Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 21 - Phần 2
Mụ ta thật đáo để khi sai McCracken giữ Kate, vì cô bé rất có thể tặng cho mụ vài vết răng cắn. Khi việc diễn ra, Kate không sao thốt lên lời nào, thậm chí chẳng thở nổi vì Martina khám cô bé - rất là lưỡng và không hề nhẹ nhàng - từ đầu đến chân. Khi McCracken thả cô bé ra, Kate ngã quỵ gối, tay ôm chặt bụng và thở hổn hà hổn hển.
“Đấy mới chỉ là khởi động thôi,” Martina nói với nụ cười thỏa mãn. “Chờ tới khi tao quay lại - rồi thì mọi thứ sẽ thực sự vui lắm đấy. Đi thôi, Garrotte. McCracken, mày hãy để mắt thật kỹ tới chúng, nghe rõ chưa? Tao không muốn bất kì cơ hội nào để chúng trốn thoát.”
“Chúng sẽ không trốn thoát được đâu.”
“Làm như tao bảo,” Martina nói. Mụ ta cười nhăn nhở nhìn Kate, cô bé đang cố đứng thẳng dậy, rồi mụ ta với lấy chiếc giỏ và Kate có thể thấy mụ xách theo nó bỏ đi. Khi mụ ra ngoài, nối gót là Garrotte, và McCracken chặn cánh cửa phía sau chúng lại.
“Sao phải chặn cánh cửa?” Crawlings thắc mắc. “Chúng ta sẽ lại phải mở nó khi quý bà quay về.”
McCracken làu bàu. “Mày là chiến hữu tốt, Crawlings ạ, nhưng mày vẫn chưa học phải thận trọng đúng mực.”
“Tao vẫn đủ cẩn trọng mà, phải không?” Crawlings cãi. “Ồ, chắc chắn thế, tao có một hai vết trầy xước thật, nhưng tao cẩn trọng mà, McCracken ạ. Tao sẽ đánh cược rằng tao cũng cẩn trọng như mày!”
“Nhưng mà tao đang có tới hai bên lông mày, còn mày thì không.”
Sharpe khúc khích cười. “Hắn thắng mày rồi, Crawlings!”
“Dù sao đi nữa,” McCracken dặn dò, “cứ có cái gì đó trong tất cả vụ này vẫn chưa phù hợp, và khi nào ta phát hiện ra đó là gì, ta muốn phải thật sẵn sàng.”
“Chúng ta có cần kiểm lại đồ không?” Crawlings hỏi.
“Cũng chẳng mất gì,” McCracken đáp. “Với cả chí ít làm thế sẽ giết bớt thời gian cho tới lúc quý bà quay về.”
Như thể đáp lại một hiệu lệnh vô hình, cả ba Gã Số Mười nhất loạt quỳ xuống, đặt cặp táp ra trước mặt. Chúng đang ở giữa căn phòng, chỗ ánh sáng từ chiếc đèn tỏa ra mạnh nhất, còn bọn trẻ - cũng nhất loạt - nao núng khi âm thanh khủng khiếp từ chiếc cặp táp phát ra khi được mở.
Bên ngoài, Salamander rền vang lao ra khỏi thị trấn. Rồi mọi thứ yên ắng, ngoại trừ việc bọn Số Mười đang làm bên đống cặp táp. Đó rõ ràng là một công việc nghiêm túc, đến mức mấy gã kiểm tra bên trong chiếc cặp với biểu cảm háo hức vui vẻ, thậm chí rất hân hoan, như thể chúng đang chọn chocolate từ trong một ngăn vali du lịch. Bọn trẻ sợ hãi chứng kiến chúng phơi ra những chiếc bút chì sắc nhọn được xếp ngăn nắp theo hàng; những chiếc bút mực nhiều màu khác nhau xếp phân thành từng loại; những chiếc máy tính bóng láng; hàng đống danh thiếp trắng lấp lánh; những chiếc dao rạch giấy được cất trong bao đựng bằng da có chữ viết lồng - và, dĩ nhiên, cả những chiếc đèn chiếu laser kinh hãi.
Crawlings giơ chiếc đèn chiếu của gã lên. “Mày nghĩ sao hả?” gã hỏi, vặn vẹo bên lông mày và hất cằm về phía bọn trẻ. “Tao có nên xén lấy cái đỉnh mũi của bọn chúng không? Tao đang nghĩ tới một bộ sưu tập.”
McCracken giận dữ. “Mày sẽ lãng phí phát bắn duy nhất cho một cái chóp mũi ư? Đó chính là cái tao nhắc đến phải thật là thận trọng đúng mực đấy, Crawlings.”
“Ổ, đừng nghiêm trọng quá thế,” Crawlings xuê xoa. “Ta chỉ đang khoe khoang với bọn chíp con kia thôi mà.” Hắn cười toe toét với bọn trẻ. Rõ ràng hắn rất khoái dọa nạt bọn chúng. “Dù sao đi nữa, mày biết là tao khoái dùng tới cái này.” Gã nhấc lên một thứ có vẻ như một chiếc bìa kẹp hồ sơ thông dụng.
McCracken gật đầu đồng tình. “Đấy là vì mày dùng nó quá giỏi.”
“Đúng thế,” Sharpe đế vào, vỗ vỗ lên lưng Crawlings. “Tao chưa từng thấy ai khéo léo với một chiếc kẹp...”
“Các ngươi chẳng khác gì một bầy quái vật!” Sticky buột miệng thốt lên, nhận ra cậu đã lấy lại được giọng mình, và bọn trẻ nhìn sang cậu choáng váng. “Sao các ngươi không ghê tởm chính mình nhỉ? Ý tôi là, hãy nhìn các ngươi xem! Các ngươi thích làm người khác đau đớn! Các ngươi chỉ giỏi dọa dẫm trẻ con!”
Cậu đột ngột im lặng, vừa có chút choáng váng vì sự bột phát của mình như mấy đứa còn lại vừa cảm thấy vô cùng hối tiếc. Ngốc nghếch cỡ nào mà lại muốn khích một Gã Số Mười nổi giận cơ chứ? Cậu còn chưa kịp nhận ra cậu đang nói nữa cơ. Vừa thở hổn hển, đầu óc mụ mẫm, Sticky ráng sức chờ phản ứng đáp trả.
Nhưng mấy Gã Số Mười chỉ nhìn sang cậu với nét mặt thích thú sảng khoái, còn McCracken khùng khục nói, “Bọn tao không khoái dọa dẫm trẻ con đâu, bé cưng. Đâu phải lỗi của mày khi mày vẫn còn là một thằng nhóc, phải không nào? Mày sẽ không muốn làm xao lãng bọn tao, phải không hả? Chúng tao có thể bực mình hơn đấy.”
Sharpe dùng chiếc bìa kẹp tài liệu quạt quạt cho mình. “Mày biết không McCracken, tao thấy nóng khi bị bực bội. Nó khiến tao muốn nới lỏng cà vạt.”
“Quả thực rất nóng,” Crawlings lầm bầm, giả bộ như lau cái đầu hói bằng khăn tay. “Tao cũng phải cởi cà vạt của tao ra thôi.”
McCracken nhìn trừng trừng chiếc khăn tay. “Tao nhắc lại một lần nữa, Crawlings. Thận trọng đúng mực.”
“Ổ, ơn trời, đừng cứ như vịt mẹ thế, McCracken. Tao sẽ không hỉ mũi vào nó đâu.”
McCracken và Sharpe bật cười, và Crawlings cẩn thận gấp chiếc khăn tay và trả nó lại vào trong túi. Bọn Số Mười quay lại với cuộc thảo luận ám muội của chúng.
Sticky đang lắc dữ dội chiếc còng tay lủng xủng xoảng của cậu. Cậu nóng lòng lau cặp kính của mình, nhưng với cổ tay bị trói vào Constance và Reynie thì khó mà làm được.
“Ổn rồi,” Reynie thầm thì. “Sẽ ổn cả thôi.”
Sticky nhìn sang cậu. “Làm thế nào?”
Reynie không biết. Cậu nhìn một đường sang Constance và Kate. Constance, rõ ràng bị ấn tượng bởi cơn bột phát của Sticky, vẫn nhìn cậu ta chằm chằm như thể chưa từng gặp cậu ta bao giờ. Cô bé có vẻ vẫn giữ tinh thần khá tốt. Kate thì trái lại vẫn ôm lấy bụng, và Reynie lóe lên ý nghĩ rằng McCracken hẳn đã làm cô bé bị thương. Cậu suýt định hỏi liệu cô có ổn không thì Kate đột ngột nghếch đầu sang một bên, còn Constance thì cứng người lại. Bọn chúng vừa nghe thấy tiếng gì đó. Kate siết chặt bàn tay cô bé con - như thể để dè chừng cô bé không thốt lên - và quay ra nhìn bức tường.
McCracken ngước nhìn lên. “Có chuyện gì thế, bé cưng? Mày không thích thấy bọn tao lấy đồ ra à?”
“Tôi nghĩ mình sắp nôn.” Kate đáp.
“Ê! Có phải tao vừa làm rối loạn ruột gan mày chút xíu hả? Vẫn thỉnh thoảng xảy ra thế đấy. Chà, nếu thế thì cũng là cô bé ngoan đấy nhỉ. Mày giải quyết việc của mày bằng cách tống ra phía bức tường, chỗ bọn tao không phải giẫm phải.” Gã quay lại với công việc bên chiếc cặp. Chiếc xích đủ chùng để Reynie và mấy đứa cùng túm tụm lại gần Kate và giả vờ như để an ủi cô bé. Thực tế thì bọn chúng đang chăm chú nhìn vào cái thứ Kate vừa phát hiện thấy và đang chú ý nhìn. Một mẩu khoan nhỏ xíu đang lách qua kẽ vữa giữa hai hòn đá trên tường. Mẩu khoan chỉ tạo ra tiếng lạo xạo rất khẽ như thể nó thọc xuyên qua vữa, không khác gì một con sâu có thể đào được, và tiếng kèn kẹt đó là cái cô bé vừa nghe thấy. Sau một lúc, mũi khoan rút ra, để lại một lỗ hổng cỡ con sâu, và thế vào đó xuất hiện một mẩu giấy được cuộn chặt. Kate lấy mẩu giấy. Đó là tin nhắn của Milligan:
Ở nguyên chỗ của con cho tới lúc bố xuất hiện. Rồi chạy thẳng ra cửa. Không được chần chừ dù chỉ một giây.
Kate truyền lời nhắn cho Constance, cô bé đọc xong rồi lại truyền cho hai cậu bạn.
“Mọi thứ ổn chứ?” Crawlings gọi với sang chỗ chúng. “Tống mất bánh quy ra rồi à, hả cưng?”
“Chưa đâu.” Kate đáp lại bằng giọng nói nghèn nghẹt.
“Để cô ấy yên!” Sticky hét lên, lại quên béng bản thân mình. Cậu giơ tay lên che miệng, vô tình giật cả tay Reynie và Constance cùng giơ lên.
“Bình tĩnh, Sticky,” Reynie nhắc nhở, mặc dù cậu không thể không nhận thấy rằng Constance có vẻ được lợi nhờ hành động vô ý của Sticky. Mỗi lần cậu ta chửi mắng bọn Số Mười, cô bé trông bớt sợ hãi hơn và trông càng giống với vẻ ngang ngạnh thường lệ của cô bé.
Sharpe khúc khích cười và thầm thì gì đó với mấy gã kia về “cái gã hói đầu chỉ trực nhăm nhe cái khăn tay”. Mấy đứa còn lại thì thào tán thành.
Mấy Gã Số Mười bắt đầu cất các thứ đồ vào cặp và giờ đang nói chuyện thấp giọng, với Reynie việc này có vẻ mang điều gở đối với bọn trẻ hơn là khi bọn chúng nói thẳng toẹt ra. Cậu cảm thấy ruột gan mình cũng lộn tùng phèo như lúc nãy Kate tỏ ra là thế. Milligan đang tới cứu chúng, nhưng làm thế nào bọn chúng có thể chạy ra phía cửa được chứ? Chúng bị xích cơ mà!
Constance nhìn cậu và thầm thì, “Nhưng làm thế nào chúng ta... anh biết đấy, làm thế nào chúng ta làm thế được?”
“Cứ yên đã,” Kate nói thầm. Cô bắt đầu ho, và nôn ọe, rồi khạc nhổ. Bên kia chiếc đèn, mấy Gã Số Mười nghếch mặt cười hô hố. Kate cúi đầu về trước vài lần như con gà mổ thóc, phát ra một tiếng nôn ọe kinh tởm cuối cùng, rồi im lặng. Trong giây lát, cô đứng chống tay trên gối, hít thở nặng nhọc bằng mũi. Rồi cô nhìn sang đám bạn, nháy mắt, và tặng chúng một nụ cười tươi roi rói.
Siết chặt giữa hàm răng cô là một chiếc chìa khóa.
***
Kate đã đánh tráo một trong những chiếc chìa khóa trang trại cũ của cô với chiếc khóa còng tay. Đó là lý do tại sao Reynie lại thấy cô luồn tay vào dưới chiếc giỏ - bấy giờ bằng cách lần sờ, cô tìm một chiếc chìa có thể đánh tráo với chiếc mà McCracken đã đưa cho Martina. Lường trước sẽ bị khám người, Kate đã nuốt chiếc chìa khóa còng tay và thả chiếc khóa trang trại khi McCracken túm được cô. Reynie hiểu tất cả ngay lập tức, nhưng Constance và Sticky chỉ nhìn chằm chằm, bối rối. Sao chúng lại không thấy McCracken phát hiện ra chiếc chìa nhỉ?
“Bọn tớ sẽ giải thích sau,” Reynie thầm thì. Cậu đang lo sợ tiếng mở khóa còng tay sẽ thu hút sự chú ý của mấy Gã Số Mười, nên cậu bảo Kate tiếp tục nôn ọe, và cô mau chóng áp dụng với vẻ vô cùng thích thú. Khi cô phát ra hết tiếng nôn này đến tiếng ọe khác, bạn bè cô túm tụm xung quanh như thể để an ủi cố, Kate mở tất cả khóa tay, và điều chỉnh chúng ở mức cổ tay đủ rộng hơn thích hợp. Bọn trẻ sẽ trông như vẫn bị còng tay, nhưng có thể dễ dàng tháo ra khi thời cơ đến.
Nhưng khi nào thì nó tới? Đó là câu hỏi cấp thiết nhất bây giờ, vì chúng cần sẵn sàng khi nó tới.
Bọn Số Mười đang đứng dậy, chiếc cặp táp của chúng đã được đóng gói và khóa lại, bọn chúng bắt tay một vòng như thể vừa kết thúc một cuộc họp dễ chịu. Milligan vẫn chưa xuất hiện. McCracken cài một chiếc bút chì sau tai và tiến lại gần bọn trẻ. “Nghĩ mà xem?” gã thốt lên với giọng điệu vui mừng kích động. Gã quỳ xuống trước mặt Constance, cô bé đang co mình lại, tránh cái nhìn của gã. “Mày là một chú vịt con may mắn, bé con ạ! Mày sẽ giúp McCracken!”
“Giúp ngươi?” Constance hỏi vặn.
“Ồ, phải! Mày thấy đấy, tao vừa lướt lại mọi thứ trong suy nghĩ và tao vẫn không thỏa mãn với cái cách tất cả câu chuyện của bọn mày vừa vịn với nhau đến thế. Tao nghĩ bọn mày đang giấu giếm điều gì đó với McCracken lão làng này, bọn mày là những đứa trẻ hư hỏng, và tao sẽ tìm ra đó là gì!”
“Nếu ông không thích câu chuyện của tôi đến thế,” Reynie đáp, “thì sao không nói chuyện với tôi nữa?”
McCracken không rời mắt khỏi Constance. “Bởi vì theo kinh nghiệm của tao thì đứa bé nhỏ nhất thường sẽ nói tất cả những gì người khác không định nói.” Gã đặt một ngón tay nâng cằm Constance lên. “Ta nói đúng không, bé con? Ta có thể tin rằng nhóc sẽ nói cho ta bí mật của nhóc không?”
Constance nhìn chăm chăm vào cái bút chì sắc nhọn sau tai Gã Số Mười, và môi cô bé run lên. Tuy nhiên, quyết không khóc, cô nhăn mặt lại và hét lên dữ dội vào mặt McCracken - hét đủ to để khiến hắn cau mày và lùi lại. Cô bé thét to tới lúc hết cả hơi, rồi cô nhìn nhìn gã chằm chằm, thở nặng nề, mặt mày tím đỏ như màu mận chín.
McCracken nhìn cô bé như thể rất thật vọng về cô. “Giờ thì tại sao mày lại thế, bánh bơ? Tại sao mày lại muốn làm McCracken lão làng nổi giận hả? Mày không nhận ra rằng chuyến phiêu lưu ngắn ngủi của bọn mày đã kết thúc rồi ư? Bọn mày không nhận ra rằng giờ không còn ai tới giúp được bọn mày nữa ư?”
“Đấy là ngươi nghĩ thế thôi!” Constance bật lại.
McCracken nhăn trán lại. Nheo nheo đôi mắt xanh, lão săm soi cô bé con với vẻ mặt lạnh lùng và sắc sảo. Constance trông như thể vừa nuốt phải bọ cạp và đang cầu khấn nó sẽ không chích cô trong lúc trôi xuống.
“Tại sao ư, tao không tin cái cách mày kể về kẻ giống như Risker,” McCracken theo dõi. “Ôi không. Không phải anh bạn đáng thương ở tít xa xôi trên con thuyền của mình. Bọn mày đang mong chờ ai khác, phải không?”
“Đúng, thế đấy!” Reynie đáp, hy vọng McCracken có thể nghĩ cậu đang nói dối vì tuyệt vọng. “Chúng ta đang chờ...”
“Im đi,” McCracken đáp, chỉ ngón tay đe dọa về phía Reynie. “Không nói một lời lừa bịp nào nữa.” Gã quay sang bọn Số Mười còn lại. “Có ý gì về việc này không?”
Lông mày Crawlings nhướng lên. Gã búng ngón tay tách một cái, thò vào trong túi áo khoác, và lôi ra khẩu súng pháo sáng của Milligan. “Một gã hói còm nhom làm rơi nó! Tao nghĩ bọn trẻ đã dùng nó để ra hiệu cho nhau.”
“Đúng thế chứ?” McCracken vừa hỏi và gãi gãi đầu. “Một khẩu súng pháo sáng ư? Chà, mày mới ngớ ngẩn làm sao, Crawlings! Chúng không cần một khẩu pháo sáng để ra hiệu cho nhau - tất cả bọn chúng đều ở đây, trong làng này. Thế thì mày nghĩ ai là anh bạn thực sự đã báo hiệu hả?”
“Không ai cả. Hắn đã làm rơi nó trước khi kịp bắn pháo sáng.”
“Có thể, Crawlings ạ, nhưng mày có nghĩ vụ giúp chúng ta làm nổ tung lối vào đường hầm coi như một cách thay thế rồi à?” McCracken mím chặt môi. “Mày nên leo lên xà gỗ. Sharpe, mày ra mở then cửa. Chúng ta muốn cho việc vào trong này dễ dàng hơn.”
Crawlings nháy mắt với bọn trẻ bằng mắt phải - bên mắt không có lông mày - khiến khuôn mặt gã trông lệch xéo một bên thật kì quái. Tầm nhìn đó quả là đáng lo, nhưng đáng lo hơn là cách gã leo lên một trong những xà gỗ như nhện, và biến mất vào đám xà bị che khuất sáng.
Những Gã Số Mười đang sắp đặt một cái bẫy.
Reynie nhìn sang bạn mình lo lắng. Kate hết nắm lại duỗi bàn tay, không nhìn vào mắt ai cả, quá bối rối không thốt nên lời. Constance bắt đầu bật khóc, và với khuôn mặt não nề, Sticky dỗ dành cô bé đừng cảm thấy buồn, rằng bọn chúng rơi vào mớ lộn xộn này là do cậu ta chứ không phải do cô bé.
“Đúng thế,” Constance sụt sịt. Rồi cô chuyển sang thái độ rất tập trung, như thể cô bé vừa cảm thấy gì đấy, và một lát sau, bọn chúng nghe thấy tiếng ầm ầm của Salamander.
“Đấy là Garrotte và Martina,” Sharpe vừa nói vừa từ cửa đi vào và đang nới lỏng cà vạt.
“Có thể thế và có thể không,” McCracken đáp. Gã tắt chiếc đèn đi, khiến cả căn phòng chìm trong bóng tối đen. “Chúng ta sẽ chờ và xem ai bước qua chiếc cửa kia.”
McCracken nhanh chóng có câu trả lời: Rốt cuộc không có ai bước qua cánh cửa cả. Thực tế, trước sự kinh ngạc của mọi người trong nhà trú ẩn, cánh cửa tự nó không còn ở đó nữa.