Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 21 - Phần 1
Chương 21: Chiếc hộp của Pandora
“Đứng im, nếu
bọn bây còn muốn giữ lại đôi tai,” một Gã Số Mười nói với cái cười xếch tận
mang tai. Gã chia cho bọn trẻ xem một thiết bị hình trụ nhỏ trong bàn tay. “Tao
không muốn phải dùng tới cái đèn chiếu này với bọn mày đâu - phải mất cả đêm để
sạc đầy lại đấy.”
Bọn trẻ, rõ
ràng thà giữ lại đôi tai còn hơn, nhanh chóng bị còng tay và đứng dựa vào bức
tường hậu của nhà trú ẩn. Trong khi đó một Gã Số Mười khác mở cửa đón những đứa
đồng bọn còn lại. Có tất cả bốn tên, không kể Martina (ả ta đang ôm đầu, chí ít
lúc này cũng đang quá giận dữ không thốt nên lời), và đứa nào đứa nấy ăn mặc
đều bảnh chọe, điềm tĩnh, và trông hớn hở như gã đồng bọn kia. Nhà trú ẩn thấm
đẫm mùi nước hoa đắt tiền.
“Garrotte,” Gã
Số Mười to con nhất nói với gã cầm đèn chiếu laser, “Hãy là một người bạn tốt
và kiếm về cho bọn tao một chiếc đèn xách, được không? Nhân đây mày nhắc đến
pin, bọn tao nhường cả đèn pin của tụi tao cũng được.”
“Ý hay đấy,
McCracken,” Garrotte đáp, đó là gã có râu quai nón, tai nhọn và có cái mũi tẹt
nhất. Trong bộ comple đen, gã trông bạc nhược như một con dơi khổng lồ. “Mày có muốn ít đồ ăn nhân lúc tao đi kiếm
không? Chúng ta sẽ có một bữa ăn ngoài trời lúc nửa đêm chứ?”
McCracken cười khùng khục. “Chỉ
cần cái đèn xách tay thôi, cảm ơn Garrotte. Tao vẫn còn no sau bữa ăn tối.”
Thể hiện đúng bản chất công
việc của bọn chúng, thái độ thoải mái của mấy Gã Số Mười có phần gây bối rối
hơn là thái độ giận dữ và thô bạo đáng lẽ phải có. Quả thật, khó mà tìm thấy ai
bị bối rối hơn bọn trẻ lúc này đây. Thậm chí Kate cũng đang trong trạng thái
cảnh giác cao độ, không phải chỉ vì chúng đã bắt giữ (mặc dù điều đó có góp
phần đôi chút) mà còn bởi cô bé đã nhận ra tên của Gã Số Mười to lớn nhất -
McCracken - và đã biết tiếng tăm của gã.
Milligan đã từng nhắc đến gã
trước kia. Là thủ lĩnh của tất cả bọn Số Mười, McCracken là kẻ khó nắm bắt nhất
(Milligan chưa bao giờ rời mắt khỏi gã), và Kate có được cái vinh dự mơ hồ được
gặp gỡ gã trước cả bố mình. Gã có dáng vẻ to lớn ấn tượng: một gã khổng lồ với
đôi vai bành rộng, tóc nâu cắt ngắn hoàn hảo, đôi mắt xanh lơ sắc lẹm - nhưng
tiếng tăm của gã còn gây ấn tượng hơn cơ. Theo lời Milligan kể, McCracken là Gã
Số Mười nguy hiểm nhất trong tất cả, và giờ gã đang đứng đây, cười cợt chúng
trong bóng tối.
“Mày đã có thể mở to đôi mắt
bé xíu xiu của mày được rồi, bé con,” gã nói với Constance khi cô bé đang nhắm
tịt hai mắt lại, cố gắng tưởng tượng mình đang ở nơi khác. “Mày biết là bọn tao
vẫn cứ thấy mày cho dù mày không thấy chúng tao mà.”
“Để cô bé yên,” Sticky rít
lên, không rõ lời mặc dù cậu định hét to lên. McCracken thậm chí chẳng để ý cậu
vừa nói gì. Sticky nuốt khan, cố lấy lại giọng mình. Cậu đang trải qua cảm giác
từa tựa như sự tan vỡ, không phải vì sợ hãi (mặc dù cậu rõ ràng đang lo sợ) mà
là từ một cảm giác tràn ngập tủi thẹn. Mọi ý nghĩ về lòng kiêu hãnh hay sự an
toàn cá nhân vẫn có lâu nay giờ bốc hơi khỏi cậu. Điều duy nhất Sticky muốn là
cứu được các bạn cậu tránh khỏi những điều sắp xảy ra do sai lầm tệ hại của
cậu. Tuy nhiên, cậu chưa thể cứu được các bạn - tài năng của cậu không phát huy
được ở đây - và tâm trí cậu còn mòng mòng trong mớ lộn xộn toàn chán nản và
thất vọng.
Reynie thì đang trong trạng
thái tự tranh cãi với chính mình. Điều đập ngay vào suy nghĩ của cậu - một cảm
giác khó chịu nhất - đó là cách McCracken đã nhanh chóng nắm bắt rồi kiểm soát
được hoàn cảnh ra sao. Chỉ mất có vài phút gã đã biết bọn trẻ đang ở trong
làng, suy ngay ra chỗ chúng sẽ trốn, nấp vào đống xà gỗ đợi chúng. Chính
McCracken là kẻ nói vọng ra từ trên thanh xà gỗ, giọng rất nghiêm chỉnh: bọn
trẻ khá khôn lỏi thế nghĩa là McCracken quả thực rất thông minh.
Reynie hít thở sâu vài nhịp.
Nếu có bất kì cơ hội nào thoát khỏi đây, thì cậu nên bình tĩnh lại và suy nghĩ.
Trong khi đó Martina Crowe đã
kiểm soát được cơn giận dữ, và ả bắt đầu quát tháo ra lệnh cho mấy Gã Số Mười.
Trước sự ngạc nhiên của bọn trẻ, những Gã Số Mười dường như đều răm rắp nghe
lời ả ta. Không đứa nào trong bọn có vẻ thích thú chuyện đó (mặc dù McCracken
có vẻ khoái trá), nhưng cứ mỗi khi Martina mở miệng là chúng lại đáp lời, “Vâng,
thưa sếp” và làm những gì ả sai bảo. Ả ta hẳn không giành được quyền hành này
bằng chính các chiến tích của mình - lão Curtain hẳn đã giao quyền cho ả -
nhưng bất chấp tất cả, đó là quyền của ả, và rõ ràng Martina thích thú nó.
Mệnh lệnh đầu tiên mụ ta đưa
ra là sai McCracken trói bọn trẻ lại để chúng không bỏ chạy lần nữa. McCracken
hiển nhiên là định làm thế - gã vừa lấy một đoạn xích mỏng mảnh từ trong cặp
táp ra - nhưng gã chỉ mỉm cười và nói, “Vâng, thưa sếp” và làm cái việc gã vừa
định làm. Cổ tay bọn trẻ bị còng vào nhau, Kate ở một đầu, tiếp đến là
Constance, Sticky, rồi Reynie. Giờ thì McCracken trói bàn tay còn tự do của
Reynie vào sợi xích mảnh kia, một thứ té ra trông chẳng khác gì một đống ghim
giấy nối lại với nhau - thứ đồ mà một thương gia rảnh rỗi buồn chán có thể tự
tạo ra trong khi ngồi tiếp một cuộc thương thảo dài qua điện thoại. Thực tế (vì
McCracken đã vui vẻ giải thích) thì chiếc xích được làm từ kim loại chịu lực
căng ở mức cao, hoàn toàn không thể bẻ gãy bằng tay không.
“Đến cả tao cũng không bẻ gãy
được nó,” McCracken vừa nói vừa quấn đầu bên kia của sợi xích quanh một cái cột
gỗ của nhà tránh bão, rồi siết chặt nó bằng một khóa móc. Gã nháy mắt. “Ấy thế
mà tao lại rất giỏi đập phá mọi thứ đấy.”
“Hãy thôi hòa đồng với chúng
nữa đi, McCracken,” Martina cáu kỉnh. “Đưa tao chìa khóa còng tay.”
Ả chìa tay ra vẻ hống hách,
còn McCracken, với nụ cười tự mãn không giấu giếm, đặt rất nhẹ nhàng chiếc chìa
khóa vào lòng bàn tay ả. Bọn trẻ nhìn chăm chăm chiếc chìa khóa, dường như nó
là biểu tượng hoàn hảo cho tình thế khó khăn của chúng. Chúng giờ nằm trong tay
của Martina Crowe.
Còn Martina Crowe thì ghét
bọn trẻ kinh khủng.
Thực tế thì Martina Crowe căm
ghét hầu hết mọi thứ. Mụ ta đặc biệt ghét bọn trẻ, nhưng bọn trẻ lại chỉ là đại
diện đứng đầu của cả một danh sách dài. Mụ ta cũng ghét sự yếu đuối và ngốc
nghếch, và vì mụ ta coi hầu hết mọi hành động đều yếu đuối và ngốc nghếch, nên
hai danh mục này lại chia thành nhiều danh mục con, rồi những danh mục con này
lại chứa tiếp nhiều danh mục con trong đó, và cứ thế cho tới khi chỉ còn rất
rất ít thứ nằm bên ngoài danh sách bị căm ghét của Martina. Tuy nhiên, một
trong số ít ỏi đó lại là những mệnh lệnh quát tháo. Martina rất khoái ra các
mệnh lệnh quát tháo, và đặc biệt khoái quát tháo bọn Số Mười. Mụ ta cũng thích
thú phân chia công bằng, thế nên không gã nào bị bỏ sót cả. Ví dụ như, sau khi
đã đòi được chiếc chìa khóa từ McCraken, Martina nhìn sang Gã Số Mười có râu
quai nón và đeo kính vẻ rất hống hách, “Tìm cho ta cái gì để ngồi đi, Sharpe!”
Tiếp đó mụ ta ra lệnh cho Garrotte, gã vừa quay về mang theo một chiếc đèn xách
tay, bảo gã đặt nó xuống sàn nhà ở giữa phòng. Và cuối cùng, mụ ta búng ngón
tay về phía Gã Số Mười thứ tư (một gã hói đầu có mỗi một bên lông mày - phía
bên mắt trái - khiến gã lúc nào cũng có một khuôn mặt nhăn nhở châm biếm), rồi
quát tháo, “Đóng cửa vào, Crawlings!”
Reynie chứng kiến Crawlings
chốt cánh cửa ra vào với cảm giác vô cùng phiền muộn, như thể cậu ở trong nấm
mổ vừa bị bịt kín. Cậu hy vọng Milligan chỉ đến trễ chút thôi, nhưng khi
Milligan quay lại - giả sử ông có quay lại - làm thế nào mà ông cứu được bọn
chúng nếu ông bị khóa bên ngoài? Rốt cuộc, ông đã chọn ngôi nhà này vì nó chắc
chắn. Và cho dù ông có vào được bên trong, Milligan vẫn bị lép vế vô cùng so
với bọn Số Mười, còn bọn trẻ thì vẫn bị xích và thậm chí không thể bỏ chạy.
Crawlings nhập hội với mấy Gã
Số Mười còn lại bên cạnh chiếc đèn, Martina vừa ra lệnh cho bọn chúng tập trung
tại đó. Sharpe, Gã Số Mười đeo kính, không tìm thấy ghế cho mụ ta ngồi, thế là
Martina nhìn chiếc cặp của gã với vẻ thèm thuồng, nhưng không nói gì. Rõ ràng
những chiếc cặp táp nằm ngoài giới hạn quyền hành của mụ ta. Chắc chắn mụ ta
ghét điều đó.
“Chà, McCracken,” Martina
chất vấn, “mày có muốn giải thích làm thế nào cô ả bỏ trốn được không?”
“Cô ả chưa bỏ trốn được mà,”
McCracken cãi. Gã đang xỉa răng bằng đầu nhọn chiếc bút chì vừa cắm phập vào xà
gỗ. Reynie vừa thấy gã rút nó ra từ thanh gỗ dễ dàng như thể một người nhấc
chiếc đinh ghim giấy từ bảng tin. Kate cũng thấy thế, và há hốc mồm kinh ngạc.
“Cô ả chưa bỏ trốn ư?”
Martina nhại lại vẻ châm chọc. Mụ ta nhìn xung quanh nhà trú ẩn và dang hai tay
ra. “Ta không thấy cô ả. Cô ta đâu rồi? Cô ta đang trốn sau một xà gỗ nào à?”
“Cô ả đang ở trong rừng.
Sharpe thấy cô nàng chạy về phía rừng cây, ta mới bảo anh ta làm nổ lối vào
hầm, thế nên cô ta không thể đi tắt qua phía bên kia đảo được. Chúng ta có thể
nhanh chóng theo dấu cô ta bây giờ.”
“Thế sao bây giờ không theo
dấu cô ả luôn đi?”
“Mày không nghĩ rằng có thể
chúng ta nên đàm phán với những bé cưng này trước à?” McCracken đáp. “Mày biết
bọn chúng không phải tự dưng rơi ra từ không khí được. Phải có kẻ đưa chúng tới
đây. Tốt hơn là tìm cho ra ngay đó là ai, mày không nghĩ thế à?”
Martina thừa nhận điều đó với
tiếng làu bàu. Sự thực - khá rõ ràng mà mọi người trong phòng đều thấy - đó là
mụ ta chỉ muốn tập trung vào bọn trẻ, nhưng lại nghĩ tốt nhất nên chứng minh
rằng sự thất bại khi bắt Số Hai là lỗi của bọn Số Mười và không phải của mụ ta.
Quay một vòng gót chân, mụ bước tới đứng trước Kate. Trong số mấy đứa trẻ,
Martina đặc biệt nhắm sự thù hằn vào Kate, người phần lớn mang lại những rắc
rối cho mụ ta khi ở Học viện (không nói năng gì trong vài phút qua).
“Mày giải thích ra sao về sự
có mặt ở đây hả, Wetherall?” mụ ta vặn hỏi.
“Phép màu,” Kate đáp, bình
tĩnh nhìn lại ánh nhìn chằm chằm của mụ. “Nhân tiện xin hỏi trán cô thế nào
rồi? Cô có muốn xoa ít đá lên đó không.”
Reynie trông thấy Kate đang
len lén luồn bàn tay không bị khóa vào trong giỏ. Đừng làm gì ngốc nghếch, cậu
nghĩ. Đừng để bị thương, Kate.
Martina sờ lên vết thương sưng
tím trên trán. Hai mắt mụ ta lóe rực lên. “Còn mày có muốn xem vị trí của mình
hiện giờ không hả?” Mụ ta giơ ra chìa khóa còng tay mà McCracken vừa đưa cho. “Mày
có thấy nó không? Tao là người kiểm soát ở đây, Wetherall ạ, và mày là kẻ bị
xích, thế nên nếu mày không muốn bị...”
Kate giậm mạnh lên chân
Martina, chộp lấy chìa khóa trong tay mụ ta, và húc đầu vào ngực mụ.
Martina loạng choạng lùi ra
sau, tiếng kêu vì đau đớn của mụ bị chặn lại vì cú húc đầu đã đánh thốc không
khí khỏi ngực mụ ta. Mụ ta ngoảnh ra nhìn McCracken, mắt trợn lên giận dữ, và
chỉ tay về phía Kate, cô bé đang dùng chìa khóa quờ quạng chiếc còng tay.
“Vâng, thưa sếp,” McCracken
đáp lại mệnh lệnh không lời. Gã không giấu nụ cười thích thú của mình, nhưng
cũng không lãng phí thời gian khi sải bước băng qua phòng và nắm lấy cổ tay
Kate. “Ta đã thích thế này, nhóc con can đảm ạ,” McCracken dọa dẫm Kate, “nhưng
thế không có nghĩa là ta sẽ luôn thích thế.” Gã xiết chặt tay. Kate há hốc
miệng kêu đau và xòe bàn tay ra. Chiếc chìa khóa rơi xuống sàn nhà.
McCracken kiểm tra chiếc còng
tay. Chúng vẫn khóa chặt. Trong khi đó Martina đã vồ lấy chiếc chìa khóa và lùi
cách xa tầm với của Kate. Đã lấy được hơi, mụ ta hổn hển, “Tao muốn mày...
khiến... con bé đó... phải trả giá!”
“Vâng, thưa sếp,” McCracken
vừa đáp, vừa mở vali của hắn ra.
“Martina, tôi nghĩ cô muốn
biết làm thế nào mà bọn tôi tới được đây,” Reynie vội vàng nói.
Martina nhìn sang cậu đầy
nghi ngờ. “Đừng cố đánh trống lảng thế, Muldoon. Cô bạn kênh kiệu của mày vẫn
sẽ phải đau đớn cho đù mày có nói gì hay khi nào thì nói ra.”
Reynie nhún vai. “Ok, được
thôi, nếu nó không quan trọng gì với cô - hoặc ngài Curtain - thì tôi chắc chắn
có thể chờ để nói cho cô biết chuyện gì sắp xảy ra.”
“Cái gì sẽ... xảy ra ư?”
Martina nhắc lại. Mụ ta trừng mắt nhìn cậu. “Ý mày là gì hả?”
“Nếu chúng tôi không quay lại
thuyền vào sáng mai, Risker sẽ báo cho chính quyền,” Reynie đáp. “Nên tôi gợi ý
cô hãy nghĩ cho kĩ về bất kể những hành động nào cô đang định làm bây giờ.”
Căn phòng rơi vào im lặng.
Thế rồi bọn Số Mười quay qua nhìn nhau và bật cười phá lên. Martina cũng cười
ha hả và lắc lắc đầu một lúc lâu trước khi nói, “Risker ư? Ý mày là cái gã nhút
nhát háu ăn ở Thernbaakagen? Cảm ơn mày đã cảnh báo, Muldoon - tin đó thật hữu
ích đấy - nhưng bọn ta quả thực không có gì phải lo lắng về một kẻ nào như
Risker cả. Tao ngạc nhiên là gã lại xung phong đồng ý đưa bọn mày tới đây.”
Reynie đang cố hết mình để tỏ
ra tiu nghỉu - tiu nghỉu nhưng ương ngạnh. “Đúng thế, ông ta đã đồng ý! Chúng
tôi trả ông ta nửa số tiền ngài Benedict để cho chúng tôi và đồng ý sẽ đưa ông
ta phần còn lại khi chúng tôi quay lại thuyền. Nhưng nếu chúng tỏi không quay
lại, ông ta sẽ...”
“Tiền ở đâu?” McCracken ngắt
lời.
“Chẳng có chỗ cho ngươi lấy
tiền đâu”, Reynie đáp.
“Sẽ tìm được nó ở đâu?”
McCracken hỏi tiếp. Gã lấy từ trong cặp táp của mình một chiếc hộp đựng xì gà,
lắc nó, rồi đặt xuống nền nhà giữa hai chân Reynie. Một tiếng lách cách sắc và
lạ phát ra từ bên trong hộp, tiếp theo là một tiếng két. McCracken lấy đầu mũi
giày bóng lộn hích vào nó. “Ta có nên mở nó ra không? Hay mày muốn kể cho tao
biết tiền ở đâu hả?”
Reynie nhìn chằm chằm vào hộp
xì gà. Cậu bắt đầu toát mồ hôi. “Nó... nó ở trên thuyền. Giấu trong túi hành lí
của tôi.”
McCracken kêu cùng cục vẻ cảm
thông. “Rồi Risker bỏ đi, cậu bé thân mến. Gã đã lấy tiền của mày và bỏ đi. Mày
thấy gã thuộc kiểu bạn hữu thế nào rồi đấy. Ồ, chúng ta sẽ kiểm tra cho chắc,
nhưng tao nghĩ mày có thể tin chắc chắn rằng gã đã quên béng mày rồi. Làm thế
nào mày lại biết về Risker, hử? Làm thế nào mày biết về hòn đảo này? Kể cho tao
nhanh lên, và tao có thể sẽ cất chiếc hộp đi mà không mở nó ra.”
Trong khi mấy đứa trẻ còn lại
lắng nghe với vẻ mù mờ - chúng chẳng hề biết Reynie định dẫn dắt tới cái gì - Reynie
kể cho McCracken sự thật. Cậu kể về việc bọn chúng đã lén trốn gia đình đi tìm
ngài Benedict và Số Hai. Cậu giải thích về manh mối mà ngài Benedict đã để lại
cho bọn chúng như một phần của hành trình đáng kinh ngạc, về việc bọn chúng đã
hy vọng ra sao khi bám theo các manh mối cho tới khi chúng tìm thấy hai người
bạn của chúng, vào lúc thích hợp bọn chúng dự định sẽ liên lạc với Rhonda
Kazembe. Cậu cho McCracken biết mọi điều - mọi thứ ngoại trừ Milligan và manh
mối cuối cùng - và vì những điều Reynie kể ra đều có thực nên bài tường thuật
trở nên vô cùng thuyết phục.
McCracken có vẻ khá ấn tượng.
“Chúng mày tự mình thực hiện hành trình đó sao, các bé con? Trời, chúng mày táo
bạo đấy!” Gã nhấc chiếc hộp xì gà lên và giữ nó thật gần khuôn mặt sũng mồ hôi
của Reynie. “Có chắc mày không muốn nhìn lén vào không?”
Gã kêu cùng cục và lắc cái
hộp, tiếng lách cách trong hộp vang to hơn. “Không ư? Không muốn gặp Pandora à?”
Gã nhún vai và đặt chiếc hộp trở lại bên cái cặp.
Garrotte cất tiếng. “Bọn mày
nghĩ sao, hả? Liệu Risker có gây phiền phức cho chúng ta không?”
“Tao không tin cho lắm,”
Crawlings đáp. “Nếu gã đã lấy trộm tiền của đàn chim chích này rồi, thì gã
không có vẻ sẽ liên lạc với chính quyền đâu.”
“Đừng có ngốc thế,” Martina
cáu kỉnh ngắt lời, mụ ta đang tức giận vì bị gạt ra ngoài cuộc tranh luận. “Chúng
ta vẫn cần báo cáo việc này cho ngài Curtain. Đưa cho tao điện đàm của mày,
Crawlings.”
Crawlings nhướng bên lông mày
duy nhất lên. “Ôi sếp thân mến, tôi chưa từng bảo chúng ta không nên báo cáo
cả, phải không? Nhưng tôi e rằng điện đàm của tôi không dùng được.” Gã giả bộ
trông rất hối tiếc. “Không có sóng thu ở trong hang, nhớ chứ?”
Martina lầm bầm nguyền rủa.
Cô nàng hất tóc đầy ngạo mạn, “Thế thì tao cần đến chiếc Salamander. Garrotte,
mày sẽ lái xe cho tao. Đám còn lại ở nguyên đây. Bọn tao sẽ không đi lâu đâu.”
“Tại sao không mang bọn trẻ
theo?” McCracken hỏi.
“Bởi vì tao ra lệnh thế,”
Martina gầm lên.
Mụ đề nghị không giải thích
về điều đó, nhưng Reynie cảm thấy khá chắc chắn mụ ta đang nghĩ gì. Tại đây,
trong nhà trú ẩn này bọn chúng còn ở dưới quyền kiểm soát trực tiếp của
Martina. Điều đó sẽ đổi khác một khi chúng được dẫn tới chỗ lão Curtain, và
Martina không vội gì để việc đó xảy ra ngay cả. Chắc chắn mụ ta đã có trong đầu
vài hình phạt hiểm ác dành cho chúng - có thể sẽ do mấy Gã Số Mười tiến hành,
những kẻ phải tuân lệnh mụ - và sẽ không muốn bỏ lỡ mất cơ hội của mình. Mụ ta
có lẽ ghét phải chờ đợi dù chỉ một phút nhưng mụ không dám trốn tránh đi báo
cáo cho lão Curtain.
“Trước khi ta đi,” Martina
nói, vừa chĩa ngón tay cái về phía Kate, “chúng ta phải mang cái giỏ của nó đi,
và lục túi của nó. Con bé là kẻ quỷ quyệt. Lại đây, McCracken, mày giữ nó trong
khi tao khám người nó.”