Thiên đường bình yên - Chương 30 - 31

30

Tháng Tám, Boston oi
ả ngột ngạt.

Kevin nhớ mang máng
là đã thấy xe cấp cứu bên ngoài nhà Feldman, nhưng hắn không nghĩ nhiều về điều
đó, nhà Feldman là hàng xóm tồi nên hắn chẳng việc gì phải bận tâm tới họ. Mãi
tới giờ hắn mới nhận ra Gladys Feldman đã chết và ô tô đậu kín dọc hai bên
đường. Kevin bị đình chỉ công tác hai tuần rồi và hắn không thích xe pháo đỗ
trước nhà mình, nhưng mọi người đã vào thị trấn dự đám tang còn hắn thì không
đủ sức bảo họ đỗ xe ra chỗ khác.

Từ khi bị đình chỉ
hắn hiếm khi ló mặt ra, giờ hắn ngồi trên thềm, tu chai rượu ừng ực, quan
sát kẻ ra người vào nhà Feldman. Hắn biết đám tang chiều muộn mới được cử
hành, mọi người tới nhà Feldman để đi đưa tang cùng nhóm. Cứ có đám tang là
người ta lại túm tụm cả đám lại với nhau như thế.

Hắn không nói chuyện với Bill,
Coffey, Ramirez, Todd hay Amber, thậm chí cả bố mẹ hắn. Không có hộp pizza nào
trên sàn phòng khách và không có món Tàu còn thừa nào trong tủ lạnh vì hắn
không đói. Vodka là đủ và hắn uống cho tới khi ngôi nhà của nhà Feldman trở nên
nhòe nhoẹt đi. Bên kia đường, hắn thấy một người phụ nữ đi ra khỏi nhà họ để
hút thuốc. Cô ta mặc váy đen và Kevin tự hỏi không biết cô ta có biết ông bà
Feldman hay quát mắng trẻ con trong khu không.

Hắn quan sát cô ta vì hắn không
muốn nhìn quanh nhà hay xem kênh làm vườn đang chiếu trên ti vi. Trước đây Erin
hay xem kênh đó nhưng cô đã bỏ trốn tới Philadelphia và lấy tên là Erica rồi
biệt tích còn hắn thì bị đình chỉ công tác dù trước đó hắn là một cảnh sát điều
tra giỏi.

Người phụ nữ mặc váy đen hút xong
điếu thuốc thì vứt xuống cỏ rồi di chân lên. Cô ta quét mắt khắp con phố và để
ý thấy hắn đang ngồi trên thềm. Cô ta lưỡng lự một chút rồi băng qua đường sang
chỗ hắn. Hắn không biết cô ta; chưa bao giờ nhìn thấy cô ta trước đây.

Hắn không biết cô ta muốn gì nhưng
cứ đặt chai rượu xuống rồi bước xuống thềm. Cô ta dừng lại trên vỉa hè trước
nhà hắn.

“Anh là
Kevin Tierney phải không?” cô ta hỏi.

“Phải,”
hắn đáp, giọng hắn nghe kỳ lạ vì đã mấy ngày rồi hắn không nói.

“Tôi là
Karen Feldman,” cô ta nói, “Bố mẹ tôi sống bên kia đường. Larry và Gladys
Feldman anh biết chứ?” Cô ta ngừng lại nhưng không thấy Kevin nói gì nên cô ta
nói tiếp. “Tôi chỉ đang tự hỏi không biết Erin có định đến dự đám tang không.”

Hắn
nhìn cô ta chằm chằm.

“Erin?”
cuối cùng hắn nói.

“Vâng.
Bố mẹ tôi vẫn rất thích những lúc cô ấy sang chơi. Cô ấy thường làm cho họ bánh
táo và đôi khi còn giúp họ lau dọn nhà cửa nữa, nhất là từ khi mẹ tôi bắt đầu
ngã bệnh. Ung thư phổi. Khủng khiếp lắm.” Cô ta lắc đầu. “Erin có nhà không?
Tôi luôn mong được gặp cô ấy. Hai giờ đám tang sẽ bắt đầu đấy.”

“Không,
cô ấy không có nhà. Cô ấy đang giúp đỡ người bạn bị bệnh ở Manchester,” hắn
nói.

“Ô...
thế à, vậy thôi. Tệ quá. Tôi xin lỗi vì đã làm phiền anh.”

Tâm trí
hắn bắt đầu sáng rõ và hắn để ý thấy cô ta sắp bỏ đi. “Nhân thể tôi cũng muốn
nói là tôi rất tiếc về mất mát của cô. Tôi đã nói với Erin và cô ấy rất buồn vì
cô ấy không thể có mặt. Cô đã nhận được hoa chưa?”

, chắc
là rồi đấy. Tôi chưa kiểm tra cơ. Nhà tang lễ nhiều hoa quá.”

“Không
quan trọng. Tôi chỉ mong Erin có thể ở đây.”

“Tôi
cũng thế. Tôi luôn mong được gặp cô ấy. Mẹ tôi hay nói với tôi là cô ấy khiến
bà nhớ tới Katie.”

“Katie?”

“Em gái
tôi. Nó mất sáu năm rồi.”

“Tôi
rất tiếc.”

“Tôi
cũng vậy. Cả nhà tôi nhớ nó lắm - nhất là mẹ tôi. Vì thế nên bà rất thân với
Erin. Cô ấy thậm chí còn trông giống Katie như đúc. Cùng tuổi và nhiều thứ
nữa.” Nếu Karen có để ý thấy vẻ mặt trắng bệch của Kevin thì cô ta cũng chẳng
bận lòng. “Mẹ tôi thường cho Erin xem sổ dán tranh chung của bà với Katie... Cô
ấy lúc nào cũng rất kiên nhẫn với mẹ tôi. Cô ấy là một phụ nữ dịu dàng. Anh
thật may mắn đấy.”

Kevin
gượng mỉm cười. “Phải, tôi biết.”

***

Hắn là
một cảnh sát điều tra giỏi nhưng thực tình đôi khi đáp án lại nhờ ăn may mà có.
Chứng cứ mới xuất hiện, một nhân chứng chẳng ai biết bỗng dưng bước tới, camera
trên đường chộp được một biển số xe. Trong trường hợp này, đầu mối đến từ người
phụ nữ mặc váy đen tên Karen Feldman, người đã băng qua đường vào một sáng hắn
đang ngồi uống rượu rồi nói với hắn về cô em gái đã chết của cô ta.

Mặc dù
đầu vẫn đau buốt, hắn đành đổ rượu xuống rãnh, nghĩ về Erin và nhà Feldman.
Erin biết họ và hay qua thăm họ, nhưng cô lại chưa bao giờ nhắc đến chuyện đó.
Hắn vẫn thường gọi cho cô và về nhà đột xuất giữa giờ làm và cô luôn có nhà,
nhưng không hiểu vì sao hắn chưa bao giờ nhìn ra sự thật. Cô chưa bao giờ nói
với hắn và khi hắn kêu ca rằng họ là những người hàng xóm tồi tệ, cô cũng chẳng
nói một lời.

Erin có

Đã lâu
rồi đầu óc hắn mới sáng tỏ đến thế, hắn tắm gội rồi mặc vào bộ vest đen. Hắn
làm bánh kẹp thịt muối và thịt gà tây với mù tạt Dijon ăn, rồi lại làm thêm một
lát nữa ăn. Con phố đầy xe cộ, hắn quan sát mọi người đi vào đi ra ngôi nhà.
Karen lại ra cửa hút một điếu thuốc nữa. Trong khi chờ hắn bỏ mấy mảnh giấy nhớ
và một cây bút vào túi quần.

Sang
chiều, mọi người bắt đầu vào xe của mình. Hắn nghe tiếng động cơ khởi động và
từng xe một nối nhau lướt đi. Lúc đó là một giờ hơn, họ đang đi tới nhà tang
lễ. Mười lăm phút sau mọi người đi hết, hắn thấy Karen đỡ Larry Feldman vào xe.
Karen ngồi vào ghế lái và lái xe đi, cuối cùng không còn chiếc xe nào trên phố
hay trên lối vào nhà hắn nữa.

Hắn chờ
mười phút nữa để chắc chắn mọi người đã đi hết rồi cuối cùng bước ra ngoài cửa.
Hắn băng qua bãi cỏ, khựng lại trên đường rồi bước sang nhà Feldman. Hắn không
vội mà cũng chẳng cố ẩn nấp. Hắn để ý thấy phần lớn nhà hàng xóm đều đã đi dự
đám tang, còn những người không đi thì sẽ nghĩ đơn giản là ai đi đám ma chẳng
mặc đồ đen. Hắn đi tới cửa trước, cửa khóa, nhưng vẫn còn rất nhiều người trong
nhà nên hắn bèn vòng sang hông nhà ra phía sau. Ở đó, hắn thấy một cánh cửa
nữa, cửa không khóa nên hắn cứ thế bước vào nhà.

Thật
yên tĩnh. Hắn dừng lại, lắng nghe xem có giọng nói hay bước chân nào không nhưng
chẳng thấy gì. Có những chiếc cốc nhựa trên quầy bếp và những đĩa thức ăn trên
bàn. Hắn đi khắp nhà. Hắn có thời gian, nhưng hắn không biết là bao nhiêu, và
hắn quyết định bắt đầu từ phòng khách. Hắn mở các tủ ra rồi đóng lại, để mọi
thứ nguyên xi như cũ. Hắn sục sạo trong bếp, trong phòng ngủ rồi cuối cùng vào
phòng đọc. Có những quyển sách trên giá, chiếc ghế tựa và ti vi. Trong góc
phòng, hắn thấy một tủ hồ sơ nhỏ.

Hắn đi
tới tủ hồ sơ và mở ra. Nhanh chóng, hắn xem qua các tấm nhãn. Tìm thấy một tập hồ
sơ dán nhãn KATIE hắn liền lôi ra, mở xem có gì bên trong. Có một bài báo - hóa
ra cô bị chết đuối khi mảng băng trên một hồ trong vùng bị vỡ - và có những bức
ảnh của cô chụp thời trung học. Trong bức ảnh tốt nghiệp, cô trông giống Erin
đến kinh ngạc. Dưới cùng của tập hồ sơ, hắn tìm thấy một phong bì thư. Hắn mở
ra thì thấy có một tờ bảng điểm cũ. Trên phong bì có ghi một số an sinh xã hội,
hắn lôi giấy bút ra ghi lại. Hắn không tìm thấy thẻ an sinh xã hội, nhưng hắn
đã có số. Giấy khai sinh là bản photo, nhưng trông nhàu nhò như thể ai đó đã vò
rồi lại vuốt phẳng

Đã có
cái mình cần, hắn rời khỏi ngôi nhà. Ngay khi về đến nhà, hắn gọi cho một tay
cảnh sát ở sở khác, gã này đang qua lại với một cô trông trẻ. Hôm sau, hắn nhận
được cuộc gọi lại.

Katie
Feldman mới lấy bằng lái cách đây chưa lâu, với một địa chỉ thuộc Southport,
Bắc Carolina.

Kevin
dập điện thoại mà chẳng nói thêm lời nào, hắn biết mình đã tìm được cô.

Erin.

31

Tàn dư của một cơn bão nhiệt đới thổi qua Southport là mưa rơi suốt cả
buổi chiều cho đến tận tối. Katie làm ca trưa, nhưng thời tiết khiến tiệm ăn
không đông lắm nên Ivan cho cô về sớm. Cô đã mượn chiếc xe jeep và sau khi ngồi
ở thư viện một giờ, cô trả xe về cửa hàng. Khi Alex chở cô về nhà, cô mời anh
cùng các con chốc nữa qua ăn tối.

Suốt phần còn lại của buổi chiều, cô cứ thấy bồn chồn. Cô muốn tin đó là vì thời tiết, nhưng khi đứng bên cửa sổ, nhìn ra
những cành cây oằn mình trong gió và từng màn mưa giăng, cô biết còn nhiều điều
hơn thế tiềm ẩn trong cảm giác khó ở ấy: những ngày này mọi thứ trong cuộc đời
cô chừng như quá hoàn hảo. Mối quan hệ của cô với Alex và những buổi chiều được
ở bên bọn trẻ đã khỏa lấp một khoảng trống trong lòng vốn luôn tồn tại mà cô
không hay, nhưng từ lâu cô đã học được rằng chẳng có thứ gì đẹp đẽ kéo dài mãi
mãi. Niềm vui vụt trôi như ánh sao băng lướt giữa trời đêm, biến mất lúc nào
không hay.

Lúc nãy
ngồi trong thư viện, cô đã đọc trang báo mạng Boston Glob trên máy tính
và tình cờ lướt qua cáo phó của bà Gladys Feldman. Cô biết bà Gladys ốm từ lâu,
biết lời chẩn đoán ung thư giai đoạn cuối của bà từ trước khi cô đi. Dù cô
thường xuyên xem các cáo phó ở Boston, bản lược tả về cuộc đời bà và những
người còn sống vẫn khiến cô xúc động không ngờ.


không muốn lấy tấm căn cước từ tập hồ sơ nhà ông bà Feldman, thậm chí chưa từng
nghĩ tới khả năng ấy cho tới khi Gladys lôi tập hồ sơ ra cho cô xem bản photo
bằng trung học của Katie. Cô đã thấy giấy khai sinh và thẻ an sinh xã hội để
bên cạnh tấm bằng photo ấy và nhận thấy cơ hội mà chúng mở ra. Lần sau đó sang
nhà họ, cô xin phép vào nhà vệ sinh nhưng thay vào đó lại đi tới tủ hồ sơ. Sau
đó, khi cùng họ ăn bánh việt quất trong bếp, cô có cảm giác như xấp giấy tờ
đang bốc cháy trong túi mình. Một tuần sau, sau khi photo giấy khai sinh trong
thư viện rồi gập lại vò vò cho nó có vẻ cũ kỹ, cô đặt nó vào lại tập hồ sơ. Lẽ
ra cô cũng đã làm như thế với thẻ an sinh xã hội, nhưng cô không thể photo rõ
nét tấm thẻ nên cô hy vọng rằng nếu họ để ý thấy nó biến mất, họ sẽ nghĩ nó đã
thất lạc hoặc bị để nhầm đâu đó.

Cô tự nhắc
mình rằng Kevin sẽ không bao giờ biết được những việc cô đã làm. Hắn không ưa
ông bà Feldman mà họ cũng chẳng ưa gì hắn. Cô ngờ là họ biết hắn đánh cô. Cô
thấy được điều đó trong mắt họ khi họ nhìn cô lao vội qua đường sang thăm họ,
trong cách họ vờ như chưa bao giờ để ý thấy những vết thâm tím trên cánh tay
cô, trong cách gương mặt họ cau lại mỗi khi cô nhắc tới Kevin. Cô muốn nghĩ
rằng họ sẽ không giận nếu biết việc cô đã làm, rằng họ sẽ muốn cô lấy đi tấm
căn cước, vì họ biết cô cần nó và họ muốn cô bỏ trốn.


Dorchester chỉ có họ là những người cô thấy nhớ và cô tự hỏi ông Larry lúc này
thế nào rồi. Họ là bạn của cô khi cô chẳng còn ai khác, và cô muốn nói với ông
Larry rằng cô rất tiếc cho nỗi mất mát của ông. Cô muốn cùng ông khóc và nói về
bà Gladys, muốn nói với ông rằng nhờ có họ mà giờ đây cô mới có cuộc sống tốt
đẹp hơn. Cô muốn nói với ông rằng cô đã gặp được một người yêu thương cô, rằng
lần đầu tiên sau bao năm trời cô đã có hạnh phúc.

Nhưng
cô sẽ không làm điều gì như thế được. Thay vì thế, cô chỉ bước ra thềm và ngắm
gió bão trút lá lìa cành qua làn nước mắt nhạt nhòa.

***

“Tối
nay em lặng lẽ quá,” Alex nói. “Mọi ổn chứ?”

Cô đã
làm món cá ngừ kho cho bữa tối và lúc này Alex đang giúp cô rửa đĩa. Bọn trẻ
đang ngồi trong phòng khách, cả hai đứa đang chơi điện tử; cô có thể nghe thấy
tiếng bíp bíp qua tiếng vòi nước chảy.

“Một
người bạn của em vừa qua đời,” cô nói. Cô đưa cho anh một chiếc đĩa để lau khô.
“Vẫn biết điều đó sẽ đến nhưng em cứ thấy buồn.”

“Đó lúc
nào cũng là chuyện đáng buồn mà,” anh đồng ý. “Anh rất tiếc.” Anh biết mình
không nên hỏi thêm vào chi tiết. Thay vì thế, anh chờ đợi xem may chăng cô muốn
nói tiếp, nhưng cô rửa thêm một cái ly và đổi chủ đề.

“Anh
nghĩ bão còn kéo dài bao lâu nữa?” cô hỏi.

“Không
lâu đâu. Mà sao?”

“Em chỉ
đang tự hỏi không biết lễ hội ngày mai có bị hoãn không. Hay liệu chuyến bay có
bị hoãn không.”

Alex
liếc nhìn ra cửa sổ. “Sẽ ổn cả thôi. Bão đã suy yếu rồi. Anh khá chắc cơn bão
sắp tan hẳn bây giờ đây này.”

“Kịp
thời quá nhỉ,” Katie nhận xét.

“Tất
nhiên. Thiên nhiên không dám phá bĩnh lịch trình đâu ra đó của ủy ban tổ chức
lễ hội đâu. Và cả với bà Joyce nữa.”

Cô mỉm
cười. “Anh đi đón con gái bà Joyce mất bao lâu?”

“Có lẽ
bốn năm tiếng gì đó. Raleigh không được thoải mái lắm ở nơi này.”

“Sao chị ấy không bay tới
Wilmington? Hoặc thuê xe luôn?”

“Anh không biết. Anh không hỏi,
nhưng nếu phải đoán thì anh nghĩ cô ấy muốn tiết kiệm một khoản tiền.

“Anh đang làm một việc tốt đấy, anh
biết không. Giúp đỡ Joyce như thế ấy.”

Anh khẽ nhún vai, ý bảo đó chỉ là
chuyện nhỏ. “Ngày mai em sẽ thấy rất vui cho xem.”

“Ở lễ hội hay với bọn trẻ cơ?”

“Cả hai. Và nếu em khéo léo vòi
vĩnh, anh sẽ đãi em món kem rán giòn đấy.”

“Kem rán á? Nghe kinh quá.”

“Ngon lắm đấy.”

“Dưới này món gì cũng phải rán hay
sao ấy nhỉ?”

“Chiên được món nào là người ta tìm
ra cách để chiên hết, tin anh đi. Năm ngoái còn có một nhà hàng phục vụ món bơ
rán cơ.”

Cô suýt nôn khan. “Anh đừng đùa.”

“Không hề. Nghe thì kinh thế, nhưng
người ta phải xếp hàng lũ lượt để mua đấy. Rồi họ cũng sẽ nối đuôi nhau đau tim
mất thôi.”

Cô rủa và tráng chiếc cốc cuối cùng
rồi đưa cho anh. “Anh nghĩ bọn trẻ có thích bữa tối em làm không? Kristen không
ăn mấy.”

“Con bé có bao giờ ăn nhiều đâu.
Quan trọng hơn, anh thích bữa ăn này. Anh nghĩ nó ngon tuyệt.”

Cô lắc đầu. “Quan tâm tới bọn trẻ
làm gì, phải không? Miễn anh thấy vui là được nhỉ?”

“Anh xin lỗi. Vốn anh là kẻ yêu
mình thái quá mà.”

Cô lướt miếng bọt biển đẫm xà phòng
trên một chiếc đĩa rồi tráng. “Em rất háo hức chờ đến lú được về nhà anh.”

“Tại sao?”

“Vì chúng ta toàn ở đây, không ở
đó. Đừng hiểu lầm em - em hiểu đó là việc nên làm vì bọn trẻ.” Và vì Carly, cô
nghĩ thêm, nhưng không đề cập tới chuyện đó. “Điều đó sẽ cho em cơ hội được
thấy anh sống thế nào.”

Alex nhận chiếc đĩa. “Trước đây em
tới đó rồi mà.”

“Phải, nhưng được có vài phút, mà
mới chỉ trong bếp và phòng khách. Đã bao giờ em có cơ hội xem phòng ngủ của anh
hay liếc qua tủ thuốc nhà anh đâu nào.”

“Em sẽ không làm thế đâu.” Alex vờ
tức giận.

“Có cơ hội thì biết đâu em làm thế
thật.”

Anh lau khô chiếc đĩa rồi đặt vào
tủ bát. “Cứ thoải mái ở trong phòng ngủ của anh bao lâu tùy thích.”

Cô cười lớn. “Anh đúng là đàn ông.”

“Anh chỉ đang nói là anh không thấy
phiền đâu. Và cứ thoải mái xem cả tủ thuốc nữa. Anh chẳng có gì bí mật cả.”

“Chính anh nói đấy nhé,” cô châm
chọc. “Anh đang nói với một người mà mọi thứ đều là bí mật.”

“Không phải với anh.”

“Phải,” cô đồng ý, vẻ mặt nghiêm
túc. “Không phải với anh.”

Cô rửa thêm hai chiếc đĩa nữa rồi
đưa cho anh, cảm thấy nỗi thỏa mãn trào lên trong lòng khi quan sát anh lau khô
đĩa rồi cất đi.

Anh

“Anh hỏi em một chuyện được không?”
anh nói. “Anh không muốn em hiểu lầm, nhưng anh rất tò mò.”

“Cứ hỏi đi anh.”

Anh đưa cùi chỏ vào dưới dòng nước
nhỏ giọt, chần chừ. “Anh đang tự hỏi không biết em đã nghĩ kỹ về những điều anh
nói tuần trước hay chưa. Ở bãi đỗ xe, sau khi xem xiếc khỉ ấy?”

“Anh nói nhiều thứ mà,” cô thận
trọng đáp.

“Em không nhớ à? Em nói với anh là
Erin không thể kết hôn, nhưng anh bảo Katie thì được ấy?”

Katie thấy mình như hóa đá, chủ yếu
vì giọng nói nghiêm túc của anh chứ không phải vì đoạn ký ức ấy. Cô biết chính
xác chuyện này sắp dẫn đến đâu. “Em nhớ,” cô gắng dịu giọng. “Em nghĩ em đã nói
là phải gặp người phù họp mới được.”

Nghe cô nói vậy, môi anh bặm lại,
như thể anh đang cân nhắc xem liệu có nên nói tiếp hay không. “Anh chỉ muốn
biết em đã nghĩ tới điều ấy hay chưa. Ý là, chuyện một ngày nào đó chúng mình
sẽ kết hôn ấy.”

Cô bắt đầu rửa đồ bạc, nước vẫn còn
ấm. “Anh phải cầu hôn trước đã chứ.”

“Nhưng anh cầu hôn rồi thì sao?”

Thấy một cái nĩa, cô liền cọ. “Em
nghĩ em sẽ nói với anh là em yêu anh.”

“Em sẽ đồng ý chứ?”

Cô khựng lại. “Em không muốn kết
hôn lần nữa.”

“Em không muốn, hay em không nghĩ
mình có thể?”

“Thế có gì khác nhau chứ?” vẻ mặt
cô vẫn bướng bỉnh, khó dò. “Anh biết em vẫn đang là người có chồng mà. Kết hôn
với hai người cùng lúc là bất hợp pháp.”

“Em
không còn là Erin nữa. Giờ em là Katie. Như chính em đã chỉ ra, bằng lái xe của
em thể hiện điều đó kia mà.”

“Nhưng
em cũng đâu phải Katie!” cô cáu lên rồi quay sang nhìn anh. “Anh không hiểu điều
đó à? Em đã ăn trộm cái tên ấy từ những người em yêu mến! Những người đã tin
tưởng em.” Cô nhìn anh chằm chằm, cảm thấy nỗi căng thẳng mới đây lại trào
dâng, nó gợi lại cảm xúc mãnh liệt còn nguyên về sự tử tế và lòng trắc ẩn của
Gladys, về cuộc chạy trốn và những năm tháng ác mộng chung sống với Kevin. “Sao
anh không thể cứ hạnh phúc với cách mọi thứ đang diễn ra? Sao anh cứ phải ép em
quá thể để làm con người mà anh mong muốn chứ không phải chính con người em?”

Anh nao
núng. “Anh yêu chính con người em mà.”

“Nhưng anh kèm theo điều kiện!”

“Anh không như thế!”

“Có đấy!” cô khăng khăng. Cô biết
mình đang lớn tiếng quá nhưng dường như không thể hãm lại được. “Anh có tiêu
chuẩn về những điều anh mong muốn trong cuộc sống và cố bắt em phù hợp với nó.”

“Không phải vậy,” Alex phản đối.
“Anh chỉ hỏi em một câu thôi mà.”

“Nhưng anh muốn một câu trả lời cụ
thể! Anh muốn câu trả lời chuẩn mực, và nếu không có được nó, anh sẽ cố thuyết
phục em. Rằng em nên làm điều anh muốn! Rằng em nên làm mọi thứ anh muốn!”

Từ trước tới giờ, đây là lần đầu
tiên Alex nheo mắt nhìn cô. “Đừng làm thế này,” anh nói.

“Làm gì chứ? Nói thật à? Nói cho
anh nghe em cảm thấy thế nào ư? Sao nào? Anh định làm gì? Đánh em chắc? Đánh
đi.”

Anh vô thức lùi lại như thể sợ cô
sẽ tát anh. Cô biết mình đã nói trúng tim đen của anh nổi giận, Alex đặt chiếc
khăn lau bát lên quầy rồi lùi lại một bước. “Anh không biết chuyện này sẽ dẫn
đến đâu, nhưng anh xin lỗi vì đã gợi nó ra. Anh không định áp đặt hay cố thuyết
phục em điều gì cả. Anh chỉ cố trò chuyện thôi.”

Anh ngừng lại, chờ xem cô có nói gì
không, nhưng cô im lặng. Anh lắc đầu, dợm bước ra khỏi bếp rồi chợt dừng lại.
“Cảm ơn em về bữa tối,” anh nói khẽ.

Trong phòng khách, cô nghe anh nói
vói bọn trẻ là đã khuya rồi, nghe tiếng cửa trước mở đánh cạch. Anh khẽ khép
cửa lại phía sau và căn nhà đột nhiên im lặng, để cô lại một mình với bộn bề
suy nghĩ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3