Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 03
Chương 3: Những ô cửa sổ soi gương
Lái xe đến nhà
của ông Benedict ở Thành phố Đá sẽ mất vài tiếng, nhưng họ mới đi trên đường
quốc lộ được hai mươi phút thì tâm trí Reynie đã ở đó rồi. Cậu ngẩn ngơ mơ mộng
giữa ban ngày. Ở ghế trước chiếc xe thùng, mẹ cô Perumal đang ngâm nga hát,
không để ý thấy giọng bà vang vọng cả xe. Cô Perumal đang cố nén một nụ cười.
Còn ở ghế sau, ngồi cạnh Reynie, Kate và Sticky đang kể cho nhau nghe về cuộc
sống của chúng. Đến sớm hơn Sticky và là người chăm viết thư hơn Kate, Reynie
đã biết mọi chuyện hai đứa bạn kia lúc này đang kể cho nhau. Chẳng hạn, thực tế
là Sticky đã có một cô bạn gái trong thời gian ngắn ngủi cho tới khi cô ta chia
tay vì cậu đã khen ngợi vẻ ‘chim sa[2]’ của cô ấy. (“Cô ấy không tin
tớ khi tớ bảo với cô ấy nó có nghĩa là ‘đẹp’,” Sticky ai oán nói. Kate lắc lắc
đầu. “Tốt nhất là luôn dùng những từ đơn giản thôi. Nếu cậu nói câu đó với tớ,
tớ lại chẳng cho cậu ăn đấm rồi chứ.”) Hoặc chuyện không giống như cô Perumal luôn cho là Reynie trưởng thành không bình
thường ở tuổi của cậu và đang suy tính cho cậu vào một trường đại học - nhà
Washington đã cấm bất cứ khả năng nào như thế đối với Sticky, cậu là đứa con
yêu dấu giờ đây họ đặc biệt quan tâm. (“Tớ đã nói đi nói lại với bố mẹ hết lần
này tới lần khác rằng tớ có thể xoay xở được,” Sticky nói. “Nhưng họ nhất định
không thay đổi ý kiến.”)
[2] Sticky đã dùng từ pulchritude có nghĩa là đẹp để
khen ngợi bạn gái, nhưng có lẽ đây là một từ hiếm dùng nên bạn gái cậu hiểu
sai. Ở đây người dịch dùng cụm từ chim sa, trích từ thành ngữ chim sa cá lặn,
để miêu tả vẻ đẹp hơn người của người con gái mà thời xưa hay dùng nhằm diễn
đạt cách dùng từ đặc biệt của Sticky.
Trong khi bạn bè nói chuyện,
Reynie để tâm trí lang thang hướng tới chiếc xe thùng phía trước, tới ngôi nhà
ở Thành phố Đá - với cái sân trong phủ đầy dây leo thường xuân quen thuộc và
những bức tường đá xám xịt - dĩ nhiên, cậu nhớ cả ngài Benedict nữa. Reynie có
thể nhìn thấy ông ngay lúc này: mái tóc bạc trắng lúc nào cũng rối bù; đôi mắt
sáng màu xanh lá đóng khung sau cặp kính dày; cái mũi khoằm khoằm to đùng; và
bộ đồ vải thô màu xanh lá cây mà ông vẫn mặc hằng ngày. Với những ai không
biết, ngài Benedict có lẽ trông khá giống một tên hề. Ý nghĩ đó khiến Reynie
thấy bực vì ông không chỉ là một thiên tài mà còn vô cùng tốt bụng - và theo
quan điểm của Reynie thì những người tốt rõ ràng là rất hiếm.
Bản thân ngài Benedict lại
không đồng tình với Reynie về điều này. Reynie còn nhớ cuộc nói chuyện đó rất
rõ. Nó diễn ra vài tháng sau khi chúng trở về từ điệp vụ bí mật tại Học viện,
khi Reynie vẫn còn sống ở Thành phố Đá. Bất chấp vô số những nghĩa vụ dồn dập,
ông vẫn sắp xếp một chuyến đến thăm Reynie, như ông vẫn làm hàng tuần. (Kate,
vào thời gian này, đã về sống tại trang trại, còn Sticky đã trở về sống cùng bố
mẹ ở một thành phố cách đó vài giờ đi xe. Trong bốn đứa, chỉ có Constance là được ngài Benedict nhận nuôi - sẽ ở lại
Thành phố Đá. Còn cô Perumal sẽ chuyển cả gia đình tới một căn hộ lớn hơn ở
vùng ngoại ô, nơi Reynie có thể có một phòng riêng và, không kém phần quan
trọng, có một thư viện ở gần, trong khoảng cách đi bộ được.) Sau khi Reynie
chuyển đi, những cuộc nói chuyện hàng tuần với ngài Benedict như thế này đã trở
thành bất khả thi, bây giờ cậu nhớ lại chúng với niềm yêu mến - thậm chí là
sùng kính.
Trong một dịp như thế, Reynie
tìm thấy ngài Benedict đang ở một mình trong phòng làm việc đầy chật sách. Như
thường lệ, ông chào đón cậu với sự nồng nhiệt và cả hai lại cùng nhau ngồi
xuống sàn nhà. (Ngài Benedict mắc một chứng bệnh gọi là ngủ rũ, tức là sẽ ngủ
bất chợt mỗi khi cảm xúc mãnh liệt. Trong những khoảng hiếm hoi khi ông không
bị Số Hai hay Rhonda Kazembe đeo bám đến khó chịu, ông tự bảo vệ mình khỏi
những cú ngã đau đớn bằng cách ở thật gần mặt đất.) Như bao lần trước đây, ngài
Benedict ngay lập tức nhận thấy Reynie đang suy tư điều gì đó.
“Như ta đã nói trước đây,”
ông tủm tỉm cười nói, “đây chẳng phải là kỳ công suy đoán gì cả, vì cháu, anh
bạn nhỏ của ta, luôn luôn có thứ gì đó suy tư trong đầu. Nào hãy nói cho ta
biết đó là gì đi.”
Reynie cân nhắc xem phải bắt
đầu thế nào. Tất cả đều quá phức tạp, và cậu có thể thấy chẳng có điểm khởi đầu
hay ho gì. Rồi cậu nhớ ra ngài Benedict dường như luôn bằng trực giác biết được
ý cậu muốn nói gì, dù Reynie có tìm cách biểu đạt ra được hay không. Vậy nên
cậu chỉ đơn giản nói, “bây giờ cháu thấy nhiều điều khác biệt, và nó... nó làm
cháu khó chịu, cháu nghĩ thế.”
Ngài Benedict nhìn Reynie
không chớp mắt, khẽ vuốt vuốt cái cằm lởm chởm cao đắp vì lỡ bị thương khi cạo
râu. Ông thở hắt ra qua cái mũi khoằm khoằm. “Ý cháu là vì nhiệm vụ của cháu.”
Reynie gật đầu.
“Ý cháu muốn nói rằng,” ngài
Benedict tiếp tục sau khi soi mình trong gương một lúc, “cháu bối rối trước sự
độc ác đồi bại của những kẻ có năng lực. Ví dụ như em trai ta, cũng như các
Điều hành viên của nó, bọn tay sai của nó, các học sinh khác ở Học viện...”
“Mọi người,” Reynie đáp.
“Mọi người ư?”
“Hoặc... hoặc hầu hết mọi
người. Cháu chắc chắn không nghĩ về ngài như thế - hoặc bất cứ ai trong chúng
ta, những người tập hợp lại vì ngài. Và dĩ nhiên còn có cô Perumal và mẹ cô
nữa, cùng vài người khác. Nói chung, mặc dù...” Reynie nhún vai. “Cháu nghĩ với
việc Máy Thì Thầm không được trang bị đầy đủ - những thông điệp ngầm của ngài
Curtain không thể ảnh hưởng đến trí não của mọi người nữa - à, cháu đã nghĩ mọi
chuyện sẽ bắt đầu có vẻ khác đi. Tốt đẹp hơn. Nhưng chuyện đó đã không xảy ra.”
“Cháu không phải đang nghi
ngờ việc cháu đã làm được đấy chứ, ta hy vọng thế.”
Reynie lắc đầu. “Không, cháu
biết chúng ta đã ngăn chặn để những điều khủng khiếp không xảy ra. Chỉ là cháu
không mong đợi lại bắt đầu thấy những thứ đó - thấy những người đó - theo cách
này.”
Ngài Benedict nhỏm người dậy,
rồi suy nghĩ về điều đó kỹ hơn. “Một thói quen cũ,” ông nói. “Ta thỉnh thoảng
lại cảm thấy thôi thúc muốn bước đi, cháu biết đấy, cái đó là nhẹ dạ. Nếu ta
buông xuôi và dồn tâm trí mình vào giá sách kia, Số Hai sẽ không bao giờ để ta
biết được kết cục của nó.”
Reynie cười không thành
tiếng. Cậu biết rõ tính bảo bọc đáng sợ của Số Hai.
Ngài Benedict yên vị trở lại
bàn làm việc của mình. “Điều cháu cảm thấy cũng là tự nhiên thôi, Reynie ạ.
Cháu đã thấy nhiều thứ hơn những đứa trẻ khác - thậm chí cả hầu hết người lớn -
trên thế giới này. Và ở chỗ hầu hết những người khác chỉ nhìn thấy các tấm
gương thì cháu, bạn của ta ạ, lại thấy được những ô cửa sổ. Cháu đã thấy nó và
bây giờ sẽ luôn trông thấy nó, dù cho những người khác không thể. Ta sẽ để dành
cho cháu tầm nhìn đó ở độ tuổi trẻ như thế. Nhưng đó là món quà trời ban cho
cháu, và hoàn toàn tùy thuộc vào cháu quyết định xem đó là điều tốt lành hay là
một lời nguyền.”
“Xin lỗi, ngài Benedict,
nhưng làm sao có thể là tốt lành khi biết được con người ta chẳng đáng tin cậy
chút nào?”
Ngài Benedict nhìn Reynie ngờ
vực. “Hơn cả câu trả lời cho điều đó, cho phép ta lưu ý vào cái giả thiết cháu
đang đưa ra - giả thiết rằng hầu hết con người ta đều không đáng tin cậy. Cháu
đã bao giờ cân nhắc khả năng này chưa, Reynie, rằng sự độc ác đơn giản là dễ
nhận ra hơn lòng tốt? Sự độc ác, gian trá nổi bật hơn, như nó vốn thế phải
không?”
Khi Reynie tỏ vẻ nghi ngờ,
ngài Benedict gật đầu và nói, “ta sẽ không mong cháu thay đổi quan điểm quá
nhanh. Cháu quen với việc nhận định đúng về mọi người - tất cả chúng ta đều
biết cháu có trực giác kỳ diệu đó - và thật khó để cháu nghi ngờ về những kết
luận do chính mình rút ra được. Nhưng cũng như ta làm với thói quen đi đi lại
lại, Reynie ạ, cháu phải cảnh giác với các thói quen cũ có thể làm cháu lạc
lối.” Ông khoanh hai tay và quan sát Reynie một cách sắc sảo. “Hãy để ta hỏi
cháu nhé: Cháu đã bao giờ có giấc mơ nào mà trong đó cháu thấy một con rắn chết
dưới chân mình rồi đột nhiên thấy những con rắn ở khắp mọi nơi và chúng đang
bao vây cháu chưa?”
Reynie kinh ngạc. “Cháu đã có
giấc mơ ấy. Đó là một cơn ác mộng.”
“Đúng thế. Và nó gây choáng
váng cho ta giống như khi một người lần đầu tiên nhận ra mức độ của sự độc ác
trên thế giới này. Cái viễn cảnh đó có thể trở thành nỗi ám ảnh hoàn toàn - và
cứ thế, nó cũng là một cơn ác mộng, theo cách đó ta muốn nói nó không hẳn là
một nhận định chuẩn mực về trạng thái của mọi vật. Với một số người có khả năng
quan sát như cháu, Reynie ạ, những con mãng xà chết luôn đập vào mắt. Nhưng nếu
cháu thấy những con mãng xà đó là tất cả những gì cháu thấy thì cháu có lẽ
không phải đang nhìn nhận đủ nghiêm túc.”
Reynie đã suy đi nghĩ lại
điều này - hiện vẫn đang ngẫm nghĩ về nó, thực tế không có tí tẹo nghi ngờ nào
- nhưng rồi cậu lại buông lơi chủ đề này khi ngài Benedict và cậu chơi cờ vua.
Reynie chưa bao giờ đánh bại được ông; tuy thế, trong vài trò chơi mà họ hay
chơi, cậu đã học hỏi được rất nhiều từ ông. Thông thường, ván chơi của họ hay
bị ngắt ngang bởi những cuộc thảo luận thật dài về các vấn đề khác, và lần này
cũng không ngoại lệ. Ngài Benedict không biểu lộ dấu hiệu ngạc nhiên nào khi
nửa giờ sau Reynie mới đáp lại bằng câu hỏi, “vậy ông cũng có cơn ác mộng về
rắn ạ?”
“Ồ, tất nhiên,” ngài Benedict
đáp, nhẹ nhàng đặt sang bên cạnh quân xe mà ông vừa ăn được. (Ông luôn coi
trọng những quân cờ của Reynie, như thể ông coi việc ăn chúng như là một sự cần
thiết.) “Đó là cơn ác mộng bình thường thôi, và ta đã mơ thấy nó nhiều lần rồi,
cũng như rất nhiều những cơn ác mộng khác hiếm thấy hơn. Ta e đó là một phần
trong tình trạng cơ thể của ta.”
“Ý ông là sao ạ?” Reynie biết
chứng ngủ rũ của ngài Benedict khiến ông có xu hướng phải ngủ nhiều giấc ngắn
không dự đoán trước được; ngoài ra, hiện giờ cậu nhận thấy ông hầu như không
biết gì cả.
Trong một lúc ngài Benedict
chẳng nói gì, chỉ đăm đăm nhìn ngón tay mình vẻ trầm ngâm suy tư như thể đang
ngắm chúng lần đầu tiên trong đời vậy. Đối với Reynie dường như vì lý do nào
đấy mà ông miễn cưỡng trả lời, nhưng ông cũng không muốn bác bỏ câu hỏi của
Reynie. Sự thôi thúc sau đó đã chiến thắng, sau một lúc lâu ngài Benedict ngước
mắt lên nói: “Đối với một số người như ta, Reynie ạ, thời gian buổi đêm có thể
chỉ là việc cố gắng kéo dài ban ngày thôi. Tất nhiên, kết thúc công việc để đi
ngủ luôn là cảm giác nhẹ nhõm - tạm dừng tranh đấu cả ngày như ta buộc phải làm
- nhưng ta luôn bị bao vây bởi những cơn ác mộng, những giấc mơ kỳ lạ về chứng
bại liệt không thể bước đi, và thậm chí cả những ảo giác khủng khiếp nữa.”
“Điều đó thật kinh khủng!”
Reynie thốt lên. “Cháu không thể tưởng tượng được.”
“À,” ông Benedict tiếp tục, “ta
đã quen với nó từ lâu rồi. Ta thậm chí còn làm bạn với Mụ Phù Thủy Già nữa kia.”
“Mụ Phù Thủy Già ư?”
“Một cái tên cổ xưa dành cho
một trong những ảo giác thường gặp hơn bình thường. Thỉnh thoảng ta thức dậy
thấy hình ảnh một bóng người gù có cái bướu trên lưng ở cuối giường của ta.
Buồn thay, cái ảo giác này lại thường xuyên kết thúc bằng chứng bại liệt bất
động.”
Reynie thất kinh. “Ý ông muốn
nói là có một người lạ đứng lù lù cạnh giường - trong bóng tối - và ông không
thể cử động nhúc nhích ạ?”
“Không thể hét lên nữa kia,”
ngài Benedict nói. “Điều đó quả là đáng sợ.”
Reynie rùng mình tưởng tượng.
“Cháu chắc sẽ sợ đến mất trí mất.”
“Đó là phản ứng thông thường
nhất mà,” ngài Benedict cười nói. “Mà ta cũng thừa nhận là chỉ nói chơi thôi,
chuyện ta đã làm bạn với mụ ta ấy. Có thể nói ta đã hồi phục nhanh chóng hơn
ngày trước trong những cuộc đối đầu như thế. Dù sao đi nữa, những ảo giác đó và
chứng bại liệt kia hiếm khi kéo dài lâu hơn một phút.”
Reynie nghĩ phút giây đó phải
kéo dài bất tận thì có. Rồi cậu như nghĩ ra điều gì đó. “Thế còn ngài Curtain
thì sao ạ? Ông có nghĩ điều đó cũng xảy ra với ông ta không ạ? Ông có nghĩ đó
có thể chính là lý do vì sao ông ta bị ám ảnh với việc điều khiển, kiểm soát
mọi thứ không?”
Ngài Benedict vuốt vuốt mũi. “Rất
sắc sảo, Reynie. Chính ta cũng thường băn khoăn nghĩ về điều đó. Ta sẽ không
lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng những hành hạ ban đêm mà em trai ta phải chịu
đựng và sự tranh đấu vật lộn hằng ngày đã khiến nó có ám ảnh đó. Dù từ lâu ta
đã quen với những câu thần chú bất lực của mình nhưng cũng phải mất nhiều năm
ta mới có thể thôi không cảm thấy xấu hổ vì chúng. Rõ ràng thằng em của ta đã
chọn một con đường khác hẳn và chẳng đạt được giải pháp nào cả.”
Đây là một lời câu nói giảm
nhẹ đi thôi. Reynie nhớ lại rõ ràng cùng với cảm giác kinh hãi về hình ảnh đôi
gọng kính bạc kỳ quái của ngài Curtain và cái xe lăn quen thuộc đầy uy quyền
của lão ấy nữa - thứ đạo cụ mà ông ta dùng để che giấu đi tình trạng cơ thể của
mình. Người đàn ông đó có thể trông giống y hệt như ngài Benedict, và có lẽ
cũng sở hữu một chỉ số thông minh như thế, nhưng cách tiếp cận thế giới của ông
ta lại hoàn toàn khác biệt.
Trong một phút, Reynie bị
cuốn vào ký ức khó chịu về những lần đối mặt với ngài Curtain. (Ký ức đó khó
chịu không chỉ vì sự nguy hiểm mà cậu gặp phải, mà còn vì bản thân Reynie,
trong một khoảnh khắc kinh khủng, đã từng nghi ngờ không biết cậu giống ai
hơn.) Thế nhưng, tạ ơn trời đất, cậu nhanh chóng thoát ra khỏi những phản ứng
bất thường đó nhờ một tiếng khịt mũi khe khẽ. Đầu ngài Benedict đang gục xuống
đằng trước, hai bàn tay giần giật ở bên người, ông rõ ràng lại rơi vào một giấc
ngủ rũ bên bàn cờ. Reynie có cảm giác thôi thúc muốn lẻn ra ngoài và để yên cho
ông ngủ, nhưng ngài Benedict đã nhắc đi nhắc lại chỉ thị là Reynie phải đánh
thức ông dậy khi những cơn ngủ rũ như thế xảy đến. Hoặc ít nhất cũng cố gắng đánh
thức ông dậy cho dù chuyện đó thường xuyên không có khả năng.
“Ngài Benedict!” Reynie gọi. “Ngài
Benedict!”
Ngài Benedict giật mình một
cái, sau đó ngáp dài, rồi luồn hai bàn tay qua mái tóc rối bù của mình và nhìn
Reynie vẻ biết lỗi. “Ta hy vọng là cháu không phải đợi quá lâu.”
“Không hề dù chỉ một phút,”
Reynie đáp.
Ông thở dài. “Thằng em ta đã
gây ảnh hưởng đấy, ta e là thế, cho dù vắng mặt đi nữa. Cứ nghĩ đến nó là ta
thường thấy rầu lòng...”
Reynie nghĩ là cậu hiểu điều
này - chính những ý nghĩ về ngài Curtain của bản thân cậu cũng chỉ toàn đem đến
buồn phiền. Nhưng nhìn nét mặt của ngài Benedict, Reynie nhận ra đó không phải
sự giận dữ hay sợ hãi, thậm chí là sự tổn thương khiến ông như vậy. Nó chính là
nỗi buồn.
“Nào, bây giờ,” ngài Benedict
nói cùng với cái phác tay ra hiệu về phía bàn cờ, “ta không muốn dồn cháu,
nhưng ta tin là nó bị chiếu tướng ở nước thứ sáu. Đồng ý không?”
Reynie chuyển sự chú ý trở
lại với ván cờ, nhưng mối bận tâm đã phủ bóng mây lên suy nghĩ của cậu. Rõ ràng
ngài Benedict muốn được ở một mình. Vì vậy vừa nhấc chân nhỏm lên cậu vừa nói, “lần
sau cháu sẽ thể hiện tốt hơn cho ngài thấy.”
“Ta rất mong chờ điều đó,”
ông nói, cũng đứng lên. Ông tặng Reynie một cái siết vai trìu mến khi họ đi ra
cửa. “Cho tới lúc đó, anh bạn của ta, chúc cháu có những giấc mơ vui vẻ.”
***
Reynie đang có những giấc mơ
êm ái đúng lúc Kate kéo mạnh đánh thức cậu dậy. Cậu chớp chớp mắt nhìn quanh
quất, thở phào vì những gì diễn ra hóa ra chỉ là mơ. Cậu đang ở bên các bạn
mình và qua cửa sổ xe cậu trông thấy những tòa nhà cao tầng của Thành phố Đá ở
phía trước, điều đó có nghĩa là họ sắp được đoàn tụ với ngài Benedict và những
người khác rồi. Cậu ngái ngủ cười với Kate. “Tớ đoán mình vừa gà gật xong.”
“Mệt nhoài thì đúng hơn,”
Kate nói. “Và cậu không phải là người duy nhất đâu. Sticky im tịt ngay giữa bài
diễn văn về sự phong phú đa dạng của hoa phong lan. Tớ nghĩ cậu ấy tự làm cho
bản thân chán ngắt đến mức ngủ gục luôn.”
Ngồi ở phía bên kia cạnh cô,
Sticky chỉ tủm tỉm cười. Lúc này cậu chàng đã tỉnh và đang vui vẻ lau chùi cặp
kính dày cộp của mình, tâm trạng quá tốt nên chẳng nỡ cáu giận. Reynie thấy
phần da đầu cậu hơi nhăn lại ở chỗ dựa vào vai Kate lúc ngủ.
Vào đến Thành phố Đá, họ lái
xe đi qua vài điểm mốc quen thuộc với Reynie. Có Trại tế bần nơi Reynie đã sống
mãi cho tới năm ngoái; có công viên nơi cậu và cô Perumal từng đi dạo; giờ đây
khi họ đi vào khu vực buôn bán sầm uất, tấp nập gần cầu cảng, Reynie có thể
trông thấy tòa nhà Thầy Tu. Chính tại đó cậu đã gặp Sticky và Kate, cũng giống
Reynie bọn họ đến để tham gia bài kiểm tra của ngài Benedict.
“Nghĩ mà lấy làm lạ,” Kate
cất tiếng, gần như tự nói với mình. Cô đang nhìn chằm chằm vào tòa nhà Thầy Tu
với ánh mắt băn khoăn. Khi cô gặp bố Milligan ở đó, cô đã nghĩ đó là lần đầu
tiên, không ai trong bọn họ biết sự thật về mối quan hệ máu mủ của hai người.
“Các cậu có thể tin được
không?” Sticky nói khi cô Perumal rẽ xe lên con phố dẫn tới nhà ngài Benedict. “Một
năm trước, chúng mình thậm chí còn chưa gặp ngài Benedict. Chúng mình không có
ý niệm gì về việc đó cả! Các cậu có tưởng tượng được...”
Reynie ngắt ngang lời cậu
bạn. “Có chuyện gì thế, Amma?”
Cô Perumal đang nhìn chằm
chằm vào thứ gì đó, lông mày nhíu lại vẻ lo lắng. Lũ trẻ nhướng người trên ghế
ngồi đã thắt dây an toàn, cố nhìn về phía trước. Cô Perumal đỗ chiếc xe thùng
vào lề đường, đến khi đó bọn chúng cũng thấy cái cô vừa thấy: ba sĩ quan cảnh
sát đứng dưới tán cây du trong sân nhà ngài Benedict. Họ đang trò chuyện với
một đám nhân viên chính phủ (bọn trẻ nhận ra những nhân viên này là người đã
thẩm vấn chúng sau điệp vụ lần trước), và nét mặt bọn họ rất nghiêm trọng.
“Có chuyện gì đó đã xảy ra,”
cô Perumal nói. “Các con đợi ở đây...”
Nhưng bọn trẻ đang chui ra
khỏi xe mất rồi. Với Kate dẫn đầu, bọn chúng xông tới cánh cổng sắt dẫn vào sân
trong nhà. Cả bọn bắt gặp một người đàn ông lạnh lùng lạ hoắc giơ tay ngăn lại.
Ông ta người nhỏ con - không cao hơn Kate mấy - nhưng nét mặt khó chịu của ông
ta và giọng nói lạnh lùng bực tức thì cho thấy một bầu không khí đe dọa thấy
rõ.
“Các cô cậu nghĩ đang đi đâu
thế hả?” ông ta hoạnh họe. “Các cô cậu là ai?”
“Chúng cháu là bạn của ngài
Benedict,” Kate nói.
Người đàn ông nheo mắt. “Nhóc
con nói sao? Bạn bè á?”
“Ôi, trời ơi!” một tiếng hét
vọng ra từ phía ngôi nhà. Lũ trẻ liền phóng mắt nhìn qua người đàn ông và thấy
đứng trên lối ra vào cửa trước, một người phụ nữ trẻ trung đáng yêu với làn da
đen như than và mái tóc tết bím. Dĩ nhiên, đó là Rhonda Kazembe, trong khi hối
hả chạy xuống mấy bậc thềm, cô dường như đã mất hết tinh thần khi trông thấy
chúng. “Các em đến rồi à? Các em không nhận được điện báo của chị sao?”
Kate cố chen qua người đàn
ông, nhưng ông ta thô bạo tóm lấy vai cô bé và kéo lại. “Bọn trẻ này là ai?”
Ông ta hỏi Rhonda.
“Ổn cả, ông Bane, chúng đều
là bạn. Thực ra, cô bé ông đang tóm chặt một cách quá mức thô bạo này là con
gái của Milligan đấy.”
Người đàn ông giật mình thả
Kate ra (còn cô bé thì bằng mọi giá đang cố vùng ra), Rhonda ra hiệu về phía
các nhân viên chính phủ. “Mọi người ở đây ngoại trừ ông đều biết bọn trẻ này,”
cô nói. “Ông có thể tùy thích kiểm tra thông tin với cấp trên của ông.”
Trong khi ông Bane oai vệ bỏ
đi để thực hiện việc đó, Rhonda mở cánh cổng và ôm tất cả bọn cùng một lúc. “Các
em lẽ ra không nên đến, nhưng giờ các em đã đến rồi, ít nhất chị có thể thôi lo
lắng cho các em.”
“Đã có chuyện gì xảy ra thế,
Rhonda?” Reynie hỏi.
Trước khi Rhonda kịp trả lời,
cô Perumal và mẹ cô đã đi đến nơi, theo sau là gia đình Washington. Rhonda chào hỏi họ với vẻ nhẹ
nhõm thấy rõ. “Vào trong đi,” cô nghiêm nghị nói. “Vào đi rồi tôi sẽ kể cho các
vị mọi chuyện.”
“Kể cho bọn em mọi chuyện về
cái gì cơ ạ?” Kate khăng khăng hỏi.
“Ngài Benedict và Số Hai,”
Rhonda đáp, hai mắt cô đột nhiên rưng rưng nước mắt. “Họ đã bị bắt đi.”
Lũ trẻ giật mình trước tin
sốc của cô. Bắt đi ư?
“Nhưng... nhưng ai?” Sticky
bắt đầu nói.
Rhonda giận dữ chùi nước mắt.
“Thế em nghĩ là ai chứ?”
Ngay lập tức tất cả bọn họ
đều biết câu trả lời. Reynie nói ra thành tiếng. “Đó là lão Curtain đúng không?”
“Chị sẽ giải thích mọi chuyện
khi chúng ta vào trong nhà. Chị không biết các em ở ngoài này có được an toàn
không. Rốt cuộc có kẻ nào đó phải đến giao nó. Bọn chúng có thể chưa đến gần
đây, nhưng ai biết được chúng dự định điều gì?”
“Giao cái gì ạ?” Reynie hỏi,
nhưng Rhonda không nói gì thêm cho tới khi đã dẫn bọn họ vào bên trong.
Thế là đi tong viễn cảnh đoàn
tụ hạnh phúc của Reynie bên trong căn nhà cổ của ngài Benedict. Tòa nhà ba tầng
xây bằng đá được mở rộng ra thêm chẳng theo quy cách nào, nơi đây hoàn toàn
quen thuộc, nhưng ý thức rằng ngài Benedict và Số Hai đang mất tích khiến nơi
này mang một cảm giác xa lạ. Trong lúc ông Washington giúp vợ ông đi lên các bậc thềm
trước nhà thì Rhonda bê chiếc xe lăn lên, Reynie và bạn cậu tiếp tục đưa mắt lo
lắng nhìn quanh.
Qua cửa trước họ bước vào mê
cung của ngài Benedict, nơi Rhonda và lũ trẻ đã biết rõ như lòng bàn tay. Mê
cung này là phần cuối cùng trong số các bài kiểm tra của ngài Benedict, đồng
thời là tuyến phòng vệ chống những kẻ xâm nhập ngôi nhà. Họ cùng nhau nhanh
chóng di chuyển xuyên qua nhiều căn phòng giống hệt nhau, lên cầu thang ở phía
bên kia nhà và cuối cùng đi vào phòng khách, ở đó sự xuất hiện của họ làm một
nhóm nhân viên chính phủ khác ngạc nhiên, tất cả bọn họ đều quay về phía khung
cửa với vẻ mặt e sợ.
“Ồ, hóa ra là cô,” một người
phụ nữ có mái tóc bạch kim nói với Rhonda. “Xin lỗi, chúng tôi hơi hoảng.” Cô
ta liếc mắt dò xét về phía lũ trẻ. “Tôi thấy rồi đây là...?”
“Vâng, cô Argent,” Rhonda
nói. “Tôi muốn cho chúng xem cái đó.”
Trao đổi những ánh mắt bất
an, cô Argent và những nhân viên khác cuối cùng cũng bước sang một bên để bọn
trẻ đến gần. Trên chiếc bàn ở trung tâm căn phòng có đặt một cái hộp màu nâu.
Rhonda ra dấu về phía cái
hộp. “Chuyện gì xảy ra với ngài Benedict và Số Hai đều tùy thuộc vào cái đó,”
cô dứt khoát nói. Giọng cô nghe như thể vẫn còn không thể tin được điều đó, quả
tình, như đang nói với chính bản thân cô vậy. Cô thì thầm nhắc lại, “mọi thứ
đều phụ thuộc vào cái đó.”
Bọn trẻ di chuyển đến gần
hơn. Đó là một chiếc hộp bình thường, có kích thước khoảng bằng một cái thùng
đựng hoa quả, có vài lỗ được đục trên hộp. Bọn trẻ cùng nhòm bên trong hộp qua
những cái lỗ, trong đó tối đen, hồi hộp xem cái đó có thể là gì - thứ đựng
trong chiếc hộp này sẽ quyết định số phận những người thân yêu của họ.
Đó là một con bồ câu xám. Chỉ
thế thôi. Một con chim bồ câu.