
Giang lâu thơ-thẩn một mình,
Long-lanh trăng nước, mông-mênh nước trời.
Người cùng thưởng nguyệt đâu rồi,
Phong quang phảng-phất như hồi năm xưa”.*
Xin lưu ý về cách phiên âm tên tác giả của bài thơ. Các dịch giả trên đây đã phiên thành Triệu Hỗ. Nhưng chữ 嘏 không có âm hỗ. Tuy Việt-Hán thông thoại tự-vị của Đỗ Văn Đáp, Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh, Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu, Hán-Việt tân từ-điển của Nguyễn Quốc Hùng cũng phiên âm nó thành hỗ nhưng âm chính xác của nó lại là giả (Đỗ Văn Đáp cũng ghi chú: “chính vận là giả”) vì thiết âm của nó là “giai ả thiết, âm giả, mã vận” (i). Vậy tên của tác giả bài “Giang lâu thư hoài” là Triệu Giả chứ không phải là “Triệu Hỗ”.
§ 156. Kiến thức ngày nay, số 140, ngày 1 -6-1994
Hỏi: Nói “mút chỉ cà tha” thì ai cũng hiểu. Nhưng “cà tha” là gì và hai tiếng này bắt nguồn từ đâu? Có phải là nói trại âm của hai tiếng “cà sa”?
Học giả An Chi giải đáp: Hai tiếng cà-tha đã được Lê Ngọc Trụ giảng là “xâu chuỗi hột to, dài, mang ở cổ, có tác dụng là bùa trừ ếm tà ma quỉ-quái”. Tác giả đã cho thí dụ: “Thầy pháp đeo dây cà-tha”*. Tuy nhiên dân gian vẫn còn có lối hiểu bình thường là cái bùa (chứ không nhất thiết là xâu chuỗi). Chẳng hạn, khi nghe nói “vô cà tha rồi đó” thì có thể hiểu là “đã có yểm bùa rồi đó”. Dân Nam Bộ đã mượn từ cà-tha ở tiếng Khmer katha mà Dictionnaire cambodgien-français của J. B. Bernard (Hong Kong, 1902) giảng là “amulette” (bùa). Vậy cà tha là bùa.
Còn cà sa, mà dạng đầy đủ là cà sa duệ, là âm Hán-Việt của những chữ Hán mà người Trung Hoa đã dùng để phiên âm tiếng Sanskrit kāsāya, nghĩa gốc là vải hoặc y phục nhuộm màu đỏ sẫm. Trong tiếng Pali thì kāsāya lại có nghĩa là nhuộm màu da cam, là áo màu vàng. Danh từ cà sa đã được Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn giảng như sau: “Ấy là bộ áo nhà sư đạo Phật, hiệp lại là ba cái: Tăng-già-lê, cái áo tràng; uất-đa-la-tăng, cái giữa; an-đà-hội, cái áo trong, áo lót”. Nghĩa thông dụng của cà sa hiện nay là “áo mặc ngoài của nhà sư (rất dài và rộng)” (Từ điển tiếng Việt 1992).
§ 157. Kiến thức ngày nay, số 140, ngày 1 -6-1994
Hỏi: Sau khi đọc bài thơ “Ký ức trắng” của tác giả Phan Hoàng ở trang 79, Kiến thức ngày nay, số 132, con gái tôi (10 tuổi) đã hỏi tôi: “Ba ơi, tại sao ở trường, thầy cô dạy con khi làm văn phải viết hoa ở đầu câu và phải dùng các dấu câu mà người ta lại làm thơ và cho in lên sách báo không đúng như con đã học? Và vua Quang Trung có cỡi trâu đánh trận thật không?” Xin giải thích hộ tôi tại sao phải làm như vậy và làm như thế thì nó hay và có lợi ở điểm nào? Có đúng là vua Quang Trung đã cỡi trâu đánh trận thật không?
Học giả An Chi giải đáp: 1. Không phải riêng Phan Hoàng không dùng dấu câu và không viết hoa chữ đầu của các câu thơ. Ngay ở Kiến thức ngày nay, số 132, trang 32, trong bài “Tháng giêng”, Vũ Ngọc Giao cũng làm như thế; trang 6, trong bài “Trần Thái Tông”, Nguyễn Thụy Kha cũng làm gần như thế. Chúng tôi không cho rằng đây là chuyện hay hoặc không hay, lợi hoặc không lợi mà chỉ nghĩ rằng đây là chuyện phong cách và sở thích riêng của từng nhà thơ.
Con gái ông 10 tuổi, chắc bé đang học lớp 5. Đâu có ai dám dạy cho học trò lớp 5 tất cả mọi vấn đề của ba cấp học ở bậc phổ thông hoặc ở bậc cao hơn nữa. Vì vậy bé chỉ mới được dạy phải viết hoa ở đầu câu và phải dùng dấu câu đúng chỗ cần thiết và đúng theo công dụng của từng dấu. Sau này, bé sẽ được biết thêm rằng có những nhà thơ không thích hoặc không chịu chấm câu cũng như không thích hoặc không chịu viết hoa chữ đầu của các câu thơ. Bé đồng thời cũng sẽ được biết rằng chuyện đó là thuộc quyền tự do của nhà thơ. Nếu tất cả các kiến thức đều được dạy tập trung ở lớp 5 thì giáo viên các lớp trên còn gì để dạy. Đó là còn chưa nói đến việc quy định dung lượng kiến thức cho từng lớp phải tùy thuộc vào đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi. Đó lại còn là chưa nói đến chuyện quản lý và hướng dẫn việc đọc sách của trẻ con trong phạm vi gia đình. Bài “Ký ức trắng” của Phan Hoàng là một bài thơ mà học sinh lớp 5 nói chung chưa có đủ điều kiện để hiểu được một cách thấu đáo. Vậy, theo thiển ý có lẽ ông cũng nên hướng dẫn bé tìm đọc những bài thơ khác thích hợp với lứa tuổi của mình hơn.
2. Chính vì chưa đủ điều kiện để hiểu bài thơ nên bé đã tưởng rằng “Quang Trung cỡi trâu đánh trận” là chuyện không đúng với sự thật lịch sử. Nhưng Phan Hoàng không viết sử mà chỉ làm thơ. Và trong bài thơ của mình, có những chỗ tác giả đã liên tưởng trên cơ sở hồi ức (bài thơ có nhan đề “Ký ức trắng”). Chuyện “Quang Trung cỡi trâu đánh trận” chính là một mẩu hồi ức của Phan Hoàng chứ không phải là một sự kiện liên quan đến lịch sử Việt Nam hồi gần cuối thế kỷ XVIII. Bởi vậy Quang Trung ở đây không phải là Quang Trung Nguyễn Huệ mà là Quang Trung… Phan Hoàng, nghĩa là Phan Hoàng thuở thiếu niên đã từng chơi đánh trận mà trong trò chơi đó thì chính cậu ta đã đóng vai Quang Trung. Và ở cái nơi ngày nay là bãi cỏ lau (Ta lơ ngơ trong bãi cỏ lau) thì ngày ấy cũng làm gì có voi để cho Phan Hoàng cỡi. Chỉ có trâu của trẻ mục đồng mà thôi. “Quang Trung cỡi trâu đánh trận” là như thế. Vậy ngày nay khi Phan Hoàng muốn “tìm dấu Quang Trung cỡi trâu đánh trận” là tác giả muốn tìm lại tuổi thơ của chính mình đó thôi. Điều này đương nhiên là rất chính đáng.
Xin nói luôn rằng ở trên còn có mấy câu:
Ta chạy lên đồi trăng
Nơi Vân Tiên quẳng sách cứu Nguyệt Nga
thì đây cũng chẳng phải là Vân Tiên họ Lục của Nguyễn Đình Chiểu mà chính là Vân Tiên Phan Hoàng. Còn Nguyệt Nga là ai thì chỉ có Phan Hoàng biết mà thôi vì đây là chuyện “con gái rủ con trai trốn học” của thuở ấy!
Chỉ có chuyện Ngọc Hân đề thơ mới là chuyện thật – đây là phần liên tưởng – nhưng đó cũng là sự thật nhìn bằng con mắt Phan Hoàng nên mới có những chi tiết “chân dại mắt khờ” và “vịn mây chiều áo vải đề thơ”.
§ 158. Kiến thức ngày nay, số 140, ngày 1 – 6 – 1994
Hỏi: “Võ lâm ngũ bá” và “Lục mạch thần kiếm” của KIm Dung có nói đến nước Đại Lý. Có phải đó là nước Nam Hán của Lưu Cung, Lưu Ẩn đã sai Hoằng Thao đánh nước ta vào thời Ngô Quyền hay không?
Học giả An Chi giải đáp: Đó là hai nước khác nhau. Nam Hán là một trong mười nước thời Ngũ đại (907 – 960). Thủy tổ của nước này là Lưu Ẩn, làm tiết độ sứ Thanh Hải đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường. Đầu thời Ngũ đại, được Thái Tổ nhà Lương phong làm Nam Hải Vương. Lưu Ẩn chết, em là Lưu Cung tự lập để nối ngôi rồi xưng đế, đặt quốc hiệu là Việt, sau đổi là Hán, sử gọi là Nam Hán. Ngày xưa Nam Hán bao gồm toàn bộ tỉnh Quảng Đông, miền nam tỉnh Phúc Kiến và miền nam tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc hiện nay. Nước Nam Hán truyền đến đời Lưu Sưởng thì mất vì bị nhà Tống diệt.
Còn nước Đại Lý là nước Điền thời Tần, Hán, là nơi sinh sống của các tộc người mà Trung Hoa gọi là Tây Nam Di (rợ Tây Nam). Đời Huyền Tông nhà Đường thì bị Nam Chiếu chiếm và gọi là Đại Mông. Nhiều lần bị xâm chiếm và đổi tên thành Đại Lễ, Đại Trường Hòa, Đại Thiên Hưng, Đại Nghĩa Ninh, Đại Lý, Đại Trung Quốc rồi Phục Lý. Đến đời Hiến Tông nhà Nguyên (1251 – 1260) thì bị Hốt Tất Liệt tiêu diệt. Nước Đại Lý nằm trên đất tỉnh Vân Nam ngày nay.
§ 159. Kiến thức ngày nay, số 141, ngày 15 – 6 – 1994
Hỏi: Tại sao người Pháp gọi Đài Loan là Formose và người Anh là Formosa?
Học giả An Chi giải đáp: Những người châu Âu đầu tiên phát hiện ra đảo Đài Loan là người Bồ Đào Nha. Họ đã gọi nó là hòn đảo xinh đẹp, tiếng Bồ Đào Nha là ilha formosa (ilha: đảo – danh từ giống cái; formosa: xinh đẹp – giống cái của tính từ formoso); do đó mà “chết tên”. Người Pháp đã theo đó mà gọi là Formose và người Anh là Formosa. Tuy nhiên, ngày nay họ cũng đã theo cách gọi của người Trung Hoa mà gọi nó là Taiwan.
§ 160. Kiến thức ngày nay, số 141, ngày 15-6-1994
Hỏi: Xin cho biết chữ Nho và chữ Hán có khác nhau không? Thứ chữ này ra đời và chấm dứt từ lúc nào?
Học giả An Chi giải đáp: Chữ Hán và chữ Nho là hai tên gọi khác nhau của cùng một thứ chữ. Ngày xưa người ta gọi đó là chữ Nho vì nó được dùng để chuyển tải nội dung của Nho giáo và Nho học. Đó là thứ chữ mà nhà Nho phải nắm vững để có thể thông hiểu sách vở và đạo lý của thánh hiền.
Khi người Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ ngàn năm của phong kiến phương Bắc để xây dựng quốc gia độc lập, đặc biệt là từ nhà Lý (1010 – 1225) trở đi thì Nho giáo và Nho học cũng trở thành chính thống tại quốc gia Đại Việt. Chữ Nho do đó cũng trở thành “quốc gia văn tự” của người Việt Nam. Vì vậy mà người nước ta còn gọi nó là “chữ ta”. Thứ chữ này đã tồn tại và đã được sử dụng ở Việt Nam trong vòng 900 năm (nếu chỉ kể từ nhà Lý) cho đến khi nước ta bị Pháp đô hộ và nền Nho học bị bãi bỏ. Còn trên thực tế thì người Việt Nam đã biết đến chữ Nho từ rất sớm, ít nhất cũng là từ đời Sĩ Nhiếp.
Ngày nay người ta không gọi thứ chữ đang xét là chữ Nho nữa mà gọi đó là chữ Hán, vì đó mới là cách gọi chính xác và hợp lý. Đây cũng là cách gọi của chính người Trung Hoa: họ tự nhận là Hán tộc nên chữ của họ là Hán tự (chữ Hán), tiếng của họ là Hán ngữ, và văn của họ là Hán văn.
Theo truyền thuyết thì Thương Hiệt là người đã sáng chế ra chữ Hán nhưng điều này không có căn cứ thực tế. Chữ Hán chắc chắn không do một cá nhân sáng chế ra mà là kết quả của một sự thừa kế có cải tiến của nhiều người, thậm chí của nhiều thế hệ cho đến một thời điểm mà nó được xem là đã định hình. Đó là vào đời nhà Thương và thứ chữ được xem như đã định hình đó là giáp cốt văn (văn ở đây có nghĩa là chữ) tức là thứ chữ khắc trên yếm rùa và xương thú. Thứ chữ này đã được dùng để ghi chép những lời bói toán gọi là bốc từ. Nhờ những lời bốc từ này mà người ta có thể biết rõ xã hội Trung Hoa đời nhà Thương về nhiều phương diện. Đặc biệt bảng đế hệ đời Thương xác lập được qua những lời bốc từ nói chung khá phù hợp với truyền thuyết. Chính vì thế mà người ta mới có căn cứ cụ thể và chắc chắn để khẳng định rằng nhà Thương là một giai đoạn có thật trong lịch sử của Trung Hoa.
Rất nhiều chữ giáp cốt là những chữ tượng hình đích thực, nhưng trải qua nhiều thay đổi, ngày nay mỗi chữ Hán đã trở thành một chữ khối vuông (phương khối tự) riêng biệt cấu tạo bằng một số nét (như chấm, phẩy, mác, v.v.) nhất định.
Tóm lại, thời điểm ra đời của chữ Hán, tức chữ Nho là vào đời nhà Thương, còn thời điểm chấm dứt của nó thì chưa thể biết được vì đến nay nó vẫn còn được dùng tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tại Đài Loan, và trong các cộng đồng người Hoa ở nước ngoài. Chẳng những như thế, chữ Hán ngày nay vẫn còn tiếp tục được nhiều người nước ngoài trau dồi và nghiên cứu.
§ 161. Kiến thức ngày nay, số 141, ngày 15 – 6 – 1994
Hỏi: Một bài trên Kiến thức ngày nay, số 104, trang 47 – 51, có dùng từ “mặc khải”. Từ này không thấy có trong từ điển của cụ Đào Duy Anh và của ông Nguyễn Văn Khôn. Từ “mặc khải” có liên quan gì đến thuyết linh ứng bên đạo Thiên chúa không?
Học giả An Chi giải đáp: Mặc khải là một từ Hán Việt mà người ta đã dùng để dịch danh từ Révélation của tiếng Pháp (tiếng Anh: Revelation) với tính cách là một thuật ngữ tôn giáo. Danh từ thần học và triết học của Ban giáo sư Đại chủng viện Bùi Chu do Trí-đức-thư-xã (Hà Nội) xuất bản năm 1952 đã ghi như sau:
“Révélation: Mặc khải, Révélation divine: Mặc-khải Thiên-chúa. Révélation formelle: Mặc-khải mô-thức. Révélation prImitive: Mặc-khải sơ-khai (…)”.
Đồng nghĩa với mặc khải là mặc thị mà người Nhật đọc thành mokuji. Họ dùng từ này để dịch tên sách Apocalypse (là sách cuối cùng trong Kinh Thánh, phần Tân ước) thành Mokuji roku (Mặc thị lục). Kinh Thánh, bản tiếng Việt của Thánh-Kinh Hội tại Việt Nam, in năm 1975 cũng dùng từ này, chẳng hạn “Sự mặc-thị của Đức Chúa Jêsus-Christ” (Sách khải-huyền, 1:1). Nhưng bản tiếng Việt của Hội Ghi-đê-ôn Quốc-tế năm 1965 thì lại dùng từ khải thị, chẳng hạn “Sự Khải-thị của Jésus-Christ” (Sách Khải-thị của Giăng, 1:1).
Danh từ thần học và triết học đã dịch Révélation thành mặc khải và dịch Apocalypse thành Khải huyền thư. Thực ra, nghĩa của apocalypse cũng là révélation vì đó là dạng tiếng Pháp -và cả tiếng Anh – của tiếng Hy Lạp apokalupsis, có nghĩa là… révélation, tức mặc thị, mặc khải, khải thị hoặc khải huyền. Đây đều là những từ đồng nghĩa.
Từ điển của Đào Duy Anh hoặc của Nguyễn Văn Khôn không ghi nhận từ mặc khải một phần vì đây không phải là một từ thông dụng, một phần vì đó cũng không phải là từ điển cỡ lớn. Đầy đủ hơn nhiều như Từ hải cũng chỉ ghi nhận có khải thị mà không có mặc khải, mặc thị hoặc khải huyền.
Trong bài ông đã nêu, tác giả chỉ dùng từ mặc khải theo nghĩa thông thường là bộc lộ, biểu lộ… mà thôi.
§ 162. Kiến thức ngày nay, số 141, ngày 15-6-1994
Hỏi: Tôi hiểu câu “bắt cá hai tay” như sau: vì muốn nắm chắc phần thắng nên đã chơi với cả hai (thường chỉ về chuyện tình cảm). Vậy đúng ra phải nói “bắt cả hai tay” nghĩa là hai tay đều có bắt cả hai bên nhưng do từ “cả” đọc lên quá trầm nên người ta mới đọc thành “cá” cho rõ và có âm điệu hơn, cũng như nói “cảm ơn” thành “cám ơn” vậy. Xin cho biết có đúng như thế không?
Học giả An Chi giải đáp: Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên (Hà Nội, 1994) đã giảng như sau:
“Bắt cá hai tay” tức là dùng cả hai tay để bắt một con cá, như kiểu “cầm hai tay” “đưa hai tay”, “bưng hai tay”. Song hiểu như thế thì hành động “bắt cá” ở đây sẽ đạt kết quả một cách khá chắc chắn và không có gì đáng chê.
“Nhân dân ta đều hiểu thành ngữ này với nghĩa đen là mỗi tay bắt một con cá, và kết quả là tuột mất, chẳng bắt được con nào (…).
“Từ nghĩa đen cụ thể đó, nhân dân ta đã dùng thành ngữ này với nghĩa rộng hơn để chỉ những người có tư tưởng “nước đôi”, hoặc tham lam, ôm đồm, muốn có nhiều thứ, muốn làm nhiều việc cùng một lúc, không được việc này thì được việc khác, kết quả hoặc là không được gì, “xôi hỏng, bỏng không” hoặc được chắc một thứ, nhưng thường bị chê trách là tham lam, khôn ranh”.*
Cả hai cách hiểu mà Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ đã nêu (dùng cả hai tay bắt một con cá hoặc mỗi tay bắt một con cá) đều không đúng vì đây không phải là cá trong cá tôm mà là cá trong cá cuộc. Cá là đánh cuộc và bắt cá là nhận đánh cuộc bằng cách bắt (= chọn) một trong hai đấu thủ (gà chọi, cá chọi, võ sĩ…), một trong hai phe (đội bóng, đội bơi thuyền…) hoặc một trong hai khả năng đối lập nhau (mưa hoặc không mưa trong cá mưa chẳng hạn), v.v.. Nếu bên mình bắt mà thắng thì mình sẽ được cuộc, ngược lại thì sẽ thua cuộc. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức đã ghi nhận như sau: “Bắt cá (…) nhận đánh cuộc: “Ra trường gà bắt cá; Bắt cá đá banh”.
Vậy bắt cá hai tay là nhận đánh cuộc bằng cách bắt cả hai bên đối nghịch nhau. Thông thường người ta chỉ bắt bên mà mình cho là sẽ thắng để được cuộc. Còn bắt cá hai tay là vừa bắt bên này vừa bắt bên kia tùy theo diễn biến của tình thế. Ngày nay, do không còn hiểu đúng nghĩa của từ tổ bắt cá nên người ta mới dùng thành ngữ đang xét theo ý nghĩa và công dụng mà Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ đã nêu.
Nhân nói về từ tổ bắt cá, xin nói luôn về một từ tổ hữu quan là thả cá vì có… thả thì mới có bắt. Thả cá đã được Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng là “đánh chọi” còn Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức thì giảng rõ hơn là “thách cá, nói trong một độ gà chọi hay cá thia thia, sau khi xem xét con vật rồi, những người cầm chắc con của mình chọn sẽ thắng, bèn thách mọi người bắt số tiền cá của mình”. Vì tưởng rằng đây là cá trong tôm cá nên Nguyễn Lân đã giảng câu Thứ nhất thả cá, thứ nhì gá bạc như sau: “Việc thả cá có lợi là đúng và cần khuyến khích, còn gá bạc thì ngày nay là một tội phạm, vì đó là một việc làm bất chính”*. Nhưng, như đã thấy ở trên, việc thả cá cũng chẳng lương thiện gì hơn việc gá bạc cho nên nếu cho rằng đó là việc làm “có lợi” và “cần khuyến khích” thì nguy to vì đã vô tình cổ xúy cho trò đỏ đen.
Tóm lại, cá trong “bắt cá hai tay” là cá cuộc, cá độ chứ không phải cá động vật. Và câu thành ngữ vốn vẫn là bắt cá hai tay chứ cũng không phải “bắt cả hai tay”.
§ 163. Kiến thức ngày nay, số 142, ngày 1 – 7- 1994
Hỏi: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1991) đã nhất loạt ghi các họ Chu và Châu thành Châu, Huỳnh và Hoàng thành Hoàng, Vũ và Võ thành Võ. Xin cho biết làm như thế có đúng không?
Học giả An Chi giải đáp: Chắc ông cũng sẵn sàng thừa nhận rằng làm như thế là không đúng. Ghi như vậy là nhầm lẫn giữa lịch đại và đồng đại. Xét về lịch đại thì Chu và Châu, Huỳnh và Hoàng, Vũ và Võ đều cùng gốc với nhau (theo từng cặp). Nhưng xét theo đương đại, đối với cặp Huỳnh-Hoàng chẳng hạn, thì Huỳnh đã trở thành một họ hoàn toàn riêng biệt từ lâu ở trong Nam. Nhiều chí sĩ, nhân sĩ nổi tiếng ở trong Nam, như Huỳnh Thúc Kháng, Huỳnh Tịnh Của, Huỳnh Khương Ninh, đã bị các soạn giả cải họ mà gọi là Hoàng Thúc Kháng, Hoàng Tịnh Của, Hoàng Khương Ninh. Xin nhấn mạnh rằng họ người là danh từ riêng cho nên không thể thay thế nó bằng biến thể ngữ âm của nó như đối với danh từ chung một cách tùy tiện được. Làm như thế là xúc phạm thô bạo đến cá nhân và dòng họ của người khác. Huống chi Hoàng và Huỳnh đã trở thành hai họ riêng biệt và độc lập với nhau.
Vậy trường hợp tên họ nhân vật lịch sử được ghi bằng chữ Hán và được đọc không thống nhất, chẳng hạn Ngô Tùng Châu cũng đọc Ngô Tòng Chu thì sao? Xin trả lời rằng đây chỉ là hai cách đọc khác nhau của thời nay do suy luận không nhất trí về âm xưa của các chữ Hán hữu quan. Còn ở thời trước thì tên của nhân vật lịch sử này cũng chỉ có mộtcách đọc duy nhất mà thôi. Một họ ghi bằng một chữ Hán, ký hiệu là A chẳng hạn, trong lịch sử của nó, có thể đọc theo các âm a1, a2, a3, v.v., nhưng vào một thời điểm x nhất định, nó chỉ có thể được đọc theo một trong các âm a đó mà thôi. Vấn đề là phải căn cứ vào những nguyên tắc ngữ âm học lịch sử chặt chẽ và chính xác để tìm ra cho được cái âm ax của thời điểm đó.
Còn ngày nay thì việc thay tên đổi họ, dù chỉ một chữ cái mà thôi, cũng có thể gây ra bao nhiêu điều phiền toái và rắc rối về pháp luật và thủ tục hành chính; điều này, thì ai ai cũng biết. Huống chi là đổi từ họ Huỳnh thành họ Hoàng!
§ 164. Kiến thức ngày nay, số 142, ngày 1 – 7 – 1994
Hỏi: Có phải tiếng Nhật đã mượn rất nhiều từ của tiếng Anh, rồi của cả tiếng Pháp và đã mượn một cách vô tội vạ hay không? Xin cho một số dẫn chứng.
Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi không cho rằng người Nhật đã mượn từ ngữ của tiếng Anh hoặc tiếng Pháp một cách vô tội vạ (họ có lý do riêng của họ) nhưng quả thật là họ đã mượn rất nhiều. Hầu như ở trang từ điển tiếng Nhật nào cũng có những từ mượn như thế. Thí dụ:
abangēru (tiền chiến) < P. avant-guerre; akusesari (phụ tùng) < A. accessory; aramodo (hợp thời trang) < P. à la mode; baiburu (Kinh Thánh) < A. Bible; banpu (phụ nữ quyến rũ) < A. vamp; barēbōru (bóng chuyền) < A. volleyball; basuto (vòng ngực) < A. bust; batā (bơ) < A. butter; beddo (giường) < A. bed; beru (chuông) < A. bell; bideotēpu (băng video) < A. video tape; bifuteki (bít tết) < P. bifteck; burakkurisuto (sổ đen) < A. black list; burandē (rượu trắng) < A. brandy; burashi (bàn chải) < A. brush; chero (đàn cello) < A. cello; chōku (phấn) < A. chalk; deforume (làm biến dạng) < P. déformer; derikēto (thanh nhã) < A. delicate; desuku (bàn giấy) < A. desk; eamēru (thư hoặc bưu phẩm hàng không) < A. air mail; edipusukonpurekkusu (mặc cảm Œdipe) < A. Œdipus complex; v.v..
Chúng tôi không thể kéo dài bảng thí dụ trên đây. Chỉ xin mạn phép nói thêm rằng chúng ta không nên chê người Nhật vì họ đã mượn quá nhiều (mà chúng ta thì cũng mượn không ít). Lại xin nhân tiện cải chính cái quan niệm hoàn toàn sai lầm sau đây của nhiều nhà Việt ngữ học người Việt Nam: tiếng Việt đã dân tộc hóa, đã Việt hóa một cách triệt để các yếu tố vay mượn chứ không tự trói buộc vào những đặc điểm cố hữu của các yếu tố gốc mà nó đi mượn. Đây là điều mà người Việt Nam chúng ta có thể lấy làm tự hào. Nhà Việt ngữ học đã rao giảng như thế cho công chúng còn nhà giáo thì đã dạy như thế cho học sinh trong nhà trường. Thực ra, chẳng có ngôn ngữ nào đi vay mượn mà lại không “dân tộc hóa”, lại không “hóa” các yếu tố vay mượn theo đặc trưng và tập quán ngôn ngữ của chính mình. Về vấn đề này, A. Meillet đã nói như sau: “Các từ của tiếng nước ngoài vay mượn bằng con đường khẩu ngữ gần như lập tức bị quy vào cái mẫu chung của ngôn ngữ và không hề khác với những từ cố hữu bởi cái dáng dấp chung của chúng”*.
Nếu lấy hiện tượng đang xét ở trên làm căn cứ để tự hào thì Tàu phải tự hào hơn ta nhiều. Tàu mà đã “hóa” của Tây thì độc đáo vô cùng. Sau đây là một thí dụ rất nhỏ: mấy nốt nhạc do ré mi của Tây, ta còn xướng thành đồ rê mi chứ Tàu thì phớt Ăng lê với mấy cái âm [d] và [r] của Tây. Họ xướng thành tồ lê mi, bởi tiếng của họ làm gì có [d] với [r]: họ chỉ có [t] và [l] mà thôi.
Tóm lại, về phương diện đang xét thì bất cứ dân tộc nào cũng có quyền tự hào về ngôn ngữ của mình cả, chẳng cứ gì người Việt đối với tiếng Việt.
§ 165. Kiến thức ngày nay, số 142, ngày 1 – 7 – 1994
Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 135, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 81, có nói rằng Việt-Hán từ điển tối tân do nhà sách Chin Hoa ở Chợ Lớn xuất bản “chỉ là một bản sao chép không hơn không kém của quyển Từ điển Việt Hán do tập thể tác giả Hà Thành, Trịnh Ngoạ Long, Chu Phúc Đan,… biên soạn, xuất bản tại Bắc Kinh năm 1960”. Xin cho biết ông An Chi căn cứ vào đâu để khẳng định như thế.
Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi căn cứ vào thực tế, nghĩa là vào nội dung của Việt-Hán từ điển tối tân (VHTĐTT) đối chiếu với nội dung của Từ điển Việt-Hán (TĐVH).
1. Trước hết là ở phần “Hướng dẫn cách dùng”. Trừ điều 3 (được thêm vào VHTĐTT để giới thiệu sách tham khảo) và điều 11 của sách này (vì phần phụ lục của nó khác với của TĐVH), còn điều 1 điều 2 và các điều từ 4 đến 10 của nó thì chỉ là sao y bổn chánh các điều tương ứng của TĐVH. Nói cho công bằng thì VHTĐTT cũng có thay đổi một số từ ngữ. Chẳng hạn, điều 6 của TĐVH ghi: “Khi dịch nghĩa, trước tiên là nêu ý nghĩa căn bản của từ, sau đó mới đến nghĩa rộng, nghĩa bóng, v.v..” còn điều tương ứng của VHTĐTT (điều 7) thì ghi: “Khi dịch nghĩa, trước hết là nêu ý nghĩa căn bản của từ ấy, sau đó mới tới nghĩa rộng, nghĩa bóng, v.v..”. “Trước tiên” được sửa thành “trước hết”, “của từ” được sửa thành “của từ ấy” và “mới đến” được sửa thành “mới tới”.
2. Thứ đến và chủ yếu là ở phần chính của từ điển. Trừ những mục từ và những phần trong một số mục từ của TĐVH mà VHTĐTT đã lược bỏ (những trường hợp này không nhiều), còn tên gọi, cách ghi, thứ tự, lời giảng, các thí dụ và lời dịch những thí dụ đó của các mục từ trong VHTĐTT cũng giống hệt như của TĐVH. Xin lấy ba mục từ ăn, đánh và làm – là ba từ rất thông dụng và có nhiều nghĩa – làm dẫn chứng điển hình.
Mục từ ăn của TĐVH có 13 nghĩa được đối dịch như sau (xin phiên các chữ Hán ra âm Hán Việt cho tiện việc ấn loát): “1. thực, ngật. 2. hưởng thụ. 3. thu nạp, tiếp thụ. 4. diên khánh, ngật tửu. 5. doanh, thắng. 6. mịch thực. 7. hòa hài. 8. xâm nhập, thâm nhập. 9. trang. 10. niêm. 11. hấp thủy. 12. man diên. 13. phụ thuộc”.
Cả 13 nghĩa trên đây đã được VHTĐTT chép lại y hệt. Những thí dụ minh họa cho 13 nghĩa đó cũng được VHTĐTT chép lại y hệt, trừ thí dụ ở nghĩa 13 của TĐVH là “Làng này ăn về tỉnh Hà Đông” thì VHTĐTT đã đổi địa danh Hà Đông thành Biên Hòa cho thích hợp với nội dung của một quyển từ điển xuất bản ở miền Nam.
Mục từ đánh của TĐVH có 28 nghĩa thì VHTĐTT cũng chép y hệt 28 nghĩa đó mà không bỏ sót một nghĩa nào. Chẳng hạn nghĩa 1 đã được TĐVH đối dịch thành: “đả, đả kích, xao kích, xao đả, tiên đả, phách đả, đàn đả (dĩ thủ hoặc vật đả kích)” thì VHTĐTT cũng chép lại y nguyên chẳng bỏ sót một chữ nào. Các thí dụ trong nghĩa 1 là “đánh gẫy xương”, “đánh bể hàm”, “đánh chiêng, gõ trống” cũng được VHTĐTT chép lại y hệt. Nghĩa 2 trong TĐVH là “công đả, chiến đấu. Đánh giặc: đả thổ phỉ. Đánh chóng ăn mau: tốc chiến tốc thắng” thì VHTĐTT chỉ sửa “đả thổ phỉ” thành “đả trượng”. Còn từ nghĩa 3 đến nghĩa 28 thì tiếp tục chép lại y hệt TĐVH, chỉ có đảo nghĩa 20 xuống 21 và 21 lên 20.
Mục từ làm của TĐVH có 7 nghĩa được đối dịch như sau: “1. tố. 2. tạo (chế tạo, kiến tạo, biên tạo, đề tạo, sáng tạo, doanh tạo, hưngtạo) 3. lao tác, doanh sinh. 4. đương, sung đương, sung nhiệm, tác vi. 5. sử, sử đắc, trí sử. 6. trang tác, kiểu sức, giả bán, tạo tác. 7. (tục) tể sát”. Cả 7 nghĩa này cũng đã được VHTĐTT chép lại đầy đủ trừ “trí sử” ở nghĩa 5 thì đổi thành “sử trí” và “tạo tác” ở nghĩa 6 thì đổi thành “tố tác”. Các thí dụ cũng được chép lại không sót, trừ thí dụ “làm bố” (nghĩa 4) thì VHTĐTT đổi thành “làm cha”, các thí dụ “làm bia đỡ đạn” (nghĩa 4) và “làm cho phong trào quần chúng ngày càng phát triển” (nghĩa 5) thì bị VHTĐTT gạt bỏ vì không thích hợp với sinh hoạt chính trị và ngôn ngữ báo chí của miền Nam trước 1975.
Bất cứ trang nào của TĐVH cũng đã được VHTĐTT sao y bổn chánh một cách không cần giấu giếm. Bị lược bỏ chỉ là những mục từ hoặc những thí dụ trong các mục từ mà “soạn giả” VHTĐTT thấy là không cần thiết, nhất là không thích hợp với tình hình chính trị miền Nam trước 1975, chẳng hạn các mục: ăn cơm đoàn kết, ban chấp hành đảng bộ, ban chi ủy, giải phóng quân, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, v.v. hoặc các thí dụ Nhà máy cơ khí Hà Nội (mục cơ khí), phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng tư tưởng (mục giải phóng) đường lối chung (mục đường lối).
Tóm lại, chúng tôi không dám nói rằng “soạn giả” của VHTĐTT đã làm công việc đạo văn trắng trợn nhưng sẽ là hoàn toàn chính xác nếu khẳng định rằng VHTĐTT chỉ là một bản sao chép (có rút gọn chút ít) không hơn không kém của TĐVH. Nhớ rằng TĐVH đã được Thương vụ ấn thư quán xuất bản tại Bắc Kinh năm 1960 còn VHTĐTT thì được nhà sách Chin Hoa xuất bản tại Chợ Lớn năm 1962. TĐVH ra đời trước, VHTĐTT ra đời sau nên không thể nói rằng TĐVH là một bản sao chép (có mở rộng) của VHTĐTT được. Những điểm khác nhau quan trọng giữa hai quyển là VHTĐTT thì dùng dấu gạch nối một cách phổ biến còn TĐVH thì không và TĐVH thì dùng chữ giản thể còn VHTĐTT thì vẫn dùng nguyên dạng chữ phồn thể theo truyền thống. Điểm khác nhau cuối cùng tưởng cũng không nên bỏ qua là các tác giả của TĐVH nói rằng nó chỉ gồm trên 65.000 mục từ còn “soạn giả” của VHTĐTT lại dám khẳng định rằng nó gồm trên 70.000 mục từ mặc dù nó chỉ là TĐVH rút gọn.
§ 166. Kiến thức ngày nay, số 143, ngày 15 – 7 – 1994
Hỏi: Hai câu
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
có phải là của Văn Thiên Tường hay không? Văn Thiên Tường là ai, người nước ta hay người Trung Quốc? Có phải đây cũng là tác giả của bài Chí khí ca?
Học giả An Chi giải đáp: Văn Thiên Tường (1236 – 1282) là người Trung Hoa. Nguyễn Khắc Phi đã giới thiệu và nhận định về tác giả này trong Từ điển văn học tập II (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984) như sau:
“Chí sĩ và nhà thơ yêu nước Trung Quốc cuối Nam Tống. Tự Lý Thiện, còn có tên là Lý Thụy, hiệu Văn Sơn, người ở Cát-an, tỉnh Giang-tây, 20 tuổi đậu tiến sĩ. Làm quan đến Hữu thừa tướng kiêm Khu mật sứ. Khi quân Nguyên vượt sông tấn công Lâm-an, tức Hàng-châu ngày nay, ông được phái đi xin hòa, bị tướng Nguyên là Bá Nhan giữ lại. Sau trốn về Ôn-châu, thuộc tỉnh Chiết-giang ngày nay, lập Tống Đoan Tông để chống Nguyên. Tháng Mười 1278, bại trận ở Quảng-đông, bị địch bắt. Tháng Ba năm sau, bị giải đi Yên-kinh, tức Bắc-kinh ngày nay. Suốt ba năm tù đày, Nguyên Thế Tổ tìm đủ mọi cách cưỡng bức, dụ dỗ đầu hàng, nhưng vẫn cương quyết cự tuyệt, cuối cùng bị sát hại. Tác phẩm chính có: “Văn Sơn thi tập, Chỉ Nam lục, Chỉ Nam hậu lục, Ngâm Khiếu tập, được tập hợp trong Văn Sơn tiên sinh toàn tập, 20 cuốn, Chỉ Nam là lấy ý từ hai câu kết của bài thơ Dương-tử-giang.
“Thần tâm nhất phiến từ châm thạch,
Bất chỉ Nam phương bất khẳng hưu”.
(Lòng tôi như mảnh nam châm; Nếu không chỉ về phương Nam – tượng trưng cho quê hương, Tổ quốc – thì vẫn chưa chịu dừng). Thơ Văn Thiên Tường thời kỳ sáng tác đầu (trước 1276) không có giá trị gì đáng kể. Hầu hết những bài thơ nổi tiếng đều làm ở thời kỳ sau, nhất là lúc bị giải lên phía Bắc và ba năm bị giam cầm. Nhiều bài nói lên nỗi lòng đau xót trước cảnh nước mất nhà tan (vợ, hai người thiếp, con trai thứ hai và hai con gái của nhà thơ đều bị giặc bắt và giải về Yên Kinh) như Qua sông Hoài, Có nỗi cảm hoài, Phủ An-khánh và nhất là Trạm KIm-lăng với hai câu kết đã từng lay động lòng người bao thế hệ:
“Tòng kIm biệt khước Giang-nam lộ,
Hóa tác đề quyên đái huyết quy”.
(Từ nay vĩnh biệt đường Giang-nam; Sẽ hóa làm chIm đỗ quyên kêu đến rỏ máu mà bay về). Bên những vần thơ thống thiết lâm ly, có những câu khẳng khái, khí tiết. Bài Qua sông Linh-đinh có những câu thơ quằn quại:
“Sơn hà phá toái phongphiêu nhứ,
Thân thế phù trầm vũ đả bình”.
(Non sông tan tác như xơ bông bị gió cuốn; Thân thế nổi chìm như cánh bèo bị mưa giập). Nhưng tình điệu vẫn khỏe khoắn nhờ hai câu kết bất hủ:
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.
(Đời người từ xưa ai là không chết; Cốt sao để lại tấm lòng son sáng soi sử sách – Nguyên văn tiếng Hán là do chúng tôi in nghiêng – AC).
Về bài Chính khí ca (chính chứ không phải chí) của Văn Thiên Tường, Nguyễn Khắc Phi đã giới thiệu như sau:
“(…) Chính khí ca viết không bao lâu trước lúc bị sát hại. Bài gồm hai phần. Phần thứ nhất 34 câu, nói chung về cái gọi là “chính khí”: sự thể hiện của “chính khí” ở trong trời đất, ở con người, trong thời bình cũng như trong thời loạn; ở thời loạn, ấy là “tiết tháo” của những liệt sĩ đã được ghi lại trong sử sách (10 câu); biểu dương hàng chục gương hy sinh dũng cảm của người xưa như ba anh em quan Thái tử nước Tề thời Xuân-thu, như Nghiêm Nhan thời Tam-quốc, như Nhan Kiêu Thanh đời Đường (16 câu); khẳng định “chính khí” là cái gìn giữ sự vững bền của “trụ trời”, của “khuôn đất”, của “tam cương” là “cội rễ” của “đạo nghĩa” (8 câu). Phần thứ hai 26 câu, tường thuật cuộc sống khổ cực và biểu hiện tinh thần bất khuất ở trong tù. Nhà thơ cho rằng sở dĩ bản thân giữ vững được tinh thần, “dù bị bỏ vào vạc ninh nấu cũng coi ngọt như đường”, “bao nhiêu bệnh ác khí độc đều phải kiêng nể”… là nhờ có “chính khí” nâng đỡ, là vì biết noi gương các hiền triết xưa. Mặc dù bài thơ biểu dương một số quan niệm đạo đức phong kiến và một vài “gương” được nhắc đến là sự thể hiện cụ thể của những quan niệm ấy, mặc dù cả cái gọi là “chính khí” cũng là một khái niệm mơ hồ và ít nhiều mang tính chất huyền bí, song cảm hứng chủ đạo của bài thơ vẫn là lòng yêu nước thiết tha, âm điệu chính vẫn là mạnh mẽ, hào hùng”.
§ 167. Kiến thức ngày nay, số 143, ngày 15 – 7 – 1994
Hỏi: Trên Thế giới mới số 54, tháng 5-1993, tác giả Trương Chính để lại cho bạn đọc trẻ chúng tôi một nỗi buồn khó tả! Buồn vì tên tuổi của hai nhà thơ quá cố (Chế Lan Viên và Xuân Diệu) đã bị đem ra làm vật mổ xẻ. Liệu chúng tôi có nên bắt chước tác giả bài mổ xẻ ấy để vi phạm ý đẹp của câu nói người xưa rằng “Tử giả bất luận” hay không?
Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi cho rằng chỉ không nên luận về tử giả một cách bất công, bất chính hoặc bất minh, nhất là khi luận về nhân cách của họ mà thôi. Tử giả vẫn phải vĩnh viễn chịu trách nhiệm về những gì họ đã làm lúc sinh thời. Vì vậy mà cũng chính người xưa lại còn có nói “cái quan luận định”, nghĩa là đậy nắp quan tài rồi mới định công luận tội (người chết). Học giả hoặc nhà văn, dù đã quá cố, vẫn phải vĩnh viễn chịu trách nhiệm về những gì họ đã viết. Có lẽ nào các thế hệ độc giả và học giả hậu sinh lại tuyệt đối không có quyền nhận xét và phê phán những gì mà các tử giả đã viết, nhất là về những gì họ đã viết sai (nếu có)? Vì vậy mà chúng tôi tán thành việc làm của Trương Chính. Chỉ đáng tiếc là có khi chính Trương Chính đã luận sai.
Chẳng hạn Trương Chính đã luận sai như sau:
“(…) Có tình trạng người biết nhiều chữ Hán chưa chắc dùng từ Hán Việt đã không sai. Xin nêu vài ví dụ: “Phạm Duy Tốn viết “bảo thủ tài sản”, với nghĩa giữ gìn tài sản, theo nghĩa đen. Tiếng Việt chỉ thừa nhận nghĩa bóng: giữ cái sẵn có, cái cũ, không chịu thay đổi. Trần Trọng KIm viết: “lý thuyết Nho giáo hủ hóa”, với nghĩa hư hỏng, không còn tốt đẹp nữa. Tiếng Việt chỉ thừa nhận nghĩa: quan hệ nam nữ bất chính về xác thịt (…) Đào Duy Anh viết: “Bỉ nhân khi mới nghiên cứu quốc văn đã lấy sự không có từ điển làm điều rất khốn nạn khổ sở”. Rồi Đặng Thai Mai, Hải Triều viết “nhân vật linh động (sinh động)”; Hoài Thanh viết “Làm thơ là phản động lại, lật lại cái lớp ý sáo, chữ sáo” với nghĩa chống lại. Ngày nay, phản động chỉ dùng với nghĩa chống lại cách mạng, chống lại sự tiến bộ, còn chống lại cái cũ, cái xấu thì không dùng phản động. Nêu những ví dụ ấy ra để nói muốn dùng từ chính xác, phải dùng với nghĩa hiện đại”*.
Trở lên là những lời của Trương Chính luận về cách dùng từ của các tử giả danh tiếng trong học giới và văn giới Việt Nam. Nhưng ông đã luận sai.
Khi Phạm Duy Tốn viết: “bảo thủ tài sản” thì từ bảo thủ chưa được dùng theo nghĩa “giữ cái sẵn có, cái cũ, không chịu thay đổi” như Trương Chính đã đòi hỏi. Nghĩa này chỉ trở nên thông dụng sau khi Phạm Duy Tốn (1881 – 1924) đã qua đời, đặc biệt là từ 1945 trở đi. Trước đó, nghĩa thông dụng của nó chỉ là “gìn giữ” đúng như Phạm Duy Tốn đã dùng và đúng như cũng đã có được ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của hoặc trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức. Phạm Duy Tốn đã hoàn toàn đúng khi ông chỉ dùng từ bảo thủ theo cái nghĩa mà nó đã có ở thời của ông.
Trần Trọng KIm cũng hoàn toàn đúng khi dùng hai tiếng hủ hóa theo nghĩa “hư hỏng, không còn tốt đẹp nữa”. Còn cái nghĩa “quan hệ nam nữ bất chính về xác thịt” mà Trương Chính nêu lên thì lại chỉ bắt đầu được dùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) nhưng cũng không phải là rộng rãi trong cả nước mà chỉ ở vùng chiến khu và vùng tự do. Sau 1954, nó mới được dùng rộng rãi trên cả miền Bắc và ở một số vùng căn cứ của miền Nam. Sau 1975, chưa kịp trở nên thông dụng ở những vùng còn lại của miền Nam thì hình như nó đã… chết. Ấy là còn chưa nói đến chuyện Trương Chính đã định nghĩa không chính xác vì cứ theo nghĩa mà ông đã nêu thì cưỡng dâm và mãi dâm cũng là hủ hóa (bởi vì chẳng có lẽ cưỡng dâm và mãi dâm lại là quan hệ nam nữ quang minh chính đại về xác thịt) trong khi đây thực sự là ba khái niệm hoàn toàn khác nhau. Vẫn biết rằng có thể là Trương Chính đã căn cứ vào từ điển – chẳng hạn Từ điển tiếng Việt 1992 cũng giảng hủ hóa là có quan hệ nam nữ về xác thịt bất chính -nhưng người ta chỉ nên theo cái đúng của từ điển chứ không thể theo cái sai của nó được, vì chẳng có ai dám quả quyết rằng đã là từ điển thì không bao giờ sai. Xin nêu thêm một dẫn chứng nóng hổi sau đây. Từ điển Anh-Việt của Viện ngôn ngữ học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và nhân văn quốc gia, “phản ánh một cách trung thành những gì đã có trong cuốn Oxford Advanced Learner’s Dictionary, 1992” (Xem Lời giới thiệu), do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh mới phát hành, đã giảng danh từ canary như sau: “chIm hót hay, nhỏ, màu vàng, thường nuôi trong lồng làm cảnh”. Ai có chơi yến (canary) cũng có thể thấy đây là một định nghĩa không chính xác vì ngoài những con yến màu vàng, còn có những con màu trắng, những con màu saumon, những con màu ardoise, những con màu agate, những con màu isabelle, những con màu vert, những con màu rouge intensif, v.v..; thậm chí bây giờ người ta còn muốn tạo ra những con yến màu đen! Phó từ thường trong định nghĩa trên đây cũng thừa vì chẳng có con yến nào mà lại không được nuôi trong lồng, vì người ta chẳng bao giờ thả yến như thả bồ câu hoặc thả sáo, thả cưỡng.
Tóm lại, Trần Trọng KIm không hề sai như Trương Chính đã tưởng. Cũng thế đối với Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Hải Triều và Hoài Thanh vì họ chỉ có thể sử dụng từ ngữ theo những cái nghĩa mà chúng có ở vào thời điểm đang xét chứ không thể theo những cái nghĩa “hiện đại” của ông Trương Chính được.
Vậy, theo chúng tôi, thì vẫn cần luận về những gì mà các tử giả đã viết sai – nhưng không nên nói người ta sai khi người ta không sai – vì đã sai thì luôn luôn có hại. Uy tín của người viết sai càng lớn thì cái hại sẽ càng lớn vì người ta thường dễ tin theo những người đã thành danh.
Trở lên là ý kiến của chúng tôi về quan niệm “tử giả bất luận” mà bạn đã nêu; vậy xin thẳng thắn trình bày như trên.
§ 168. Kiến thức ngày nay, số 144, ngày 1 – 8 – 1994
Hỏi: Xin cho biết vài nét về tiểu sử và văn thơ của hai nữ sĩ Ngô Chi Lan và Nguyễn Hạ Huệ.
Học giả An Chi giải đáp: Cho đến nay, người ta vẫn xem Ngô Chi Lan và Nguyễn Hạ Huệ chỉ là một người. Trong Từ điển văn học, tập II (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984), Đặng Thị Hảo đã giới thiệu về Ngô Chi Lan như sau:
“Nhà thơ nữ Việt-nam. Còn có tên là Nguyễn Hạ Huệ. Người làng Phù-lỗ, huyện KIm-anh, xứ Phúc-yên, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Chưa rõ năm sinh năm mất. Sống chủ yếu dưới triều Lê Thánh Tông (1470 – 1497). Có thuyết nói bà là con nuôi Nguyễn Thị Lộ. Chồng là nhà thơ Phù Thúc Hoành vì tài văn chương nên tuy không đỗ đạt vẫn được giao việc giảng dạy Kinh dịch ở Trường quốc tử giám, sau chuyển sang Viện hàn lâm. Có sách nói ông từng làm quan đến Đông các đại học sĩ. Ông hiện còn hai bài thơ chữ Hán chép trong Trích diễm thi tập. Ngô Chi Lan sinh thời nổi tiếng chăm đọc sách, giỏi thi ca, từ khúc, thường được vua Lê Thánh Tông triệu vào hầu thơ, cho dự nhiều cuộc xướng họa ở cung đình, lại được phong chức Phù gia nữ học sĩ, đảm đương việc dạy đạo đức, nghi lễ, dạy thơ cho các cung nhân trong Vương phủ. Nguyễn Dữ trong một truyện ngắn nhan đề Cuộc nói chuyện thơ ở KIm-hoa trong Truyền kỳ mạn lục đã dựng lên một cuộc bình thơ giữa hai vợ chồng Ngô Chi Lan và nhà thơ Thái Thuận tại tư thất của hai ông bà (…) Nguyễn Dữ đã đánh giá rất cao tài năng của bà (…) Tuy hình thức mang nhiều yếu tố hoang đường, song có lẽ, nội dung câu chuyện đã được Nguyễn Dữ dựa trên một tư liệu thực nào đó về mối liên hệ giữa hai vợ chồng nữ sĩ với một số nhà thơ đương thời”.
Còn Lê Quý Đôn thì viết trong Kiến văn tiểu lục như sau:
“Truyền kỳ mạn lục phần nhiều là ngụ ngôn, cho nên ít người tin. Nhưng KIm hoa thi thoại nói là của Phù phu nhân thì có người thật. Cứ xem Trích diễm thi tập có chép thơ của Nguyễn Hạ Huệ và cho rằng: “Nguyễn Hạ Huệ tên tự là Quỳnh-Hương, người xã Lựu-Khê, huyện An-lạc là vợ viên giáo thụ Phù Thúc Hoành. Quỳnh-Hương thông hiểu âm luật, có tập Mai trang lưu hành ở đời (…) Nay ở xã Phù-lỗ huyện KIm-hoa có đền thờ Phù học sĩ”.*
Theo chúng tôi, căn cứ vào Trích diễm thi tập mà khẳng định rằng vợ của Phù Thúc Hoành là Nguyễn Hạ Huệ thì hợp lý hơn là căn cứ vào Truyền kỳ mạn lục mà khẳng định rằng bà là Ngô Chi Lan. Tác giả của Trích diễm thi tập, Hoàng Đức Lương, là người đồng thời với Phù phu nhân Nguyễn Hạ Huệ; vậy có lẽ nào lại nhầm lẫn mà chép Ngô Chi Lan thành Nguyễn Hạ Huệ. Còn Cuộc nói chuyện thơ ở KIm-hoa trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thì chỉ là một truyện truyền kỳ cho nên, về nguyên tắc, thì tác giả có quyền hư cấu. Bởi vậy, đã lấy gì làm chắc rằng hiện tượng Ngô Chi Lan lại không phải là chuyện tên giả người thật, hoặc chuyện tên thì giả mà người thì nửa thật nửa giả, thậm chí chuyện tên giả người giả? Chúng tôi cho rằng Nguyễn Xuân Lan, tác giả của Địa chí tỉnh Vĩnh Phú (Ty văn hóa Vĩnh Phú, 1974), đã có lý hơn khi căn cứ vào Trích diễm thi tập (thông qua Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn) mà chép rằng Phù phu nhân là Nguyễn Hạ Huệ (Sđd, tr. 149). Chỉ tiếc rằng tác giả này đã theo cái sai trong bản dịch Kiến văn tiểu lục mà ghi chú về Nguyễn Hạ Huệ rằng “Truyền kỳ mạn lục chép là Ngô KIm Lan” trong khi chính sách này (Chúng tôi sử dụng bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện do Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh và Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1988) thì lại chép là Ngô Chi Lan. Thế là bản dịch Kiến văn tiểu lục của Phạm Trọng Điềm (tr. 205, chth.1) và Địa chí tỉnh Vĩnh Phú còn tạo ra thêm một “dị bản” nữa cho tên của Phù phu nhân là Ngô KIm Lan.
Theo chúng tôi, ta chỉ nên thừa nhận cái tên Nguyễn Hạ Huệ mà chép rằng Nguyễn Hạ Huệ có lẽ đã được tác giả của Truyền kỳ mạn lục hư cấu thêm mà biến thành nhân vật Ngô Chi Lan trong truyện Cuộc nói chuyện thơ KIm Hoa. Chỉ dựa vào một truyện truyền kỳ mà khẳng định rằng Phù phu nhân, vợ ông Phù Thúc Hoành, là Ngô Chi Lan thì không hợp lý và cũng chẳng đáng tin. Người ta có thể phản bác mà nói rằng một tác phẩm khá xưa khác, Lĩnh Nam chích quái, cũng chép là Ngô Chi Lan. Nhưng đây lại là một tác phẩm mà tác giả và thời điểm ra đời đã chưa được khẳng định một cách hoàn toàn chắc chắn. Đó còn là chưa kể đến chuyện nó có nhiều dị bản. Đó cũng lại còn là chưa nói đến chuyện những dị bản của Lĩnh Nam chích quái có thể đã không được sao chép một cách trung thực. Tóm lại, theo chúng tôi thì, trong điều kiện của những tư liệu được biết cho đến nay, Ngô Chi Lan không chắc đã là tên của một nữ sĩ có thật, cũng không chắc đã là một tên khác nữa của nữ sĩ Nguyễn Hạ Huệ.
Theo Đặng Thị Hảo thì Nguyễn Hạ Huệ có để lại một tập thơ nhan đề Mai trang tập, còn lưu hành vào thời Hoàng Đức Lương, nay đã thất truyền. Hiện chỉ còn hai bài thơ chữ Hán, thể ngũ ngôn, chép trong Trích diễm thi tập và một chùm bốn bài thất ngôn bát cú (cũng chữ Hán), vịnh bốn mùa trong Truyền kỳ mạn lục. Ngoài ra, sách Lĩnh Nam chích quái còn chép một bài thơ đề vịnh núi Vệ Linh, thể thất ngôn tứ tuyệt, chú là thơ của bà (Sđd, tr. 28). Nhưng Dương Quảng Hàm, ở mục Ngô Chi Lan (mà thực tế là Nguyễn Hạ Huệ) trong Việt Nam thi văn hợp tuyển (Chúng tôi sử dụng bản in lần thứ 5, năm 1958 tại Sài Gòn), còn chép thêm bốn bài thơ Nôm tứ tuyệt vịnh tứ thời của bà nữa. Bài thơ đề vịnh núi Vệ Linh trong Lĩnh Nam chích quái, mà Đặng Thị Hảo nhắc đến, thực tế cũng đã được tác giả của Truyền kỳ mạn lục đưa vào truyện Cuộc nói chuyện thơ ở KIm Hoa. Còn hai bài thơ chữ Hán thể ngũ ngôn mà Đặng Thị Hảo đã nêu ra chính là hai bài có nhan đề chung là Thái liên khúc chép trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn.
Do khuôn khổ có hạn, chúng tôi không thể chép lại toàn văn bốn bài vịnh bốn mùa. Nhưng chúng tôi nhận thấy ý tứ của các bài thơ Nôm tứ tuyệt thực sự là một với ý tứ của bốn câu đầu trong bốn bài thơ thất ngôn bát cú chữ Hán vịnh bốn mùa được coi là của Ngô Chi Lan trong “Cuộc nói chuyện thơ ở KIm Hoa” của sách Truyền kỳ mạn lục.
Những bài thơ Nôm đó cùng với những câu thơ chữ Hán tương ứng là của một người hay của hai người, chúng tôi không có điều kiện khảo chứng. Vậy xin nêu lên để trông chờ ý kiến của các bậc thức giả.
Còn về bài thơ vịnh núi Vệ Linh thì sách Lĩnh Nam chích quái chép như sau:
“Tới đời vua Thuần Đế nhà Lê (tức Lê Thánh Tông – AC) ở xã Phù Lỗ có người con gái tên Ngô Chi Lan chữ rất đẹp, sành văn chương, thơ ca điêu luyện, nhân đi dạo chơi tới núi này có đề bài thơ rằng:
Vệ Linh xuân thụ bạch vân nhàn,
Vạn tử thiên hồng diễm thế gian,
Thiết mã tại thiên danh tại sử,
Anh hùng lẫm lẫm mãn giang sơn
(…) Dịch ý như sau:
Vệ Linh mây trắng rỡn cây xuân,
Vạn tía muôn hồng đẹp thế gian.
Ngựa sắt lên trời tên chép sử,
Anh hùng sống mãi với giang san.*
Về phần mình, chúng tôi cho rằng lấy những câu thơ, bài thơ mà xuất xứ không rõ ràng, lại là những câu thơ, bài thơ chép trong một truyện truyền kỳ (ở đây là bài Hạ từ và bài Thu từ) để gán cho một nữ sĩ rồi trên cơ sở đó đánh giá thơ văn của nữ sĩ này là đã làm một việc không thận trọng. Cá nhân chúng tôi lại thấy rằng cách cấu tứ của bốn bài thơ vịnh bốn mùa chép trong Truyền kỳ mạn lục hình như là khẩu khí của một đấng mày râu chứ không phải là của một bậc quần thoa.
Tóm lại, theo chúng tôi, chưa có căn cứ hoàn toàn chắc chắn để nói rằng Nguyễn Hạ Huệ và Ngô Chi Lan là hai tên khác nhau của một nữ sĩ, càng chưa có căn cứ để nói rằng Nguyễn Hạ Huệ và Ngô Chi Lan là hai nữ sĩ khác nhau. Nguyễn Hạ Huệ là tên của một nữ sĩ được biết là quê ở làng Phù Lỗ, huyện KIm Anh, xứ Phúc Yên (nay thuộc ngoại thành Hà Nội), sống vào đời Lê Thánh Tông và là vợ của ông Phù Thúc Hoành. Còn Ngô Chi Lan chỉ là tên của một nhân vật thấy được trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ mà thôi.
§ 169. Kiến thức ngày nay, số 144, ngày 1 – 8 – 1994
Hỏi: Xin cho biết tên lục địa và tên hàng hải của nước Trung Hoa trong tiếng La Tinh.
Học giả An Chi giải đáp: Trong tiếng La Tinh nước Trung Hoa có hai tên gọi là Sēra và Sina. Vì vậy mà xưa kia các dân tộc sống chung quanh Địa Trung Hải đã lầm tưởng rằng đó là tên gọi của hai nước khác nhau.
Nước Sēra, theo họ, là nước đã sản xuất ra mặt hàng tơ lụa nổi tiếng (lụa, tiếng La Tinh là sēricum, phái sinh từ Sēra) mà các thương nhân châu Âu và Cận Đông đã đem về theo Con đường tơ lụa chạy xuyên suốt vùng Trung Á. Còn nước Sina lại là một nước mà người ta chỉ có thể đặt chân tới sau một hải trình dài ngày và gian khổ trên Ấn Độ Dương rồi còn phải vòng lên hướng Bắc nhiều ngày nữa mới đến được. Về sau người ta mới biết rằng nước Sina cũng chính là nước Sēra nhưng lại gọi bằng tên của triều đại do một ông vua khét tiếng là bạo chúa khai sáng. Ông vua đó là Thủy Hoàng đế và triều đại đó là nhà Tần. Thân từ sin trong tiếng La Tinh Sina chính là dạng phiên âm của tiếng Tần trong Hán ngữ cổ đại, mà tiếng Bắc Kinh hiện đại phát âm là qín (ghi theo phương án La Tinh hóa của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) trong đó âm -i- cổ đại vẫn còn được bảo lưu.
Sēra là tên lục địa còn Sina là tên hàng hải của nước Trung Hoa trong tiếng La Tinh vậy. Nhưng hiện nay chỉ có thân từ sin- là thông dụng, thí dụ như sinicus (liên quan đến Trung Hoa), sinensis (gốc ở Trung Hoa). Tuy nhiên vẫn có người dùng thân từ sēr, thí dụ như Bernhard Karlgren đã đặt tên cho một vựng tập chữ Hán của ông là Grammata Serica, rồi sau đó đã sửa chữa thành Grammata Serica Recensa.
§ 170. Kiến thức ngày nay, số 145, ngày 15 – 8 – 1994
Hỏi: Trên Kiến thức ngày nay, số Xuân Giáp Tuất, trang 31, ông Huệ Thiên có viết như sau: “Cũng là những ngôn ngữ văn minh cổ đại, tiếng La Tinh và tiếng Sanskrit đều phải kết hợp hai từ “thịt” và “chó” lại với nhau để diễn đạt danh từ “nhiên” (nghĩa là thịt chó) của tiếng Hán cổ chứ không có một từ căn duy nhất riêng biệt”. Nhưng có người mách cho tôi rằng tiếng La Tinh cũng có một từ duy nhất có nghĩa là thịt chó. Đó là danh từ “canina”. Vậy xin cho biết ý kiến về lời khẳng định trên đây của tác giả bài viết.
Học giả An Chi giải đáp: Đúng như có người đã mách với ông, tiếng La Tinh có một danh từ duy nhất là canina có nghĩa là thịt chó. Nhưng nếu để ý thì sẽ thấy rằng, về hình thức, danh từ đó hoàn toàn trùng với hình thái giống cái của tính từ caninus có nghĩa là “của chó, thuộc về chó”. Điều này hoàn toàn không do ngẫu nhiên, vì xét về từ nguyên, thì danh từ canina (thịt chó) là do tính từ canina (của chó) mà ra. Số là ban đầu, để diễn đạt khái niệm “thịt chó”, người ta vẫn phải nói canina caro, nghĩa là vẫn phải dùng một cấu trúc cú pháp tính gồm có hai từ: canina (của chó) + caro (thịt). Chỉ về sau người ta mới tỉnh lược cấu trúc canina caro thành canina. Vì đại diện cho một cấu trúc mà thành tố chính là danh từ nên tính từ canina mới trở thành danh từ. Vậy canina (thịt chó) không phải là một danh từ tự nó, mà là một danh từ do tính từ canina (của chó) chuyển thành. Trong tính từ này, thân từ là canin- có nghĩa là của chó. Còn trong thân từ canin- thì từ căn lại là can-, có nghĩa là chó. Vậy trong danh từ canina (thịt chó) thì từ căn can- chỉ có nghĩa là chó chứ không phải là thịt chó. Chính vì thế mà Huệ Thiên mới viết rằng tiếng La Tinh không có một từ căn duy nhất riêng biệt có nghĩa là “thịt chó”.
§ 171. Kiến thức ngày nay, số 145, ngày 15 – 8 – 1994
Hỏi: Sổ tay văn hóa Việt Nam của Trương Chính và Đặng Đức Siêu (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1978), trang 324, có viết rằng “trong gần 150 năm, các vua nhà Nguyễn chỉ lo tô sửa cho kinh thành Huế, chẳng chú ý gì đến giang sơn tổ quốc”. Xin cho biết lời khẳng định trên đây có chính xác và khách quan hay không?
Học giả An Chi giải đáp: Để trả lời, chúng tôi xin dẫn lại ý kiến sau đây của Chu Quang Trứ tại cuộc hội thảo “Một số vấn đề về triều Nguyễn”, tổ chức hồi tháng 10 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh:
“Nhà Nguyễn khi thay thế nhà Tây Sơn xác lập chủ quyền của vương triều trên lãnh thổ, dù dựa vào thế lực nào đi chăng nữa, thì ở địa vị ông chủ của cả nước tất phải yêu nước, quản lý cả một cộng đồng dân tộc cần phải biết lịch sử dân tộc. So với các vương triều trước ở vào thế kỷ XIX, triều Nguyễn đã kiểm kê đất nước và lịch sử để nắm tài sản tinh thần một cách hệ thống và có hiệu quả nhất (…)
Trước hết, chúng tôi muốn nói tới ý thức của nhà nước đối với những di tích và di vật của tiền nhân để lại. Ngày nay trong hầu hết các di tích dù của thời nào thì cũng đều tìm thấy dấu vết sửa chữa hoặc xây dựng thêm ở thời Nguyễn (Chúng tôi nhấn mạnh – AC). Tất nhiên ngày ấy, sửa chữa những phần hư hỏng của một di tích kiến trúc chưa mang theo ý thức phục chế, mà được làm mới theo thẩm mỹ đương thời, vì thế ngày nay chúng ta nhận biết được dễ dàng và có thể bóc tách ra từng lớp niên đại không khó khăn, và phần xây dựng lại các di tích cũ cũng thế, vì vậy có nhiều di tích theo truyền ngôn, và thậm chí cả thư tịch nữa, đều khẳng định có rất sớm, chẳng hạn như đền Hùng (Vĩnh Phú) ít ra có từ thời Lý, nhưng quan sát tại chỗ thì rõ ràng là đã làm lại hoàn toàn vào thời Nguyễn. Còn xây dựng thêm ở những di tích cũ, cái hay là không lấn át, không làm méo mó những gì đã có, mà bổ sung, tôn lên cái cũ, tạo ra một toàn cảnh đầy đủ hơn và về sau có bỏ đi những phần làm thêm ấy thì cũng chỉ là trả lại bộ mặt trước của di tích. Điều này thấy rõ nhất là ở các đình làng ngoài Bắc: hầu hết các nhà tiền tế, phần lớn các hậu cung, toàn bộ các dãy tả vu, hữu vu và các cột gạch cổng đình đều làm thêm vào thời Nguyễn (…).
Đối với các anh hùng dân tộc, dù ở dạng truyền thuyết hay lịch sử, triều Nguyễn đều biểu hiện một sự tự hào và có trách nhiệm, muốn phát huy để khai thác. Vì thế, đền thờ cũ nếu hư thì sửa, nếu hỏng thì làm lại, quy mô khang trang và hàng năm tổ chức lễ hội trang trọng. Đền Hùng (Vĩnh Phú), đền hai Bà Trưng (Hà Nội), đền Bà Triệu (Thanh Hoá)… là những bằng chứng cụ thể.
Đối với lăng mộ các vị vua cũ, loại trừ thái độ quá quắt đối với nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đã tổ chức điều tra, xác minh và sau đó dựng bia để định vị. Từ thời Trần về trước, ta chưa có lệ dựng bia ở lăng mộ các vua, nếu không có sự định vị bằng bia của triều Nguyễn, ngày nay chúng ta thật khó tìm lại được. Nhưng rất may, từ thủy tổ xa xăm là Kinh Dương Vương đến các anh hùng dân tộc là Phùng Hưng, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, rồi các vua nhà Lý và các vua nhà Trần đều còn giữ lại được mộ để ngày nay con cháu có thể hành hương đến Hà Bắc, Hà Nội, Hà Nam Ninh, Quảng Ninh để thắp hương tưởng niệm, là nhờ có bia của triều Nguyễn.
Từ thời Lê, các vua khi mất được dựng bia ở mộ, nhưng có khi bị thời gian bào mòn hết chữ, như bia Lê Uy Mục ở Hà Bắc, cũng được triều Nguyễn cho khắc mấy chữ định vị.
Đi liền với lăng mộ là đền miếu thờ cũng được triều Nguyễn chăm sóc chu đáo. Chẳng hạn đền Lý Bát Đế ở Đình Bảng, Hà Bắc, ngay năm thứ hai của triều Nguyễn, nhà nước đã lấy dân sở tại đặt làm phu miếu để trông nom, được miễn những lao dịch khác.
Tuy nhiên, lăng mộ và đền miếu các vị đế vương không nhiều. Phổ biến là đình, chùa, đền, miếu ở khắp các làng xã ngoài Bắc, triều Nguyễn cũng có sự quan tâm nhất định, nhiều lần ban sắc phong thần, xác định sự chứng thực và thừa nhận của Nhà nước. Những sắc này ngày nay chúng ta tìm được vô số, từ những làng quê hẻo lánh nhất, và với số lượng vượt xa của các thời trước cộng lại.
Đặc biệt phải kể đến các di tích mới xây dựng trong thời Nguyễn. Số này không nhiều, vì phần lớn các làng xã đã ổn định hệ thống kiến trúc công cộng, chỉ những làng mới hoặc làng cũ còn thiếu di tích loại gì thì giờ mới xây bổ sung. Không ít những công trình ấy có quy mô rất lớn và chạm khắc trang trí tuy không phong phú nhưng khá tinh xảo, chẳng hạn như đình Yên Đông (Quảng Ninh), đình Tam Tảo (Hà Bắc). Đền Quan Thánh làm lại hoàn toàn và đền Ngọc Sơn (Hà Nội) đều đã giỏi chọn địa thế, lợi dụng môi trường, tạo sự hòa hợp đặc biệt với thiên nhiên, lại được tài trang trí của các nhà điêu khắc tôn lên rất nhiều”.*
Về các cung điện của vua chúa triều Nguyễn tại Huế, Chu Quang Trứ đã nhận xét như sau:
“Những cung điện ấy, từng kiến trúc riêng không lớn hơn mấy so với một đình làng to ngoài Bắc (như đình Đình Bảng, đình Tam Tảo…), và vẫn theo một “thức kiến trúc Việt Nam” từ cách tạo bộ khung gỗ, xử lý mộng mẹo, tỷ lệ các phần (…) Những cung điện ấycó phần cao sang, song với trung gian là nhà giường của quý tộc, nó rất gần với những đình làng quanh Huế, và do đó không chút kiêu sa, không chút lạ lẫm với người dân (Chúng tôi nhấn mạnh – AC). Cho đến nay, du khách vào thăm cung điện và lăng tẩm Huế vẫn thấy có cả sự trang nghiêm và thân thuộc, dễ dàng hòa nhập với môi cảnh”.
Trở lên là ý kiến của Chu Quang Trứ, mà chúng tôi đã dẫn ra để trả lời cho câu hỏi của ông, nghĩa là để trả lời xem có phải trong gần 150 năm, các vua nhà Nguyễn chỉ lo tô sửa cho kinh thành Huế mà chẳng chú ý gì đến giang sơn tổ quốc, như Trương Chính và Đặng Đức Siêu đã khẳng định một cách hoàn toàn vô căn cứ và vô trách nhiệm, hay không. Tuy nhiên việc “chú ý đến giang sơn tổ quốc” không phải chỉ tập trung ở phương diện kiến trúc. Ai ai cũng biết được rằng đó là một công cuộc lớn lao hơn nhiều và bao gồm rất nhiều phương diện. Chúng tôi lại xin dẫn ý kiến của sử gia lão thành Trần Văn Giàu, cũng phát biểu trong cuộc hội thảo nói trên, như sau:
“(…) khi nói về sự khủng hoảng dưới triều Nguyễn là nói về chính trị chứ về nông nghiệp vẫn phát triển (…) Không thời nào văn hóa phát triển như thời Nguyễn. Tám mươi năm của nhà Nguyễn, sách vở sáng tác gần bằng hoặc bằng, thậm chí còn nhiều hơn mấy trăm năm trước. Những nhà tư tưởng của thời Nguyễn cao hơn những nhà tư tưởng trước, những nhà văn cao hơn những nhà văn trước, những nhà làm sử, cũng giỏi hơn những nhà làm sử trước. Có thể nói sự phát triển văn hóa dưới thời Nguyễn tương đương với sự thống nhất của quốc gia. Sự thống nhất về chính trị thúc đẩy sự phát triển về văn hóa rất nhiều. Đó là thành tích của triều Nguyễn”.*
Tác giả còn nói thêm: “Một phương châm cai trị của các vua nhà Nguyễn là “cần chính”, nghĩa là chú tâm lo việc nước (Chúng tôi nhấn mạnh – AC). Buổi lâm triều vua phải có mặt trước từ sớm, khi bãi triều vua phải là người đi ra sau cùng”.
Để kết luận, xin dẫn ý kiến của học giả Trần Bạch Đằng, cũng phát biểu trong cuộc hội thảo đã nói:
“Chúng ta rất cảm phục phong trào Tây Sơn nhưng không vì vậy mà phủ định toàn bộ các quá trình tiến bộ xã hội mà các vua chúa triều Nguyễn đã thực hiện được có kết quả. Khoa học lịch sử chân chính đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có một thái độ rất khoa học và công bằng trong khi phân tích lịch sử”.*
§ 172. Kiến thức ngày nay, số 146, 8-1994
Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 141, mục Chuyện Đông chuyện Tây, trang 50 – 51, có giải thích thành ngữ “bắt cá hai tay”. Tôi xin được phép không đồng ý theo cách hiểu của tác giả An Chi vì: – Tôi chưa thấy ai bắt cá (đánh cuộc) mà lại vừa bắt bên có khả năng thắng, vừa bắt bên có khả năng thua; – Tôi thường nghe nói “bắt cá (đánh cuộc) một cuộc hai cuộc, một độ hai độ, một trận hai trận…”, chứ chưa nghe ai nói “bắt cá (đánh cuộc) một tay hai tay” cả. Nếu phải dịch thành ngữ đang xét sang tiếng nước ngoài, tiếng Pháp chẳng hạn, chắc người ta sẽ dịch là “courir deux lièvres à la fois” và hiểu là “đi nước đôi, tham lam, ôm đồm…”, ngoại trừ có câu dịch nào khác đúng hơn. Vậy theo tôi, cách hiểu thứ hai của sách Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ về thành ngữ “bắt cá hai tay” (= mỗi tay bắt một con cá) có phần hợp lý hơn.
Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi sẵn sàng tin rằng ông chưa thấy ai đánh cuộc mà lại vừa bắt bên có khả năng thắng, vừa bắt bên có khả năng thua. Nhưng chắc cũng chưa có người Pháp nào thấy ai cùng một lúc mà lại rượt theo hai con thỏ rừng – trừ phi chúng chạy song song với nhau như hai con ngựa của một cỗ xe song mã – mặc dù tiếng Pháp có thành ngữ courir deux lièvres à la fois. Cũng chẳng có người Pháp nào thấy ai đem sợi tóc chẻ làm tư mặc dù tiếng Pháp có thành ngữ couper un cheveu en quatre. Và chẳng có người Pháp nào thấy ai quăng ngọc trai cho những con heo con mặc dù tiếng Pháp có thành ngữ jeter des perles auxpourceaux. Tương tự, người Trung Hoa cũng chưa bao giờ thấy ai leo cây tìm cá mặc dù họ có thành ngữ duyên mộc cầu ngư. Họ cũng không bao giờ nhai văn cắn chữ mặc dù họ có thành ngữ giảo văn tước tự. Họ cũng không thấy ai nắm cây mạ rút lên cho nó mau lớn mặc dù họ có thành ngữ loát miêu trợ trưởng. Và chẳng lẽ người Việt Nam chúng ta lại thực sự thấy có người ngồi dưới cây sung và há miệng ra mà chờ cho sung rụng để ăn vì tiếng Việt có thành ngữ há miệng chờ sung. Vậy có những thành ngữ không bao giờ đúng theo nghĩa đen vì chúng chỉ được dùng theo nghĩa bóng mà thôi.
Cùng một cách hiểu với chúng tôi, Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sển (Nxb. Văn hóa, 1993) đã giảng như sau: “Bắt cá hai tay; ôm đồm, bên nào cũng có đánh (lội qua lội lại) để khi ăn thì ăn được nhiều, khi thua thì thua ít; nghĩa đen (thực ra là nghĩa bóng – AC): bắt cá hai tay là làm chánh trị bắt bồ cả bên phe thuận cũng như phe nghịch: bắt cá hai tay, có ngày bị lộ”*. Vậy nếu cần dịch câu bắt cá hai tay sang tiếng Pháp thì có thể dịch bằng thành ngữ miser sur les deux tableaux hoặc jouersurles deux tableaux (miser = đặt bạc, đặt cuộc – tableau(x) = sòng bài, khay bạc). Vậy người Pháp cũng có lối nói na ná lối nói của người Việt Nam. Cứ theo lời của tác giả Vương Hồng Sển, thì chuyện “bắt cá (đánh cuộc) hai tay” hiểu theo nghĩa đen, cũng lại là chuyện có thật. Đó là “bên nào cũng có đánh để khi ăn thì ăn được nhiều, khi thua thì thua ít”. Sở dĩ ông, và cả chúng tôi nữa, chưa thấy ai “bắt cá (đánh cuộc) hai tay” chẳng qua vì chúng ta chỉ là những kẻ ngoại đạo về các ngón của “nghề” cá độ mà thôi.
§ 173. Kiến thức ngày nay, số 146, 8 -1994
Hỏi: “Viên môn” là gì?
Học giả An Chi giải đáp: Nếu không bị ràng buộc vào mặt chữ – đương nhiên là chữ Hán – thì chúng tôi sẽ sẵn sàng trả lời rằng viên môn là cửa tròn vì viên là tròn còn môn là cửa. Nhưng chắc là bạn muốn hỏi về hai tiếng viên môn liên quan đến hai tiếng cửa viên thấy được ở các câu 2318, 2380 và 2512 trong Truyện Kiều.
Tất nhiên là ở đây thì viên 轅 không có nghĩa là tròn. Từ này đã được Đào Duy Anh giảng là cái xe. Ông viết: “Cửa viên: Cửa dinh ông tướng. Ngày xưa chỗ dinh ông tướng thường dựng xe lên làm cửa (viên là xe), cho nên gọi là viên môn”*. Còn nhóm biên dịch quyển Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc (Nxb. Văn hóa – Thông tin, 1994) do Lương Duy Thứ chủ biên thì dịch viên là tay vịn. Các dịch giả đã viết: “Với tư cách là công cụ giao thông, xe và ngựa tách riêng ra, cùng sử dụng mà không cái nào bị huỷ bỏ. Đời Hán loại xe ngựa một tay vịn ít dần đi, loại hai tay vịn (song viên xa) dần tăng lên nhiều”*
Cả hai cách dịch trên đây đều không chính xác vì viên không phải là xe, cũng chẳng phải tay vịn. Đó là cái bộ phận của xe mà trong Nam gọi là gọng còn ngoài Bắc thì gọi là càng. Mathews’Chinese-English Dictionary dịch là “the shafts of a cart or carriage” còn Dictionnaire classique de la langue chinoise của F. S. Couvreur thì dịch là “tImon, lImons d’une voiture”. Quyển từ điển này đã dịch viên môn là “porte qui conduisait à la tente ou à la résidence de l’ empereur en voyage, et qui était marquée par deux voitures dont les tImons étaient dressés en l’ air”. Nguyễn Thạch Giang đã giảng đúng theo nghĩa này như sau: “Cửa viên, do chữ viên môn: cửa dựng bằng càng xe. Viên: càng xe. Thời xưa, vua đi tuần thú, săn bắn ở ngoài, dừng lại ở đâu, quây các cỗ xe làm dậu, dựng càng xe làm cửa ra vào gọi là viên môn”.*
Hai tiếng viên môn về sau được dùng theo nghĩa rộng để chỉ cả cửa quan, cửa dinh ông tướng (như Đào Duy Anh đã nói). Đây là cái nghĩa mà Mathews’Chinese-English Dictionary dịch là “the gates leading through the palisade before a yamen” còn Dictionnaire classique de la langue chinoise thì dịch là “porte de la résidence d’un officier supérieur ou d’un haut fonctionnaire”. Nghĩa của hai tiếng cửa viên trong các câu 2318, 2380 và 2512 của Truyện Kiều chính là nghĩa này.
Vậy viên không có nghĩa là xe đã đành, mà cũng không có nghĩa là tay vịn. Viên là càng xe, gọng xe. Tiếng Hán có thành ngữ viên hạ câu, nghĩa là con ngựa non dưới gọng xe – hiểu là ở dưới ách – tức là bị kiềm chế, bị ràng buộc. Sách Ấu học có câu “Cục súc như viên hạ câu”, nghĩa là gò bó, tù túng như con ngựa non ở dưới ách. Nếu viên là tay vịn thì thành ngữ viên hạ câu sẽ chẳng có nghĩa gì. Tiếng Hán lại còn có thành ngữ phan viên ngọa triệt nghĩa là níu lấy gọng xe và nằm vào lằn bánh xe (để tỏ lòng lưu luyến khi phải tiễn đưa người ra đi), ý nói mình thật lòng muốn cầm giữ khách. Do đó, câu đang xét trong Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc phải được hiểu là “Đời Hán loại xe ngựa một gọng dần ít đi, loại hai gọng (song viên xa) dần tăng lên nhiều”.
§ 174. Kiến thức ngày nay, số 146, 8 – 1994
Hỏi: Từ xưa “yên sĩ phi lý thuần” nghĩa là gì?
Học giả An Chi giải đáp: “Yên sĩ phi lý thuần” là âm Hán Việt của năm chữ Hán mà người Trung Hoa đã dùng để ghi hình thức phiên âm danh từ tiếng Anh inspiration, có nghĩa là cảm hứng (nghệ thuật). Đọc theo âm Bắc Kinh thì còn thấy na ná với âm gốc nhưng đọc theo âm Hán Việt thì khoảng cách sẽ trở nên quá xa. Chẳng hạn, khi nghe bốn tiếng Cách lâm uy trị chắc bạn cũng khó luận ra rằng đó là tên của một vùng ngoại ô thành phố Luân Đôn trên bờ sông Thames là Greenwich, nơi mà kinh tuyến chạy qua đã được lấy làm kinh tuyến gốc như ai nấy đều biết. Còn năm tiếng đức mô khắc lạp tây là âm Hán Việt của năm chữ mà người Trung Hoa dùng để ghi hình thức phiên âm danh từ tiếng Anh democracy, có nghĩa là dân chủ. Những thí dụ kiểu này thì nhiều, không thể kể ra cho hết được ở đây.
§ 175. Kiến thức ngày nay, số 146, 8 – 1994
Hỏi: Vì đang học thêm tiếng Pháp nên lúc rảnh tôi thường tranh thủ lật từ điển ra để học thêm một số từ. Thấy Từ điển Pháp -Việt (Agence de Coopération Culturelle et Technique ấn hành, 1981) giảng fourmilion là “kiến sư tử” mà không biết đó là con gì. Xin nhờ tìm hiểu giùm.
Học giả An Chi giải đáp: Con vật hữu quan thì vẫn có ở Việt Nam nhưng ngữ danh từ “kiến sư tử” thì không hề tồn tại trong tiếng Việt. Ngữ danh từ lạ lẫm này là do Đào Duy Anh đặt ra để dịch fourmilion/fourmi-lion trong Pháp -Việt từ điển của ông. Đào Đăng Vỹ cũng dựa theo từ điển của Đào Duy Anh mà dịch y hệt như thế trong Pháp -Việt từ điển của mình. Bây giờ lại đến lượt Từ điển Pháp -Việt do ông Lê Khả Kế làm tổng biên tập cũng dịch y hệt như thế nhưng có thêm “sâu bọ cánh gân” trong ngoặc đơn.
Dictionnaire général de la langue française của A. Hatzfeld và A. Darmesteter giảng fourmi-lion như sau: “Insecte analogue à la libellule, dont la larve se tient au fond d’un entonnoir qu’elle creuse dans la terre, et fait sa proie des fourmis ou autres insectes qui y tombent” nghĩa là “côn trùng tương tự con chuồn chuồn mà ấu trùng rúc ở đáy một cái phễu do nó đào trong đất, và (con ấu trùng này) bắt làm mồi ăn những con kiến hoặc sâu bọ khác rơi xuống đó”. Con bọ đó là con chuồn chuồn kIm (gọi theo phương ngữ Nam Bộ) còn con ấu trùng đó là con cúc, gọi theo ẩn dụ, vì nó cũng giống như một cái cúc áo hình nụ nhỏ bằng hạt đậu xanh. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của viết là cút và giảng như sau: “Loài trùng hay lủi dưới đất bủn, chỗ nó ở có cái lỗ sủng xuống”. Con cúc thường làm hang hình phễu nơi đất cát. Ngày trước, trẻ con thường hay thổi lỗ cúc để bắt cúc làm một trò chơi.