Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 1: Câu hỏi 106 - 140

§ 106. Kiến thức ngày nay, số 124, ngày 20-11 -1993

Hỏi: Có người nói rằng các nhà khảo cổ đã gọi những cồn ngao, cồn hến ở ven biển là “đống rác bếp”. Vậy “đống rác bếp” là gì, ở Việt Nam có “đống rác bếp” hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Về khái niệm này, Guy Rachet đã cho biết sơ lược như sau: “Vào năm 1869, Steenstrup và Worsae bắt đầu nghiên cứu những dải cồn dài dọc miền duyên hải Đan Mạch cấu tạo bằng những đống vỏ ốc và xương cốt, (những cồn này) không phải gì khác hơn là những đống rác hoặc những mẩu thừa từ thức ăn của cư dân thời đồ đá mới sơ kỳ; những cồn đó được gọi là kjökkenmödding (những mẩu vụn từ thức ăn bằng tiếng Đan Mạch) hoặc skaldinger (đống vỏ ốc). Giữa những chất thải đó, đã lẫn lộn những dụng cụ bằng đá hoặc bằng xương (…)”*. Sách báo tiếng Việt gọi đó là đống rác bếp, đống vỏ sò hoặc cồn sò điệp, còn tiếng Anh thì sao phỏng thành kitchen midden.

Ở Việt Nam, có di chỉ Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, được các tác giả Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn và Diệp Đình Hoa giới thiệu như sau: “Đây là một đồi vỏ sò điệp lớn nằm ven đường quốc lộ số 1, cách thành phố Vinh 57 ki-lô-mét về phía Bắc. Trước đây Bùi-dương-Lịch đã mô tả đồi vỏ điệp này trong sách Nghệ-an ký và coi đây là dấu tích của biển xưa. Mãi đến năm 1963, người ta mới phát hiện ra rằng đồi sò điệp Quỳnh-văn là một di tích khảo cổ học và vỏ sò điệp chất lại thành quả đồi lớn này không phải là do thiên nhiên mà do bàn tay của người nguyên thủy (…) Người nguyên thủy đã lấy các loài nhuyễn thể về ăn và vứt vỏ lại ngay nơi cư trú của họ. Lâu ngày vỏ nhuyễn thể tích lại thành đồi lớn”*.

Nhưng tác giả Nguyễn Trung Chiến, bằng khảo sát địa tầng thận trọng, đã hoài nghi kết luận trên đây. Tác giả này viết: “Không thể quan niệm đơn thuần rằng chỉ có một nguyên nhân duy nhất nào đó thuộc về tự nhiên hay con người tạo thành cồn điệp (của người cổ Quỳnh Văn – AC)”*. Và: “(…) đối với điệp, người Cồn Đất cũng như những người Quỳnh Văn xưa có sử dụng làm thức ăn, nhưng họ chỉ ăn một số lượng rất ít trong khối lượng điệp đồ sộ mà chúng ta gặp (…).

Nói như vậy có nghĩa là chúng tôi khẳng định nguồn gốc tự nhiên của Cồn Đất cũng như những cồn sò điệp khác ở vùng vịnh Quỳnh Lưu.”*. Tác giả Nguyễn Trung Chiến kết luận: “Tóm lại, các tác động của tự nhiên cùng với phương thức kinh tế thu lượm theo mùa của người nguyên thủy Quỳnh Văn, theo chúng tôi, mới là những điều kiện cần và đủ cho sự hình thành các cồn sò điệp vùng Quỳnh Lưu”*.

Chúng tôi tán thành cách nhìn nhận vấn đề thận trọng và hợp lý của tác giả Nguyễn Trung Chiến và xin trích dẫn hai ý kiến khác nhau trên đây để bạn đọc tiện so sánh.

§ 107. Kiến thức ngày nay, số 124, ngày 20-11 -1993

Hỏi: Có phải chữ quân 君 trong tiếng Hán không bao giờ dùng để chỉ phụ nữ hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Nhiều người đã ngộ nhận như thế. Thật ra trong Hán ngữ, chữ quân 君 vẫn được dùng để chỉ phụ nữ và công dụng này của nó đã được ghi nhận hẳn hoi trong từ điển. Từ hải ghi: “Tôn kính chi xưng dã (…) Phu nhân xưng quân (…) Phu xưng phụ viết quân” nghĩa là “Tiếng xưng hô tôn kính vậy (…) Phu nhân gọi là quân (…). Chồng gọi vợ là quân”. Từ nguyên thì ghi: “Phụ xưng phu, phu xưng phụ giai viết quân” nghĩa là “Vợ gọi chồng, chồng gọi vợ đều nói quân”. Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển ghi: “Cổ phong hiệu; nam nữ chi phong hiệu tịnh khả xưng quân” nghĩa là “Danh hiệu được phong thời xưa; danh hiệu được phong của nam nữ đều có thể gọi là quân”. Dictionnaire classique de la langue chinoise của F. S. Couvreur ghi: “Femme principale du chef d’un Etat (…) Terme par lequel un fils désigne ses parents, (…), un mari sa femme (…) Terme de respect, Monsieur, Madame” nghĩa là “Vợ chính của nguyên thủ một quốc gia (…). Từ ngữ mà con dùng để chỉ cha mẹ (…) chồng (dùng) để chỉ vợ (…). Từ ngữ tôn kính, ông, bà”.

Vậy quân là một từ dùng để chỉ cả nam lẫn nữ giới chứ không phải chuyên dùng để chỉ nam giới như nhiều người lầm tưởng.

§ 108. Kiến thức ngày nay, số 124, ngày 20-11 -1993

Hỏi: Tại sao trước đây người Việt miền Nam gọi người Khmer là đàn thổ?

Học giả An Chi giải đáp: Không phải “đàn thổ”, mà là Đàng Thổ. Nói Đàng Thổ là để phân biệt với Đàng Trong cũng như nói Đàng Trong là để phân biệt với Đàng Ngoài và Đàng Trên (xưa gọi là Đàng Tlên). Đàng Trên chính là vùng đất mà trong những trang ghi chép của mình, A. de Rhodes đã gọi là vương quốc Cao Bằng, tức là vùng cát cứ của con cháu nhà Mạc từ 1592 đến 1677. Còn Đàng Thổ là phần đất của thổ dân, tức dân bản thổ đã sinh sống tại đó từ xưa. Thoạt đầu là tên vùng địa lý, về sau hai tiếng Đàng Thổ mới được người Nam Bộ dùng trong khẩu ngữ để chỉ người Khmer.

§ 109. Kiến thức ngày nay, số 124, ngày 20-11 -1993

Hỏi: Tại sao người Khmer gọi người Việt Nam là Duôn?

Học giả An Chi giải đáp: Người Khmer gọi người Việt Nam là yuôn còn người Chàm thì gọi là ywan . Nhiều dân tộc ở Tây Nguyên cũng chịu ảnh hưởng của tiếng Khmer hoặc tiếng Chàm mà gọi người Việt bằng những tên tương tự. Yuôn là dạng tiếng Khmer còn ywan là dạng tiếng Chàm của tiếng Sanskrit yavana. Trong bi ký cổ xưa bằng tiếng Sanskrit, người Chàm đã gọi người Việt bằng cái tên yavana này. Vậy yavana là gì? Dictionnaire sanskrit-français của N. Stchoupak, L. Nitti và L. Renou (Paris, 1932) đã đối dịch từ này như sau: “étranger, barbare”. Một vài học giả và nhà nghiên cứu vì hiểu nhầm barbare là “dã man” nên đã vội vàng tránh né cái nguyên từ yavana đích thực mà đi tìm cho yuôn, ywan một “nguyên từ” khác, đương nhiên là hoàn toàn xa lạ.

Sự thật thì barbare ở đây đồng nghĩa với étranger. Cái nghĩa đó đã được Nouveau Petit Larousse en couleurs (édition 1969) cho như sau: “Etranger, qui appartient à une autre civilisation” nghĩa là “dị chủng, thuộc về một nền văn minh khác”. Xét theo định nghĩa này, người Khmer và người Chàm là đồng văn với người Ấn Độ và đồng văn với nhau. Còn người Việt và người Nhật là đồng văn với người Trung Hoa và cũng đồng văn với nhau. Rõ ràng người Việt Nam là người “dị văn” với cả người Khmer lẫn người Chàm. Vậy hoàn toàn chẳng có gì lạ nếu họ gọi chúng ta là yavana, Khmer hóa thành yuôn và Chàm hóa thành ywan, tức là những kẻ “dị văn”.

§ 110. Kiến thức ngày nay, số 125, ngày 1 -12-1993

Hỏi: Theo tôi được biết thì câu “Lang bạt kỳ hồ” là một câu trong Kinh Thi. Nó không có nghĩa là sống lang thang rày đây mai đó. Tại sao người Việt Nam lại dùng nó theo nghĩa này?

Học giả An Chi giải đáp: Đúng như ông nói, lang bạt kỳ hồ là một câu trong Kinh Thi của Trung Hoa. Lang là chó sói, bạt là giẫm đạp, kỳ là một đại từ thay thế cho danh từ lang còn hồ là cái yếm da dưới cổ của một số loại thú. Vậy lang bạt kỳ hồ là con chó sói giẫm lên cái yếm của chính nó (nên không thể bước tới được). Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng giảng và chú như sau: “Con chó sói giẫm lên cái phần da cổ của nó, lúng túng không biết làm sao. Chỉ sự lúng túng khó xử. Ta lại hiểu là sống trôi dạt đây đó (không rõ tại sao)”.

Điều mà quyển từ điển trên ghi “không rõ tại sao” chính là điều mà ông hỏi. Chung quy cũng là do từ nguyên dân gian mà ra. Không biết được ý nghĩa đích thực của câu đang xét, người ta đã liên hệ các thành tố của nó với những yếu tố mà mình đã biết: lang với lang thang, bạt với phiêu bạt, hồ với giang hồ, chẳng hạn. Thế là thành ra cái nghĩa “sống lang thang rày đây mai đó” như ông đã nêu. Chẳng những thế, người ta còn lược bỏ hai tiếng kỳ hồ mà nói gọn thành lang bạt để diễn đạt cái nghĩa trên đây. Quả vậy, Từ điển tiếng Việt 1992 đã ghi nhận: “lang bạt: sống nay đây mai đó ở những nơi xa lạ”. Nhiều quyển từ điển khác cũng làm như thế vì hai tiếng lang bạt đã trở thành một đơn vị từ vựng thông dụng trong tiếng Việt.

Từ nguyên dân gian đã tạo ra lắm trường hợp oái oăm. Xin nêu thêm một thí dụ quen thuộc. Có nhiều người, kể cả nhà văn, nhà báo và nhà giáo, đã dùng yếu điểm thay cho nhược điểm. Họ nghĩ rằng yếu ở đây chính là yếu trong mạnh được yếu thua, yếu thế, ốm yếu, v.v. mà không hề ngờ rằng đó lại là yếu trong quan yếu, chủ yếu, yếu lĩnh, yếu nhân, v.v.. Thực ra, yếu điểm là điểm quan trọng, còn nhược điểm thì mới là chỗ yếu. Nếu hiểu theo lối từ nguyên dân gian trên đây thì yếu nhân sẽ là người yếu. Nhưng thật ra đó là nhân vật quan trọng, thậm chí còn là VIP nữa ấy chứ!

§ 111. Kiến thức ngày nay, số 125, ngày 1 -12-1993

Hỏi: Có phải Osiris trong thần thoại Ai Cập cũng chính là Zeus trong thần thoại Hy Lạp và Jupiter trong thần thoại La Mã hay không? Sự tích của Osiris có gì khác với sự tích của Zeus và Jupiter?

Học giả An Chi giải đáp: Người La Mã đã đồng nhất hóa thần Jupiter của mình với thần Zeus của Hy Lạp nhưng hai vị thần này không phải là một. Còn Osiris là một vị thần riêng biệt trong huyền thoại Ai Cập. Có thể là, ở đâu đó, người ta đã so sánh vị trí của Osiris trong huyền thoại Ai Cập với vị trí của Zeus trong huyền thoại Hy Lạp hoặc của Jupiter trong huyền thoại La Mã vì cả ba đều đứng hàng đầu. Văn khắc Ai Cập cổ đại đã tôn xưng Osiris như sau: “Vua của cõi vĩnh hằng, chúa của cõi vô tận, chủ của các vị thần và của loài người, thần của các vị thần, vua của các vị vua, chủ của các vị chủ, ông hoàng của các ông hoàng, người trị vì thế giới, đấng mà sự tồn tại là vĩnh cửu”. Với những tôn hiệu trên đây, rõ ràng là Osiris rất xứng đáng được đặt ngang hàng với Zeus và Jupiter.

Osiris, Haroeris, Seth, Isis và Nephthys là con của thần Geb và nữ thần Nout, ra đời theo thứ tự đã ghi. Osiris lấy Isis còn Seth thì lấy Nephthys. Lên ngôi vua, Osiris đã dạy cho dân mình nghề trồng trọt, nghề chăn nuôi, đặt ra luật cai trị sáng suốt, còn Seth thì chỉ là một kẻ vô tích sự. Osiris tốt, giỏi bao nhiêu thì Seth xấu, tệ bấy nhiêu. Vì ganh ghét và do tham vọng, hắn đã âm mưu sát hại Osiris để chiếm đoạt vương quốc và lấy vợ của anh, cũng là em gái của cả hai.

Seth đã tổ chức một buổi tiệc khoản đãi Osiris khi anh mình vừa từ nước ngoài trở về. Hắn đã mời 72 đứa bạn đến dự. Giữa buổi tiệc, hắn cho khiêng ra một cái rương thật đẹp, đóng rất tinh xảo và nói rằng hễ người nào nằm vừa vặn vào đó thì sẽ được nhận nó làm quà. Do có sắp xếp trước, một số khách mời đã vào nằm thử nhưng chẳng ai nằm vừa vặn. Đến lượt Osiris nằm vào thì thượng hạ tả hữu không có chỗ nào dư. Bọn tòng phạm liền đóng rương lại. Chúng khiêng rương ra sông Nil, kéo nó đến gần cửa sông ở thành Tanis thì bỏ mặc cho dòng nước cuốn đi. Chiếc rương cứ thế mà trôi ra biển rồi giạt vào thành Byblos.

Biết tin chồng bị sát hại, Isis đã đi tìm xác chàng. Sau nhiều gian nan dầu dãi, nàng mới thấy được thi thể Osiris và đem nó từ Byblos về Ai Cập. Giữa đường, nàng phải dừng lại tại Chomnis, dự cảm sự ra đời của đứa con trai là Horus mà nàng sắp hạ sanh. Nàng giấu xác chồng trong bãi lau sậy. Nhưng trong một cuộc săn bắn, Seth đã phát hiện thi thể của Osiris. Hắn đã chặt xác của anh mình làm 14 mảnh và đem đi bỏ mỗi nơi một mảnh khắp Ai Cập. Isis lại phải khổ công đi tìm xác chồng. Tìm được mảnh nào tại đâu, nàng chôn cất mảnh đó tại đấy: cái đầu ở Abydos, cái cổ ở Héliopolis, đùi trái ở Bigen… Duy có bộ phận sinh dục thì mất luôn vì Seth đã vứt xuống sông cho cá ăn. Tuy thế, sau đó Isis cũng đã dùng phép màu mà tái tạo thân thể nguyên vẹn của chồng. Từ đó Osiris trở thành chúa tể của thế giới bên kia.

Còn Seth đã bị Horus thách đấu. Nhiều trận ngoạn mục giữa hai chú cháu đã diễn ra. Cuối cùng Seth đã bị Horus hạ gục rồi thẻo đi bộ phận sinh dục, cũng là để trả thù cho cha. Nhưng trong khi đánh nhau, Horus đã bị Seth khoét mất một con mắt mà theo một dị bản của truyện kể thì về sau chàng được thần Thot đền bù lại nguyên lành.

Về hình ảnh và vị trí của Osiris trong đời sống tâm linh của dân Ai Cập và dân vùng chung quanh Địa Trung Hải thời cổ đại, Serge Sauneron đã viết: “Vào những thời kỳ cuối cùng, khi mà thành Héliopolis (của Ai Cập – AC) cổ xưa chỉ còn là một kinh thành hoang vắng và thành Thèbes (cũng của Ai Cập – AC) chỉ còn là một bãi phế tích mênh mông thì sự sùng bái Osiris và Isis lại càng lan rộng hơn bao giờ hết. Nó lan sang các đảo của Hy Lạp, sang La Mã và sang cả những cánh rừng của xứ Germanie*.

§ 112. Kiến thức ngày nay, số 125, ngày 1 -12-1993

Hỏi: Năm 1992, ngành Bưu chính Việt Nam có phát hành một con tem về thiếu nhi. Dọc theo rìa bên phải của nó, có hai câu song ngữ như sau:

Tất cả trẻ em là trẻ em của chúng ta

All children are our children.

Xin hỏi người phụ trách Chuyện Đông chuyện Tây có hiểu câu tiếng Anh trên đây theo cách mà người của ngành bưu chính đã dịch ra tiếng Việt hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi không hiểu như thế. Trong câu tiếng Anh, người ta đã chơi chữ bằng tính đa nghĩa của từ: child(ren) vừa có nghĩa là trẻ con, vừa có nghĩa là con. Trong hai lần xuất hiện, lần trước nó có nghĩa là trẻ con còn lần sau nó có nghĩa là con. Vậy từ (all) children đến (our) children, đã có một sự đánh tráo khái niệm. Và all children are our children có nghĩa là: Tất cả mọi trẻ con đều là con của chúng ta.

§ 113. Kiến thức ngày nay, số 125, ngày 1 -12-1993

Hỏi: Thỉnh thoảng báo có nói đến văn minh tiền Colombia. Xin cho biết đây là nền văn minh nào ở Colombia?

Học giả An Chi giải đáp: Văn minh tiền Colombia là một cách dịch sai từ tiếng Pháp civilisation pré colombienne hoặc tiếng Anh pre Columbian civilisation, có nghĩa là văn minh tiền Colomb. Colomb (tiếng Anh: Columbus), như ai cũng biết, là người đã phát hiện châu Mỹ còn Colombia là một nước ở Nam Mỹ, nằm trên bờ Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, giáp eo đất Panama. Liên quan đến nước Colombia, là tính từ tiếng Anh Colombian còn Columbian thì lại là tính từ tiếng Anh liên quan đến Columbus (tiếng Pháp: Colomb). Vậy pre-Columbian là tiền Colomb chứ không phải “tiền Colombia”. Văn minh tiền Colomb là những nền văn minh đã từng tồn tại ở châu Mỹ trước khi Christophe Colomb phát hiện châu lục này. Đó là những nền văn minh của các thổ dân vẫn thường được gọi là người Da đỏ.

Nói chung người ta đã chia các nền văn minh nói trên theo từng khu vực như sau: – khu vực Bắc Mỹ, – khu vực Trung Mỹ bao gồm: phần lớn Mexico, Guatemala, Honduras và một phần Nicaragua, – khu vực chung quanh biển Caraïbes (Ca-ri-bê), bao gồm: quần đảo Antilles, các nước thuộc phần Nam của Trung Mỹ, Costa Rica, Panama, bờ biển Đại Tây Dương của Colombia và Venezuela, – khu vực núi Andes kéo dài suốt dãy núi này từ cực Bắc của Nam Mỹ cho đến hết Chile, – khu vực sông Amazone. Sự phân chia trên đây vừa dựa vào tính chất khu vực, vừa dựa vào tính tương đồng và sự tương quan của các nền văn minh đang xét.

Nổi tiếng nhất nên đã trở thành quen thuộc là văn minh Maya, văn minh Aztec và văn minh Inca mà Maya là nền văn minh rực rỡ nhất. Người Maya đã được một nhà khảo cổ học danh tiếng xem là người Hy Lạp của Tân thế giới. Đối với văn minh Aztec, nó đã có một vai trò giống như văn minh Hy Lạp đối với văn minh La Mã thời xưa.

Riêng trên đất nước Colombia thì có các nền văn minh tiền Colomb sau đây: văn minh vùng Esmeraldas, văn minh Pasto, văn minh Buesaco, văn minh vùng Patia và Guachicono, văn minh Popayán, văn minh vùng Corinto, văn minh CalIma. Được biết đến nhiều nhất và rõ nhất là nền văn minh Chibcha. Vì khuôn khổ có hạn nên, về người Chibcha, chúng tôi chỉ xin kể hiến ông mẩu huyền thoại ngắn sau đây.

Bochica và Chibchacum là địch thủ của nhau. Có một lần, bởi tức giận loài người không biết vì cớ gì, Chibchacum đã dìm thảo nguyên Bogota dưới những cơn mưa lũ dữ dội. Dân chúng đã đi cầu cứu Bochica. Bochica đến và dùng chiếc đũa bằng vàng của mình mà gõ nứt đá ở Tenquendama, làm cho nước chảy xuống hết (Bogota ở độ cao 2.600m). Dân Bogota đã thoát nạn và đá bị nứt đã tạo ra những dòng thác nổi tiếng tại đây. Sau đó Bochica còn phạt Chibchacum phải vác cả trái đất trên vai nữa. Vì vậy mà mỗi lần đất rung chuyển thì người ta biết là Chibchacum đang chuyển quả đất từ vai này sang vai kia.*

§ 114. Kiến thức ngày nay, số 125, ngày 1 -12-1993

Hỏi: Trong “ăn như hạm” thì “hạm” là gì?

Học giả An Chi giải đáp: Hạm là con cọp. Đây là một biến thể ngữ âm của hàm 甝, một yếu tố Hán Việt có nghĩa là con cọp trắng. Tiếng hàm được ghi bằng một hình thanh tự mà nghĩa phù là hổ 虎 (=cọp) còn thanh phù là cam 甘 (= ngọt). Khang Hy tự điển, nơi bộ cam, đã cho thiết âm của nó là “hồ cam thiết” và ghi nghĩa của nó là “hàm, bạch hổ”. Vậy hàm là con cọp trắng còn hạm, biến thể ngữ âm của nó, thì có nghĩa rộng là cọp nói chung. Và ăn như hạm là ăn như cọp. Người ta thường dùng thành ngữ này để chỉ hành động của bọn có chức có quyền chuyên ăn của dân mà ăn đến bao nhiêu cũng chưa thấy đã thèm. Vợ của chúng, dựa hơi dựa thế của chồng để ăn của dân gọi là hạm cái, còn thuộc hạ của chúng dựa hơi dựa thế của quan trên để ăn của dân thì gọi là hạm non.

§ 115. Kiến thức ngày nay, số 125, ngày 1 -12-1993

Hỏi: Tại sao báo chí trước đây gọi Gandhi là Mahatma và Nehru là pandit?

Học giả An Chi giải đáp: Mahatma là do tiếng Sanskrit mahātman, có nghĩa gốc là linh hồn vĩ đại (maha = lớn lao; ātman = linh hồn). Từ này được dùng để tôn xưng các lãnh tụ tinh thần. Còn pandit là do tiếng Sanskrit pandita có nghĩa là nhà hiền triết, nhà thông thái. Từ này được dùng để tôn xưng các học giả danh tiếng.

§ 116. Kiến thức ngày nay, số 126, ngày 15-12-1993

Hỏi: Chúng tôi hiện đang tìm hiểu nguồn gốc gia tộc để biên tu gia phả nên muốn biết; 1. Họ của chúng tôi là Hạ, theo chữ Hán viết là 夏, ngoài nghĩa là mùa hè, chữ hạ này còn có nghĩa gì khác? 2. Ngoài họ Hạ của chúng tôi, còn có những họ Hạ nào khác, chữ Hán viết ra sao? 3. Gia phả chúng tôi có ghi: Tộc Hạ – Cối Kê quận. Các cụ trưởng lão trong tộc khi khấn vái cũng nói: “Cối Kê quận”. Vậy có phải họ của chúng tôi xuất phát từ quận Cối Kê hay đó chỉ là một danh hiệu đặt riêng mà thôi? 4. Trong Tam Quốc chí có họ Hạ Hầu, họ nầy có phải gốc ở Cối Kê và có liên quan gì đến chữ 夏 của họ chúng tôi hay không?

Học giả An Chi giải đáp: 1. Chữ hạ ngoài nghĩa là mùa hè, còn có các nghĩa sau đây: – Chỉ người Trung Hoa, như trong danh xưng Hoa Hạ, do đó cũng dùng để chỉ nước Trung Hoa – To, lớn – Ngôi nhà to – (Vật) ngũ sắc – Tên triều đại. Đây là một trong tam đại (Hạ, Thương, Chu) – Quốc hiệu. a. Chỉ nước của vua Vũ, nay thuộc Vũ Huyện, tỉnh Hà Nam, b. Đời Tấn, Hách Liên Bột Bột, người Hung Nô, chiếm Thống Vạn Thành, xưng vua và đặt tên nước là Hạ, cũng gọi là Đại Hạ. c. Đầu đời Tống, Triệu Nguyên Hạo chiếm Hưng Khánh, xưng vua, đặt tên nước là Hạ, sử gọi là Tây Hạ – Họ người. Đây chính là tôn tính.

2. Theo chúng tôi tra cứu, ít nhất cũng còn có một họ Hạ nữa, chữ viết là 賀 (trên gia, dưới bối), âm Quan thoại là Hè. Người họ này vốn thuộc về họ Khánh 慶 (= vui, mừng). Đây là một họ của người Khương. Do kiêng húy cha của vua An Đế nhà Hán nên đã phải đổi thành Hạ 賀 (cũng nghĩa là mừng). Đây là trường hợp lấy từ đồng nghĩa thay thế cho từ bị kiêng kỵ.

3. Về mấy tiếng tộc Hạ, Cối Kê quận thì chúng tôi không dám khẳng định. Nhưng cứ theo thông thường khi đã ghi và đã khấn như thế thì hẳn là tôn tộc phải xuất phát từ quận Cối Kê. Đây là một quận do nhà Tần lập; đất của nó thuộc miền Đông Nam tỉnh Giang Tô, và cả miền Đông, miền Nam tỉnh Chiết Giang ngày nay nữa. Nếu thế thì tôn tộc là một dòng họ rất lâu đời.

4. Về nguồn gốc của họ Hạ Hầu, sách Tính phả cho biết như sau. Những người thuộc họ này vốn là họ Tỹ 姒*. Cứ theo truyền thuyết thì đó là hậu duệ của Hạ Vũ (nhà Hạ). Khi Chu Vũ Vương lên ngôi thì phong cho con cháu của Vũ ở đất Khởi (cũng đọc Khỉ). Sau đất Khởi bị nước Sở thôn tính, em của Giản Công là Đà phải chạy sang nước Lỗ. Lỗ Điệu Công thấy Đà là con cháu của nhà Hạ nên đã phong cho tước hầu, nhân thế mới lấy họ là Hạ Hầu. Vậy chữ Hạ trong Hạ Hầu cũng chính là chữ Hạ của tôn tộc. Nhưng họ Hạ Hầu không xuất phát từ quận Cối Kê vì đất Khởi xưa không thuộc Giang Tô hoặc Chiết Giang ngày nay mà lại thuộc Hà Nam. Nếu lấy nước Lỗ là nơi mà Đà đã lưu vong để xét thì nước này lại thuộc tỉnh Sơn Đông ngày nay, cũng không liên quan đến quận Cối Kê.

§ 117. Kiến thức ngày nay, số 126, ngày 15-12-1993

Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 113, Chuyện Đông chuyện Tây, có nói đến tiếng Afrikaans và giảng rằng đó là tiếng Hà Lan nói ở Nam Phi. Xin cho biết rõ về thứ tiếng đặc biệt này.

Học giả An Chi giải đáp: Tiếng Afrikaans là một thứ tiếng Hà Lan pha tạp mà chính dân lập nghiệp Hà Lan ở Nam Phi chấp nhận và truyền bá. Bên cạnh tiếng Anh, nó đã trở thành một trong hai ngôn ngữ chính thức của Nam Phi theo ý nghĩa đầy đủ nhất của mấy tiếng này và là ngôn ngữ pha tạp duy nhất trên thế giới có được quy chế đó.

Năm 1652, người Hà Lan đã đổ bộ lên Mũi Hảo Vọng (cực Nam châu Phi) và xây dựng thành phố Mũi Đất (tiếng Afrikaans: Kaapstad, tiếng Anh: Capetown, có người viết Cape Town) để làm trạm dừng chân từ Đại Tây Dương sang Ấn Độ Dương (bấy giờ chưa có kênh Suez). Tại thành phố mới tạo lập này, thứ tiếng pha tạp đó, mà nền tảng là tiếng Hà Lan, đã phát triển nhanh chóng thành một phương tiện giao tiếp đắc lực và đầy hiệu quả giữa dân châu Âu với nhân công gốc Phi. Trẻ con sinh ra tại đây, bất kể nòi giống, dần dần tự nhiên trở thành dân “bản ngữ” của thứ tiếng pha tạp đó, góp phần biến nó thành phương tiện giao tiếp chủ yếu giữa người gốc Âu và người gốc Phi. Khi những lưu dân Hà Lan càng đi sâu vào nội địa Nam Phi thì ngôn ngữ mới mẻ này phát triển càng rộng, càng xa. Tuy nhiên tiếng Hà Lan chính gốc vẫn còn là ngôn ngữ viết của họ.

Tình hình ngôn ngữ trở nên phức tạp hơn khi người Anh thiết lập thuộc địa tại vùng Mũi Hảo Vọng vào năm 1806. Từ đây, bắt đầu một thời kỳ Anh hóa. Tiếng Anh trở thành ngôn ngữ chính thức và ngôn ngữ của xã hội thượng lưu. Năm 1820, di dân người Anh tiến xa về hướng đông. Nhưng tiếng Afrikaans, mặc dù không có tư cách chính thức, vẫn tiếp tục là ngôn ngữ được dùng trong sinh hoạt gia đình của cả người da trắng lẫn người da đen. Đặc biệt, người Boer (thực dân Hà Lan) thì hoàn toàn lẩn tránh việc Anh hóa khi họ di cư sâu vào nội địa theo hướng Bắc để thành lập quốc gia tự do Orange và xứ Transvaal trong thập kỷ 1830.

Đến thập kỷ 1870 thì vấn đề ngôn ngữ đã trở thành mục tiêu chủ yếu trong cuộc đấu tranh chính trị của dân Afrikaner (người Hà Lan nói tiếng Afrikaans). Đã từ lâu không còn có liên lạc gì với Hà Lan chính quốc, rất ít người còn nói hoặc viết đúng được tiếng Hà Lan chính gốc nên họ chủ trương rằng tiếng Afrikaans phải là ngôn ngữ tương lai của Nam Phi. Thế là họ bắt đầu công cuộc xuất bản bằng tiếng Afrikaans.

Năm 1902, các nước cộng hòa của người Boer mất quyền độc lập và trở thành một bộ phận của đế quốc Anh. Nhưng người Boer chống lại việc Anh hóa các lãnh thổ của họ và trong đạo luật thành lập Liên bang (Nam Phi), bên cạnh tiếng Anh, tiếng Hà Lan đã được thừa nhận là ngôn ngữ chính thức trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, quy chế này của tiếng Hà Lan chẳng hề đem lại lợi ích gì cho người Afrikaner vì họ đã quên bẵng nó đi rồi. Vì vậy mà đã diễn ra một cuộc vận động rộng khắp đòi thừa nhận tiếng Afrikaans. Kết quả là đến năm 1926 thì thứ tiếng pha tạp đó đã trở thành một ngôn ngữ chính thức của Nam Phi, thay thế cho tiếng Hà Lan bên cạnh tiếng Anh.

§ 118. Kiến thức ngày nay, số 126, ngày 15-12-1993

Hỏi: Theo Từ điển Phật học Việt Nam của hai ngài Thích Minh Châu và Minh Chi thì KIm xỉ điểu là “một loại chIm thần thoại, mình chIm, đầu người”. Vậy có phải đây cũng là nữ thần thân chIm đầu người trong thần thoại La Mã hay không?

Học giả An Chi giải đáp: KIm xí điểu – chứ không phải “KIm xỉ điểu” như đã in trong Từ điển Phật học Việt Nam – không phải là loại chIm mình chIm đầu người mà ngược lại. Xí (có sách phiên sí) là cánh; vậy kIm xí điểu là “chIm cánh vàng”. Đây là ba tiếng mà người Trung Hoa đã dùng để chỉ giống chIm thần trong huyền thoại Ấn Độ mà tiếng Sanskrit gọi là garuḍa (Pali: garuḷa). Người Trung Hoa cũng phiên âm tên này thành ca lâu la hoặc ca lưu la. Con garuḍa, tức kIm xí điểu, có đầu chIm – chứ không phải đầu người – mỏ chIm, cánh chIm, móng chIm và chân người, mình người – chứ không phải mình chIm. Nó là vật cỡi của thần Vishnu bên Ấn giáo, là chúa tể của loài chIm và là kẻ thù của loài rắn. Do đặc điểm này mà trong tiếng Sanskrit nó còn được gọi là nāga-damana, nghĩa là kẻ thuần phục loài rắn.

Còn nữ thần thân chIm đầu người trong huyền thoại La Mã mà ông nói đến thì tiếng La Tinh là Harpyiae, có xuất xứ ở huyền thoại Hy Lạp. Tiếng Hy Lạp Arpuia, danh từ ở số ít, là Nữ thần mẹ của gió hoặc của những con tuấn mã cực nhanh; còn ở số nhiều, Arpuiai, thì lại là các Nữ thần của bão tố. Danh từ này bắt nguồn ở căn tố arp-, có nghĩa là cướp đi, vồ đi một cách mau lẹ. Với căn tố này, tiếng Hy Lạp còn có danh từ arpe, có nghĩa là chIm cắt hoặc chIm ó (mà đặc điểm là quắp mồi rồi bay lên một cách cực nhanh). Sang đến tiếng La Tinh thì nghĩa của arpe đã xen vào nghĩa của Arpuia cho nên Harpyiae mới trở thành những quái vật nửa chIm nửa đàn bà: đầu phụ nữ, mình kên kên.

Vậy con garuḍa, tức kIm xí điểu, đầu chIm mình người, không có liên quan gì đến Harpyiae, đầu người mình chIm.

§ 119. Kiến thức ngày nay, số 127, ngày 22-12-1993

Hỏi: Tại sao Chuyện Đông chuyện Tây chỉ nói đến từ nguyên dân gian trong tiếng Việt và tiếng Anh mà không nói về từ nguyên dân gian trong tiếng Pháp? Xin cho vài thí dụ trong thứ tiếng này.

Học giả An Chi giải đáp: Chỉ vì chẳng có ai hỏi đến. Nay bạn đã hỏi thì chúng tôi xin hiến bạn vài thí dụ như sau:

Hẳn bạn đã biết thành ngữ être en nage là ướt đẫm mồ hôi. Nhưng hình thái gốc của nó chẳng liên quan gì đến danh từ (la) nage là sự bơi lội cả. Vốn nó là être en age. Age là một hình thái phương ngữ của eau (bên cạnh các hình thái khác như ève, aige, v.v.). Vậy être en age = être en eau = ướt đẫm (mồ hôi). Vì không biết rõ hình thái gốc, lại do phải nối vần (liaison) giữa n của en với a của age thành [naʒ] nên người ta đã viết thành être en nage, tưởng đâu rằng có bơi lội thì mới ướt đẫm.

Nói đến nước thì lại nhớ đến hồ. Chắc bạn cũng đã biết thành ngữ tomber dans le lac có nghĩa là thất bại, là hỏng bét. Hình thái gốc của nó không liên quan gì đến lac là cái hồ cả. Nó vốn là tomber dans le lacs. Lacs là cái dò, tức là cái bẫy thường làm bằng dây thòng lọng để bắt chIm bắt thú. Vậy tomber dans le lacs có nghĩa là sa bẫy, mắc bẫy, hiểu xa hơn một chút thì coi như là “đi đoong” do đó mới ra cái nghĩa “hỏng bét”. Chẳng qua người ta đã nhầm lacs thành lac.

Một thí dụ nữa là prendre Paris pour Corbeil. Hình thái gốc của nó là prendre panier pour corbeille. Panier là rổ, thúng còn corbeille là lẵng, giỏ (nhưng cũng có nghĩa là rổ, rá). Vậy prendre panier pour corbeille đồng nghĩa với thành ngữ tiếng Việt nhìn gà hóa cuốc, chỉ sự lẫn lộn các đối tượng tương tự, na ná nhau. Do cách phát âm tương tự mà corbeille đã bị đồng hóa với Corbeil là một địa danh. Khi Corbeil đã là một địa danh thì đương nhiên… panier cũng phải trở thành Paris cho tương xứng. Nhưng xứng sao được khi Paris là kinh đô hoa lệ còn Corbeil chỉ là một chef-lieu de canton (= lỵ sở của tổng) mà thôi.

Nhắc đến kinh thành Paris thì lại nhớ đến tên một con đường của nó. Đó là rue aux Ours (= phố Gấu). Tên thì như thế nhưng tại con đường này xưa nay không hề có bóng dáng hoặc dấu chân của gấu. Chỉ có những con ngỗng mà thôi. Do đặc điểm này mà xưa kia con đường đã mang tên là rue aux Oues. Oue là hình thái cổ xưa của oie (= ngỗng). Vậy rue aux Oues là phố Ngỗng. Từ nguyên dân gian đã biến oues thành ours nên phố Ngỗng mới trở thành phố Gấu.

§ 120. Kiến thức ngày nay, số 127, ngày 22-12-1993

Hỏi: Củ chi là củ gì? Tên củ này có liên quan đến địa danh Củ Chi không?

Học giả An Chi giải đáp: Củ chi là một tên khác của cây mã tiền. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của ghi: “Củ chi. Loài mã tiền. Vị thuốc trị phong bại”. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức cũng giảng củ chi là cây mã tiền còn mã tiền thì được giảng như sau: “Cây củ chi, trái tròn như chanh, lớn lắm bằng cam, màu vàng, nhiều hột sáng chói như bạc (…)”.

Rất có thể Củ Chi là vùng vốn có rất nhiều cây củ chi, tức cây mã tiền, do đó mà có tên.

§ 121. Kiến thức ngày nay, số 127, ngày 22-12-1993

Hỏi: Ai là người Việt Nam đầu tiên viết văn tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ?

Học giả An Chi giải đáp: Cứ theo Lịch sử chữ quốc ngữ của Đỗ Quang Chính (Sài Gòn, 1972), thì đó là hai người: Igesico Văn Tín và Bento Thiện.

Trong thời gian lưu lại châu Âu, tác giả Đỗ Quang Chính đã có dịp và có điều kiện đến một số văn khố và thư viện ở Roma, Madrid, Lisboa, Paris, Lyon và Avignon và đã khám phá ra nhiều tài liệu viết tay vô cùng quý báu, liên quan đến lịch sử chữ quốc ngữ. Trong những tài liệu viết tay đó, có bức thư đề ngày 12-9-1659 của Igesico Văn Tín viết cho linh mục G. F. de Marini, bức thư đề ngày 25-10-1659 của Bento Thiện, cũngviết cho linh mục Marini và tập Lịch sử nước Annam (Đỗ Quang Chính gọi theo quy ước vì tập này không hề có nhan đề) của Bento Thiện mà tác giả nhận định là được viết vào đầu hoặc giữa năm 1659. Ba tài liệu trên đều viết bằng chữ quốc ngữ.

Về người thứ nhất, Đỗ Quang Chính cho biết như sau: “Igesico Văn Tín gồm hai tên: tên thánh và “tên tục”. Tên Igesico (Hoàng Xuân Hãn và Thanh Lãng ghi: Igessio – AC) hay Iglésis, Iglesias là một thứ mà ngày nay hiếm người mang tên đó, kể cả người châu Âu. Khi Văn Tín gia nhập Giáo hội Công giáo mới bắt đầu mang tên Igesico. Còn chính tên họ của Văn Tín là gì thì không được ghi lại, vì cứ theo chữ ký của ông, chỉ có hai chữ Việt là Văn Tín. Khi biên thư này, tác giả được bao nhiêu tuổi, sinh quán ở đâu, hoạt động ra sao, chúng tôi không rõ. Trong sổ bộ các Thầy giảng Đàng Ngoài năm 1637 do L.m. Gaspar d’ Amaral ghi lại, không thấy dấu vết gì về Văn Tín”.

Về người thứ hai, tác giả cho biết: “Bento là tên thánh của ông; đó là danh từ Bồ Đào Nha, tiếng La Tinh là Benedictus, tiếng Pháp là Benoît, tiếng Việt là Bê Nê Đích Tô hay Biển Đức. Chúng tôi không biết rõ lai lịch Bento Thiện, nhưng có lẽ ông là người mà Gaspar d’ Amaral đã nhắc lại trong tài liệu năm 1637. Sử liệu trên có ghi danh sách những người thuộc bốn bậc “Dòng Tu” Thầy giảng, trong số này có một người tên là Bento (không có tên Việt Nam) ở bậc Kẻ giảng, tức là cấp thứ hai, tính đến năm 1637, Bento được 23 tuổi, theo đạo Công giáo được 11 năm, tức là năm 1627. Như vậy Thầy Bento là một trong những người đầu tiên do L.m. Marques hoặc Đắc Lộ rửa tội ở Đàng Ngoài”.

Chúng tôi phải dè dặt ghi tên hai người như trên là vì tuy thư của Igesico Văn Tín viết ngày 12-9 còn thư của Bento Thiện viết ngày 25-10 cùng năm nhưng tác giả Đỗ Quang Chính đoán rằng Bento Thiện có thể đã viết tập Lịch sử Annam từ đầu hoặc từ giữa năm đó. Vậy xin tạm coi đó là hai người “đồng thời”. Ngoài ra còn phải tính đến khả năng là có người (hoặc những người) Việt Nam khác đã viết tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ trước cả Igesico Văn Tín và Bento Thiện nhưng bút tích của họ đã vĩnh viễn thất lạc.

§ 122. Kiến thức ngày nay, số 128, ngày 1 -1 -1994

Hỏi: Tại sao tiếng Anh lại gọi Ông già Noël là Santa Claus?

Học giả An Chi giải đáp: Người Anh cũng nói Father Christmas, tương đương với tiếng Pháp Père Noël, để chỉ Ông già Noël. Còn Santa Claus thì bắt nguồn từ tiếng Hà Lan Sant Nikolass, tức Thánh Nicolas. Thánh Nicolas sống vào thế kỷ IV, nguyên là linh mục ở Myra, vùng Lycie thuộc Tây Nam bán đảo Tiểu Á. Ông là thánh bảo trợ của nước Nga và của trẻ em. Có người lại nói rằng ông là thánh bảo trợ cho thuyền nhân, thương nhân và trẻ em. Ông được sùng bái ở Cận Đông và châu Âu, đặc biệt là ở Ý, tại Bari là nơi còn lưu giữ được nhiều thánh tích của ông. Ông thường ban phát quà cho trẻ em vào đêm Giáng sinh hàng năm nên được xem là tượng trưng cho ông già Noël. Xin lưu ý rằng tiếng Anh vẫn gọi Thánh Nicolas là Saint Nicholas, còn Santa Claus thì lại là Ông già Noël và bắt nguồn từ tiếng Hà Lan Sant Nikolaas.

§ 123. Kiến thức ngày nay, số 128, ngày 1 – 1 – 1994

Hỏi: Trên Kiến thức ngày nay, số 122, Chuyện Đông chuyện Tây, ông đã trả lời một bạn đọc về thi hào Tagore, tôi xin được phép góp ý về Ông Rabindra Nâth Tagore.

Ông sinh năm 1861, đồng thời là triết gia, thi sĩ và nhạc sĩ. Ông đã tự dịch sang Anh văn các tác phẩm chính của ông. Tây phương chú ý đến ông kể từ năm 1913, năm ông nhận giải Nobel về văn chương. Tác phẩm trình bày sáng sủa và rõ ràng nhất triết học của ông thấy trong một quyển sách nhan đề là Sâdhana có nghĩa là “Hoàn thiện tuyệt hảo”, được dịch sang tiếng Việt Nam lấy tên là “Thực hiện toàn mãn”, bản dịch của Ông Nguyễn Ngọc Thơ, Nhà xuất bản An Tiêm năm 1973.

Tagore tuyên thuyết là tư tưởng Ấn Độ lầm lạc khi chỉ quan tâm đến sự thống nhất với Thượng Đế, mà không quan tâm đến thế giới vốn là biểu lộ của Thượng Đế. Ông qui định hai mục tiêu cho con người: thuộc về Thượng Đế hết cả tâm hồn mình và phục vụ người cách tích cực trong thế giới mà người đã sáng tạo. Theo Tagore, nguồn vui sống và sáng tạo chính là yếu tố của con người.

Trong Sâdhana, Tagore đã kết tập những bài thuyết pháp hàng tuần của ông vào các năm 1906 – 1909 ở phòng cầu nguyện ở Santiniketan. Ông bắt đầu dịch ra Anh văn dùng cho các bài giảng thoại Sâdhana của ông ở Đại học Havard (sic) của Mỹ. Trong Sâdhana, ông đã hoàn toàn dựa vào Upanishad (Áo nghĩa thư) để thuyết giảng về nhất nguyên và sự thực hiện cõi vô hạn.

Xin lưu ý: Ô. Rabindra Nâth Tagore có ông thân sinh cùng tên là Tagore (Tagore có thể là họ).

Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi quả có nói rằng mình không được biết về hoạt động tôn giáo của Rabindranāth Tagore. Nhưng lối nói có tính chất dè dặt này không có nghĩa rằng văn hào Tagore nhất thiết là một nhà hoạt động tôn giáo.

Những bài rao giảng của Tagore tại Sāntiniketan mà ông đã nhắc đến hoàn toàn không đủ để khẳng định rằng văn hào này là một nhà hoạt động tôn giáo, nhất là một nhà hoạt động tôn giáo nổi tiếng, dù Tagore đã dựa vào Upanishad. Tại Việt Nam, chẳng hạn, có những nhà Phật học tuyệt nhiên không phải là những nhà hoạt động Phật giáo mặc dù công việc nghiên cứu của họ cũng phải lấy Kinh Phật làm nền tảng. Vậy việc Tagore dựa vào Upanishad không chứng tỏ rằng văn hào này là một nhà hoạt động tôn giáo. Tác phẩm Sādhana, theo chúng tôi, chỉ bộc lộ khuynh hướng triết học của Tagore mà thôi.

Xin được nói thêm rằng sādhana, ngoài nghĩa là “hoàn thiện, tuyệt hảo” mà ông đã nêu, hoặc “thực hiện toàn mãn” mà ông Nguyễn Ngọc Thơ đã dịch, còn có nghĩa là “lời khấn”, “câu thần chú”, “sự cầu khẩn”, “sự niệm chú” (nhớ rằng đây là những lời rao giảng của Tagore tại Sāntiniketan) lại còn có nghĩa là “công cụ”, “phương tiện” (đó là phương tiện để Tagore truyền bá khuynh hướng triết học của mình). Vậy theo thiển kiến, sādhana là một từ có nghĩa nước đôi rất khó dịch. Đương nhiên là trong những nghĩa đó có một nghĩa trọng tâm mà Tagore muốn nêu bật và nhấn mạnh. Việc sử dụng những từ có nghĩa nước đôi là một công việc tế nhị. Tác dụng của nó đã được Marcel Bernasconi chỉ rõ ra như sau: “Ở mọi thời và ở tất cả các nước, những từ có nghĩa nước đôi đã gây chú ý không phải cho các đầu óc hời hợt và phù phiếm như người ta đã có thể tưởng, mà cho những con người rất mực nghiêm túc đã thấy ở việc sử dụng chúng một phương tiện hữu hiệu để đánh vào tình cảm và áp đặt cho ký ức một ý tưởng như (ý tưởng này bị áp đặt) bằng một thứ ám ảnh”.*

Cuối cùng xin nói thêm rằng Rabindranāth Tagore chính là con của Debendranāth Tagore, nhà hoạt động tôn giáo nổi tiếng mà chúng tôi đã nói đến trên Kiến thức ngày nay, số 122.

§ 124. Kiến thức ngày nay, số 128, ngày 1 -1 -1994

Hỏi: “Tam phụ bát mẫu” là những ai? Do đâu mà có lối nói này?

Học giả An Chi giải đáp: Tam phụ (ba cha) là: đồng cư kế phụ (cha ghẻ ở chung), bất đồng cư kế phụ (cha ghẻ không ở chung) và tùng kế mẫu cải giá chi kế phụ (cha ghẻ là chồng của mẹ ghẻ đã cải giá). Còn bát mẫu (tám mẹ) là: đích mẫu (mẹ ruột), kế mẫu (mẹ ghẻ), dưỡng mẫu (mẹ nuôi), từ mẫu (mẹ là vợ lẽ của cha nhận nuôi mình như con ruột theo ý của cha; đây không phải là “mẹ hiền”), giá mẫu (mẹ đi lấy chồng khác), xuất mẫu (mẹ bỏ nhà đi hoặc bị đuổi ra khỏi nhà), thứ mẫu (mẹ là vợ lẽ của cha), và nhũ mẫu (mẹ cho bú = vú nuôi).

Luật nhà Thanh đã phân biệt tam phụ bát mẫu như trên để quy định tang phục cho người con hoặc người được coi là con. Chú ý: xét theo từ nguyên thì kế mẫu là mẹ kế sau khi mẹ ruột đã chết hoặc không còn ở với cha, còn thứ mẫu là vợ lẽ của cha ngay cả khi mẹ ruột còn sống hoặc còn ở với cha. Ngày nay người ta vẫn nói kế mẫu thay vì thứ mẫu.

§ 125. Kiến thức ngày nay, số 128, ngày 1 -1 -1994

Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 122, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 82, có nói về câu “Ta đã đến, ta đã thấy, ta đã thắng”. Theo tôi biết, không phải Jules Cæsar đã nói câu này sau khi đánh tan quân của Pharnacae II vua xứ Bosphore, mà là sau khi đã chiếm được xứ Gaule (tức nước Pháp ngày nay). Xin bạn An Chi chấp nhận cho lời góp ý của tôi.

Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi sẵn sàng thọ lãnh những lời góp ý đúng và biết ơn người đã góp ý. Nhưng ý của ông góp thì không đúng.

Để ông dễ dàng đối chiếu, xin chép hiến ông lời giảng về câu Veni, vidi, vici (Ta đã đến, ta đã thấy, ta đã thắng) nơi các trang hồng (pages roses) của Petit Larousse Illustré 1992: “Mots célèbres par lesquels Cæsar annonça au sénat la rapidité de la victoire qu’il venait de remporter près de Zéla (47) sur Pharnace, roi de Bosphore”, nghĩa là “Danh ngôn mà Cæsar dùng để thông báo cho Viện nguyên lão sự mau lẹ của chiến thắng mà ông ta mới giành được ở gần Zéla (năm 47) trước Pharnace, vua xứ Bosphore”. Đây là sự kiện xảy ra năm 47 tr. CN. Còn xứ Gaule thì đã bị Cæsar chinh phục từ giữa thế kỷ I tr. CN. Thủ lãnh của dân Gaulois là Vercingétorix đã đầu hàng tại Alésia năm 52 tr. CN rồi bị giải về La Mã. Đến năm 51 tr. CN thì xứ Gaule đã hoàn toàn bị chinh phục. Sau đó đến 4 năm (47 tr. CN) thì Cæsar mới tuyên bố câu “Veni, vidi, vici”.

§ 126. Kiến thức ngày nay, số 129, ngày 15-1 -1994

Hỏi: Nói á kIm, á hậu, v.v.. Vậy có thể nói “á nam á nữ” hay phải nói “ái nam ái nữ”?

Học giả An Chi giải đáp: Trong á kIm, á hậu, v.v. á có nghĩa là thứ, là dưới một bậc. Thí dụ: á khanh là một chức quan to dưới bậc khanh; á nguyên là người thi đậu sau người đậu đầu; á tử là con trai thứ, v.v.. Còn ái có nghĩa là giống như, phảng phất như. Vậy ái nam, ái nữ là vừa giống nữ mà lại vừa giống nam. Ở đây không thể dùng á được.

§ 127. Kiến thức ngày nay, số 129, ngày 15-1 -1994

Hỏi: Chẳng lẽ tiếng Việt không có từ nào để thay thế cho từ “lô-gích”? Ta có 4000 năm văn hiến mà vẫn bị “hổng” khi đụng lô-gích nên đành “bỏ trống” hay sao? Vậy tiếng của ta để làm gì?

Học giả An Chi giải đáp: Ông cho biết mình ở Sài Gòn 40 năm nhưng trước 1975 chưa từng nghe người Việt Nam nào nói tiếng Việt mà lại xen vào hai tiếng lô-gích. Có lẽ ông đã nói không quá đáng.

Lô-gích – mà nay nhiều người, kể cả tác giả của Từ điển tiếng Việt 1992, đã viết thành logic, y hệt tiếng Anh – trước đây gọi là luận lý (học). Hai tiếng lô-gích bắt đầu được dùng càng ngày càng nhiều ở miền Nam mặc dù đối với nó một số người vẫn còn “dị ứng”.

Xét cho cùng, nếu lô-gích là Tây thì luận lý lại là Tàu (đây là một từ Việt gốc Hán, vẫn quen gọi là Hán Việt). Chẳng có cái nào là ta cả. Và chẳng cứ gì ta có “4.000 năm” mà vẫn phải mượn của Tây, mà cả Tàu cũng chẳng hơn gì ta. Nếu tính từ đời Phục Hy thì họ đã có ngót nghét 5.000 năm. Nhưng họ vẫn phải mượn của Tây ngay cả trong trường hợp của mấy tiếng lô-gích. Để diễn đạt khái niệm này, trước kia họ đã có các từ ngữ danh học, biện học, luận lý học, nhưng họ vẫn phiên âm tiếng Anh logic thành luó jí (âm Bắc Kinh) và ghi bằng hai chữ Hán đọc theo âm Hán Việt thành la tập. Ngày nay, khắp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, không ai dùng danh học, biện học hoặc luận lý học mà chỉ nói la tập (học) (Ở miền Bắc hồi nửa sau thập kỷ 50, tác giả Trần Văn Giàu cũng đã dùng la tập học để chỉ môn logique). Nhưng xin nói rõ rằng đây cũng chẳng phải là “đặc sản” của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vì nó thành lập từ 1949 mà mấy chữ la tập thì đã có mặt trong Từ nguyên là một bộ từ điển ra đời từ năm 1915.

Ngay đến tiếng Anh logic, mà hình thái trung đại là logike cũng là mượn từ tiếng Pháp logique. Tiếng Pháp logique lại là mượn từ tiếng La Tinh logice. Tiếng La Tinh logice lại là mượn từ tiếng Hy Lạp logikê trong từ tổ logikê tekhnê, có nghĩa là nghệ thuật biện luận. Phiên âm thành logice chưa đủ, dân La Mã ngày xưa còn cứ theo đặc điểm của tiếng La Tinh mà đặt thêm danh từ logica, cùng nghĩa. Tóm lại, cả ta, Tàu, Pháp, Anh và La Mã đều gián tiếp hoặc trực tiếp mượn của Hy Lạp; chẳng có ai dùng thứ của mình. Dân Nhật cũng mượn mấy tiếng luận lý (học) của Tàu mà đọc theo âm Hán Hòa thành ronri (gaku).

Vậy phải thay lô-gích bằng “từ Việt” nào thì chúng tôi thấy rất khó. Chỉ xin nhấn mạnh rằng không nên dùng nó một cách “đại trà” khi nó chỉ có nghĩa là “hợp lý”. Cá nhân chúng tôi thì rất thích dùng mấy tiếng luận lý học để chỉ môn logique formelle (luận lý học hình thức) cổ điển.

§ 128. Kiến thức ngày nay, số 129, ngày 15-1 -1994

Hỏi: Tại sao Từ điển Pháp – Việt do Lê Khả Kế làm tổng biên tập (Agence de Coopération Culturelle et Technique, 1981) giảng (être) le coq du village là “người đàn ông được phụ nữ thích” mà Kiến thức ngày nay, số Xuân Quý Dậu (tr. 17) lại nói đó là “nhân vật quan trọng nhất ở trong làng?”

Học giả An Chi giải đáp: Nghĩa mà bạn nêu chỉ là một nghĩa của thành ngữ đang xét. Nó đã được Petit Larousse Illustré 1992 cho như sau: “Homme le plus admiré des femmes dans une localité; séducteur fanfaron et hâbleur”: người đàn ông được phụ nữ ái mộ nhất tại một địa phương; kẻ quyến rũ khoe khoang và khoác lác. Nhưng thành ngữ đó cũng có cái nghĩa mà trên Kiến thức ngày nay chúng tôi đã từng nêu. Nghĩa này đã được Dictionnaire général de la langue française của A. Hatzfeld và A. Darmesteter cho như sau: “le plus Important (comme le coq dans la basse-cour)”: Người quan trọng nhất (như con gà trống giữa sân gia cầm).

§ 129. Kiến thức ngày nay, số 129, ngày 15-1 -1994

Hỏi: Có phải do quyết định độc đoán của Tần Thủy Hoàng mà ngày nay chữ trẫm và chữ tội trong Hán tự đã bị dùng khác đi hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Trước Tần Thủy Hoàng, trẫm là một đại từ ngôi thứ nhất mà ai ai cũng có thể dùng để tự xưng. Khang Hy tự điển, trích lời chú trong sách Nhĩ nhã, thiên Thích hỗ, đã chép như sau: “Cổ giả quý tiện giai tự xưng trẫm” (Người xưa sang hèn đều tự xưng là trẫm). Chẳng hạn, Khuất Nguyên đã viết trong Ly tao: “Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung” (Cha quá cố của ta tên là Bá Dung). Đến năm thứ 26 đời Tần Thủy Hoàng (trước đó là Tần vương), bạo chúa này đã quyết định trẫm là tiếng mà chỉ có vua mới được dùng để tự xưng. Lệ này được nhà Hán và các triều đại phong kiến khác của Trung Hoa noi theo cho đến khi chế độ quân chủ chuyên chế cáo chung.

Còn chữ tội ngày xưa viết là 辠 (trên tự dưới tân) nhưng Tần Thủy Hoàng đã bắt đổi thành 罪. Người ta kể rằng bấy giờ nhiều nho sĩ có ác cảm với bạo chúa của Tần nên thường cố ý viết Tần Thủy Hoàng thành Tần Thủy Tội vì chữ tội na ná với chữ hoàng 皇(trên bạch dưới vương). Vì vậy mà Tần Thủy Hoàng rất ghét chữ 辠. Không biết điều này có đúng hay không nhưng điều chắc chắn là do quyết định của Tần Thủy Hoàng mà chữ tội vốn viết là 辠 đã bị đổi thành 罪. Chữ này vốn có nghĩa là một thứ lưới bắt cá đan bằng tre (bộ ngư trúc võng). Nó là một hình thanh tự mà nghĩa phù là võng 罒, tự hình giống như chữ tứ 四 là bốn, nhưng thật ra chính là chữ võng 网, là lưới. Còn thanh phù của nó là chữ phi 非. Đoàn Ngọc Tài chú giải Thuyết văn giải tự của Hứa Thận đã ghi về nó như sau: “tùng võng, phi thanh” nghĩa là thuộc bộ võng, đọc là phi*. Vậy chữ tội ngày nay vốn là một chữ xưa kia đọc là phi – nói cho thật đúng với ngữ âm lịch sử, là một âm tiền thân của phi – và có nghĩa là một thứ lưới bắt cá đan bằng tre. Do quyết định độc đoán của Tần Thủy Hoàng nên nó mới có âm và có nghĩa như hiện nay.

§ 130. Kiến thức ngày nay, số 130, ngày 1 -2-1994

Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 122, Chuyện Đông chuyện Tây, có nói về vai trò của Napoléon đối với khoa Ai Cập học qua lời đánh giá của Anne Terry White. Có vẻ như là tác giả này, và tiếp theo là cả An Chi nữa, đã quá đề cao Napoléon. Tôi không dám tin đến như thế.

Học giả An Chi giải đáp: Không chỉ Anne Terry White trong Les grandes découvertes de l’ archéologie mới nói như thế về vai trò của Napoléon đối với khoa Ai Cập học. Nhiều nhà nghiên cứu về lịch sử của khoa Ai Cập học đều khẳng định như thế.

Xin chép – dịch thì đúng hơn – hiến ông lời của Serge Sauneron, tổng thư ký của Pháp quốc Đông phương khảo cổ học viện tại Cairo (Institut français d’ Archéologie Orientale du Caire) như sau:

“Nhiều quyển sách đã được dành cho cuộc viễn chinh của Bonaparte (tức Napoléon – AC) ở Ai Cập và ít có giai đoạn nào của sự nghiệp anh hùng vừa phi thường vừa vĩ đại này lại không được hàng loạt sử gia và nhà phê bình miêu tả và phân tích (…) Người ta đã biết khá đầy đủ về đoàn bác học mà Bonaparte đã kéo đi theo ông dọc đôi bờ sông Nil, nên có thể đánh giá được lòng can đảm tuyệt vời cùng với hoạt động của họ. Chắc hẳn là Viện (đã nói trên – AC) họp các phiên của nó tại Cairo, nhưng các nhà bác học thì lại đi tìm kiếm tư liệu nghiên cứu của họ ở châu thổ (sông Nil – AC), ở thượng Ai Cập, trong các hoang mạc, theo gót các hàng quân, chia sẻ đời sống bình nhật với những người lính, tận dụng những lúc quân đội dừng chân và dựng trại ngoài trời giữa hai cuộc chạm súng để đi khảo sát các bãi sa mạc và các dãy núi, vẽ những công trình cổ xưa, đo đạc chúng, miêu tả chúng. Khi quân đội lại lên đường, người ta phái một sĩ quan liên lạc đi “thu gom” các nhà bác học tản mát ở trong vùng, mặc cho công việc của họ đã xong hay chưa. Dáng sầu muộn, họ khép cặp giấy của mình lại và chạy theo đoàn quân cho đến lần dừng chân tiếp theo (…).

“Trong một thời gian hạn chế (tháng bảy 1798 – tháng chín 1802), nước Ai Cập đã được nghiên cứu về mọi phương diện: hệ động vật, hệ thực vật, địa chất, tính chất sông ngòi, giếng mỏ, địa lý của nó. Một tấm bản đồ từ vùng Assouan cho đến Địa Trung Hải đã được lập, và sau được chuyển thành một tập bản đồ gồm năm mươi mốt tờ. Cư dân đã được miêu tả, nghiên cứu cùng với y phục, các kiểu dáng ngoại hình, âm nhạc, các nghề, lối sống, các tập quán, các đơn vị đo lường, tiền tệ của họ (…).

“Cuối cùng, chính xứ sở Ai Cập đã được miêu tả, từ Nam đến Bắc, và các công trình có thể thấy được vào thời đó, dù chúng thuộc về các vị Pharaon, có đặc điểm Ki Tô giáo, Á Rập hoặc Thổ Nhĩ Kỳ, đều được nêu lên, vẽ lại và đo đạc.

“Khi vận rủi bắt buộc đạo quân viễn chinh lại trở xuống thuyền hồi tháng chín 1802 thì các nhà bác học chỉ sau một cuộc tranh chấp ác liệt (với người Anh – AC) mới bảo vệ được các tư liệu mà họ đã thu thập được. Thế là họ đã đem về theo họ bộ sách bách khoa thuộc loại đặc biệt nhất, không tiền khoáng hậu, về xứ sở Ai Cập. Sự khen ngợi tốt đẹp nhất mà người ta có thể dành cho sự nghiệp của họ là ở chỗ ghi nhận rằng ít có công trình nào liên quan đến Ai Cập cổ đại hoặc trung đại mà lại không phải dựa vào cái nguồn tư liệu vô tận đó, ở lúc này hoặc lúc khác. Là tác phẩm có hệ thống đầu tiên dành cho Ai Cập, bộ sách Description de l’ Egypte (Miêu tả Ai Cập) vẫn là một trong những bộ sách làm nền tảng cho khoa Ai Cập học”*.

Descrip tion de l’ Egypte là một bộ sách gồm 24 quyển văn bản và 12 quyển tranh phụ bản mà tác giả là Vivant Denon, một trong những học giả đã đi theo đạo quân viễn chinh của Napoléon sang Ai Cập.

Lòng dũng cảm và đức hy sinh cho khoa học của các nhà bác học ở đây là điều hiển nhiên. Nhưng nếu không có con người biết yêu thích học thuật và có tài tổ chức như Napoléon thì chắc chắn là họ đã không bao giờ có được cơ hội để hoàn thành kỳ công mà họ đã đạt được hồi cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, để trao tặng cho toàn thể nhân loại hôm nay.

§ 131. Kiến thức ngày nay, số 130, ngày 1 -2-1994

Hỏi: Trong quyển Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh (trang 21 – 22), tác giả Lê Trung Hoa đã chủ trương viết tên thành phố này như sau: thành phố Hồ Chí Minh với chữ t thường. Lý do: không viết hoa các danh từ chung đặt ở trước địa danh khi địa danh ấy dùng để gọi tên đơn vị hành chính. Cách viết này có đúng hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Xét theo từ nguyên, thành phố vốn là một danh từ chung. Nhưng trong Thành phố Hồ Chí Minh, nó lại là một thành tố không thể tách rời được của địa danh gồm có 5 tiếng (= âm tiết) này. Đồng thời, Hồ Chí Minh vẫn cứ là nhân danh (tên người) chứ đâu có phải là địa danh dùng để gọi tên đơn vị hành chính như ông Lê Trung Hoa đã khẳng định. Bởi vậy ta hoàn toàn không thể nói, chẳng hạn: “đi từ Hồ Chí Minh ra Hà Nội rồi lại từ Hà Nội trở về Hồ Chí Minh”, mà phải nói đầy đủ “đi từ Thành phố Hồ Chí Minh… trở về Thành phố Hồ Chí Minh”. Thành phố Hồ Chí Minh là một địa danh duy nhất năm âm tiết gồm có danh từ chung thành phố (mà chữ t phải được viết hoa khi danh từ chung này trở nên một thành tố của địa danh) cộng với nhân danh Hồ Chí Minh. Đây là một trường hợp chưa có tiền lệ trong tiếng Việt: lần đầu tiên người ta chính thức dùng tên người mà đặt tên cho một thành phố. Vậy tưởng nên cẩn trọng mà viết Thành phố Hồ Chí Minh với chữ t hoa (= T) chứ không phải với chữ t thường như trong “thành phố Sài Gòn” hoặc “thành phố Đà Lạt” được.

§ 132. Kiến thức ngày nay, số 130, ngày 1 -2-1994

Hỏi: Xin cho biết các đời tổng thống Mỹ từ Washington đến nay.

Học giả An Chi giải đáp: Đó là George Washington, 1789 – 1797; John Adams, 1797 – 1801; Thomas Jefferson, 1801 – 1809; James Madison, 1809 – 1817; James Monroe, 1817 – 1825; John Quincy Adams (con của John Adams), 1825 – 1829; Andrew Jackson, 1829 – 1837; Martin Van Buren, 1837 – 1841; William Harrison, 1841 (qua đời sau khi nhậm chức được một tháng); John Tyler, 1841 – 1845; James Polk, 1845 – 1849; Zachary Taylor 1849 – 1850; Millard Fillmore, 1850 – 1853; Franklin Pierce, 1853 – 1857; James Buchanan, 1857 – 1861; Abraham Lincoln, 1861 – 1865; Andrew Johnson, 1865 – 1869; Ulysses Grant, 1869 – 1877; Rutherford Hayes, 1877 – 1881; James Garfield, 1881 (qua đời trong năm này); Chester Arthur, 1881 – 1885; Stephen Cleveland, 1885 – 1889; Benj amin Harrison, 1889 – 1893; Stephen Cleveland (lại tranh cử và đắc cử), 1893 – 1897; William McKinley, 1897 – 1901; Theodore Roosevelt 1901 – 1909; William Taft, 1909 – 1913; Thomas Woodrow Wilson, 1913 – 1921; Warren Harding, 1921 – 1923; Calvin Coolidge, 1923 – 1929; Herbert Hoover, 1929 – 1933; Franklin Roosevelt, 1933 – 1945; Harry Truman, 1945 – 1953; Dwight Eisenhower, 1953 – 1961; John Kennedy, 1961 – 1963; Lyndon Johnson, 1963 – 1969; Richard Nixon, 1969 – 1974; Gerald Ford, 1974 – 1977; JImmy Carter, 1977 – 1981; Ronald Reagan, 1981 – 1989; George Bush 1989 – 1993; Bill Clinton, từ 1993 và mới trúng cử thêm một nhiệm kỳ nữa.

Trên đây là 42 đời tổng thống Hoa Kỳ với năm nhậm chức và năm mãn nhiệm. Cứ theo số năm thì sẽ tính ra người nào làm mấy nhiệm kỳ, biết rằng mỗi nhiệm kỳ là 4 năm. Xin chú ý là có người đã qua đời khi đương chức (Taylor, Harding…), bị ám sát (Lincoln, Kennedy) hoặc phải từ chức (Nixon) nên thời gian tại chức mới không đủ 4 năm (hoặc 8) năm. Trong trường hợp này, phó tổng thống sẽ lên thay thế (như Fillmore thế Taylor, Arthur thế Garfield, Truman thế F. Roosevelt, Ford thế Nixon…). Riêng F. Roosevelt đã tranh cử đến 4 lần (1932, 1936, 1940, 1944) và đều thắng cử nên đã làm tổng thống Hoa Kỳ từ 1933, cho đến năm qua đời là 1945 (Nhiệm kỳ thứ tư của ông lẽ ra năm 1949 mới chấm dứt).

Viết thêm cho lần in năm 2018. – Sau Bill Clinton (2 nhiệm kỳ) là George W. Bush (2001 – 2009), Barack Obama (2009 – 2017) và đương nhiệm là Donald Trump (từ 2017).

§ 133. Kiến thức ngày nay, số 131, Xuân Giáp Tuất 1994

Hỏi: Tại sao ngày xưa cứ đến Tết người ta thường dán hình Thần Đồ Uất Lũy trước cửa nhà? Tại sao Thần Đồ cũng gọi là Thần Trà?

Học giả An Chi giải đáp: “Thần Đồ Uất Lũy” là một cách đọc sai của Thân Thư Uất Luật (sẽ nói rõ bên dưới). Trước hết xin trả lời câu hỏi tại sao Thần Đồ cũng gọi là Thần Trà. Nhiều người đã cho rằng sở dĩ Đồ bị đọc thành Trà là do kiêng kỵ để tránh thô tục vì đồ là một tiếng lóng dùng để chỉ… của phụ nữ. Chúng tôi không nghĩ như thế. Vì nếu tránh thô tục là lý do đích thực của việc đọc trại Đồ thành Trà thì trước khi kiêng kỵ cho ông Thần Đồ của Tàu, lẽ ra người ta đã phải kiêng kỵ giùm cho các ông “đồ” Nho mà gọi họ là ông “trà” chứ có đâu vẫn cứ báng bổ mà dùng cái tiếng “đồ” để gọi họ. Thật ra, đây chẳng qua chỉ là chuyện tác đánh tộ, ngộ đánh quá mà thôi vì chữ đồ và chữ trà chỉ khác nhau có một nét. Thần Đồ bị đọc thành Thần Trà cũng cùng một lẽ với việc cao hoàn bị đọc thành dịch hoàn, như chúng tôi đã trình bày trên Kiến thức ngày nay, số 114. Vậy đó chẳng qua là do nhầm lẫn mà ra. Vả lại, tại sao để tránh thô tục, người ta không chọn tiếng nào gần âm với tiếng đồ hơn (chẳng hạn: đô, độ, đà, v.v.) mà cứ phải chọn trà?

Nhưng đọc thành Đồ cũng vẫn là sai vì chữ 荼 có hai âm: đồ và thư. Ở đây nó phải được đọc là thư, nghĩa là đọc theo âm thứ hai mà Từ hải đã cho: thúc ư thiết, âm thư. Chính là với âm này mà Từ hải, và cả Từ nguyên cùng những từ điển khác nữa, đã ghi nhận tên của vị thần đang nói. Vậy đó phải là Thần Thư chứ không phải Thần Đồ. Nhưng đọc thành Thần Thư vẫn cứ còn sai vì chữ 神 cũng có hai âm: thần và thân. Ở đây nó phải được đọc là thân, nghĩa là đọc theo âm thứ hai mà Từ hải đã cho: thi ân thiết, âm thân. Chính là với âm này mà Từ hải, và cả Từ nguyên cùng những từ điển khác, đã ghi nhận tên của vị thần nói trên. Vậy tên của vị thần đó là Thân Thư chứ không phải Thần Đồ, càng không phải là Thần Trà!

Tên của vị thần thứ hai cũng đã bị đọc sai thành Uất Luỹ. Thực ra, chữ 壘 có đến năm âm: lũy, đội, lụy, lội và luật. Ở đây nó phải được đọc là luật, nghĩa là đọc theo âm thứ năm mà Từ hải đã cho: lư truật thiết, âm luật. Chính là với âm này mà Từ hải và cả Từ nguyên cùng những từ điển khác, đã ghi nhận tên của vị thần thứ hai. Vậy tên của vị này là Uất Luật chứ không phải là Uất Lũy. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức đã ghi nhận đúng là Uất Luật (Xem quyển hạ, phần II, tr. 333).

Tóm lại, Thần Trà Uất Lũy hoặc Thần Đồ Uất Lũy cũng đều là những cách đọc sai của Thân Thư Uất Luật. Ở từng chữ riêng, Từ hải đã cho thiết âm như chúng tôi vừa dẫn. Rồi ở thành ngữ vẫn bị đọc sai thành Thần Đồ (Trà) Uất Luỹ, Từ hải lại chú thêm một cách rõ ràng: “Độc như thân thư uất luật”. Người Trung Hoa đã cố ý dùng song thanh điệp vận liên ngữ để đặt tên cho hai vị thần trên đây: Thân Thư là song thanh, tức là cái mà tiếng Việt gọi là từ láy phụ âm đầu còn Uất Luật là điệp vận, tức là cái mà tiếng Việt gọi là từ láy vần. Nhớ rằng âm Hán Việt theo rất sát âm Hán thời xưa cho nên bốn tiếng Thân Thư Uất Luật trong trạng thái cổ xưa của tiếng Hán vẫn đúng là song thanh điệp vận.

Bây giờ xin nói về sự tích của hai vị Thân Thư và Uất Luật. Theo Từ hải thì sách Độc đoán chép rằng ở giữa biển có núi Độ Sóc, trên núi có cây đào cành nhánh mọc quanh co lan ra đến ba ngàn dặm. Nơi các nhánh cành thấp bé phía Đông Bắc có cửa Ma (Quỷ môn) là nơi họ nhà ma ra vào. Hai vị thần là Thân Thư và Uất Luật ở cửa này để đảm trách việc giám sát ma quỷ. Những con ma hung dữ nguy hiểm thì sẽ bị hai vị thần bắt trói bằng dây cỏ lau mà đem cho hổ ăn. Vì vậy, khi tháng mười hai chấm dứt, người ta mới vẽ hình Thân Thư và Uất Luật rồi dùng cọng lau mà treo hai bên cửa để trừ tà ma. Thiên Lễ nghi chí trong Hậu Hán thư cũng chép rằng giữa biển Đông có núi Độ Sóc, trên núi có hai vị thần, một là Thân Thư, một là Uất Luật, lo việc theo dõi những con ma hay làm hại người. Hai vị bắt chúng rồi dùng cây lau mà trói lại để đem cho hổ ăn. Sách Kinh Sở tuế thời ký chép rằng ngày mồng một tháng Giêng, người ta vẽ hình hai vị thần mà dán hai bên cửa, bên trái là Thân Thư, bên phải là Uất Luật, tục gọi là thần giữ cửa. Nhiều sách khác cũng có chép chuyện Thân Thư Uất Luật với cá biệt một vài chỗ tiểu dị. Phong tục thông chép rằng hai vị vốn là hai anh em. Sách Ấu học chép rằng Thân Thư Uất Luật là hai vị thần ăn ma (đạm quỷ chi thần).

Tóm lại đặc điểm nổi tiếng của Thân Thư và Uất Luật là diệt trừ ma ác, do đó mà ngay từ đầu năm người ta thường vẽ hình hai vị, có khi chỉ là viết tên, mà dán hai bên cửa với hy vọng rằng tà ma sẽ không ám hại nhà mình và chuyện dữ cũng không xảy ra cho nhà mình trong suốt một năm.

§ 134. Kiến thức ngày nay, số 131, Xuân Giáp Tuất 1994

Hỏi: Tại sao trong một số tranh Phước, Lộc, Thọ, ngoài hình ông Phước, ông Lộc và ông Thọ lại còn có hình con dơi, con nai và cây tùng?

Học giả An Chi giải đáp: Sở dĩ như thế là vì cây tùng tượng trưng cho tuổi thọ, con nai tượng trưng cho lộc còn con dơi thì tượng trưng cho phúc (phước). Cây tùng tượng trưng cho sự trường thọ thì nhiều người vẫn biết. Chính vì vậy mà Mathews’ Chinese-English Dictionary đã ghi về chữ tùng là “an emblem of longevity”. Còn con nai tượng trưng cho lộc là do hiện tượng đồng âm. Con nai, tiếng Hán là lộc 鹿, đồng âm với lộc 祿 trong phúc, lộc, thọ. Cả hai chữ trên đây, tiếng Bắc Kinh đều đọc là lù (ghi theo phương án La Tinh hóa của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) còn tiếng Quảng Đông đều đọc là lục (ghi theo chữ quốc ngữ Việt Nam). Cũng do hiện tượng đồng âm mà con dơi tượng trưng cho phúc. Con dơi, tiếng Hán là phúc 蝠, đồng âm với phúc 福 trong hạnh phúc. Cả hai chữ này, tiếng Bắc Kinh đều đọc là fú và tiếng Quảng Đông đều đọc là phúc. Ở chữ phúc là con dơi, Mathews’Chinese-English Dictionary ghi là “used as an emblem of happiness, from the sound” hoàn toàn đúng như đã nói trên đây. Chữ này được đọc thành bức trong Việt-Hán thông-thoại tự-vị của Đỗ Văn Đáp, Hán-Việt từ-điển của Đào Duy Anh, Hán-Việt tự-điển của Thiều Chửu, Hán-Việt tân từ-điển của Nguyễn Quốc Hùng, v.v.. Nhưng theo Đường vận, Tập vận, Vận hội, Chính vận, v.v. thì thiết âm của nó đều là: phương lục thiết, âm phúc. Vậy nó phải được đọc thành phúc. Cách phiên âm của những quyển từ điển trên không xuất phát từ lý do ngữ học nào cả, đó chỉ là do nhầm lẫn mà ra. Xin nói kỹ thêm rằng danh từ đầy đủ chỉ con dơi trong tiếng Hán là biên phúc (bức) nhưng cũng có khi tách ra mà nói phúc (bức).

Sự sùng thượng hoặc sự kiêng kỵ bắt nguồn từ hiện tượng đồng âm là một nét độc đáo trong văn hóa dân gian Trung Hoa. Chuyện con nai và con dơi là thuộc về sự sùng thượng. Sự sùng thượng kiểu này đã được đề cập đến trong hai bài đăng trên Kiến thức ngày nay, số Xuân Quý Dậu (1993). Đó là bài “Chữ phúc dán ngược” của Trần Bình (tr. 62 – 63) và bài “Nguyên đán – xuân tiết” của Lê Huy Tiêu (tr. 76 – 77). Khi thấy chữ phúc bị lật ngược, người ta nói: phúc đảo (= chữ phúc lật ngược rồi). Nhưng phúc đảo trong tiếng Bắc Kinh lại đồng âm với phúc đáo, là phúc đến (nhà): cả hai chữ đảo và đáo đều đọc là dào. Vì vậy mà người ta thích dán ngược chữ phúc ở trước nhà để đọc thành fú dào mà hiểu là phúc đến (nhà). Đó là chuyện trong bài của Trần Bình. Sau đây là chuyện trong bài của tác giả Lê Huy Tiêu. Trong bữa tiệc cuối năm, người Trung Quốc thích ăn đậu phụ (tàu hủ) vì chữ phụ (hủ) trong tiếng Bắc Kinh là fu (đọc liền với đậu (tàu) thì do điều phối thanh điệu mà thành (dòu fu), rất gần âm với phúc mà tiếng Bắc Kinh đọc là fú. Trong bữa tiệc đó họ cũng thích dùng cá và khoai sọ (khoai môn) là vì, theo tác giả giải thích, hai món này tiếng Bắc Kinh đều gọi là “uý” (đúng ra phải là yú; có lẽ đó là lỗi ấn loát – AC), đồng âm với chữ “dư” (dư thừa). Chúng tôi muốn cải chính như sau: Chữ ngư là cá, tiếng Bắc Kinh đọc là yú, thì đúng là đồng âm với chữ dư (= thừa) vì tiếng Bắc Kinh cũng đọc chữ này là yú. Nhưng chữ vu là khoai môn, tiếng Bắc Kinh đọc là yù thì không đồng âm với dư (tiếng Bắc Kinh đọc là yú), mà lại đồng âm với chữ dụ 裕 có nghĩa là phong phú, no đủ, mà tiếng Bắc Kinh cũng đọc là yù.

Tục hái lộc đêm giao thừa (chủ yếu là ở ngoài Bắc) và tục chưng hoa mai ngày Tết (ở trong Nam) của người Việt Nam cũngcó lý do như các phong tục trên đâycủa người Trung Hoa.

§ 135. Kiến thức ngày nay, số 132, ngày 15-2-1994

Hỏi: Alexandre de Rhodes có phải là người đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ hay không? Mục đích của ông là gì?

Học giả An Chi giải đáp: Nhiều nhà nghiên cứu đã trả lời một cách khách quan và nghiêm chỉnh rằng Alexandre de Rhodes không phải là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ.

Sau đây là lời phi lộ của Việt Nam khảo cổ tập san, số 2-1961, ra mắt nhân “Tam bách chu-niên húy-nhật giáo-sĩ Đắc-Lộ” do Trương Bửu Lâm chấp bút:

“(…)Giáo-sĩ Đắc-Lộ (tức Alexandre de Rhodes – AC) thật ra không phải là ông tổ và cũng không phải là ông tổ duy nhất (Chúng tôi nhấn mạnh – AC) của chữ quốc ngữ. Trước ông, đã có nhiều người đã cố gắng tìm cách phiên âm tiếng nói của dân Việt bằng vần La Tinh và chính ông cũng đã bao lần trong những tác phẩm của ông nói đến nhiều sách vở được viết ra trước ông bằng tiếng Việt (…). Và đồng thời với giáo sĩ Đắc-Lộ, chắc chắn cũng có nhiều giáo sĩ khác quan tâm đến vấn đề phiên âm: đó là lẽ dĩ nhiên vì công cuộc phiên âm là một lợi khí rất lớn cho việc truyền giáo. Vậy thì không còn ai có thể bào chữa thuyết cho rằng giáo sĩ Đắc-Lộ là ông tổ và ông tổ duy-nhất của chữ quốc ngữ”*.

Và sau đây là lời của linh mục Đỗ Quang Chính:

“Đắc-Lộ không phải là người Âu châu đầu tiên học tiếng Việt, cũng không phải người đầu tiên sáng tác chữ quốc ngữ, hơn nữa, vào năm 1636 Đắc-Lộ cũng không phải là người ghi chữ quốc ngữ đúng được như một số Linh mục Dòng tên Bồ Đào Nha ở Việt Nam thời đó (Chúng tôi nhấn mạnh – AC). Thật ra, trong giai đoạn thành hình chữ quốc ngữ, Đắc-Lộ chỉ góp một phần trong công việc quan trọng này, mà rõ rệt nhất là soạn sách chữ quốc ngữ và cho xuất bản đầu tiên.”*

Còn sau đây là lời của Đỗ Hữu Nghiêm:

“Đắc Lộ đã tiếp thu, thừa kế, sắp đặt lại cho hoàn chỉnh tất cả các thành tựu của các nhà truyền giáo tiền phong hay đồng thời, dựa trên những trợ giúp quý giá, không thể thiếu được của các tín đồ người Việt tiếp xúc gần gũi với ông, chia sẻ chí hướng của ông (…). Thực sự công trình sáng tạo chữ quốc ngữ theo mẫu tự La Tinh là một công trình tổng hợp có tính chất tập thể quốc tế, trong đó Đắc Lộ là người đã có một vị trí cốt yếu khi sử dụng rộng rãi thứ chữ mới này trong các tác phẩm in trình bày những kiến thức sâu rộng. Các bậc thức giả như Dương Quảng Hàm, Đào Duy Anh, Nguyễn Khắc Xuyên, Thanh Lãng, Đỗ Quang Chính, Võ Long Tê đều khẳng định chữ quốc ngữ là một công cuộc chung của nhiều người.”*

Nhưng hùng hồn và đáng tin hơn cả phải là lời của chính A. de Rhodes. Giáo sĩ đã viết như sau:

“Tuy nhiên trong công cuộc này, ngoài những điều mà tôi đã học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Cô-sinh và Đông-kinh (tức Đàng Trong và Đàng Ngoài – AC), thì ngay từ đầu tôi đã học với Cha Francisco de Pina người Bồ Đào, thuộc Hội Dòng Giê-su rất nhỏ bé chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspar de Amaral và Cha Antonio Barbosa (Chúng tôi nhấn mạnh – AC), cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam (tức là từ điển Việt-Bồ – AC), ông sau bằng tiếng Bồ-đào (tức là từ điển Bồ-Việt – AC), nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La Tinh theo lệnh các Hồng y rất đáng tôn…”*

Vậy A. de Rhodes cũng chẳng phải là người châu Âu đầu tiên soạn từ điển về tiếng Việt vì trước ông đã có hai giáo sĩ Bồ Đào Nha là G. de Amaral và A. Barbosa.

Chính vì những điều trên đây mà linh mục Thanh Lãng đã khẳng định:

“Giáo sĩ Đắc Lộ không những không phải là ông tổ duy nhất của chữ quốc ngữ mà cũng không phải là một trong các ông tổ của chữ quốc ngữ”. Và “Sở dĩ Đắc Lộ về sau này được lịch sử nhắc nhở đến nhiều, có lẽ không phải vì ông đã có công kiện toàn chữ quốc ngữ cho bằng ông đã để lại hai quyển sách (tức Từ điển Việt-Bồ-La và Phép giảng tám ngày – AC) được coi như tài liệu duy nhất (có hệ thống – AC) về chữ quốc ngữ”*.

Còn mục đích của A. de Rhodes thì đã được chính ông xác định như sau:

“(…) ước gì các Ngài trở nên những người truyền bá nhiều phương ngữ, để không những các nước lân cận và quen biết từ xưa được nghe những sự kỳ diệu của Thiên Chúa mà cả mọi miền dưới bầu trời và những vương quốc rất xa xôi ở cực Đông từ nhiều thế kỷ qua chưa được nghe, thì bây giờ những nước ấy cũng phải được nghe và rao truyền danh Chúa huyền diệu biết bao trên khắp trái đất (…). Mà lại để Lời Thiên Chúa thâm nhập dễ dàng hơn tới tận cùng Hoàn cầu, nơi người Đông-kinh và Cô-sinh, tức là tất cả mọi người An Nam đang chiếm cư, thì bây giờ lòng đại lượng bao la của quý vị cũng truyền lệnh thực hiện quyển từ điển của dân tộc An Nam, một quyển từ điển giúp ích cho những người làm công tác Tông đồ được chỉ định cho phần vườn nho này của Chúa, hầu họ hiểu biết phương ngữ xa lạ của người An Nam, tức là để những mầu nhiệm Thiên Chúa được giãi bày cho người An Nam, đồng thời cũng để người An Nam vừa làm quen với chính Đức Tin Rô-ma và Tông đồ, vừa làm quen với phương ngữ Rô-ma và La-tinh. Ai mà không thấy việc đó trong tương lai có lợi là chừng nào cho công cuộc truyền bá đức tin của Chúa Ki-tô được rộng rãi và chắc chắn hơn”*.

Lời lẽ của A. de Rhodes hoàn toàn rõ ràng: Ông làm sách bằng chữ quốc ngữ là để phụng sự cho việc truyền bá đức tin Ki-tô giáo, chứ tuyệt đối không vì bất cứ lợi ích nào của người Đại Việt cả.

§ 136. Kiến thức ngày nay, số 133, ngày 1 -3-1994

Hỏi: Tôi không đồng ý với cách trả lời của mục Chuyện Đông chuyện Tây cho câu “Dân dĩ thực vi thiên”, trên Kiến thức ngày nay, số 117 (tức cách trả lời cho rằng “thiên” là ông trời). Tôi đang có bằng chứng cụ thể như sau: Trong quyển sách “Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca”, do tác giả Nguyễn Hữu Quỳ phiên âm và chú giải xuất bản năm 1971, tập I, quyển nhất, trang 31, dòng thứ 14 có giảng như sau: “Chữ thiên 天 ở đây có nghĩa là “hình dung vật gì hay sự gì cần thiết và người ta phải nhờ vả không thể thiếu được”. Thí dụ: dân dĩ thực vi thiên “người dân xem việc ăn là cần thiết nhất”. Vậy chữ “thiên” ở đây không có nghĩa là “làm trời”.

Học giả An Chi giải đáp: Cái “nghĩa” của chữ thiên mà ông dẫn ra trên đây đã được nói đến từ lâu trong một số từ điển. Từ nguyên giảng: “Phàm tất bất khả vô giả viết thiên” (Những cái nhất định không thể không có gọi là thiên). Từ hải thì giảng: “Phàm sở ngưỡng lại giả giai viết thiên” (Những cái mà người ta trông nhờ đều gọi là thiên). Cái nghĩa này của Từ nguyên và Từ hải đã được Mathews’Chinese-English Dictionary diễn đạt là “describes that which is indispensable” (diễn tả cái gì không thể thiếu được). Do đó mà câu “dân dĩ thực vi thiên” được dịch là “the people regard food as their one necessity” (dân chúng xem cái ăn là thứ thiết thân của họ). Tuy nhiên cũng quyển từ điển đó của R.H. Mathews, nơi chữ dân, lại dịch câu đang xét là “the masses regard sufficient food as their heaven” (dân chúng xem cái ăn đầy đủ là ông trời của họ).

Chính cách dịch sau của Mathews’ Chinese-English Dictionary mới là cách dịch đúng. Cần phải hiểu mệnh đề “dân dĩ thực vi thiên” gắn liền với mệnh đề đứng liền trước nó vì cả câu là “Vương giả dĩ dân vi thiên, dân dĩ thực vi thiên” (Vua chúa lấy dân làm trời (còn) dân thì lấy cái ăn làm trời). Trong cả câu, chữ thiên đã được dùng hai lần với một cái nghĩa duy nhất là ông trời, là trời. Đây là dụng ý chơi chữ của tác giả. Đối với câu đang xét thì sự biên dịch phải dừng lại ở cái nghĩa “ông trời” của chữ thiên còn cái ý “vật gì hay sự gì cần thiết và người ta phải nhờ vả không thể thiếu được” thì chỉ nên dành cho sự giảng văn mà thôi. Cũng vậy, đối với câu sau đây trong sách Nghi lễ “Phụ giả tử chi thiên; phu giả thê chi thiên dã” (Cha là ông trời của con; chồng là ông trời của vợ vậy) thì chữ thiên phải được dịch là “trời” chứ không nên dịch thành “người đáng được tôn sùng nhất” hoặc “người có quyền hành tuyệt đối”. Thử tưởng tượng xem thành ngữ “dân chi phụ mẫu” mà không dịch thành “cha mẹ của dân”, lại đi dịch thành “người có quyền sinh sát đối với dân” hoặc “người xét xử công bằng cho dân” thì còn đâu là ý nhị nữa!

Trở lại với câu đang xét, xin chép để ông tham khảo lời dịch và lời giảng trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, quyển thượng, phần II. Câu dân dĩ thực vi thiên được dịch là “dân lấy ăn làm trời” còn câu dân lấy ăn làm trời thì được giảng như sau: “Dân lấy miếng ăn làm trọng, nên muốn trị dân, trước hết phải làm cho dân no ấm, vì dân đói thì nước loạn”. Cái triết lý sâu xa của câu đang xét chính là ở đó và cái tiếng thiên nghĩa là trời này còn bao hàm ở trong nó cái ý “nước loạn hay nước yên là tùy ở dân bị đói kém hay dân được no đủ” (nó đâu chỉ diễn đạt cái ý quá tầm thường là “vật gì hay sự gì cần thiết và người ta phải nhờ vả không thể thiếu được”!). Tuy nhiên cái ý đó là dành cho nhà giảng văn còn nhà từ điển thì chỉ nên ghi nhận cái nghĩa là “trời” của tiếng thiên mà thôi.

§ 137. Kiến thức ngày nay, số 133, ngày 1 -3-1994

Hỏi: Kiến thức ngày nay, số 125 mục Chuyện Đông chuyện Tây có giải thích thành ngữ “ăn như hạm”. Tôi xin góp ý như sau. Nói “ăn như hạm” là hàm ý “ăn nhiều” “ăn khoẻ”. Ở đây, người ta hiểu theo cách thông thường “hạm” là “chiến hạm”, “tàu chiến” hay “tàu há mồm”. Chiến hạm có thể chứa nào là binh lính, vũ khí, thiết giáp, máy bay, v.v.. Người ta ví von người ăn khỏe, ăn không biết no với sức chứa của “chiến hạm” hay “hạm” là hiểu theo cách đó. Rất mong An Chi cho biết ý kiến về cách hiểu này của tôi.

Học giả An Chi giải đáp: Xin thẳng thắn khẳng định rằng đây là một cách hiểu sai.

Dictionnaire annamite-français của J. F. M. Génibrel đã ghi nhận ba từ hạm như sau:

– hạm 1. Tigre féroce, Grand tigre (…)

– hạm 2. (Tàu trận) Navire de guerre.

– hạm 3. (= Hãm) Menton.

Thành ngữ ăn như hạm đã được tác giả xếp vào từ hạm thứ nhất (có nghĩa là cọp dữ, hổ to).

Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức ghi nhận hai từ hạm như sau:

– hạm 1. Tàu chiến đóng với sắt dày.

– hạm 2. Hầm, hùm, hổ hay cọp.

Thành ngữ ăn như hạm đã được tác giả xếp vào từ hạm thứ hai (= hổ, cọp).

Vậy ăn như hạm có nghĩa là ăn như cọp. Vấn đề đã rõ ràng. Nhưng cũng xin nói thêm rằng hạm trong chiến hạm, hạm đội, hàng không mẫu hạm, v.v. chỉ mới bắt đầu thông dụng trong tiếng Việt từ sau Thế chiến II (1939 – 1945) còn thành ngữ ăn như hạm thì đã ra đời trong tiếng Việt, ít nhất cũng là trong phương ngữ Nam Bộ, tự đời nào rồi.

Từ tổ tàu há mồm, với tính cách là ẩn dụ dùng để chỉ các miệng ăn con trẻ vô tội và vô tư, cũng chỉ mới xuất hiện từ thập kỷ 50 trong phương ngữ Bắc Bộ, sớm lắm cũng chỉ là cuối thập kỷ 40, mà thôi. Nó cũng chẳng có liên quan gì về nguồn gốc với thành ngữ ăn như hạm cả.

§ 138. Kiến thức ngày nay, số 133, ngày 1 -3-1994

Hỏi: Có phải bút hiệu của nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà) bắt nguồn từ một giai thoại hay không? Xin cho biết giai thoại đó.

Học giả An Chi giải đáp: Bút hiệu của Nguyễn Khắc Hiếu không bắt nguồn từ một giai thoại nào cả. Nó chỉ phản ánh một cách sinh động và ý nhị đặc điểm của quê hương nhà thơ xét theo địa thế mà thôi, vì chính ông đã viết trong bài yết hậu “Tự thuật”:

“Ba-vì ở trước mặt,

Hắc-giang bên cạnh nhà:

Tản Đà!”

(Ba-vì là núi Tản còn Hắc-giang là sông Đà).

Tản Viên hay Tản Lĩnh là tên gọi khác của núi Ba Vì gồm ba ngọn cao mà hình tròn như cái tán (nên mới gọi là Tản = cây dù, cái lọng). Ngọn cao nhất ở giữa gọi là núi Ông, ngọn ở phía Đông gọi là núi Bà, còn ngọn thứ ba gọi là núi Chẹ thì đứng ở phía Tây soi bóng xuống dòng sông Đà. Núi Tản Viên có liên quan đến huyền thoại Sơn Tinh – Thủy Tinh mà mọi người đều biết. Đây chính là nơi đã diễn ra các cuộc đọ sức đọ tài giữa Thần Núi và Thần Nước. Thủy Tinh cho nước dâng lên thêm thì Sơn Tinh cũng đắp núi cho cao lên thêm nên chẳng bao giờ bị ngập. Cứ theo truyền thuyết thì đó chính là núi Ba Vì ngày nay mà ngọn núi Ông cao đến 1281m.

Còn sông Đà, cũng gọi là sông Bờ, thì bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) chảy qua Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Sơn Tây (cũ), Hà Đông (cũ) rồi trở lên Hưng Hóa để hợp lưu với sông Hồng mà đổ ra vịnh Bắc Bộ. Đây là một con sông hung hãn đã từng gây ra biết bao cơn lũ lụt khủng khiếp và tai hại cho người dân từ xưa đến nay. Nó chính là hiện thân của Thủy Tinh mà huyền thoại đã định đoạt cho cái số phận là phải bị Sơn Tinh chế ngự. Tình tiết này của huyền thoại đã nói lên một cách sinh động ước vọng của con người muốn thoát khỏi sự tàn phá của nạn lũ lụt.

Địa hình, địa vật và địa danh nơi quê hương của Tản Đà quả là vẫn luôn luôn phảng phất cái không khí bi tráng của huyền thoại xa xưa. Ông đã chào đời tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Sửu, tức 25-5-1889*. Bất Bạt đã trở thành huyện Ba Vì, còn làng Khê Thượng của ông nay đã được chia thành hai xã Khê Thượng và Khê Hạ để nhập vào thành phố Hà Nội. Nhưng dù địa danh và địa giới có thay đổi như thế nào thì địa thế của quê hương Tản Đà vẫn cứ là:

Tản Viên trước mặt,

Đà giang cạnh nhà.

Hồn thơ Tản Đà phải chăng một phần nào là kết tinh của địa thế hùng vĩ và thơ mộng này?

§ 139. Kiến thức ngày nay, số 133, ngày 1 – 3 – 1994

Hỏi: Trong tuồng “Bên cầu dệt lụa”, Nhuận Điền đã nói về Trần Minh: “Sanh ta ra là cha mẹ ta, hiểu ta chỉ có Trần Minh”. Có phải đây là lấy ý của câu ngày xưa Bá Nha nói về Tử Kỳ hay không? Xin cho biết nguyên văn câu đó trongtiếng Hán.

Học giả An Chi giải đáp: Chuyện Bá Nha, Tử Kỳ là chuyện tri âm, là chuyện Tử Kỳ hiểu tiếng đàn của Bá Nha. Còn đây lại là chuyện tri kỷ, nghĩa là chuyện người khác hiểu được con người của mình, liên quan đến tình bạn giữa Bào Thúc Nha và Quản Trọng. Chuyện này được Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức chép như sau:

“Bào Thúc Nha, người thời Chiến-quốc, làm bạn với Quản-Trọng rất thân; khi chưa làm quan hai người hùn vốn đi buôn. Quản-Trọng luôn luôn tìm cách chia phần lời nhiều hơn, nhưng Thúc-Nha không buồn, lại nói rằng: Quản-Trọng nhà nghèo, cần có tiền nhiều để nuôi mẹ. Khi mới ra làm quan, Quản-Trọng làm nhiều việc hư-hỏng, ai nấy đều chê, chỉ có Thúc-Nha biết tài, cho là Quản-Trọng chưa tới thời. Khi ra trận, Quản-Trọng hay lùi lại phía sau, mọi người đều cười là nhát, chỉ có Thúc-Nha bảo là Quản-Trọng còn mẹ già, cần phải giữ thân để nuôi mẹ. Khi Tề loạn, mỗi người phò một công tử trốn sang nước khác, và hẹn sau ai có chúa được làm vua, phải tiến cử bạn cùng phò chung một người. Sau công tử Bạch về nước làm vua, xưng Tề Hoàn-công. Thúc-Nha tiến cử Quản-Trọng làm tể tướng. Quản-Trọng giúp Tề Hoàn-công làm bá các chư-hầu; khi sắp chết lại không tiến cử Thúc-Nha thay mình. Vua lấy làm lạ hỏi, Quản-Trọng đáp: “Bào Thúc-Nha là bậc quân-tử chớ không phải là nhà chánh-trị; ông ưa điều thiện mà ghét điều ác, lại ghét thái quá đến không ai chịu được. Người như thế mà nắm quyền chánh, ắt hư việc nước”. Có người mách việc ấy lại cho Bào Thúc-Nha nghe. Ông cười và nói: “Chính vì thế mà trước kia ta mới hết sức tiến-cử Quản thượng-phụ cho chúa-công; thượng-phụ trung với nước mà không vì bạn, đó là không phụ công ta tiến-cử. Giả sử chúa-công phong ta chức tư-khấu để trừ gian diệt nịnh, thì ta nhận ngay. Nếu phong ta làm tể-tướng thì nhà ngươi và nội bọn còn đâu chỗ dung thân”. Kẻ ấy mắc cỡ lui ra. Bởi vậy, lúc sinh-thời, Quản-Trọng thường nói: “Sinh ta là cha mẹ ta, còn hiểu ta thì chỉ có Bào Thúc-Nha”.*

Lời nói của Quản Trọng bằng tiếng Hán vẫn thường được ghi là: “Sinh ngã giả phụ mẫu; tri ngã giả Bào Tử (Bào Tử là Bào Thúc Nha)”.

§ 140. Kiến thức ngày nay, số 134, ngày 15 – 3 – 1994

Hỏi: Mục “Tin thế giới thu qua vệ tinh” của Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, buổi phát hình tối 12-9-1993 có nói đến cộng đồng người “A-bô-ri-giơ-nôn” ở Australia. Xin cho biết người “A-bô-ri-giơ-nôn” là người gì?

Học giả An Chi giải đáp: “A-bô-ri-giơ-nôn”, tiếng Anh là aboriginal, có nghĩa là thổ dân, dân bản địa nếu là danh từ, là thuộc về thổ dân, liên quan đến thổ dân nếu là tính từ. Vậy nó đồng nghĩa với autochthon(al). Đó là một từ phái sinh bằng hậu tố al của aborigines, do tiếng La Tinh cũng là aborigines, có nghĩa là cư dân nguyên thủy của một vùng đất nhất định. Danh từ này trong tiếng La Tinh vốn được dùng để chỉ dân bản địa của xứ Latium, tức cư dân nguyên thủy của nước Ý ngày nay.

Đáng lẽ phải dịch thành “cộng đồng thổ dân” người dịch lại diễn đạt thành “cộng đồng người A-bô-ri-giơ-nơn”, có lẽ do nghĩ rằng aboriginal là tên của một sắc dân bản địa ở Australia. Tiếng Pháp có một từ tương ứng là aborigène mà có báo cũng đã dịch thành “người A-bô-ri-gien”.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3