Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 1: Câu hỏi 071 - 105

 

 

§ 71. Kiến thức ngày nay, số 112, ngày 1 -7-1993

Hỏi: Ông Tôn Thất Thuyết, chống Pháp, đã chạy qua Tàu và chết ở bên ấy. Người Tàu có viếng ông một đôi câu đối. Xin cho biết hai câu đối ấy.

Học giả An Chi giải đáp: Phong Châu đã ghi về đôi câu đối đó như sau:

“Thù Tây bất cộng đái thiên, vạn cổ anh hồn quy Tượng Quận;

Hộ giá biệt tầm tỉnh địa, thiên niên tàn cốt táng Long Châu”.

Dịch:

Thù Tây không đội trời chung, muôn thuở anh hồn về quận Tượng.

Giúp chúa riêng tìm cõi thác, ngàn năm xương nát gởi Long Châu.

Có quyển viết là phương danh quy Tượng quận và tàn cốt ký Long Châu*.

Chúng tôi cho rằng chữ thứ 11 của câu sau có lẽ phải là ký (đối với quy ở câu trước), do lấy chữ ở thành ngữ sinh ký tử quy (sống gởi thác về). Còn ở câu trước thì chúng tôi cho rằng anh hồn hợp và hay hơn là phương danh.

 

§ 72. Kiến thức ngày nay, số 112, ngày 1 -7-1993

Hỏi: Trong một số tài liệu xưa về Công giáo bằng tiếng Việt có hai tiếng vít vồ. Vậy vít vồ là gì và đâu là nguồn gốc của nó?

Học giả An Chi giải đáp: Vít-vồ có nghĩa là giám mục. Đây là một từ phiên âm. Thanh Lãng đã cho rằng dạng phiên âm này bắt nguồn từ tiếng Ý cùng nghĩa là véscovo. Còn chúng tôi thì cho rằng nó bắt nguồn ở một từ cùng nghĩa trong tiếng Bồ Đào Nha là bispo. Xin nói thêm rằng tiếng Ý véscovo, tiếng Bồ Đào Nha bispo và tiếng Pháp évêque đều bắt nguồn từ tiếng La Tinh episcopus.

 

§ 73. Kiến thức ngày nay, số 113, 7-1993

Hỏi: Do tích gì mà người Anh lại gọi chú rể (bridegroom) là người giữ ngựa (groom) của cô dâu (bride)? Có chuyện gì na ná chuyện anh hoàng tế (rể của vua) được gọi là phò mã chăng?

Học giả An Chi giải đáp: Ở đây không có chuyện gì na ná chuyện đó vì bridegroom xét theo từ nguyên vốn không phải là chú giữ ngựa của cô dâu. Hình thái cổ đại của nó là brydguma. Bryd là cô dâu còn guma là người đàn ông, người anh hùng. Vậy brudguma là bậc tu mi của nàng dâu, là đấng anh hùng của nàng. Hình thái cổ đại này đã diễn tiến một cách tự nhiên sang hình thái trung đại tảo kỳ là brudgume, rồi mạt kỳ là bridegome. Đến đây thì bắt đầu xảy ra sự cố: gome dần dần không còn được người Anh sử dụng như một hình vị độc lập nữa. Cuối cùng, ngoại trừ ở bridegome, nó đã không còn được phân bố trong cấu trúc từ pháp hoặc cú pháp nào khác. Vì không còn biết đến nó nữa nên ngay cả trong bridegome người Anh cũng không cảm nhận được rằng nó là một thành tố có nghĩa. Trong ý thức của họ, đó chỉ là bridegrome bị nói sai đi vì grome (= người giữ ngựa) mới có nghĩa còn gome thì không. Và họ đã “phục hồi” dạng bridegrome theo kiểu từ nguyên dân gian (folk etymology) đó mà không hề ngờ rằng đây chỉ là một hình thái tiếm lập (intrusive). Do grome trở thành groom – y như lome (khung cửi) thành loom, blome (hoa) thành bloom, brome (cây chổi) thành broom, v.v. nên bridegrome đã trở thành bridegroom như đang biết hiện nay.

Vậy cứ theo hình thái hiện đại mà phân tích thì bridegroom quả là anh chàng giữ ngựa của cô dâu nhưng xét theo từ nguyên thì đó chỉ có thể là người anh hùng của nàng mà thôi.

 

§ 74. Kiến thức ngày nay, số 113, 7-1993

Hỏi: Tiếng Hán có lối nói lái như tiếng Việt hay không (thí dụ nói lái “đông tây” thành “đây tông”)? Và người Trung Hoa có chơi chữ bằng lối nói lái hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Trong bài “Nói lái trong tiếng Việt”*, Lữ Huy Nguyên đã khẳng định rằng “tiếng Hán không có khả năng nói lái”. Đây là một điều sai lầm vì cấu trúc của âm tiết trong tiếng Hán, nhất là tiếng Hán cổ, đã cho nó một tiềm năng nói lái rất dồi dào. Chính tiềm năng này đã tạo ra cho âm vận học cổ điển Trung Hoa lối phiên thiết rất hữu hiệu để ghi âm chữ Hán trong các tự thư và vận thư. Phiên thiết chính là dữ kiện để nói lái. Không đi sâu vào những nguyên tắc ghi phiên thiết và đọc phiên thiết, chúng tôi chỉ xin nói rằng, nói chung, người ta chỉ cần nói lái hai tiếng (ghi bằng hai chữ) dùng để phiên thiết rồi lấy tiếng thứ nhất đã lái được: âm của tiếng này chính là âm của chữ được phiên thiết. Thí dụ chữ nhân 人 được phiên thiết thành như lân (Quảng vận, Đường vận) hoặc nhi lân (Tập vận, Vận hội, Chính vận). Nói lái thì như lân thành nhân lư, nhi lân thành nhân li. Nhân (tiếng thứ nhất đã lái được) chính là âm của chữ đang xét.

Người Trung Hoa cũng có chơi chữ bằng lối nói lái mà họ gọi là phiên ngữ. Một số nhà nghiên cứu của họ cũng đã có lưu tâm đến hiện tượng này, chẳng hạn Cố Viêm Vũ trong thiên Âm luận hoặc Lưu Phiến Toại trong Lục triều Đường đại phiên ngữ khảo, v.v.. Để dẫn chứng về lối chơi chữ này, xin nêu lên trường hợp của vua Tống Minh Đế (465 – 472) thời Nam Bắc Triều (420 – 589). Tương truyền rằng đây là một ông vua tính hay ghét người. Vì ghét Viên Xán mà tên cũ là Viên Mẫn nên ông ta đã nói lái tên của ông này thành vẫn môn. Ý muốn nói ông này vấp cửa mà té ngã (vẫn là rơi từ trên xuống; môn là cửa). Xin chú ý là ở thời đó, viên được đọc gần như vươn, mẫn gần như mỡn, vẫn gần như vỡn và môn thì đọc gần như mươn. Vậy Vươn Mỡn (nay là Viên Mẫn) nói lái thì thành vỡn mươn (nay là vẫn môn). Ông vua khó chịu đó cũng đã nói lái tên cũ của Lưu Thuyên là Lưu Thầm thành lâm thừu. Ý muốn nói rằng Lưu Thuyên rơi vào tình trạng bị thù ghét. Cũng xin chú ý rằng chữ thù (trong thù nghịch) đọc theo đúng âm Hán Việt chính thống hiện đại phải là thừu.

Vậy rõ ràng là tiếng Hán cũng có khả năng nói lái và người Trung Hoa cũng có chơi chữ bằng lối nói lái.

 

§ 75. Kiến thức ngày nay, số 113, 7-1993

Hỏi: Nước “cam lồ” là nước gì?

Học giả An Chi giải đáp: Cam lồ là âm xưa của cam lộ (So sánh lõa lồ ~ lõa lộ, lăng loàn ~ lăng loạn, mồ (mả) ~ mộ, v.v.). Theo nghĩa đen thì cam là ngọt còn lộ là sương. Người ta thường cứ theo nghĩa đen mà giảng rằng cam lộ là một thứ “sương ngọt làm mát dịu lòng người”. Nhưng lộ không chỉ có nghĩa là sương mà còn có nghĩa là thứ rượu thơm ngon (Từ hải: tửu vị phương hương giả chi xưng) như trong mai quế lộ, tường vi lộ, v.v.. Vậy cam lộ ở đây là một thứ rượu ngon ngọt.

Hai tiếng cam lộ đã được người Trung Hoa dùng để dịch tiếng Sanskrit amṛta mà nghĩa gốc là bất tử (a = phi, bất + mṛta = chết). Amṛta là hình thức tỉnh lược của amṛta-rasa có nghĩa là trường sinh tửu, bất tử lộ (amṛta = bất tử + rasa = thức uống). Trong huyền thoại Ấn Độ, amṛta là một thứ rượu có quyền năng kỳ bí được tạo ra khi các vị thần hoặc các con quỉ đánh cho biển sữa dậy lên. Tiếng Anh và tiếng Pháp phiên âm thành amrita. Vậy cam lộ, dịch từ tiếng Sanskrit amṛta, có nghĩa là rượu trường sinh. Người Trung Hoa cũng còn phiên âm từ Sanskrit này thành a mật lý đa.

Đoàn Trung Còn đã viết về cam lộ như sau: “Cũng dịch là Bất-tử tửu (Thuốc rượu uống chẳng chết), Trường-sanh tửu (Thuốc rượu uống vào sống mãi), Thiên tửu (Thuốc rượu của chư Thiên). Ấy là thứ thuốc nước ngon ngọt, thơm tho, linh diệu, để làm đồ uống của chư Thiên, chư Thần: Cam-lộ là chất thuốc Tiên, thuốc Phật, ngon ngọt và linh diệu hơn các thuốc phàm, hễ rưới lên mình ai thì người ấy dứt hết bệnh tật, dầu sắp chết cũng được sống lại.”*

Amṛta thường được so sánh với chất ambrosia (tiếng Pháp: ambroisie) là thức ăn của các vị thần trong huyền thoại Hy Lạp. Ai ăn được nó thì sẽ được trẻ, đẹp vĩnh viễn; các nữ thần còn dùng nó làm mỹ phẩm. Thần Zeus cũng dùng nó để xức những lọn tóc quăn của mình nữa. Chú ý: ambrosia là một danh từ phái sinh từ ambrotos có cấu tạo giống hệt như amṛta, nghĩa là = a (phi, bất) + mbrotos (nay là brotos = chết).

 

§ 76. Kiến thức ngày nay, số 113, 7-1993

Hỏi: Tại sao biểu tượng SEA Games XVII 1993 tổ chức tại Singapore lại là con sư tử?

Học giả An Chi giải đáp: Vì SEA Games lần này được tổ chức tại Singapore mà Singapore có nghĩa là Thành phố Sư tử. Singapore (tiếng Anh) và Singapour (tiếng Pháp) là phiên âm từ tiếng Mã Lai Singapura, vẫn được xem là bắt nguồn từ tiếng Sanskrit Siṃhapura, trong đó Siṃha là sư tử còn pura là thành phố (trong tiếng Mã Lai hiện nay singa là sư tử còn thành phố thì lại là puri).

Tuy nhiên, có người đã đưa ra một nguyên từ khác cho nguồn gốc của Singapura. Marc Reinhorn, đã cho rằng đó là tiếng Sanskrit Śṛṅgapura* nghĩa là Thành phố Mũi Đất. Tiếng Sanskrit śṛṅga có nghĩa là sừng, mũi nhọn, đỉnh, mũi đất, v.v.. Kiến giải này không phải không có lý vì Śṛṅgapura có cấu tạo và ý nghĩa giống như tên Thành phố Mũi Đất của Nam Phi mà tiếng Afrikaans (tiếng Hà Lan nói ở quốc gia Nam Phi và là một trong những ngôn ngữ chính thức của nước này) là Kaapstad còn tiếng Anh là Cape Town (Kaap = cape = mũi đất; stad = town = thành phố). Nhưng chính người Singapore lại chọn cách giải thích thứ nhất nên biểu tượng của SEA Games 1993 mới là con sư tử.

 

§ 77. Kiến thức ngày nay, số 114, ngày 15-7-1993

Hỏi: Trong bài “Đôi điều thu lượm quanh Hán tự” (Văn nghệ, số 43, 1992), Nguyễn Dậu có nói rằng Nguyễn Du đã dùng nhầm mấy tiếng lầu xanh và thanh lâu “khiến cho mấy chục triệu người Việt đều nghĩ rằng lầu xanh là nơi ổ chứa ca kỹ (gái điếm)”. Ông nói rõ rằng ở Trung Quốc, người ta không hề coi thanh lâu là ổ điếm mà lại hiểu đó là “nhà cao lầu của những người phú quý”. Vậy có đúng là Nguyễn Du đã nhầm hay không? Tác giả còn nói rằng do đọc sai mà “tất cả các nhà nho Việt Nam từ cổ đến giờ đều gọi hai cái hột của giống đực là dịch hoàn” nhưng “cả tỷ người Trung Hoa đều gọi là cao hoàn”. Có thật đúng như thế không?

Học giả An Chi giải đáp: Về hai tiếng thanh lâu, Từ hải đã giảng như sau: “1. Lầu Hưng Quang của Vũ Đế, bên trên sơn xanh, người đời gọi là thanh lâu (Vũ Đế Hưng Quang lâu, thượng thi thanh tất, thế nhân vị chi thanh lâu). 2. Chỉ lầu gác của nhà hào phú (Vị hào gia chi lâu). 3. Chỉ lầu của người đẹp ở (Vị mỹ nhân sở cư chi lâu). 4. Chỉ nơi hành nghề của gái điếm (Vị kỹ viện dã)”. Vậy Nguyễn Du đã không nhầm vì cái nghĩa do Nguyễn Dậu nêu lên chỉ là một trong bốn nghĩa của hai tiếng thanh lâu mà thôi.

Còn chuyện “hai cái hột của giống đực” thì lại hoàn toàn đúng như Nguyễn Dậu đã nêu. Đó là trường hợp “tác đánh tộ, ngộ đánh quá” vì tự dạng của chữ dịch 皐 và chữ cao 睾 rất giống nhau: chúng chỉ khác nhau ở nét phẩy 丿 phía trên bên trái của chữ 睾 mà thôi. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng đều phiên âm đúng chữ đang xét là cao và đều giảng cao hoàn là “ngoại thận = hòn dái” (Đào Duy Anh), “hòn dái” (Nguyễn Quốc Hùng), “hạt dái” (Thiều Chửu).

Trớ trêu là ngày nay hầu như không ai nói cao hoàn mà chỉ nói dịch hoàn. Hai tiếng này đã được Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên giảng là “hai hòn dái của đàn ông và của một số động vật giống đực”. Còn Từ điển tiếng Việt 1992 thì ghi: “dịch hoàn, d.x. tinh hoàn” mà tinh hoàn thì được giảng là “cơ quan sinh ra tế bào sinh dục đực”. Rõ ràng là dùng từ sai đấy nhưng chẳng biết có ai muốn sửa lại cho đúng hay không.

 

§ 78. Kiến thức ngày nay, số 114, ngày 15-7-1993

Hỏi: Trong câu:

Dù xây chín bậc phù đồ

Không bằng làm phúc cứu cho một người

thì “chín bậc” có phải là “cửu phẩm” không và “phù đồ” là gì?

Học giả An Chi giải đáp: Phù Đồ (cũng như Phật Đà, Phật Đồ) vốn là hình thức phiên âm bằng tiếng Hán (đọc theo âm Hán Việt) của tiếng Sanskrit buddha, có nghĩa là Phật. Dần dần nó bị dùng sai đi vì được xem là đồng nghĩa với danh từ tháp, dạng tắt của tháp bà, phiên âm từ tiếng Sanskrit stupa.

Sau khi phù đồ được dùng theo nghĩa của tháp thì nó lại có thêm một nghĩa phái sinh là cái chóp lộng (tán đỉnh) vì chóp lộng có hình dạng của một cái tháp tí hon. Thiên “Nghi vệ” trong KIm sử đã dùng danh từ phù đồ theo nghĩa này để ghi chép việc qui định cách thức và cấp bậc cho việc sử dụng các loại chóp lộng: kIm phù đồ (chóp lộng bằng vàng), kIm độ ngân phù đồ (chóp lộng bằng bạc mạ vàng), ngân phù đồ (chóp lộng bằng bạc), chu phù đồ (chóp lộng màu son) và thanh phù đồ (chóp lộng màu xanh).

Trong liên lục bát đã nêu, phù đồ chính là cái tháp, nghĩa là một công trình kiến trúc được xây lên để chôn xá lợi (tro xương) của Đức Phật, của các bậc cao tăng, đại đức. Chín bậc không phải là cửu phẩm (chín phẩm trật của các quan) mà là cửu trùng (= chín tầng).

 

§ 79. Kiến thức ngày nay, số 114, ngày 15-7-1993

Hỏi: Với bà Hồ Xuân Hương thì nương long có nghĩa là “ngực thiếu nữ”:

Yếm đào trễ xuống dưới nương long.

Nhưng với một nhà thơ miền Nam cận đại có hai câu lục bát tả bốn cái khoái của con người thì nương long lại là “cái hậu môn”:

Cơm Phiếu Mẫu, chiếu Trần Đoàn,

Ngửa nghiêng loan phụng, nhẹ nhàng nương long.

Xin cho biết nghĩa nào đúng, nghĩa nào sai.

Học giả An Chi giải đáp: Ta thấy về cái khoái thứ nhất, tác giả không nhắc đến miệng mà nói “cơm Phiếu Mẫu”; về cái khoái thứ hai, ông không nhắc đến hai con mắt mà nói “chiếu Trần Đoàn”; về cái khoái thứ ba, ông không nhắc đến cái… gì của nữ và của nam mà nói “ngửa nghiêng loan phụng”. Vậy về cái khoái thứ tư, lẽ nào ông lại phải nhắc đến “cửa sau”?

Nương long có nghĩa là ngực – không chỉ là ngực thiếu nữ – từ đó nó có một nghĩa rộng là khoang bụng, là dạ rồi từ nghĩa rộng này nó mới có nghĩa bóng là lòng dạ như đã giảng trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của hoặc Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức.

Trong liên thơ lục bát trên đây, nương long đã được dùng theo nghĩa rộng (khoang bụng, dạ). Khi người ta đi chảy là người ta bị tháo dạ. Khi người ta ăn không tiêu là người ta bị cứng dạ (A. de Rhodes ghi trong Từ điển Việt-Bồ-La: “Cứng dạ. Không tiêu, đầy cứng bụng”). Còn khi người ta đi một cách bình thường, không quá chặt quá khó vì bị táo bón, cũng không… té re vì bị Tào Tháo rượt, thì người ta cảm thấy nhẹ bụng, êm dạ, nghĩa là nhẹ nhàng nương long. Vậy nương long không có nghĩa là hậu môn.

 

§ 80. Kiến thức ngày nay, số 114, ngày 15-7-1993

Hỏi: Xin cho biết “mặc cảm Ê-đíp” là gì. Có phải Ê-đíp là nhân vật huyền thoại đã giết cha để lấy mẹ hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Œdipe (Ê-đíp) là một nhân vật huyền thoại Hy Lạp, đã giết cha là Laios, vua thành Thèbes (Xin phân biệt với Thèbes ở Ai Cập) – mà không biết đó là cha mình – rồi lấy mẹ là Jocaste – mà cũng không biết đó là mẹ mình – và đã có với mẹ hai con trai là Etéocle và Polynice, hai con gái là Antigone và Ismène. Khi biết ra sự việc, Jocaste đã treo cổ tự tử còn Œdipe thì móc mắt để tự trừng phạt về tội giết cha và tội loạn luân với mẹ. Do tích này mà tiếng Pháp có danh từ œdipisme có nghĩa là sự tự móc mắt.

Mượn tên và tích của Œdipe từ huyền thoại trên, ông tổ của phân tâm học là Sigmund Freud đã tạo ra thuật ngữ mặc cảm Œdipe (tiếng Pháp: complexe d’Œdipe) mà ông đã giải thích như sau: “Trong khi mà nó hãy còn hoàn toàn trẻ thơ, đứa con trai bắt đầu cảm thấy một sự trìu mến đặc biệt đối với người mẹ: nó xem mẹ như là vật sở hữu riêng của nó, thấy nơi người cha một đối thủ tranh giành với nó quyền làm chủ vật sở hữu đó; giống như đứa con gái thấy nơi người mẹ một kẻ quấy rối những quan hệ quyến luyến của nó với người cha và chiếm một vị trí mà nó, đứa con gái, muốn có được quyền độc chiếm (…) Thái độ đó (…), chúng tôi đặt cho cái tên là mặc cảm Œdipe”*.

Khi phân tích về chứng sợ (phobie) của một đứa bé trai 5 tuổi mà mọi biểu hiện đã được cha nó tường thuật một cách chu đáo cho ông, Freud cũng đã viết như sau: “Khi người ta làm dịu đi sự sợ hãi mà thằng bé cảm thấy trước người cha (…) nó đã bày tỏ cho biết nó thấy nơi người cha một đối thủ tranh giành với nó những sự ưu đãi của người mẹ mà những sự thôi thúc tính dục đầu tiên của nó được hướng tới một cách mơ hồ. Thế là nó đang lâm vào tình cảnh điển hình của đứa bé trai, tình cảnh mà chúng tôi gọi tên là mặc cảm Œdipe (…)”*.

Tóm lại, mặc cảm Œdipe là hiện tượng mà Petit Larousse illustré 1992 đã định nghĩa như sau: “Toàn bộ những tình cảm yêu thương và thù nghịch mà mỗi đứa bé cảm thấy đối với cặp cha mẹ (sự quyến luyến tính dục với người sinh thành khác giới tính và sự ganh ghét với người sinh thành cùng giới tính bị xem như là một địch thủ).

 

§ 81. Kiến thức ngày nay, số 115, ngày 1 -8-1993

Hỏi: Người ta thường nói bọn ăn chơi ngang tàng là “lục lăng cửu trối”. Vậy “lục lăng cửu trối” vốn có nghĩa gì và tại sao lại nói như thế?

Học giả An Chi giải đáp: Viết đúng chính tả thì đó là lục lăng củ trối. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng lục lăng là “đứa ngang tàng không biết phép” còn củ trối là “rễ cái lớn ở dưới sâu. Nguyên củ cái lâu nằm ở sâu, khó bấng khó đào”. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng lục lăng củ trối là “hạng trẻ cứng đầu khó dạy, khó điều khiển”.

Lục lăng là do nói trại từ Lục Lâm mà ra. Hai tiếng Lục Lâm vốn là tên một ngọn núi ở phía Đông Bắc huyện Đương Dương, miền Kinh Châu, nằm trong dãy núi Đại Hồng, tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc) ngày nay. Núi này nguyên là nơi tụ tập của những người nổi dậy chống lại chính quyền Vương Mãng vào cuối đời Tây Hán. Sử Trung Quốc ngày nay gọi đó là cuộc khởi nghĩa Lục Lâm nhưng nhà nước phong kiến Trung Hoa ngày xưa thì coi đó là giặc cho nên đã dùng hai tiếng lục lâm để chỉ những người chống chính quyền hoặc những tên bạo tặc cướp phá tài sản của dân lành. Nghĩa này đã được Mathews’ Chinese-English Dictionary ghi nhận là: “a bandit” (tên ăn cướp). Trong phương ngữ Nam Bộ, do không biết rõ xuất xứ nên nhiều người đã nói trại hai tiếng lục lâm thành lục lăng và hiểu là “đứa ngang tàng không biết phép” như đã dẫn ở bên trên.

Sau khi lục lâm bị nói trại thành lục lăng và được dùng theo nghĩa vừa nói thì nó còn được ghép với củ trối để tạo nên thành ngữ lục lăng củ trối. Ở đây, hai tiếng củ trối không còn có cái nghĩa mà Huình-Tịnh Paulus Của đã giảng nữa. Nó đã được dùng để chỉ kẻ khó bảo, khó dạy, khó làm cho thay đổi, lay chuyển, ví như củ trối là rễ cái cứng chắc và ăn sâu xuống đất nên rất khó lay chuyển để bứng để nhổ vậy.

Theo cách hiểu đã trình bàythì lục lăng là kết quả nói trại của lục lâm, được ghép với củ trối để tạo nên thành ngữ lục lăng củ trối. Cũng có thể có một cách hiểu khác. Theo cách hiểu này thì đó là kết quả của lối nói trại thành ngữ tiếng Hán lục lâm thảo khấu: lục lâm thành lục lăng còn thảo khấu (giặc cỏ) thành củ trối. Nhưng cách hiểu này thì… hơi xa.

 

§ 82. Kiến thức ngày nay, số 115, ngày 1 -8-1993

Hỏi: Tại sao lại gọi là “đồng bóng”? Có phải “đồng” là do “tiên đồng ngọc nữ” hay không? Nhưng nếu thế thì “bóng” là do đâu?

Học giả An Chi giải đáp: Đào Duy Anh đã giảng từ đồng trong đồng bóng như sau: “Người đệ tử của thần tiên trong Đạo giáo tự xưng là đồng tử của thần tiên nên người ta thường gọi là ông đồng”*. Đây chỉ là một lối giảng có tính chất suy diễn chủ quan vì đồng là một từ cổ có nghĩa là cái kiếng, cái gương. Thật vậy, A. de Rhodes đã ghi như sau: “Đồng, cái đồng: Gương, kiếng. Gương. Cùng một nghĩa. Soi đồng: Nhìn vào gương để làm phù chú. Làm đồng làm cốt: Bà phù thủy nhìn vào gương để làm phù chú. Thầy đồng: Thầy phù thủy sử dụng gương, chiếu kính”*. Cứ theo những điều trên đây, thì các ông đồng bà đồng đã được gọi bằng tên của chính cái đồ vật mà họ đã sử dụng để hành nghề. Đặc điểm của nghề đồng bóng còn được phản ánh trong thành ngữ ngồi đồng chiếu kính mà Huình-Tịnh Paulus Của đã ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị.

Khi đồng đã là cái gương, cái kiếng thì bóng tất nhiên là hình ảnh của cảnh và vật phản chiếu ở trong kiếng, trong gương. Cũng chính A. de Rhodes đã giúp cho chúng ta khẳng định điều này. Ông đã ghi: “Soi gương: Nhìn trong gương. Soi đồng. Cùng một nghĩa; cũng là phù phép mà người Lương dân ngây thơ nghĩ rằng mình có thể nhờ tấm gương để biết sự dữ nào bởi đâu sinh ra cho mình, nghĩa là bởi ma quỷ dối trá bằng những hình ảnh khác nhau trong tấm gương”. “Những hình ảnh khác nhau trong tấm gương” chính là những cái bóng.

Vậy đồng bóng là gương và hình ảnh của cảnh vật phản chiếu ở trong gương. Đó là nghĩa gốc. Còn nghĩa trong ông đồng bà đồng, lên đồng, đồng cô bóng cậu, v.v. là nghĩa phái sinh.

 

§ 83. Kiến thức ngày nay, số 115, ngày 1 -8-1993

Hỏi: Tại sao lại gọi nước Nhật là Phù Tang?

Học giả An Chi giải đáp: Phù Tang nguyên là tên một loại cây mà Thuyết văn giải tự của Hứa Thận giảng là “cây huyền thoại”, (là) “nơi mặt trời mọc vậy”. Sách Thập châu ký cũng giảng: “(Cây) phù tang ở trong biển Biếc (Bích Hải), cây mọc cao đến mấy ngàn trượng, tán xòe ra đến hơn ngàn trượng, hai thân chung một cội, cùng nương tựa nhau, (là) nơi mặt trời mọc vậy”. Vì tên của nước Nhật Bản có nghĩa là “gốc ở mặt trời” nên thời xưa người ta đã đồng nhất hóa nó với xứ sở của loại cây huyền thoại trên đây mà gọi nó là nước Phù Tang. Hán-Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng giảng hai tiếng này như sau: “Tên một loại cây thiêng, tương truyền mọc ở xứ mặt trời. Nước Nhật Bản ở phương Đông, hướng mặt trời, nên cũng gọi là Phù-Tang”.

Trong Hán ngữ hiện đại, người ta còn dùng hai tiếng Phù tang để chỉ một loại cây có thật mà tên thông dụng là mộc cẩn hoặc chu cẩn. Đó là cây dâm bụt mà người Nam Bộ gọi trại đi thành cây bông bụp, tên khoa học là Hibiscus rosa-sinensis.

 

§ 84. Kiến thức ngày nay, số 115, ngày 1 -8-1993

Hỏi: Xin cho biết xuất xứ của tên gọi thành phố Đà Lạt. Có phải là do một câu bằng tiếng La Tinh mà ra? Đó là câu gì?

Học giả An Chi giải đáp: Câu đó là Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem nghĩa là “(nó) cho những người này niềm vui thích, những người khác sự khỏe khoắn”. Nhiều người đã cho rằng địa danh Đà Lạt bắt nguồn từ câu này: ráp những chữ cái đầu – mà chúng tôi đã có ý viết hoa – của năm từ trong câu đó lại thì sẽ có dạng tiếng Pháp của địa danh đang xét: DALAT.

Sự thật thì Đà Lạt là tiếng của người thiểu số sở tại và có nghĩa là “suối Lạt”. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức ghi “Đà Lạt: nước của bộ lạc người Lạch (tức Lạt – AC)”. Tô Đình Nghĩa cũng nói rõ như sau: “Địa danh Đà Lạt hiện nay, trong các văn bản cũ ghi là Dalat, nguyên gốc là Đạlat hoặc Đalat, trong đó Đạ có nghĩa là nước, Lat là tên gọi của một tiểu nhóm thuộc dân tộc Kơho. Theo ý kiến của nhiều người dân tộc thì trước kia Đà Lạt là nơi cư trú của người Lát và ở vùng này có nhiều hồ nước, thác nước. Tên gọi Đà Lạt bắt nguồn từ đấy. Hiện nay, cách thành phố Đà Lạt khoảng 5km có xã Lát gồm nhiều đồng bào Kơho cư trú”*.

Việc Đà Lạt vốn là nơi cư trú của người Lạt là một sự thật đã được Yersin ghi nhận trong nhật ký của ông. Vấn đề còn lại chỉ là xác định xem suối Lạt là con suối nào hiện nay mà thôi. Cunhac, một người Pháp đã góp phần tạo dựng Đà Lạt cho biết đó chính là suối Cam Ly. Ông đã nói như sau: “Ở tại chỗ của cái hồ nước trước đó, con suối nhỏ của bộ lạc người Lat đã chảy qua. Người ta đã gọi suối này là “Đa-lat” (…) và không hiểu vì lý do gì mà người ta đã thay thế bằng danh xưng Việt Nam là Cam Ly”*.

Vậy Đà Lạt, tức suối Lạt, chính là suối Cam Ly hiện nay. Tên của nó đã được dùng để chỉ vùng mà nó chảy qua và sau rốt lại được dùng để gọi tên thành phố được xây dựng trên vùng đó: thành phố Đà Lạt ngày nay.

Câu tiếng La Tinh trên đây chỉ là kết quả của một sự chơi chữ bằng cách chiết tự những chữ cái trong tên của Đà Lạt viết theo chữ Pháp.

 

§ 85. Kiến thức ngày nay, số 116, ngày 15-8-1993

Hỏi: Xin giải thích về mấy tiếng “Đức mẹ đồng trinh”: đã là mẹ, sao lại còn “đồng trinh”?

Học giả An Chi giải đáp: Về việc bà Maria mang thai chúa Jesus, Kinh Thánh đã chép như sau: “Vả, sự giáng-sanh của Đức chúa Jésus-Christ đã xảy ra như vầy: Khi Ma-ri, mẹ Ngài đã hứa gả cho Giô-sép, song chưa ăn-ở cùng nhau (Chúng tôi nhấn mạnh – AC), thì người đã chịu thai bởi Đức Thánh Linh. Giô-sép, chồng người, là người có nghĩa, chẳng muốn cho người mang xấu, bèn toan đem để nhẹm. Song đang ngẫm nghĩ về việc ấy, thì thiên sứ của Chúa hiện đến cùng Giô-sép trong giấc chiêm bao, mà phán rằng: Hỡi Giô-sép, con cháu Đa-vít, ngươi chớ ngại lấy Ma-ri làm vợ, vì con mà người chịu thai đó là bởi Đức Thánh-Linh. Ngươi sẽ sanh một trai, ngươi khá đặt tên là Jésus, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội (…) Khi Giô-sép thức dậy rồi, thì làm y như lời thiên sứ của Chúa đã dặn, mà đem vợ về với mình; song le không hề ăn ở với (nghĩa là không hề ăn nằm với nhau – AC) cho đến khi người sanh một trai, thì đặt tên là Jésus”.*

Cứ theo sự tích trên đây thì bà Maria đã có thai Chúa Jesus mà không hề có quan hệ xác thịt với ông Joseph. Việc thụ thai chỉ là do phép của Đức Thánh Thần mà thôi. Vậy, cho đến khi hạ sanh Chúa Jesus, bà vẫn còn là đồng trinh. Bà được gọi là Đức Mẹ Đồng Trinh chính là vì thế.

 

§ 86. Kiến thức ngày nay, số 116, ngày 15-8-1993

Hỏi: Nhiều học giả trước đây vẫn phân tích chữ hồ 胡 gồm có cổ 古, nguyệt 月 nghe rất hay. Nay có người lại cho rằng nó gồm có cổ 古 và nhục 肉, nghe đã lạ mà lại không thanh nhã. Xin cho biết cách phân tích nào đúng?

Học giả An Chi giải đáp: Chữ hồ 胡 là một hình thanh tự mà thanh phù là chữ cổ 古 còn nghĩa phù là chữ nhục 肉 đã được viết thành 月 trong 248/253 chữ thuộc bộ nhục mà Từ hải đã ghi nhận. Tỉ lệ nầy trong Khang Hy tự điển là 654/680 vì bộ tự điển nầy đã thu thập rất nhiều chữ kể cả các kỳ tự (chữ hiếm thấy). Chữ thứ hai, thuộc bộ nhục 肉 mà Khang Hy tự điển đã ghi nhận là chữ 月. Chữ nầy được giảng như sau: “Theo Chính tự thông, chữ nhục 肉 khi đứng làm biên bàng vốn viết là 肉, thạch kinh (sách kinh điển khắc trên đá) sửa làm 月. Hai nét trong dính liền từ trái sang phải, khác với chữ nguyệt 月. Nay thường viết 月 để phân biệt” (Chính tự thông: Nhục tự biên bàng chi văn bổn tác 肉. Thạch kinh cải tác 月. Trung nhị hoạch liên tả hữu, dữ nhật nguyệt chi nguyệt 月 dị. KIm tục tác 月 dĩ biệt chi). Nói thế nhưng chính Khang Hy tự điển cũng viết chữ nhục biên bàng thành 月 trong 654 chữ đã nói, y hệt như chữ nguyệt biên bàng 月 , hoàn toàn không phân biệt tự hình. Từ nguyên, Từ hải, đều làm như thế. Đây là hiện tượng đồng hình dị tự (cùng hình khác chữ).

Trên tạp chí Văn nghệ, số 10-1962, Nguyễn Đức Bính có bài “Người Cổ Nguyệt, chuyện Xuân Hương”. Trên Kiến thức ngày nay, số 54 (Xuân Tân Mùi) cũng có bài “Vườn hoa nàng Cổ Nguyệt” trong đó tác giả nói đến tòa Cổ Nguyệt Đường của Hồ Xuân Hương. Nếu đây chỉ là chuyện chơi chữ thì đó là quyền của các tác giả. Nhưng nếu cả quyết rằng về mặt cấu tạo văn tự, chữ hồ 胡 gồm có chữ cổ 古 và chữ nguyệt 月 thì lại là hoàn toàn sai. Không có bất cứ một tự thư quen thuộc nào của Trung Hoa lại cho rằng ở trong 胡 thì 月 lại là chữ nguyệt. Tất cả đều phân tích và khẳng định rằng đó là chữ nhục.

 

§ 87. Kiến thức ngày nay, Số 117, ngày 15-8 & 2-9-1993

Hỏi: Nga my vốn được dịch là mày ngài, tại sao Nguyễn Du viết mày ngài để tả Từ Hải mà nhiều học giả lại giảng rằng đó là ngọa tàm my, nghĩa là “mày tằm nằm” chứ không phải là nga my?

Học giả An Chi giải đáp: Các học giả và các nhà nghiên cứu đó giảng như thế là vì họ cho rằng nga my là lông mày dài, cong và đẹp, không thích hợp với tướng mạo của con nhà võ như Từ Hải, nhưng nhất là vì họ đã hiểu sai nghĩa của ba tiếng ngọa tàm my.

Đào Duy Anh giảng rằng mày ngài là “lông mày rậm, tướng mạo của người trượng phu. Có lẽ theo câu “my nhược ngọa tàm” của sách tướng, có nghĩa là lông mày giống con tằm nằm”*. Nguyễn Thạch Giang chú thích như sau: “Mày ngài do các chữ ngọa tàm my: lông mày to đậm cong như con tằm, là tướng người anh hùng”*. Nguyễn Vinh Phúc viết: “Tất nhiên mày của Từ Hải không thể nào lại mảnh dẻ, cong, dài như nga my của các cô gái đẹp được. Và do đó mày ngài của Từ Hải phải hiểu là ngọa tàm my là mày như con tằm, chứ không phải là nga my”*. Còn Kiều Thu Hoạch thì viết: “Trong Truyện Kiều có hai chỗ nói về Từ Hải mà cũng dùng chữ mày ngài. Nhưng chớ lầm! Đây là cái mày ngài “sâu róm” chớ không phải cái mày ngài của nàng Trang Khương (…) đó là tác giả muốn nói mày tằm, mày tằm nằm”*.

Tiếc rằng các tác giả trên đây vì chỉ hiểu từ ngữ theo lối dịch từng tiếng một (ngọa = nằm, tàm = tằm, my = mày) nên đã giảng sai hình ảnh mà người Trung Hoa muốn gửi gắm trong ba tiếng ngọa tàm my. Ở đây, hai tiếng ngọa tàm không hề có nghĩa là “(con) tằm nằm”, mà lại là một lối nói của tướng thuật, được Từ nguyên giảng như sau: “Nhà tướng thuật gọi nếp nhăn dưới vành mắt là ngọa tàm. Lại nữa, lông mày cong mà đường nét thanh đẹp cũng gọi là ngọa tàm my” (Tướng thuật gia dĩ nhãn khuông hạ văn vi ngọa tàm. Hựu my loan nhi đái tú giả dịch xưng ngọa tàm my). Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức đã giảng đúng hai tiếng ngọa tàm là “lằn xếp dưới mí mắt”, kèm theo ví dụ trích từ Truyện Trinh thử:

To đầu vú, cả dái tai,

Dày nơi ngư-vĩ, cao nơi ngọa-tàm.

Nếu đối dịch từng tiếng một thì ngư vĩ sẽ là “đuôi cá”. Nhưng đây cũng lại là một lối nói của tướng thuật mà Từ nguyên giảng như sau: “Nhà tướng thuật gọi nếp nhăn ở khóe mắt là ngư vĩ” (Tướng thuật gia dĩ nhãn giác chi văn vi ngư vĩ). Xem thế đủ thấy lối đối dịch từng tiếng một nhiều khi tai hại biết chừng nào. Vậy ngọa tàm my không hề có nghĩa là “mày tằm nằm” mà lại là lông mày cong và có đường nét thanh đẹp. Vương Vân Ngũ đại từ điển cũng giảng như thế, rằng đó là “lông mày cong mà đẹp” (my loan nhi tú – Xem ở chữ 7370).

Các tác giả trên đây muốn gạt bỏ hai tiếng nga my nhưng ngọa tàm my lại đồng nghĩa với nga my vì cả hai cấu trúc đều có chung một nét nghĩa là “cong và đẹp”. Vậy mày ngài vẫn là nga my và đây chính là cái nét nho nhã duy nhất trong tướng mạo của Từ Hải râu hùm hàm én, đường đường một đấng anh hào, vai năm tấc rộng thân mười thước cao.

 

§ 88. Kiến thức ngày nay, số 117, ngày 15-8 & 2-9-1993

Hỏi: Có người nói “Dân dĩ thực vi Thiên” (Dân lấy ăn làm Trời). Theo tôi câu này chưa hề thấy ở sách báo. Được biết sách xưa chỉ có ghi “Dân dĩ thực vi tiên”; vậy câu nói kia đúng hay sai?

Học giả An Chi giải đáp: “Dân dĩ thực vi thiên” là một câu kinh điển. Chẳng hạn Hán thư có viết: “Vương giả dĩ dân vi thiên; dân dĩ thực vi thiên” nghĩa là “Vua chúa (thì) lấy dân làm trời (còn) dân (thì) lấy cái ăn làm trời”. Do đó mà có cụm từ dân thiên (ông trời của dân) để chỉ cái ăn của người dân. Mathews’ Chinese-English Dictionary dịch dân thiên là “food” (thức ăn) còn Dân dĩ thực vi thiên là “the masses regard sufficient food as their heaven” (dân chúng xem cái ăn đầy đủ như là ông trời của họ).

Ở phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, ngay góc đường Đinh Tiên Hoàng – Trần Quang Khải, có một tiệm ăn của người Tàu lấy hiệu là Dân Thiên 民天 . Chắc ông chủ cũng lấy ý từ câu đó! Tuy nhiên, không biết ông có muốn chơi chữ mà ngầm hiểu rằng tiệm ăn của ông ta là “ông trời của dân” hay không.

 

§ 89. Kiến thức ngày nay, số 117, ngày 15-8 & 2-9-1993

Hỏi: Có một mối tình Xuân Hương – Chiêu Hổ trong thực tế hay không? Hay chỉ có văn thơ cợt nhả với nhau mà thôi?

Học giả An Chi giải đáp: Quả là người đời có truyền tụng về một mối tình Xuân Hương – Chiêu Hổ. Chả thế mà Phong Châu lại chép: “Ông Chiêu Hổ đi làm quan lâu ngày, Xuân Hương nhớ chỗ nhân tình cũ, mới viết giấy hỏi thăm…”*. Nhưng đó chỉ là giai thoại mà thôi.

Trong thực tế thì mối tình không có đã đành mà chuyện văn thơ cợt nhả cũng không có nốt. Điều khẳng định nghiêm túc này là căn cứ vào lời kể của Siêu Văn, một người thuộc dòng họ Nguyễn Đình, là dòng họ mà có đời và có người đã từng kết thâm giao với cả Hồ Xuân Hương lẫn Phạm Đình Hổ: “Hồ Xuân Hương hơn Phạm Đình Hổ ngót hai chục tuổi, nên không thể có sự luyến ái, họa thơ giữa hai người đó được. Và trong đám cưới của cháu nội bà Đốc trấn là Nguyễn Đình Vũ lấy con gái Phạm Đình Hổ là cô Phạm Thị Huy, nữ sĩ Hồ Xuân Hương là người quen biết cả hai họ nên đã đứng lên làm chủ hôn, theo tục lệ thời đó”*. Và ở một đoạn khác: “Nữ sĩ Hồ Xuân Hương lúc đó đã ngoài bảy mươi tuổi, được mời làm chủ hôn, trải giường chiếu cho cô dâu lấy khước”.

Làm sao có thể quan niệm được rằng người tình cũ của Phạm Đình Hổ, hơn ông ngót 20 tuổi, giờ đây tuổi đã ngoài bảy mươi, lại được mời trải giường chiếu cho con gái ông được khước? Làm sao có thể quan niệm được rằng một bà lão đã có thời “chành ra ba góc da còn thiếu” mà lại được mời trải chiếu cho con gái tơ của người khác được khước khi về nhà chồng? Cho nên những câu thơ tục tĩu xưa nay vẫn truyền tụng là của bà chắc chắn không phải do bà là tác giả. Siêu Văn cũng nói rõ: “Theo cụ Nguyễn Gia Thái (1858 – 1935) người được đọc Xuân Hương thi tập do chính tay nữ sĩ chép tặng gia đình ta, thì không có những bài thơ tục tĩu mà ngày nay người ta gán ghép cho nữ sĩ”.

Đến như ông Chiêu Hổ, người mà theo truyền tụng là đã có nhiều câu đối Nôm, lắt léo, tài ba, thì chính ông lại tỏ ra xem thường chữ Nôm và tự nhận là mình kém cỏi về thứ chữ này. Sau đây là lời tự thuật của ông: “Có người đem những sách truyện Nôm và những trò thanh sắc, nghề cờ bạc, rủ rê chơi đùa, thì ta bịt tai lại không muốn nghe. Ta đã học vỡ được ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không biết hết”*. Trong khi đó thì: “Ta khi mới lên chín tuổi, đã học sách Hán thư, (…). Các sách cổ, thơ cổ ta thường xem lắm, không lúc nào rời tay”*. Khi đã cao niên, nhắc lại chuyện thuở ấu thời, Phạm Đình Hổ vẫn còn sẵn sàng gộp “những sách truyện Nôm” vào chung với “những trò thanh sắc” và “nghề cờ bạc”. Một người cả đời vẫn coi thường văn Nôm chữ Nôm đến như thế làm sao có thể là tác giả của những “văn bản” Nôm đã được truyền tụng?

 

§ 90. Kiến thức ngày nay, số 122, ngày 1-11-1993

Hỏi:

Một mai ai đứng bên kinh,

Ai phò giá triệu, ai rinh quan tài?

Bên kinh đã có con trai,

Giá triệu con gái, quan tài nàng dâu.

Bài này vẫn nghe hát ru em như vậy, có đúng nguyên văn của người xưa hay không? “Kinh” có nghĩa gì khác hơn con sông đào? Sao lại rinh quan tài? Cả bài có ý nghĩa gì?

Học giả An Chi giải đáp: Nguyên văn hai câu đầu là:

Một mai ai đứng minh tinh

Ai phò giá triệu, ai nghinh quan tài?

Minh tinh, trong Nam còn gọi là tấm triệu, là dải lụa dài ghi tên họ, tuổi tác, chức tước, ngày từ trần, v.v. của người chết, treo trên một cái giàn nhỏ có đòn khiêng, thường gọi là cái giá triệu, để khiêng đi trước quan tài khi đưa đám tang. Vậy đứng minh tinh là có tên trên tấm minh tinh, nghĩa là đã chết. Nghinh (nghênh) là đón rước. Nghinh quan tài là bưng cái bát hương đi thụt lùi phía trước quan tài để dẫn đường. Còn phò giá triệu là chống gậy tang đi bên cái giá triệu để hộ tống. Nghinh quan tài và phò giá triệu thường là bổn phận của con trai trưởng (hoặc con trai) và của cháu đích tôn (hoặc cháu nội trai). Vậy “đứng bên kinh” và “rinh quan tài” chỉ là do tam sao thất bản mà ra.

Theo chúng tôi, bài này vốn chỉ có hai câu đầu và đây là lời của người vợ không sanh nở nói với chồng: Thiếp đã không có con, nếu chàng không nghe lời khuyên của thiếp mà cưới vợ lẽ (để kiếm một vài mụn con) thì mai kia, khi chàng về với ông bà, ai sẽ là người nghinh quan tài, ai sẽ là người phò giá triệu cho chàng đây? Tiếng ai trong câu thứ nhất là một đại từ phiếm chỉ, có nghĩa của đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (vợ nói với chồng) còn hai tiếng ai trong câu thứ hai mới thực sự là đại từ nghi vấn. Câu thứ nhất nêu giả thiết cho sự việc xảy ra ở câu thứ hai. Sau khi hai câu đầu bị tam sao thất bản rồi thì chúng mới được nối bằng hai câu sau, có thể là do lối hò đối đáp mà ra. Vì hai câu đầu đã bị truyền miệng sai nên hai câu sau cũng không thể chặt chẽ và rành mạch về mặt ý nghĩa được, nhất là câu “bên kinh đã có con trai”.

 

§ 91. Kiến thức ngày nay, số 122, ngày 1-11-1993

Hỏi: Tại Thành phố Hồ Chí Minh, có một số nơi thờ cúng gọi là Chùa Ông, Chùa Bà. Nghe nói Chùa Ông thờ Quan Công còn Chùa Bà thì thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Vậy Thiên Hậu Thánh Mẫu là ai?

Học giả An Chi giải đáp: Chùa Ông mà người Quảng Đông gọi là Quán Tây miễu (Quan Đế miếu) thì thờ Quan Công còn Chùa Bà mà họ gọi là Phò miễu (Bà miếu) thì thờ bà Thiên Hậu Thánh Mẫu. Tuy nhiên, theo lời học giả Vương Hồng Sển, cũng có nơi gọi là Phò miễu (= miếu Bà) nhưng không thờ bà Thiên Hậu Thánh Mẫu, mà lại thờ bà Chúa Thai sanh, coi về sinh đẻ*.

Tương truyền bà Thiên Hậu là người huyện Bồ Điền, tỉnh Phước Kiến bên Trung Quốc. Bà sinh vào đời Tống, là con gái thứ sáu của Lâm Nguyện. Mới lọt lòng, bà đã phát hào quang rực rỡ và tỏa hương thơm kỳ lạ. Ngay khi bà hãy còn nhỏ, anh bà đi buôn đường biển, gặp gió to sóng cả nguy hiểm đến tính mạng, bà nhắm mắt định thần mà biết được rồi xuất thần đi cứu anh thoát nạn. Lúc lớn lên, bà có thể cỡi chiếu bay trên biển hoặc đằng vân mà đi ra các đảo xa. Sau khi thăng, bà thường khoác áo bào màu đỏ bay lượn trên biển. Tương truyền bà đã thăng vào năm tròn hai mươi tuổi. Vào các đời Tống, Nguyên, Minh bà đều có nhiều lần hiển hiện rất là linh thiêng. Người đi biển thường thờ bà và khấn bà để được độ cho thuận buồm xuôi gió. Theo Từ nguyên thì bà được phong là Thiên Phi vào đời Vĩnh Lạc nhà Minh, sau lại được phong Thiên Hậu, được lập đền thờ tại kinh đô. Còn Từ hải thì lại chép rằng bà được phong Thiên Phi, sau gia phong Thiên Hậu vào đời Khang Hy nhà Thanh.

Học giả Vương Hồng Sển lại chép rằng bà húy là Mi Châu, người Bồ Dương, sinh nhằm ngày 23 tháng 3 năm Giáp Thân (1044) đời Tống Nhân Tông, là con của ông Lâm Tích Khánh. Tám tuổi biết đọc. Mười một tuổi tu Phật. Mười ba tuổi thọ lãnh thiên thơ: thần Võ Y xuống cho một bộ Nguyên vi bí quyết. Ngoài ra, bà còn tìm được dưới giếng cạn một xấp cổ thư khác. Bà coi theo đó mà luyện tập rồi đắc đạo. Được phong Thiên Hậu Thánh Mẫu năm Canh Dần niên hiệu Đại Quan đời Tống tức năm 1110*.

Có thể là trong lời kể của nhiều người khác sẽ còn có những chỗ dị đồng khác nữa. Đây không phải là chuyện lạ: khi mà cuộc đời của một nhân vật đã đi vào truyền thuyết, nó có thể có những dị bản.

 

§ 92. Kiến thức ngày nay, số 122, ngày 1-11-1993

Hỏi: Hai tiếng “truy tiến” chỉ xuất hiện trên báo chí hai lần trong dịp hai Đại lão Hòa thượng liễu đạo. Tại sao không dùng truy điệu mà lại dùng truy tiến.

Học giả An Chi giải đáp: Truy điệu không có màu sắc tôn giáo, còn truy tiến là một lối nói riêng bên Phật giáo. Nó đồng nghĩa với truy phước và được Từ hải giảng như sau: “Vì người chết mà làm công đức để cho người đó được phước gọi là truy phước, cũng gọi là truy tiến” (Vị tử giả tác công đức sử kỳ hoạch phúc viết truy phúc, dịch vân truy tiến). Vì truy tiến có hàm ý cầu phước còn truy điệu thì không nên bên Phật giáo mới dùng truy tiến mà không dùng truy điệu.

 

§ 93. Kiến thức ngày nay, số 122, ngày 1-11-1993

Hỏi: Lục lễ trong việc cưới hỏi là những lễ nào?

Học giả An Chi giải đáp: Lục lễ là: nạp thái (nhà trai nhờ mối đến nhà gái tỏ ý đã kén chọn con gái nhà ấy), vấn danh (nhờ mối hỏi tên họ và ngày sanh tháng đẻ của cô gái đó), nạp cát (báo cho nhà gái biết đã bói được quẻ tốt và việc hôn nhân đã nhất định), nạp trưng hay nạp tệ (đem sính lễ đến nhà gái để làm lễ từ đường), thỉnh kỳ (xin ngày rước dâu), và thân nghinh (rước dâu).

 

§ 94. Kiến thức ngày nay, số 122, ngày 1-11-1993

Hỏi: Tam quân là những quân nào? Có đồng nghĩa với ba quân hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Tam quân cũng chính là ba quân và có các nghĩa sau đây: – a. Chỉ tả quân, trung quân và hữu quân; – b. Theo chế độ nhà Châu (Chu), một quân có 12.500 người. Vậy ba quân (tam quân) có 12.500 x 3 = 37.500 người; – c. Chỉ quân sĩ nói chung; -d. Chỉ tiền quân, trung quân và hậu quân. Nghĩa sau cùng ít thấy ở từ điển của người Trung Hoa nhưng lại thấy ở từ điển của người Việt Nam, chẳng hạn Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng hoặc Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên.

 

§ 95. Kiến thức ngày nay, số 122, ngày 1-11-1993

Hỏi: Có phải hoàng đế Nã Phá Luân đã nói câu “Ta đã đến, ta đã thấy, ta đã thắng” hay không? Ông đã nói câu này trong trường hợp nào?

Học giả An Chi giải đáp: Người đã nói câu này không phải là Napoléon I (Nã Phá Luân). Đó là Julius Cæsar (tiếng Pháp: Jules Cæsar), quan chấp chính và quan độc tài La Mã cổ đại (100 – 44 tr. CN). Cæsar đã nói câu đó sau khi đánh tan quân của Pharnacae II, vua xứ Bosphore vùng CrImée.

Bosphore là một vương quốc Hy Lạp thành lập từ thế kỷ V tr. CN, đến năm 63 tr. CN thì bị La Mã bảo hộ. Chiến thắng đó của Cæsar diễn ra sau khi ông đã đánh bại quân Ai Cập và chiếm đoạt vợ của vua Ptolemaeus XV là Cleopatra (tiếng Pháp: Cléopâtre) rồi đem nàng đi theo trong một cuộc du ngoạn trên sông Nil kéo dài đến hai tháng. Khi biết được tin Pharnacae II muốn cởi bỏ ách bảo hộ của La Mã, Cæsar đã làm một cuộc hành quân chớp nhoáng. Ông rời Ai Cập, vượt biển đến Antiochia (trên đất Thổ Nhĩ Kỳ), chỉnh đốn lại đạo quân nhỏ của mình rồi lấy một quân đoàn của Deiotaros, vượt qua Tarsus (cũng trên đất Thổ Nhĩ Kỳ), đi xuyên suốt vùng cao nguyên Anatolia và bất ngờ cắm trại ngay trước chiến tuyến của Pharnacae II. Vì quyết quét sạch quân La Mã nên Pharnacae II đã cho đoàn chiến xa của mình đánh xung kích nhưng quân đoàn của Cæsar chiến đấu rất gan dạ nên đã đánh tan quân của Pharnacae II.

Cæsar đã thông báo cho Viện nguyên lão biết chiến thắng chớp nhoáng này của mình bằng câu “Veni, vidi, vici” nghĩa là “Ta đã đến, ta đã thấy, ta đã thắng”. Đó là vào ngày 2 tháng 8 năm 47 tr. CN.

Vậy câu nói trên đây không phải là của Napoléon. Tuy nhiên, vị hoàng đế này của nước Pháp cũng có một câu nói nổi tiếng trong khi chỉ huy một chiến dịch ở nước ngoài. Bấy giờ, ông chưa là hoàng đế. Ủy ban Đốc chính (Directoire) muốn tống khứ Napoléon nên đã trao cho ông quyền chỉ huy một đạo quân viễn chinh sang Ai Cập (1798 – 1799). Trên xứ sở của các vị pha-ra-ông, Napoléon đã nói với quân sĩ: “Du hautde ces pyramides, quarante siècles vous contemplent” nghĩa là “Từ trên đỉnh các kIm tự tháp này, bốn mươi thế kỷ đang chiêm ngưỡng các ngươi”.

Liên quan đến các kIm tự tháp và các vị pha-ra-ông, xin cung cấp thêm nhận định lý thú và hoàn toàn xác đáng về Napoléon của Anne Terry White: “Ngay từ trước cuộc xuất phát đi Ai Cập, ông đã định xong các kế hoạch nghiên cứu khảo cổ học về xứ sở này và đã tập hợp được một ê-kíp các nhà bác học đi theo đoàn quân của mình. Nhờ ông mà khoa Ai Cập học sắp sửa ra đời”*.

 

§ 96. Kiến thức ngày nay, số 122, ngày 1-11-1993

Hỏi: Từ “giá” trong chữ Hán nghĩa là lấy chồng (xuất giá, tái giá), tại sao người Nam mình lại nói người ở góa (chết chồng) là “giá”?

Học giả An Chi giải đáp: Sở dĩ bạn đã nghe ra như thế là vì người Nam phát âm các âm d, gi và v như nhau. Thực ra người phụ nữ góa chồng trong Nam gọi là đàn bà vá. Từ vá đã được Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng như sau: “Lẻ-loi, không vào bọn với ai cả: Con hát vá – độc thân, một mình, không có vợ hoặc chồng hay cặp vợ chồng chưa có con: Còn son-vá. Cũng gọi góa hoặc hóa, chết chồng hay chết vợ: đàn bà vá, anh vá vợ”.

 

§ 97. Kiến thức ngày nay, số 122, ngày 1-11-1993

Hỏi: Có phải thi hào Tagore của Ấn Độ cũng còn là một nhà hoạt động tôn giáo nổi tiếng hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Chúng tôi không được biết về hoạt động tôn giáo của văn hào Tagore. Tagore văn hào là Rabindranāth, sanh tại Calcutta năm 1861, mất tại Sāntiniketan năm 1941, được giải Nobel năm 1913. Có thể đó là Debendranath Tagore, cha của Rabindranāth. Debendranāth Tagore (1818 – 1905) là một nhà cải cách Ấn giáo. Năm 1841, ông đã gia nhập Hội Bà La Môn (Brāhmasamāj) do Rām Mohun Roy sáng lập tại Calcutta năm 1828 rồi trở thành một trong những người lãnh đạo của tổ chức này. Ông chủ trương quay trở về với hình thái nguyên thủy của đạo Bà La Môn mà lý thuyết cổ xưa đã được trình bày trong kinh Veda và trong Upanishad. Vì vậy mà đến năm 1865 thì đã xảy ra chia rẽ và tổ chức mới do Debendranāth lãnh đạo được đặt tên là Adi Brāhmasamāj nghĩa là Hội Bà La Môn nguyên thủy. Trong suốt 30 năm cuối của đời mình Dabendranāth đã trở thành một tu sĩ ẩn cư.

 

§ 98. Kiến thức ngày nay, số 122, ngày 1-11-1993

Hỏi: Một nắng hai sương: tại sao có một nắng mà tới hai sương?

Học giả An Chi giải đáp: Thành ngữ một nắng hai sương nói về công việc cần cù, khó nhọc của người nông dân trên đồng ruộng, phải dãi nắng dầm sương từ sáng sớm đến chiều tối, có khi đến tối mịt. Sương buổi sáng là một, sương buổi chiều là hai. Giữa sương sáng và sương chiều chỉ có một nắng. Vì vậy mới nói một nắng hai sương.

 

§ 99. Kiến thức ngày nay, số 123, ngày 15-11 -1993

Hỏi: Trước năm 1975, miền Nam gọi thủ đô Xơ-un của Hàn Quốc là Hán Thành. Lúc Thế vận hội 1988 tổ chức ở Xơ-un, các phương tiện truyền thông đại chúng của nước ta đều gọi con sông chảy qua thành phố này là sông Hàn. Nhưng ở quê tôi, một vài vị cao tuổi lại bảo là sông Hán. Vậy Hàn giang đúng hay Hán giang đúng? Giữa hai tên này với Hán Thành và nước Đại Hàn có liên quan gì đến nhau không? Tên con sông này tiếng Triều Tiên đọc như thế nào?

Học giả An Chi giải đáp: Con sông chảy qua thủ đô Seoul của Hàn Quốc không phải là “Hàn giang” mà là Hán giang, tiếng Triều Tiên là Hānkang. Sông này dài 514km, bắt nguồn từ núi Ōtay (Ngũ Đài) thuộc dãy Thaypayk (Thái Bạch) và đổ ra vịnh Kanghwa (Giang Hoa). Do có sông Hán chảy qua mà thành phố đang nói mới được gọi là Hán Thành, tiếng Triều Tiên là Hānseng, nghĩa là thành trên sông Hán. Hán Thành còn có một tên nữa là Kinh Thành, tiếng Triều Tiên là Kyengseng, nghĩa là thủ đô của vương quốc. Kyengseng là một từ Triều Tiên gốc Hán. Đồng nghĩa với nó còn có một từ Triều Tiên khác nữa là sewul, vừa có nghĩa là kinh thành (của vua), vừa có nghĩa rộng là thủ đô (nói chung). Người Triều Tiên đã sử dụng nghĩa thứ nhứt của nó mà gọi Kinh Thành, tức Hán Thành, là Sewul. Đây là tên chính thức của thủ đô Hàn Quốc. Nó đã được phiên âm sang tiếng Pháp là Séoul và tiếng Anh là Seoul.

Còn Hàn trong Đại Hàn thì không liên quan gì đến Hán trong Hán giang cả. Tuy đều là những từ Triều Tiên gốc Hán nhưng Hàn và Hán là hai từ riêng biệt và được viết bằng hai chữ Hán hoàn toàn khác nhau.

Hình thức phiên âm La Tinh ở đây đã được chúng tôi ghi theo New Korean-English Dictionary của Samuel E. Martin, Yang Ha Lee và Sung-Un Chang. Vậy xin đừng lấy làm lạ khi thấy sách khác ghi Kyengseng thành Kyongsong hoặc Ōtay thành Otae, v.v..

 

§ 100. Kiến thức ngày nay, số 123, ngày 15-11 -1993

Hỏi: Vì sao lại gọi là đèo Ba Dội? Dội là gì?

Học giả An Chi giải đáp: Dội có nghĩa là đợt, bận, lần, lượt. Dictionnaire annamite-français của J.F.M. Génibrel ghi như sau: “Dội (…) Numéral. Kêu hai ba dội: appeler deux ou trois fois; đi vài ba dội: faire deux ou trois fois le trajet; tin đi hai ba dội: annoncer à plusieurs reprises”. Cứ như trên, thì rõ ràng Ba Dội là dịch nghĩa từ Tam Điệp (hoặc ngược lại).

Chứng thực là lời giảng sau đây trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức: “Ba Dội. Cũng gọi Tam-điệp, tên một cái đèo ở giáp giới hai tỉnh Thanh-hóa (Trung Việt) và Ninh-bình (Bắc Việt)”. Và: “Tam-điệp. Tục gọi đèo Ba Dội, dãy núi dài chia thành ba đợt: 1. ở phía bắc Thanh-hóa, 2. ngọn cao nhất chia địa-giới hai tỉnh Thanh-hóa và Ninh-bình, 3. trong địa phận tỉnh Ninh-bình; cả ba chắn ngang đường cái quan Bắc-Nam”.

 

§ 101. Kiến thức ngày nay, số 123, ngày 15-11 -1993

Hỏi: Xin giải thích câu:

Sinh con rồi mới sinh cha

Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông.

Học giả An Chi giải đáp: Tác giả Nguyễn Lân, trong Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (Hà Nội, 1989), đã ghi về câu đó như sau: “Lời kể theo một câu chuyện truyền thuyết về luân hồi”. Chúng tôi không nghĩ như thế mà cho rằng ở đây đã có một sự chơi chữ bằng cách đánh tráo khái niệm. Sinh trong “sinh con”, “sinh cháu” thì mới đúng là “đẻ”, còn sinh trong “sinh cha”, “sinh ông” thì chỉ là “tạo ra cương vị (cho một người nào đó)” mà thôi. Hiểu như thế thì sẽ thấy câu mà bạn thắc mắc thực ra chẳng có gì bất thường. Một người đàn ông không thể trở thành cha nếu chưa có con, cũng như không thể trở thành ông nếu con mình chưa có con. Vậy sự ra đời của một đứa con là điều kiện tiên quyết để một người đàn ông được làm cha cũng như sự ra đời của một đứa cháu là điều kiện tiên quyết để một người đàn ông được làm ông. Liên lục bát đó rõ ràng chẳng có gì nghịch lý cả.

 

§ 102. Kiến thức ngày nay, số 123, ngày 15-11 -1993

Hỏi: Tôi thường nghe nói “Hợp chủng quốc” nhưng sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 (Nhà xuất bản Giáo dục, 1991), trang 68 thì lại viết: “Hợp Chúng Quốc Châu Mỹ”. Vậy gọi thế nào cho đúng? Xin hỏi thêm: “chung cư” và “chúng cư” có giống nhau không? Tại sao?

Học giả An Chi giải đáp: Gọi cho đúng thì phải là Hợp chúng quốc, dịch từ tiếng Anh United States. Hợp chúng quốc châu Mỹ là i. Đây là tên chính thức và đầy đủ của nước Mỹ tức Hoa Kỳ. United là “hợp”, còn States là “chúng quốc”. Chúng là một hình vị tiếng Hán, có nghĩa là đông, nhiều, như có thể thấy trong chúng dân, chúng nhân, chúng khẩu, chúng sinh, quần chúng, đại chúng, công chúng, xuất chúng, v.v.. Vậy chúng quốc có nghĩa là nhiều nước (Hợp chúng quốc châu Mỹ hiện nay có 50 “nước”, tức “state”, mà tiếng Việt gọi là bang). Do không rõ nguồn gốc và ý nghĩa của hình vị đang xét, lại thấy hoặc nghe nói Hoa Kỳ là một quốc gia có nhiều sắc tộc từ các nước, các châu đến sinh cơ lập nghiệp nên một số người mới biến Hợp chúng quốc thành “Hợp chủng quốc”, nghĩ rằng chủng có nghĩa là giống người, là chủng tộc. Nhưng tên United States hoàn toàn không nhắc đến chủng tộc.

Trong khẩu ngữ hiện nay, chung cư đồng nghĩa với chúng cư vì đó chỉ là chúng cư bị nói sai đi. Chúng trong chúng cư cũng chính là chúng trong Hợp chúng quốc. Chúng cư là một tập hợp của nhiều căn nhà, căn hộ có kiến trúc và thiết kế giống nhau, tạo thành một quần thể thống nhất, xây dựng trên một khu vực nhất định. Cũng do không biết nguồn gốc và ý nghĩa của hình vị chúng, lại thấy chúng cư là nơi nhiều người, nhiều gia đình thuộc nhiều gốc gác, dòng họ khác nhau đến “cùng chung sống” nên người ta mới nói sai “chúng cư” thành “chung cư”.

Lối nói sai như hai trường hợp trên, ngữ học gọi là từ nguyên dân gian. Cũng xin nói thêm cho rõ là hiện nay giữa Hợp chúng quốc và Hợp chủng quốc thì hình thức trước vẫn còn được đa số nhận thức là hình thức chuẩn và chính xác – cho nên sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 mới ghi đúng như thế – nhưng giữa chúng cư và chung cư thì hình thức sau đang có xu hướng thắng thế mặc dù một số sách báo vẫn còn muốn hướng nó quay trở về hình thức chuẩn và nguyên thủy là chúng cư.

Viết thêm cho lần in năm 2018. – Sau khi tra cứu thật kỹ lưỡng, chúng tôi xin khẳng địng rằng chẳng những Hán ngữ không có hai từ “chung cư”, mà cũng chẳng có hai từ “chúng cư”. Vậy chung cư là lối nói do người Miền Nam đặt ra theo nhu cầu riêng mà không cần đến từ vựng của tiếng Hán. Dĩ nhiên là nếu có vị thức giả nào nêu được chứng cứ bằng chữ Hán của hai tiếng “chúng cư” thì chúng tôi rất cảm ơn và cám ơn.

 

§ 103. Kiến thức ngày nay, số 123, ngày 15-11 -1993

Hỏi: Có người nói tên thật của vua cuối cùng đời Thương ở Trung Quốc không phải là Trụ. Vậy Trụ là gì và tên thật của Trụ là gì?

Học giả An Chi giải đáp: Trụ là tên do người đời đặt để gọi ông vua cuối cùng của nhà Thương (cũng gọi là nhà Ân). Về tiếng Trụ, Từ nguyên đã giảng như sau: “Theo phép đặt tên thụy, phàm kẻ tàn nhẫn phụ nghĩa thì gọi là trụ. Vua nhà Ân là Tân, nướng đốt người trung nghĩa tài giỏi, mổ bụng phụ nữ có thai cho nên thiên hạ gọi là Trụ” (Thụy pháp tàn nhẫn tổn nghĩa viết trụ. Ân đế Tân phần chá trung lương, khô thích dựng phụ, cố thiên hạ vị chi Trụ).

Tên thật của Trụ là Tân. Sử ký, Ân bản kỷ chép: “Vua Ất băng, con là Tân lên ngôi, thiên hạ gọi là Trụ”. Tân là tên đặt theo thập can. Đây là thể chế đời Ân quy định việc lấy ngày đặt tên. Nguyên thập can (giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý) là hệ thống tên ngày của đời Ân (đó là tên của mười ngày trong tuần vì một tuần xưa có mười ngày, còn thập nhị chi là tên của mười hai giờ trong một ngày-đêm). Nhìn vào phả hệ nhà Ân thì sẽ thấy đúng như thế. Con của Tân là Canh, cha của Tân là Ất, cha của Ất (ông nội của Tân) là Đinh, v.v.. Đó đều là tên lấy trong thập can.

Sau đây là lời giải đáp về cách đặt tên trên: “Tại sao kẻ sáng lập ra thời đại có sử trước hết lại phải lấy ngày đặt tên? Sự thăm dò khí hậu nhất định rất quan trọng đối với sinh hoạt của người chăn nuôi (ở thời nhà Ân – AC), nhất là những ngày mưa gió đối với bầy súc vật; trong bốc từ còn giữ lại những lời bói toán về tai nạn gió mưa, để đoán lành dữ, họa phúc. Đồng thời, khí hậu tự nhiên có tính chất thời tiết cũng rất quan trọng đối với việc trồng trọt sản xuất, đối với việc vua chinh chiến, đối với việc bản tộc sinh sôi nảy nở ra nhiều. Cho nên việc tiền nhân nhà Ân lấy ngày đặt tên phản ánh sự nắm vững hoàn cảnh tự nhiên biến hóa, đặc biệt là nắm vững quan niệm thời gian”*.

 

§ 104. Kiến thức ngày nay, số 123, ngày 15-11 -1993

Hỏi: Tại sao lại gọi Hoa Kỳ là Chú Sam?

Học giả An Chi giải đáp: Chú Sam là dịch từ tiếng Anh Uncle Sam. Cụm từ này đã được Petit Larousse Illustré 1992 giảng là “hình thức nhân cách hóa mỉa mai của Hiệp chúng quốc (= Mỹ – AC) mà tên gọi được lấy từ các chữ U.S.Am (Unites States ofAmerica)”. Chữ U đã được diễn đạt thành Uncle = (chú) còn chữ S được ghép với Am mà đọc thành Sam.

Chúng tôi cho rằng trên đây là một cách giải thích khiên cưỡng. Người Mỹ chỉ viết tắt United States of America thành U.S.A. hoặc bỏ A. (= America) mà viết thành U.S. Nhưng “U.S.Am” thì lại là một hình thức dị thường. Liên quan đến hai chữ cái a và m, tiếng Anh chỉ có các dạng tắt quen thuộc sau đây: – AM là amplitude modulation (điều biến biên độ)一 A.M. (do tiếng La Tinh Artium Magister) là Master of Arts (Cử nhân Văn chương); – A.M., cũng viết a.m., do tiếng La Tinh anti meridiem nghĩa là ngọ tiền (= trước 12 giờ trưa); – Am., trong ngữ học là American (tiếng Mỹ). Chúng tôi chưa thấy trường hợp nào mà Am lại là dạng tắt của America (= châu Mỹ).

Eric Partridge đã khẳng định trong Origins (Routledge & Kegan Paul, London, 1961) rằng Sam là dạng tắt của Samuel. Chúng tôi cho rằng đây là một điều khẳng định xác đáng. Partridge cho biết tiếp rằng Sam xuất hiện những lần đầu tiên là trong hai cụm từ Sam Browne belt và Uncle Sam. Sam Browne belt (tức Samuel Browne belt) là thắt lưng (dây nịt) của Samuel Browne, rồi thắt lưng theo kiểu (thắt lưng) của Sam(uel) Browne. Ngày nay, người ta chỉ nói Sam Browne để chỉ thắt lưng và đai của sĩ quan. Còn Uncle Sam là cụm từ mà dân một địa phương ở Hoa Kỳđã dùng để gọi một viên thanh tra thịt súc vật tên là Samuel Wilson, đương chức khoảng thập kỷ 1810. Ông này chuyên môn đóng con dấu có các chữ “U.S. – E.A” vào các súc thịt nguyên con (chưa sả). E.A. là Elbert Anderson, tên của người cung cấp thịt theo hợp đồng lúc bấy giờ. Còn U.S. đương nhiên là United States (= Hoa Kỳ). Nhưng rõ ràng U.S. cũng còn là hai chữ đầu của Uncle Sam. Chính vì vậy mà dân chúng ở đó đã đồng nhất hóa U.S. = United States với U.S. = Uncle Sam mà gọi đùa Hoa Kỳ là Chú Sam vì Uncle Sam, tức Samuel Wilson, nắm con dấu có hai chữ U.S. thì cũng được coi như “đại diện” ngon lành cho United States tức Hoa Kỳ, mặc dù đó chỉ là con dấu để đóng vào thịt súc vật mà thôi.

Webster’s New International Dictionary cũng giải thích tương tự như E. Partridge. Rõ ràng là trong trường hợp này Origins hợp lý và đáng tin hơn Larousse.

 

§ 105. Kiến thức ngày nay, số 124, ngày 20-11 -1993

Hỏi: Lịch sử văn minh Trung Quốc của Will Durant do học giả Nguyễn Hiến Lê dịch (Trung tâm thông tin Đại học sư phạm/Thành phố Hồ Chí Minh, 1990) trang 32, có chép rằng Trụ vương là một ông vua đã chế tạo ra quản bút. Dịch giả có ghi nơi cước chú như sau: “Bản tiếng Pháp: inventeur des bâtonnets (người chế tạo ra những gậy nhỏ). Tôi đoán là quản bút”. Vậy có đúng “bâtonnet” là quản bút và vua Trụ đã sáng chế ra quản bút như Nguyễn Hiến Lê đã đoán hay không?

Học giả An Chi giải đáp: Bâtonnet ở đây đồng nghĩa với baguette và có nghĩa là đũa (để gắp thức ăn). Đũa, tiếng Hán gọi là trợ, giáp hoặc khoái. Ở chữ trợ, Từ hải đã ghi như sau: “Sử ký, Thập nhị chư hầu niên biểu: Trụ vi tượng trợ nhi Cơ Tử hy” nghĩa là “Niên biểu mười hai chư hầu trong Sử ký chép: Trụ làm đũa ngà mà Cơ Tử nghẹn ngào” (Cơ Tử là thái sư nhà Thương, thấy Trụ vô đạo nên đã nhiều lần can gián mà không được). Vậy nếu có xứng đáng được gọi là người sáng chế, thì Trụ chỉ chế ra đũa chứ không phải quản bút. Một ông vua hoang dâm và bạo ngược thì chế ra quản bút để làm gì!

Nhưng chúng tôi cho rằng Trụ cũng không phải là người đã chế ra đũa. Chẳng qua ông ta đã bắt thợ làm đũa ngà để tổ chức yến tiệc linh đình, khiến cho thái sư Cơ Tử phải nghẹn ngào, uất ức mà thôi. Vậy trước Trụ, người Trung Hoa cũng đã dùng đũa rồi.

Để biện bạch cho cách dịch của mình, Nguyễn Hiến Lê đã viết: “Mới đầu người Trung Hoa dùng dao khắc chữ lên thẻ tre, tới đời Thương dùng những cái que có đầu nhọn chấm vào một thứ sơn viết lên thẻ tre – tức như quản bút, sau tới đời Tần mới dùng những cành trúc đầu cắm lông để nhúng vào sơn viết lên lụa”*. Lời biện luận này không có căn cứ vì ở đời nhà Thương chỉ mới có giáp cốt văn là chữ khắc trên yếm rùa, xương thú và kIm văn là chữ minh văn trên đồ đồng, còn thẻ tre (trúc giản) thì đến đời Hán mới có.

Vả lại, nếu bâtonnet thật sự có nghĩa là quản bút thì dịch giả bản tiếng Pháp đã viết inventeur du bâtonnet, nghĩa là đã dùng bâtonnet ở số đơn (singulier) chứ không phải ở số nhiều (pluriel) như đã thấy. Điều này chứng tỏ rằng đây là đũa: vì đũa thì có đôi nên danh từ hữu quan mới được dùng ở số nhiều là bâtonnets. Thật ra ở trên chỉ là biện luận cho có lý có lẽ, chứ bâtonnet không bao giờ có nghĩa là “quản bút” cả.

 

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3