Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 02 - Phần 1
Chương 2: Lời cảnh báo vô hình
Kate và Reynie
dành phần còn lại của buổi sáng làm các công việc lặt vặt. Cũng hay hay, đặc
biệt khi hai đứa vừa làm vừa tán chuyện. Trong khi hái táo từ mấy cái cây sai
trĩu quả, Kate kể cho Reynie về năm học vừa qua (các lớp học cũng dễ chịu nhưng
kê nhiều bàn học quá). Trong khi hai đứa đổ đầy nước vào các máng ăn của gia
súc, cô bé miêu tả tình trạng tuyệt vọng khủng khiếp của cái nông trang cũ kỹ
này khi cô và Milligan mới trở về. Rồi trong khi tra dầu vào cánh cửa bãi thả
gia súc, cô bạn dông dài kể đến việc bố
Milligan thỉnh thoảng trở về nhà vào nửa đêm sau một nhiệm vụ bí mật, đánh thức
cô dậy nói chuyện hàng giờ đồng hồ ra sao.
“Chuyện đó mình thấy cũng
hay,” Kate vừa nói vừa kiểm tra cái bản lề cửa để chắc chắn nó đã hoàn toàn
trơn tru và không còn bị kêu rin rít. Cô ném sang Reynie một cái nhìn ranh
mãnh. “Bố kể cho tớ tất cả các bí mật hàng đầu đấy nhé.”
Reynie nhướng lông mày. “Như
thế nào?”
“Tốt hơn tớ nên đợi để kể cho
cả cậu và Stick nghe cùng một lúc,” Kate nói. “Tớ chắc là cậu ấy cũng sẽ muốn
nghe đấy.” Cô bé tỏ vẻ trầm ngâm một lúc, rồi miễn cưỡng nói thêm, “mà tớ cũng
nghĩ là chúng mình nên đợi cả Constance tới
nữa.”
“Thế thì ít nhất hãy kể cho
tớ nghe về cái thứ kia đi,” Reynie vừa nói vừa chỉ về phía hai con gà trống mà
cậu trông thấy ở góc quanh của kho thóc. Hai anh gà đang châu đầu vào một cái
xe goòng nhỏ xíu đựng đầy những hạt lúa mì, rồi với những bước chân nhỏ bé liêu
xiêu cùng một loạt những tiếng cùng cục lẫn tiếng đập cánh phành phạch, hai
chàng kéo cái xe goòng đi về phía chuồng gà.
“Gà vận chuyển,” Kate gật đầu
mãn ý. “Một trong những dự án về vật nuôi của tớ đấy.” Cô bé liếc nhìn Reynie
để dò xem cậu bạn có hiểu ý câu nói đùa của mình không, nhưng cậu dường như còn
quá bận để ý đến màn trình diễn của cái giống lông vũ kia nên chẳng nhận ra.
“Gà kéo xe goòng,” Reynie
thốt lên (cậu lịch sự giả vờ như không nghe thấy câu đùa của Kate). “Cậu làm
thế nào mà được như thế?”
“Ồ, huấn luyện gà con dễ mà,”
Kate nói. “Phần khó nhất là huấn luyện Madge để nó không săn lũ gà - tớ đã mất
hai con gà với Madge trước khi thuần dưỡng được nó đấy.” Cô bé ngừng lại một
lát để tưởng niệm mấy chú gà không may mắn kia, rồi tiếp tục hào hứng nói. “Tớ
đã kể với cậu là tớ học được rất nhiều thứ từ người huấn luyện thú, nhớ không?
Tớ đang huấn luyện các con vật trong trang trại làm việc vặt. Bố Milligan
thường đi vắng, nên nhà tớ cần nhiều sự giúp đỡ với công việc nông trang. Có
thể dùng ngay những gì chúng tớ có thật tốt phải không?”
“Xuất sắc quá đi ấy chứ,”
Reynie nói với vẻ chân thành tột độ. “Lũ gà tự cho chúng ăn, và lũ gia súc thì
tự mở đóng cửa chuồng.”
“Cậu nhìn thấy rồi à?” Kate
hỏi, vẻ mặt vui sướng. “Đúng, chúng nó đến và đi mỗi khi Moocho rung chuông
trong trang trại.” Cô chỉ về phía vườn cây ăn trái. “Nói đến Moocho, bây giờ
anh ấy đang ở đây. Này, Moocho! Đây là Reynie!”
Kate đã từng nhắc đến Moocho
Brazos trong những lá thư, nên Reynie biết mọi điều về anh ta. Ví như cậu biết
Milligan muốn có ai đó giúp đỡ việc đồng áng, đồng thời chăm sóc Kate khi ông
đi xa làm nhiệm vụ, và rồi Kate đã thuyết phục bố thuê một trong những người
bạn cũ của cô bé ở gánh xiếc. Nhưng lúc này, khi dáng vẻ ngăm đen của Moocho Brazos hiện ra từ chỗ những cây táo, Reynie mới nhận ra
Kate đã lờ lớ lơ đi không đề cập một vài chi tiết khác. Bây giờ thì cô bạn rõ
ràng không cần phải nói gì thêm vì nhìn trực diện thấy rõ những cơ bắp săn
chắc, to lớn của Moocho, mái tóc xõa xuống bóng mượt, bộ ria mép cong cong cho
biết anh ta chính là Lực Sĩ của gánh xiếc.
Moocho đang bê cái chậu nặng
trình trịch đựng đầy những trái táo mà Reynie và Kate hái lúc ban sáng. Hai đứa
để nó lại ở tít bên rìa vườn cây để Moocho mang về bằng xe tải của trang trại,
Reynie đã nghĩ vậy vì tin chắc không ai có thể bê nó mà đi nổi vài bước. Nhưng
Moocho đã đi bộ và trên đôi tay anh là chậu táo trông nhẹ nhàng chẳng khác gì
một cái bát tô đựng mấy trái sơ-ri.
“Vậy em chính là Reynie
Muldoon tuyệt vời đó hả,” anh ấy cất tiếng khi đi đến nơi. “Anh đã được nghe kể
rất nhiều về em.” Dù có vẻ bề ngoài khí thế đến bức người, nhưng giọng nói êm
ái, trầm bổng của Moocho lại khiến người ta bất ngờ ngoài sức tưởng tượng ngang
với cách phục trang của anh ta - một cái tạp dề hoa mặc bên ngoài bộ áo liền
quần lao động và đôi dép đi trong nhà. Anh đặt cái chậu xuống và cầm lấy tay
Reynie siết nhẹ. “Rất vui được gặp em.”
“Ngủ nướng đúng không anh
Moocho?” Kate hỏi.
Moocho ngáp dài lập tức cứ
như bắt được ám hiệu. “Bọn mình đã thức khuya để đợi còn gì.”
“Chỉ có Madge và em mới thức
khuya. Anh thì leo lên giường ngáy ầm ầm từ lúc chín giờ rồi.”
“Em biết tỏng rồi còn gì nữa,
thời gian ngủ của anh rất dài mà,” Moocho nói, “vậy nên đừng có quạu cọ, cô
nương. Trừ phi, em không quan tâm đến miếng bánh táo nào của anh tối nay.”
Kate lập tức thấy hối tiếc vì
lời trêu chọc của mình, sau đó kể cho anh về chiếc xe hỏng. Moocho đề nghị đi
đón cô Perumal và mẹ của cô bằng xe tải của trang trại, nhưng Reynie bảo họ sẽ
đến đây sớm thôi. Người thợ sửa xe đã hứa rằng chiếc xe sẽ được sửa xong trước
buổi trưa.
“Vậy đến lúc đó nếu họ chưa
tới đây, anh sẽ đi đón,” Moocho nói, bê cái chậu táo lên đi vào nhà. “Chúng ta
không thể để họ phải ăn trong thị trấn - quán ăn đó kinh khủng lắm.”
Reynie nhìn anh đi khỏi mà
vẫn còn lấy làm kinh ngạc làm sao anh bê được cái chậu ấy dễ như chơi thế. “Tớ
đã hiểu lý do cậu xin bố Milligan thuê anh ấy rồi. Anh ấy chắc phải làm việc
bằng tới mấy người ý.”
“Ồ dĩ nhiên, tớ cũng nghĩ
thế,” Kate nói, miệng cười ngoác đến tận mang tai. “Nhưng hãy đợi cho tới khi
cậu thử món bánh của anh ấy nhé. Rồi cậu sẽ biết lý do đích thực.”
***
Đến trưa thì thấy Reynie và
Kate vắt vẻo trên nóc mái nhà. Hai đứa lên đấy để thay một tấm lợp mái bị vỡ và
chỉnh một cánh quạt gió, sau rốt thì nấn ná luôn ở đấy để ngắm nghía bao quát
cảnh vùng quê. Từ trên cao tầm nhìn thật tuyệt vời, Kate chỉ về phía cái ao sủi
bọt xa xa, kỷ niệm mới nhất của cô là bơi cùng bố Milligan ở đó. Bỗng một âm
thanh từ đâu vọng lại thu hút sự chú ý của cả hai. Chúng quay ra trông thấy một
đám bụi mù mịt bốc lên trên con đường nhỏ ở tít xa.
“Chắc là Amma và Pati đấy,”
Reynie nói, nhưng Kate đang săm soi đám bụi mù mịt đó bằng cái ống nhòm nhỏ thì
khẽ thở hổn hển xúc động rồi la lên: “Tất cả bọn họ ở đây rồi, Reynie ơi! Ý tớ
là cả Sticky cũng ở đây rồi!”
Reynie cầm lấy cái ống nhòm -
Kate dúi nó cho cậu với sự sốt sắng khiến cậu sợ là cô bạn sẽ hất cậu ngã nhào
khỏi mái nhà mất - và chứng thực là dưới con đường bụi mù kia cô Peramal và mẹ
cô đang ở trong cái xe thùng chở hàng, theo sau là một chiếc ô tô kín mui:
những người nhà Washington đã đến sớm hơn mong đợi.
Kate bò xuống mép mái, tóm
lấy hai cạnh chiếc thang và trượt thẳng xuống như thể đó là cái cột trong các
trạm cứu hỏa, bỏ qua tất cả các bậc thang. Đến khi Reynie xuống được đến nơi
theo đúng cách trèo thang truyền thống thì sân trang trại đã đầy ô tô, người
nhà Perumal và người nhà Washington đang tán chuyện sôi nổi với Moocho Brazos
(anh chàng đã khẩn trương đi ra chào đón họ), còn Kate đang giúp Sticky từ dưới
đất đứng dậy và phủi bụi cho cậu bạn.
Trước sự kinh ngạc của
Reynie, Sticky trông y hệt như một năm trước: cậu vẫn gầy tong teo với làn da
nâu nâu, đôi mắt lo lắng (dù có thể vẻ lo lắng đó chỉ là do chưa kịp lấy lại
hơi thở), và cái đầu trọc lóc luôn. Cái khoản hói cả đầu này mới là phần đáng
ngạc nhiên. Lần cuối cùng Reynie thấy Sticky thì tóc của cậu bạn đã mọc lại, giờ
thì nó biến đâu mất tăm. Cả cặp kính dày cộp của cậu bé cũng đang mất tích,
nhưng chuyện này chỉ là vì Kate đang nhặt nó lên từ chỗ cái ôm nồng nhiệt của
cô bé làm chúng văng ra thôi.
Vừa ôm siết hai bên mạng sườn
của mình, Sticky vừa mếu máo cười với Reynie. Rồi hai cậu bé phá lên cười vang
và ôm chầm lấy nhau, vỗ vỗ vào lưng nhau. Xung quanh họ, mấy người lớn đang trò
chuyện râm ran về bộ chế hòa khí bị lỗi, về việc có một khoảng thời gian tuyệt
vời trên đường cao tốc và tình cờ gặp nhau bất ngờ trong thị trấn. Ông Washington đang lấy cái xe lăn từ trong xe tải ra cho bà Washington, hai đầu gối
của bà có vấn đề khiến bà không đi lại nhiều được, tuy thế bà vẫn cố tiến vài
bước khó khăn đến ôm Reynie và Kate. Một người phụ nữ thấp lùn với làn da màu
quả óc chó, bờ vai hẹp và cái miệng có vẻ hay hờn dỗi trái ngược hẳn với sự
hiền từ tốt bụng trong đôi mắt bà. Bà Washington
không thể nào ngưng lắc lắc đầu trong khi đôi tay bà xoay xoay mặt bọn trẻ hết
sang trái lại sang phải.
“Hai đứa đều trông có vẻ già
dặn hơn nhiều rồi đấy,” bà rầu rầu nói, như thể không chịụ nổi ý nghĩ ấy. Ông Washington tiến đến cùng
với chiếc xe lăn, vợ ông liền hạ người ngồi vào rồi chấm chấm đôi mắt long
lanh. Ông Washington
là phiên bản to lớn hơn của Sticky - cao, mảnh khảnh và đeo kính - không nhiều
lời, ông cười trìu mến và chào lũ trẻ với những cái vỗ vai dè dặt.
Trong khi đó, cô Perumal (hai
cánh tay bắt chéo sẵn sàng bảo vệ hai bên mạng sườn) đi đến ôm Kate. “Cháu xinh
tuyệt, cháu yêu! Ôi! Cô thấy cháu đã lắp một cái nắp vào chiếc giỏ rồi! Thật
thông minh!”
Kate cười rạng rỡ - cô bé
luôn phổng mũi mỗi khi có ai khen cái giỏ của mình - và chỉ vì muốn được chuồn
đi nói chuyện riêng với hai cậu bạn mới ngăn được cô bé mở cái giỏ ra chỉ cho
cô Perumal toàn bộ các thứ đựng bên trong. Cả bọn sẽ phải đợi thật lâu nữa mới
ở riêng được với nhau, đầu tiên hành lý phải được mang vào nhà, bữa trưa phải
ăn, bát đĩa phải được rửa sạch sẽ, khách khứa phải được an vị ở phòng riêng -
tất cả những chuyện đó hoàn toàn ổn thỏa vui vẻ nhưng chắc phải mất thời gian
lâu lắm mới hoàn thành xong được. Đến giữa buổi trưa thì ba người bạn trẻ đã
liên tục liếc mắt với nhau vẻ khao khát, nên khi cô Perumal yêu cầu mấy đứa
tránh đi để người lớn có thể nói chuyện riêng, chúng liền vọt thẳng ra cửa.
Nhưng, khi cả bọn đi ra vườn
cây ăn trái, Sticky nghi ngại quay nhìn về phía ngôi nhà. “Tớ thắc mắc tại sao
họ lại muốn nói chuyện riêng nhỉ?”
“Đấy là điều bất ngờ của ông
Benedict,” Reynie nói. “Họ cũng tham gia vào đó.”
“Họ ư? Vậy điều đó giải thích
lý do vì sao bố mẹ tớ cứ thì thầm suốt. Tớ còn tưởng họ đang bàn bạc về việc mẹ
tớ kiếm được công việc thứ hai chứ. Họ biết tớ sẽ sống chết phản đối nó. Các
cậu biết đấy, tớ sẽ lập tức quay lại tham gia cuộc thi vấn đáp, nhưng họ lại
sống chết phản đối chuyện đó.”
Từ những lá thư của Sticky,
Reynie biết rằng bố của cậu ấy đang phải làm hai công việc một lúc. Tài chính
của gia đình họ đang căng kinh khủng vì những sự kiện bất hạnh dẫn đến chuyện
năm ngoái. Trí nhớ phi thường và khả năng đọc của Sticky khiến cặu bé trở thành
quán quân cuộc thi vấn đáp không có địch thủ, nhưng cậu lại phải chịu một áp
lực tồi tệ để kiếm tiền cho gia đình và sau cùng đã chạy trốn khỏi nhà. Gia
đình Washington
đã chi đến từng đồng xu cuối cùng - thực tế là đã lún sâu vào nợ nần - để tìm
Sticky và mang cậu trở về với họ. Từ đó họ không tin vào sự cám dỗ của tiền bạc
nữa và ương gàn không để Sticky phải chịu những áp lực khác thường. (“Họ thậm
chí không thể ở yên để nghe mình kể về thời gian cả bọn ở Học viện,” Sticky đã
viết thế. “Chỉ nghĩ đến việc mình gặp nguy hiểm đã khiến họ run rẩy rồi.”) Vì
thế mà gia đình Washington
vẫn khá nghèo.
“Làm sao cậu phát hiện việc
họ biết về điều ngạc nhiên kia?” Sticky hỏi khi cả bọn an vị dưới bóng râm của
những cây táo.
“Amma nhận được một lá thư
của ông Benedict,” Reynie nói. “Tớ nhìn thấy nó trên bàn phấn của cô ấy, nhưng
cô ấy lại lờ đi không đề cập nó với tớ, rồi sau đấy tớ nghe lỏm được một mẩu
đối thoại của cô ấy với Pati. Pati bị nặng tai, nên Amma phải nói to. Không có
gì trong đó cho tớ đủ manh mối cả, nhưng tớ có thể nói họ biết điều gì đó mà tớ
không biết. Không lâu sau đấy tớ nhận được thư ông Benedict gửi cho - bức thư
ông gửi cho tất cả chúng mình - và tớ biết bọn mình được chuẩn bị cho thứ gì đó
hay ho.”
“Dĩ nhiên nó sẽ hay ho rồi!
Làm sao lại không như thế cơ chứ?” Kate nói, ngả người ra sau chống trên hai
khuỷu tay với một nụ cười thỏa mãn. “Nó đã tuyệt vời rồi. Chúng mình với nhau,
không phải sao? Và ngày mai bọn mình sẽ gặp ông Benedict!”
“Không kể đến Rhonda và cô Số
Hai,” Reynie thêm, ám chỉ tới hai trợ lý xuất sắc của ông Benedict (đồng thời
cũng là hai cô con gái nuôi của ông, mặc dù điều này không mấy người được
biết). “Tớ không thể đợi tới lúc gặp cả họ nữa.”
“Tớ cũng thế!” Sticky nói
bằng một tông giọng có phần được nén lại, “Và, à... cả Constance
nữa, dĩ nhiên là thế. Còn chú Milligan thế nào hả Kate? Lúc ăn trưa cậu nói chú
ấy sẽ gặp bọn mình ở nhà ông Benedict, nhưng chú ấy không ở đây à?”
“Đó là kế hoạch, nhưng rồi bố
tớ nhận được triệu tập phải đi thực thi một nhiệm vụ.”
“Nhiệm vụ gì?” cả Reynie và
Sticky cùng hỏi một lúc. Cả hai đứa đều đang đói thông tin.
Kate nhún vai. “Không biết.
Bố chẳng bao giờ kể với mình bất cứ điều gì trước khi thực hiện nhiệm vụ cả,
chỉ sau đó thôi. Mình thường xuyên đọc báo để tìm manh mối, dĩ nhiên - mình
thích có thể nói với bố là mình đã tìm ra được ông làm gì - nhưng mình chẳng
bao giờ tìm thấy điều gì cả.”
“Vậy nên cậu vẫn tiếp tục,”
Sticky nói. “Mình đã hỏi về chuyện ấy trong lá thư cuối cùng đấy, nhưng cậu
chẳng hồi âm gì cả.” Giọng cậu bé có hơi bực bội, nhưng Kate hoặc là phớt lờ nó
hoặc là vô tình chẳng để ý.
“Tất nhiên tớ vẫn tiếp tục
chứ! Nhưng tớ không giống cậu, Sticky. Tớ không thể đọc mười tờ báo mỗi sáng
được, và một nửa trong số chúng lại là ngoại ngữ nữa chứ. Tớ chỉ đọc tờ Thời
báo Thành phố Đá thôi. Tại sao ấy à? Cậu có thấy bất cứ điều gì khả nghi không?”
Sticky cằn nhằn. “Tớ ước gì
có. Thế còn cậu thì sao, Reynie?”
Mặc dù cuộc trò chuyện này có
vẻ thật kỳ lạ nếu có người nghe trộm được (vì hiếm khi nghe thấy trẻ con bàn
luận về báo chí, mà hơn nữa lại nghe một đứa hỏi liệu có thấy gì “khả nghi”
không), nhưng đối với Reynie và những người bạn của cậu thì chuyện đó là hoàn
toàn bình thường. Cả bọn đã có thói quen lâu nay là đọc báo - thực tế chính một
quảng cáo trên báo đã dẫn chúng tới với ông Benedict - và kể từ sau nhiệm vụ đó
chúng vẫn rà soát các tiêu đề báo hàng ngày với một sự hứng thú đặc biệt. Chúng
không tin có bất cứ hành động nào liên quan đến ngài Curtain sẽ được tiết lộ và
in ra nhưng khả năng một vài chuyện vô tình có thể tiết lộ ra mối liên hệ với
điều gì đó thâm sâu hơn, đen tối hơn - điều gì đó bọn trẻ sẽ nhận ra cho dù
những độc giả khác không để ý thấy. Chỉ riêng khía cạnh này là chúng vẫn cảm
thấy giống như nhưng đặc vụ bí mật, dù việc đọc báo hàng ngày khó có thể coi là
một công việc hứng thú.
Ví như sáng nay trên trang
nhất tờ Thời báo Thành phố Đá chẳng có vấn đề gì tai hại tồi tệ hơn ngoài
chuyện tài chính, vận chuyển hàng hóa và lâm nghiệp: TỶ LỆ LỢI TỨC TĂNG NHANH
CHÓNG, một tiêu đề khác là: HẠ THỦY TÀU CHỞ HÀNG ĐỂ THỰC HIỆN CHUYẾN ĐI BIỂN
ĐẦU TIÊN, một cái khác nữa là: BỌ CÁNH CỨNG ĂN HẠI Ở CÁC CÁNH RỪNG MIỀN NAM. Và
các tin tức chỉ càng trở nên kém hấp dẫn hơn ở trang thứ hai.
“Khả nghi ư?” Reynie hỏi. “Không,
trừ phi cậu nghĩ bọ cánh cứng là khả nghi. Mọi thứ tớ đọc đều chán hơn con
gián.”
Hai mắt Kate sáng long lanh. “Này,
cái đó làm cho tớ nhớ ra đấy! Sticky, tớ...”
Reynie húng hắng ho và đưa
mắt cảnh báo cô bạn. Nhưng đã quá muộn. Sticky có thể chậm chạp trong việc nhận
biết các mối liên quan, nhưng lại nhanh nhạy khác thường trong việc nhận ra
những lời xúc phạm mang tính cá nhân. “Tiếp đi,” cậu bé nói, vùi mặt vào hai
bàn tay. “Là về bản báo cáo điệp vụ của tớ đúng không?”