Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 02 - Phần 2
Giờ thì Kate trông có vẻ thật hối hận. “Ôi... không... tớ chỉ, à, sắp...” Cô bé nhìn về phía Reynie cầu cứu vô vọng, không thể nghĩ ra được phải nói gì.
Thật nhẹ nhõm làm sao, Sticky đã hạ tay xuống và mỉm cười. Đó là một nụ cười bẽn lẽn, nhưng ít nhất trông cậu bé không có vẻ bị tổn thương. “Cứ nói thẳng đi.”
“À, nó... đúng sự thực,” Kate nói.
“Và sâu sắc,” Reynie bổ sung, vội vàng lôi bản báo cáo từ trong túi áo ra với hy vọng tìm thấy thứ gì đó để tán dương thêm.
Kate sôi nổi gật đầu trong khi Reynie giở các trang giấy ra. “Ồ, đúng thế, nó rất sâu sắc! Và chuẩn ngữ pháp!”
Sticky nhăn mặt. “Nó tệ thế cơ à? Ồ, tớ đã biết sẽ thế mà. Các cậu đáng lẽ phải thấy mấy bản nháp trước cơ. Bản này là cố gắng lần thứ sáu của tớ đấy.” Cậu cầm lấy bản báo cáo từ tay Reynie và nhìn lướt qua nó vẻ buồn bã trước khi nhét nó vào túi áo. “Đừng bận tâm, tớ nghĩ có lẽ không bao giờ xuất bản nó đâu. Tớ chỉ muốn làm gì đó để kỷ niệm dịp này thôi mà.”
Reynie bất chợt nhìn thấu được vấn đề. “Đó là lý do tóc cậu biến mất sạch, đúng không? Ôi trời đất ơi!”
“Tớ nghĩ có lẽ cậu khoái chí với ý tưởng đó,” Sticky thú nhận. “Lần này là bố giúp tớ cạo đi - không cần phải dùng tới thuốc nữa.” Cậu bé rùng mình nhớ lại hồi ức đó.
“À, tớ thích nó đấy!” Kate nói, xoa xoa da đầu trọc lông lốc của Sticky, còn Reynie thì cười toe toét và gật đầu tán thành.
Ba đứa nấn ná ở vườn ăn trái rất lâu, say sưa nói chuyện với nhau và hồi tưởng lại điệp vụ ở Học viện. Cười đùa, rên rỉ, thỉnh thoảng lại rùng mình khi nhớ lại những gì chúng đã trải qua - tất cả vẫn còn đọng lại rực rỡ hoàn hảo trong hồi ức của chúng - mấy đứa để buổi chiều chậm chạp trôi qua. Khi Kate nhận ra bóng tối đã buông xuống trên sân trang trại, cô bé mới giật mình bật dậy.
“Ôi chao! Mọi người sắp gọi chúng mình vào nhà rồi mà Sticky còn chưa gặp Madge nữa!”
“Madge là ai?” Sticky hỏi.
“Nữ Hoàng Bệ Hạ!” Kate nói, như thể lời này giải thích hết mọi điều vậy. Cô bé nôn nóng kéo hai cậu bạn đứng lên và thúc đi ra sân trang trại, ở đó cô bé lại thổi cây còi và đút tay vào găng bảo vệ. Gần như ngay lập tức chú chim ưng xuất hiện, liệng cánh lao xuống từ một độ cao không nhìn thấy rõ rồi đậu lên cổ tay Kate.
Vẻ mặt hoang mang bối rối của Sticky nhạt dần thay vào đó là vẻ lo lắng. Mặc dù cậu sẵn lòng bộc lộ sự ngưỡng mộ với sinh vật móng sắc ngay lúc này đang chiếu tướng cậu bằng đôi mắt đen sáng quắc (“Chim ưng”, cậu thốt lên, gật gật đầu khi quay lưng đi, “giống chim ấn tượng... thần tốc nhất trong những loài săn mồi...”), cậu bé cũng không thích thú làm quen với nàng chim này. Với dáng vẻ thất thần hết mức, Sticky lấy một miếng vải từ túi áo ra và tháo cặp kính mắt.
Reynie cười thầm một mình. Cậu chẳng lạ gì thói quen lau chùi cặp kính của Sticky mỗi khi lo lắng bồn chồn, và nhìn cậu bạn làm thế ngay lúc này thật là một cảm giác thỏa mãn ngoài mong đợi. Reynie cảm thấy vui sướng tột độ khi biết rõ về một người bạn khá thích việc chia sẻ một mật mã bí mật như thế. Đồng thời cũng thật mừng khi không phải là đứa duy nhất thấy sợ con chim ưng của Kate.
“Đừng lo, Madge,” Kate nói trong khi cho con chim ưng ăn một miếng thịt sống, “tao sẽ quay về trước khi mày kịp nhận ra.” Rồi cô bé lại thả Madge lên cao, tặc lưỡi nói, “con vật tội nghiệp, các cậu có thấy nó lo lắng đến thế nào không? Cô bé biết tớ sắp đi xa. Tớ nghĩ điều đó làm cho nó bất an.”
“Ồ, đúng thế,” Sticky phụ họa vào kèm theo một cái liếc mắt đầy ẩn ý với Reynie. “Con vật tội nghiệp.”
Reynie vỗ vỗ lên lưng Kate. “Tớ chắc nàng chim ăn thịt của cậu sẽ tốt thôi.”
***
Moocho Brazos đã chuẩn bị xong một bữa ăn thịnh soạn, và bữa tối hết sức náo nhiệt, thỏa thuê, vui vẻ, với tiếng mọi người trò chuyện râm ran và các đĩa đồ ăn không ngừng được chuyển qua chuyển lại. Moocho đã làm sẵn rất nhiều bánh táo để tráng miệng, trong khi thực tế chỉ có sáu người ăn, và sự ngon miệng của mọi người được Moocho mang ra thử nghiệm.
Sau khi đống bát đĩa đã được dọn rửa, tiếng ồn ào vui vẻ lắng xuống và chuyện trò ngơi dần. Mọi người đã quá mức buồn ngủ. Đó là một ngày dài với tất cả, và một ngày đầy ắp các sự kiện khác đang đợi chờ họ phía trước. Bất chấp điều đó, lũ trẻ quyết tâm thức khuya, nhưng dù mới chỉ một năm trước chúng còn đang thực hiện một điệp vụ bí mật đưa ra các quyết định sinh tử thì bây giờ chúng cũng phải vâng theo mệnh lệnh của những người giám hộ - có nghĩa là đi tắm, chào tạm biệt chúc nhau ngủ ngon và đi ngủ.
“Ồ được,” Kate ngáp dài nói. “Chúng mình sẽ sớm tỉnh dậy thôi mà. Lũ gà trống gáy lúc mặt trời mọc, các cậu biết đấy.”
Và quả thế thật, tiếng gà gáy đánh thức Reynie tỉnh dậy vào sáng sớm hôm sau. Cậu lờ đờ ngồi dậy trên một cái nệm rơm trải dưới sàn nhà - trông thấy bầu trời bình minh xam xám xa tít bên ngoài cửa sổ và cô Perumal đang ngồi trên giường mỉm cười.
“Hôm nay là một ngày vĩ đại của con đấy,” cô nói. “Cô biết con rất háo hức. Nửa đêm con mới ngủ được phải không?”
“Cô dậy rồi ạ?” Reynie hỏi. Cậu quá mê mải với các suy nghĩ của mình đến nỗi không để ý đến hơi thở của cô Perumal. Nhưng rõ ràng là cô đã chú ý đến nhịp thở của cậu.
“Cô cũng háo hức,” cô Perumal nói. “Cô biết con sẽ thích điều ngạc nhiên của các con.”
Có điều gì đó trong biểu hiện của cô khiến Reynie chững lại. Cô vui mừng cho cậu, cậu biết - nhưng còn có điều gì đó khác nữa. Nó nhắc Reynie nhớ đến cái ngày cô lái xe đưa cậu đến dự các bài kiểm tra của ngài Benedict, khi đó cô đã cảm thấy tin tưởng cậu sẽ không còn cần đến cô với vai trò một gia sư nữa. Ánh mắt cô lúc này y như thế, nó phản chiếu sự hòa trộn giữa tự hào, kỳ vọng và một nỗi buồn thấy rõ. Nhưng bây giờ bọn họ đã là gia đình và Reynie biết không gì có thể khiến cô Perumal rời bỏ cậu. Vậy thì cô đang lo lắng về chuyện gì?
Ánh mắt cô Perumal đột nhiên thay đổi. Khẽ cười ngạc nhiên, cô quay mặt đi và khi quay lại cô khiển trách. “Cô quên mất con đọc được các biểu cảm khuôn mặt giỏi đến mức nào,” cô nói. Cô lúc lắc một ngón tay. “Con không được suy xét mọi điều quá kỹ càng, Reynie, nếu con không muốn làm mất đi sự ngạc nhiên của mình.”
Họ cùng nhau đánh thức mẹ cô Perumal dậy - giấc ngủ của bà chẳng hề bị ảnh hưởng bởi tiếng gà trống gáy, nhưng luôn dễ bị quấy nhiễu khi bị cù vào gan chân - và sau khi bà tỉnh giấc cười lớn và gọi hai cô cháu là những tên côn đồ, họ cùng dọn dẹp chuẩn bị sẵn sàng lên đường.
Cùng với cái cảm giác cam chịu, Reynie mặc chiếc áo sơ mi mà Số Hai gửi đến cho cậu vào tháng trước nhân dịp sinh nhật. Cậu biết nó là biểu hiện tình cảm yêu mến của cô ấy, nhưng vẫn không thể không nhăn mũi khi nhìn chiếc sơ mi này. Lý lẽ thuyết phục không thể phủ nhận của Số Hai là thời trang đẹp có nghĩa là sự kết hợp ăn ý giữa quần áo với màu da của người đó (tủ quần áo của cô hầu hết toàn bộ đều là màu vàng làm nổi bật thêm nước da mai mái vàng của cô), và thật hiển nhiên khi cô nghĩ chiếc áo sơ mi hoa hòe hoa sói tươi mát này sẽ hoàn toàn phù hợp với Reynie. Nó đúng là vừa vặn với cậu - phần nào thôi - nhưng Reynie không thể tưởng tượng nổi có chiếc áo nào xấu xí hơn, hay là kém thoải mái hơn (nó được làm từ vải bạt, “cho bền”, Số Hai đã viết như thế), còn bây giờ cậu mặc nó chỉ vì ngày hôm nay sẽ gặp cô.
“Cả cậu nữa à?” Sticky lầu bầu khi Reynie gặp cậu bạn ở hành lang. Sticky đang mặc một chiếc sơ mi màu nâu nhạt làm từ thứ chất liệu gì đó độn bông dày cộp - nửa thân mình cậu bé trông có vẻ phình ra - và đang nhễ nhại mồ hôi bất chấp không khí giá lạnh buổi sáng. (Reynie nhớ ra ngày sinh nhật của Sticky là vào tháng Một; không nghi ngờ gì nữa, cái áo này có vẻ phù hợp hơn với thời điểm đó.) “Họ bắt mình mặc nó,” Sticky nói, dứ dứ ngón cái về phía căn phòng cậu dùng chung với bố mẹ. Cậu bạn nhìn Reynie từ trên xuống dưới. “Cậu có nhận thấy cậu trông giống một cái túi xách không?”
“Ít nhất mình không sưng phồng lên,” Reynie trả miếng. “Đi tìm Kate thôi nào.”
Tuy nhiên, trước khi hai đứa kịp leo lên gác, Kate đã trượt xuống thành cầu thang rồi. Trước sự thất vọng của hai đứa, cô bạn đang mặc chiếc quần jean xanh lơ và một chiếc áo sơ mi bình thường đến hoàn hảo. Cô bé đáp xuống đất bên cạnh chúng với một nụ cười tươi rói vui vẻ. “Cả hai sao trông đẹp trai quá vậy trời! Các cậu sắp đi dự tiệc à?”
Sticky khoanh hai cánh tay độn bông dày cộp trước ngực. “Thế này thật không thể chấp nhận được, Kate. Cậu cần quay ngay lên trên đó và mặc vào món quà sinh nhật của cậu.”
“Chắc chắn rồi;” Reynie thêm vào. “Thắng áp đảo, Kate. Tất cả chúng ta chịu khổ cùng nhau.”
Kate đang cọ cọ vào ống tay áo vải bạt của Reynie để cảm nhận nó. Cô bé huýt sáo và tặng cho cậu bạn một cái nhìn thương tiếc. “Xin lỗi, nhưng cái của mình quá nhỏ nên mình đã cắt nó và làm những cái bao túi từ chỗ vải đó. Mình đã cho cậu xem chúng rồi phải không?” Cô bé hào hứng lật mở cái nắp giỏ. “Nó là một chất liệu rất bền, thế nên...”
“Cậu đã cho bọn tớ xem rồi,” Sticky nói bằng giọng phòng vệ. “Rốt cuộc, quà của cậu vốn là cái gì thế?”
“Của mình á? Ồ, nó là một cái áo gile có tua rua.”
Reynie đưa mắt nhìn cô bạn vẻ ngờ vực. “Nó thật sự quá nhỏ à?”
“À ừm,” Kate bẽn lẽn cười nói. “Đến giờ thì sẽ là thế.”
***
Ngày vẫn còn khá sớm khi chiếc xe chở hàng và chiếc xe kín mui phóng đi, những con người háo hức đi trên đó mới nghỉ ngơi được một chút nhưng đã được ăn uống ngon lành. Moocho Brazos đứng trên sân trang trại vẫy tay tạm biệt cho tới khi mấy chiếc xe mất hút nơi ngọn đồi xa xa. Rồi anh thở dài, buồn bã vuốt vuốt bộ ria mép. Anh đã rất gắn bó với người bạn trẻ tràn trề sức sống ấy, nên trước sự ra đi của Kate, anh thấy trang trại giờ đây thật ảm đạm. Lắc đầu vẻ sầu muộn, Moocho hướng tới khu vườn nơi có khá nhiều cây đang cần được chăm sóc.
Vì vậy vài phút sau, khi một thanh niên đi chiếc vespa đến, sân trang trại chỉ còn trống không.
Đầu tiên chàng trai rung chuông gọi - anh ta kéo vài lần - rồi đi tới kho thóc nơi anh phát hiện ra một con gà trống đang tuyệt vọng dùng mỏ gắp thóc vào đầy cái xe kéo bé xíu. Quang cảnh này làm anh ta giật mình, nhưng nhanh chóng vượt qua thắc mắc trong lòng và tiếp tục cuộc tìm kiếm để xác định người nhận bức điện tín anh ta mang đến. Khi anh ta hướng ra phía sau kho thóc (sẽ mất ít thời gian trước khi anh ta thử tìm đến vườn cây ăn trái), người thanh niên này - một nhân viên của cửa hiệu tạp hóa trong thị trấn kiêm dịch vụ điện tín - đang hy vọng ít nhất có ai đó ở đây. Công việc của anh ta là chuyển phát điện tín cho “bất cứ ai ở trang trại Wetherall”. Anh ta biết ở đây không có điện thoại, điều đó lý giải nhu cầu cần có điện tín. Người chủ già nua ở cửa hiệu tạp hóa nói với anh ta đây là bức điện tín đầu tiên họ được yêu cầu chuyển đi trong nhiều năm nay. Và nó là một bức điện rất khẩn cấp, rất đáng tò mò. Nó ghi:
CÁC EM KHÔNG ĐƯỢC ĐẾN STOP QUÁ NGUY HIỂM STOP GỌI CHO CHỊ NGAY VÀ CHỊ SẼ NÓI CHO CÁC EM BIẾT TIN TỨC STOP ÔI NÓ QUẢ THẬT LÀ TIN XẤU STOP NHẮC LẠI LẦN NỮA ĐỪNG ĐẾN NHƯNG GỌI ĐIỆN NGAY LẬP TỨC VÌ CHỊ LO SỢ CHO AN TOÀN CỦA CÁC EM STOP YÊU MẾN VÀ RẤT TIẾC RHONDA[1]
[1] Trong điện tín “stop” nghĩa là dấu chấm câu.