Trong cơn gió lốc - Chương 04 phần 1

Chương bốn

1

Sáng hôm sau, Mai theo anh đến phòng thẩm vấn. Cô bỗng hồi hộp khi nghĩ
rằng mình sắp nhìn thấy một người lính giải phóng bằng xương bằng thịt chứ
không phải bằng những hình vẽ méo mó trên những tờ báo Sài Gòn. Cô cũng có một
cảm giác yên lòng khi thấy trong phòng thẩm vấn không có những dụng cụ tra tấn.
Như vậy là sẽ không có đánh đập, ít ra là ở trong căn phòng này. Phòng thẩm vấn
lại có vẻ lịch sự sạch sẽ vì bên cạnh bộ xa-lông rất sang trọng, trên bàn còn
có một bình trà, một bộ ấm chén. Bên cửa sổ, ngoài bao lơn còn có cả những chậu
cây kiểng.

Chỉ có một vật trong cái phòng này là cô không ưa. Đó là con đại bàng bằng
đồng hun quắp thanh kiếm mà cô đã nhìn thấy hôm qua ở cổng căn cứ. Nó được gắn
trên tường, bên dưới ảnh ông Thiệu, đôi mắt nó nhìn xuống, soi mói, quằm quặm.

Anh cô ngồi vào bàn, chuẩn bị đôi thư giấy tờ rồi bấm chuông. Lát sau có
một thiếu úy trẻ bước vào, đứng nghiêm trước mặt Quang:

- Trình thiếu tá! Tù binh đã được giải đến.

- Cho hắn vô đây!

Có tiếng chân bước lệt sệt rồi trên khung cửa hiện ra một thân hình vững
chãi, một mái tóc rối bù, một gương mặt bầm dập, méo mó vì bị đánh. Người lính
giải phóng bước vào, một bên chân dường như bị đau nhưng dáng đi của anh ta vẫn
khoan thai chắc nịch. Bộ quân phục xanh của anh đã nhàu nát, nhiều chỗ bị rách
tướp, thấm máu, khô cứng lại thành những vệt thẫm. Mái tóc anh xoăn nhẹ, rủ
xuống trán. Duy chỉ có đôi mắt anh, đôi mắt mà sau này Mai nhớ mãi, là vẫn sáng
rực, đầy nghị lực và tự tin. Anh nhìn thẳng vào mặt thiếu tá Quang bằng những
ánh mắt giễu cợt. Rồi ánh mắt ấy chợt dừng lại phía Mai, thoáng chút ngạc nhiên,
như tự hỏi: người con gái này là ai, tới đây với mục đích gì? Mai chợt lúng
túng, cúi mặt. Cô như muốn nói với anh: “Tôi không phải là người trong cuộc, nghĩa
là không dự phần vào việc hành hạ anh mà tôi chỉ là một “khán giả” của cuộc
thẩm vấn vày.”

Thiếu tá Quang khẽ mỉm cười (lần đầu Mai nhìn thấy cái mỉm cười ấy ở anh
mình), chỉ chiếc xa-lông:

- Mời anh ngồi!

Người chiến sĩ ấy ngồi xuống, gương mặt anh vẫn không chút thay đổi, xao
động.

- Mời anh uống nước để ta bắt đầu cuộc nói chuyện. Tôi rất lấy làm buồn khi
phải nhìn thấy anh thế này.

Mai liếc xéo về phía anh cô như tự hỏi: “Có đúng là anh ấy đã nói những lời
giả dối ấy không? Nhưng không phải anh ấy thì là ai?” Giọng điệu ấy có khác chi
giọng điệu tên thiếu tá Mỹ chiều qua, cũng lịch sự theo kiểu giả dối và thêm
nữa, rất trắng trợn.

- Hôm nay tôi hy vọng chúng ta sẽ nói chuyện với nhau dễ dàng hơn, thân
thiện hơn.

Anh chiến sĩ giải phóng khẽ nhếch mép cười:

- Cám ơn! Ông cứ bắt đầu đi. Tôi nghĩ rằng nó sẽ không “thân thiện” hơn đâu.
Tốt hơn hết ông hãy vứt bỏ cái trò ve vãn ấy đi và hãy làm tất cả những gì mà
ông có thể làm.

- Ông Tuấn... - Mai chợt giật mình khi nghe thấy cái tên ấy. - Chúng tôi
đâu có muốn đối xử với ông như vậy. Chúng tôi sẵn sàng đền bù cho ông tất cả. Chỉ
cần ông cho chúng tôi biết một điều...

Anh chiến sĩ giải phóng chợt cất tiếng cười:

- Vẫn cái điều ấy... Hướng chiến dịch chính ở đâu chứ gì?

Thiếu tá Quang hồ hởi gật đầu:

- Đúng lắm! Đó là tất cả những gì chúng tôi muốn biết. Ông chỉ cần nói một
câu là êm thôi mà.

Anh chiến sĩ giải phóng xoay hẳn người lại, gương mặt anh thoắt trở nên
linh động, đầy sức sống:

- Thú thực, ông đã làm cho tôi vui. Tôi cứ hy vọng mỗi ngày ông đưa tôi trở
lại căn phòng này và hỏi câu hỏi đó. Cho đến khi chiến dịch nổ bùng. Lúc đó, hẳn
ông sẽ biết hướng chính của chiến dịch ở đâu. Tôi sẽ không nói gì đâu, mặc dù
tôi biết có thể tôi phải hy sinh tính mạng.

Thiếu tá Quang đã thấy khó chịu, nhột nhạt, nhưng vẫn cố giữ vẻ điềm tĩnh:

- Tôi e rằng tới lúc đó... ông sẽ hối hận.

Anh chiến sĩ giải phóng lắc đầu kiên quyết:

- Sẽ không có chuyện đó đâu, thưa ông thiếu tá. Vì nếu cuối cùng tôi hy
sinh mà điều bí mật kia giữ được thì tôi vẫn lãi cơ mà. - Anh chợt mỉm cười. - Trong
ngành kinh doanh mà các ông rất sành thì có bao giờ người ta từ chối lời lãi
đâu.

Quang cựa quậy liên hồi trên ghế. Mai chợt giật mình khi nhìn thấy đôi mắt
của anh trai mình. Nó đã đỏ vằn, tóe lên những tia dữ tợn. Đột nhiên, gã đứng
dậy, đi những bước dài trong phòng để tự trấn tĩnh mình. Tiếng cá sắt trên đế
giày nghiến ken két trên nền đá hoa. Cuối cùng, Quang dừng lại trước bàn, đứng
đối diện với người lính giải phóng, tiếp tục thuyết phục:

- Ông Tuấn! Tôi hỏi thực ông: có lúc nào ông nghĩ đến cha mẹ, anh em và
những người thân yêu đang chờ ông ở đất Bắc xa xôi kia không? Ông chết, cứ cho
điều đó với ông nhẹ như lông hồng đi... Nhưng bao nhiêu người thân yêu của ông
sẽ chịu đau khổ? Đồng đội ông, nếu họ có biết sự hy sinh ấy thì cũng chỉ cúi
đầu, bỏ mũ vài phút, sau đó họ sẽ quên ngay. Trong cuộc chiến tranh đẫm máu này,
mỗi ngày có đến hàng trăm người phải bỏ mạng, ai mà nhớ cho xiết. Vậy thì, cái
chết của ông liệu có ý nghĩa gì?

Anh chiến sĩ giải phóng chợt đứng vụt dậy, nhìn thẳng vào mặt thiếu tá
Quang. Giọng anh bỗng vang lên sang sảng, đĩnh đạc như những lời buộc tội:

- Ông thiếu tá! Tôi đã có ý định không tranh luận gì với ông, nhưng nghe
những điều ông vừa nói, tôi tự thấy phải nói thêm một điều nữa. Ông vừa nói đến
cái chết và sự sống. Cố nhiên, quan niệm của chúng tôi và các ông về điều ấy
thật khác xa nhau. Tôi sẵn sàng chết để không phải sống kiếp sống của các ông, làm
một tên lính đánh thuê cho bọn xâm lược Mỹ. Các ông sẵn sàng bán rẻ cả tổ quốc
danh dự của mình để mua lấy kiếp sống hạ đẳng.

- Câm ngay!

Quang hét lên như một con thú rồi chồm qua bàn thoi một quả đấm vào giữa
mặt người lính giải phóng. Mai ôm mặt hét lên một tiếng: “Anh Hai!” Khi mở mắt
ra, cô chợt rùng mình khi nhìn thấy một dòng máu đỏ lòm đang chảy trên miệng
người chiến sĩ giải phóng. Anh đưa cánh tay lên lau dòng máu trên miệng mình
rồi ngước nhìn Quang một cách căm hờn và khinh bỉ:

- Đây chính là điều “thân thiện” mà ông đã rào đón phải không ông thiếu tá.
Tôi biết ông không còn cách nào khác. Nhưng nghe những lời ngọt ngào, xảo trá
của ông, tôi còn khó chịu gấp trăm lần ông thoi quả đấm vào mặt tôi kia.

Quang giận điên, lồng lên như một con thú. Tiếng gã rít lên, rờn rợn:

- Được! Mày sẽ được toại nguyện. Trung sĩ Hớn! Cho nó vào buồng tra tấn. Đập
nát sọ nó ra cho tao!

Mai gục xuống bàn để khỏi nhìn tên trung sĩ to béo, trước khi lôi người
lính giải phóng ra khỏi phòng, đã liên tiếp thoi nắm đấm vào bụng anh. Sau đó
là tiếng đấm đá huỳnh huỵch, tiếng nước xối, tiếng những dụng cụ tra tấn ném
xuống sàn xi măng xoang xoảng... Hóa ra, buồng tra tấn chỉ cách căn phòng lịch
sự này có một bức tường!

Một lát sau, không chịu nổi những âm thanh khủng khiếp đó, cô đứng phắt dậy,
ôm đầu chạy vụt ra cửa.

Trở về phòng ngủ của mình, Mai thấy mệt mỏi, rã rời như vừa qua một cơn
bệnh nặng. Cô nằm vật trên giường, bần thần suy nghĩ. Trong đầu cô luôn vang
lên những lời đối đáp của anh cô và người tù binh cộng sản. Cô đã thấy trong
cuộc đụng độ này, sức mạnh không thuộc về anh cô. Mặc dù đã nắm trong tay sinh
mạng của người tù binh ấy nhưng rõ ràng anh cô đã tỏ ra bất lực. Còn anh ta thì
đĩnh đạc, ung dung và tự tin biết mấy. Anh ta đã nói rất minh bạch về cái sống
và sự chết. Anh ta đâu có sợ chết nếu cái chết là một sự hy sinh cao cả. Anh ta
không mưu cầu danh lợi cho riêng mình. Vậy thì anh ta có một sự hy sinh trong
sáng. Bọn tướng tá Sài Gòn vẫn thường lớn tiếng nói về sự hy sinh. Nhưng, hãy
thử bảo họ hy sinh một phần trong những gia tài kếch sù của họ cho Tổ quốc xem
họ có giãy nảy lên không? Chưa nói đến sự hy sinh cao cả nhất, đó là hy sinh
tính mạng, hy sinh sự sống của mình.

Nói rằng anh ta hành động như vậy, dũng cảm như vậy là vì cuồng tín, có
đúng không? Nhưng hành động của anh ta đã được tính toán chặt chẽ, tỉnh táo, không
thể là kết quả của một niềm tin ngây thơ. Vậy thì, anh ta tin vào cái gì hẳn
cái đó phải trong sáng, đẹp đẽ lắm mới đến cái độ anh ta sẵn sàng hiến dâng cả
tính mạng mình để bảo vệ niềm tin ấy.

Ờ, mà anh ta cũng tên Tuấn? Một sự trùng hợp kỳ lạ, như cố ý vậy. Mai chợt
rùng mình khi nghĩ rằng, ở một nhà lao nào đó, người yêu của cô cũng đang bị
tra tấn, đánh đập như thế. Gương mặt trong sáng, đẹp đẽ như thiên thần của anh
cũng sẽ bầm dập, méo mó như gương mặt người tù binh cộng sản kia.

- Ôi! Không thể như thế được! - Mai kêu lên thảng thốt rồi gục đầu xuống
gối, khóc nức nở.

Khóc một hồi, Mai thấy tự nhiên lòng mình nhẹ nhõm hơn. Một ý nghĩ hết sức
minh bạch chợt vang lên trong cô: “Phải nhanh chóng trở về Sài Gòn để tìm cách
cứu anh ấy. Mình yếu đuối nhưng... mình có tiền bạc. Tiền bạc có thể làm được
tất cả, kể cả việc chứng minh rằng anh ấy vô tội! Ôi ngu dại quá! Sao mình
không nghĩ ngay ra điều đó khi còn ở Sài Gòn? Đúng rồi! Anh ấy vô tội! Trời ơi!
Hãy nhanh chóng trở về Sài Gòn...”

Cô đứng bật dậy, cuống quýt chạy từ góc này sang góc kia như người mất trí.
Chợt nhớ ra điều gì, cô cất tiếng cười vang rồi chạy lại, vồ lấy máy điện thoại,
rối rít gọi tổng đài xin số máy của đại úy phi công Huỳnh Thuận.

2

Thanh Mai uể oải đặt ống nghe xuống, khẽ thở dài. Vậy là cô phải nằm lại
một ngày nữa ở cái thị xã buồn tẻ này. Kể từ cái ngày chợt nảy ra ý nghĩ trở về
Sài Gòn gấp để đi tìm Tuấn tới nay đã bốn ngày trôi qua nhưng Mai vẫn chưa đi
được vì một lý do đơn giản: không có máy bay. Anh Quang không cho cô đi đường
bộ vì sợ không an toàn. Còn Huỳnh Thuận thì cứ đều đều, mỗi ngày ba lần điện
thoại tới tận nơi thăm hỏi. Lần nào khi Mai hỏi “Em đã có thể về Sài Gòn được
chưa?” anh ta đều lắc đầu, thất vọng. Đã có lúc Mai bực mình và nghĩ rằng: hay
anh ta cố tình muốn kéo dài thời gian ở Buôn Ma Thuột của mình để thực hiện ý
đồ chinh phục? Nhưng, nhìn vào đôi mắt đượm buồn của Thuận, Mai cố ghìm mình để
không nói buột ra điều đó.

Những ngày ấy đối với Mai thật vô nghĩa, buồn bã, trống vắng đến không chịu
nổi. Kết quả cuộc thẩm vấn của anh cô vẫn không đâu vào đâu nên anh cô lúc nào
cũng hầm hè, bực dọc, sẵn sàng nổi quạu. Có lần Mai hỏi:

- Thế nào, anh tù binh của anh đã chịu khai chưa?

Quang phác một cử chỉ thất vọng:

- Vô ích! Hắn ta là một tảng đá chứ đâu phải là người.

Mai nói móc:

- Vậy coi chừng anh bị lột lon đó.

Thế là Quang nổi đóa:

- Thôi! Cô im đi! Biết chi mà xớ rớ vô chuyện người ta.

Buổi chiều Quang vẫn đưa Mai tới tiệm “Bồng Lai” để ăn cơm, uống cà phê và
nghe nhạc, nhưng tình cảm giữa hai anh em như đã có một khoảng cách. Mai không
còn hồn nhiên như trước, mỗi lần nói chuyện với Quang, cô phải cố ghìm mình để
đừng phát ra những câu móc ngoéo chua cay, tránh cho anh mọi sự hiểu lầm. Quang
cũng buồn rầu khi nhận ra sự đổi khác đó. Quang hiểu rằng để Mai ở đây lâu thật
bất lợi. Tên thiếu tá Mỹ ngày nào cũng tới vài lần để ve vãn Mai. Cô em gái
bướng bỉnh của anh thì lại lấy làm thích thú về điều đó, cô không bỏ lỡ một cơ
hội nào để công kích, đá móc, xỏ xiên tên Mỹ. Có lần cô đã làm hắn nổi giận, đùng
đùng bỏ về, đã tưởng hắn sinh chuyện. Nhưng hôm sau, tên bụng phệ si tình ấy
lại mò đến, lại cười nói hố hế như không có chuyện gì xảy ra. Biết đâu hắn
chẳng đang nuôi dưỡng một âm mưu nào đó. Quang biết, đối với người Mỹ, không có
một thủ đoạn nào họ không dám làm để đoạt được tham vọng. Bởi vậy chính Quang
là người sốt ruột hơn cả. Ngày nào Quang cũng giục Thuận mau tìm cách đưa Mai
về Sài Gòn. Tình hình cao nguyên ngày càng căng thẳng, ngột ngạt, chiến sự có
thể xảy ra bất cứ lúc nào, để Mai ở đây ngày nào là nguy hiểm ngày đó.

Cho đến một buổi chiều, Mai đang nằm dài trên đi-văng đọc cuốn “Trọn đời lỡ
hẹn” của bà Lan Phương thì thiếu tá Quang hớt hải chạy về. Nhìn thấy vẻ mặt hớt
hải của anh, Mai biết có chuyện hệ trọng, vội nhỏm dậy hỏi:

- Có chuyện gì thế anh Hai?

Quang giục:

- Em chuẩn bị đồ đạc ngay đi, anh đưa ra sân bay. Một giờ nữa Huỳnh Thuận
sẽ bay về Plây Cu.

Mai ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại về Plây Cu, anh?

Quang nhăn nhó giải thích:

- Tình hình căng thẳng lắm rồi. Thám sát của ta vừa phát hiện thấy nhiều
dấu hiệu chứng tỏ Việt cộng đang chuẩn bị tiến công Buôn Ma Thuột. Không chừng
chỉ nội trong đêm nay, trận đánh sẽ diễn ra.

Mai hỏi ngây thơ:

- Vậy, mình biết trước mà không làm cách sao ngăn cản được ư?

Quang lắc đầu, chán ngán:

- Bây giờ thì vô phương. Các lực lượng chủ lực tinh nhuệ của ta đã bị xé ra
làm trăm mảnh vì kế nghi binh của họ rồi. Vả lại, đến bây giờ mà trên quân đoàn
họ vẫn chưa chịu tin Việt cộng sẽ tiến công Buôn Ma Thuột. Họ trả lời rằng đó
là những hoạt động nghi binh, còn đại quân của Việt cộng thì đã tập trung xung
quanh Plây Cu. Đến nước này rồi mà đại tá tư lệnh sư đoàn và ngài tỉnh trưởng
vẫn còn đang ngồi chơi tứ sắc.

- Vậy hả?

- Vậy đó...! Tướng tá của ta là đồ ăn hại ráo trọi.

Mai bỗng đột ngột nảy ra ý định muốn ở lại để “xem họ đánh nhau ra sao”, nhưng
nhìn nét mặt cau có của Quang, Mai đành im lặng đi thu vén đồ đoàn của mình để
chuẩn bị ra sân bay.

Tuy vậy, thị xã vẫn được lệnh báo động.

Trên đường ra sân bay, Mai đã nhìn thấy rõ không khí chiến tranh. Mọi người
đi lại hấp tấp, vội vã. Những ánh mắt nhìn nhau lo âu. Binh lính đi lại nhộn
nhịp. Xe nhà binh phóng như điên. Thành phố hôm qua còn bình thản như thờ ơ với
mọi chuyện mà hôm nay đã thoắt biến đổi, tất cả như đang nín thở, lo âu, hồi
hộp chờ đợi những tai họa như bất thần ập tới.

Nghĩ đến cảnh ngày mai bom đạn sẽ rơi xuống nơi này, rồi đổ nát, điêu tàn, nhà
cháy, người chết... Mai khẽ rùng mình. Chiến tranh quả thực là tàn nhẫn và khắc
nghiệt. Chỉ có một kẻ hân hoan đón nó, đó là Thần Chết. Hắn mong cho nhân loại
cấu xé lẫn nhau, để chiếc lưỡi hái đen ngòm tội lỗi của hắn tha hồ mà gặt những
linh hồn khờ dại ngốc nghếch hoặc hoàn toàn vô tội.

Đối với hắn thì người chính cũng như kẻ tà, đều béo bở như nhau. Giờ đây có
lẽ hắn đang bay lơ lửng ở đâu đó trên bầu trời của cái thị xã xanh tươi này và
khoái trá chờ đợi con người nã đại bác và xối bom đạn vào nhau.

Ở phi trường, không khí chiến tranh càng rõ hơn. Những người lính xách súng
AR.15 chạy ngược chạy xuôi. Từng tốp máy bay lên thẳng vũ trang ầm ĩ cất cánh. Một
phi đội A.37 lặc lè bom vừa bay lên. Ở các trạm điện thoại, tiếng chuông réo
liên hồi. Những người lính lặng lẽ đi, lặng lẽ chạy, vẻ mặt đầy vẻ lo âu, phiền
muộn.

Huỳnh Thuận đang ngồi tán dóc với mấy anh bạn cùng phi đoàn dưới cánh máy
bay. Thấy chiếc xe của Quang đã tới, anh vội vã chạy ra đón. Họ bắt tay nhau mà
không nói gì cả. Mai hiểu bây giờ không phải lúc để tâm sự hay đùa bỡn. Thậm
chí, Thuận cũng không biểu lộ những nét vui mừng vì sắp được đưa một thiếu nữ
lên trời như hôm nào ở phi trường Tân Sơn Nhất. Mai bỗng thấy sự xuất hiện của
mình ở đây thật vô lý, từ đây cô sẽ thành gánh nặng cho mọi người, cô thở dài
buồn bực vì nhận ra điều đó.

Sau khi Quang nói những lời ủy thác của mình, Thuận chỉ khẽ gật đầu và quay
sang Mai, an ủi:

- Cô Mai yên tâm, tôi hứa sẽ đưa cô về Plây Cu, nếu có anh bạn nào bay về
Sài Gòn, tôi sẽ gửi cô về với gia đình.

Nói xong những câu ấy, hai người như quên bẵng sự có mặt của Mai và quay
sang nói chuyện với nhau về tình hình nghiêm trọng hiện nay. Quang tỏ ra phẫn
nộ khi gã nói rằng Bộ tư lệnh sư đoàn đã không chịu nghe theo những đề nghị về
phòng thủ của gã, rằng, khả năng Buôn Ma Thuột bị tiến công đã rõ như hai với
hai là bốn, vậy mà các cấp chỉ huy của gã vẫn như điếc như mù. Theo gã, nếu bị
tiến công, thị xã Buôn Ma Thuột có thể mất nội trong vài ngày. Nghe nói tới đó,
Mai chợt lo cho số phận của anh mình. Biết đâu, đây chẳng là lần cuối cùng anh
em cô được gặp nhau. Tim cô như thắt lại, nghẹn ngào, nước mắt tự nhiên trào ra.
Và, cô cứ lặng lẽ khóc như vậy cho tới khi Quang tiến lại, đặt tay lên vai cô
em gái cưng của mình.

- Lau mắt đi, coi tội chưa?

Mai vội níu lấy cánh tay anh:

- Em lo cho anh quá.

Quang vuốt tóc em an ủi:

- Không sao đâu, cưng ạ. Anh không chết đâu. Số anh hên lắm mà. Anh nói
Thuận nó lo cho em chu đáo rồi. Cuối tuần em sẽ về tới Sài Gòn.

Những lời an ủi ấy của Quang không làm Mai yên tâm, nhưng cô không muốn để
anh buồn nên cố gắng ra bộ tươi tỉnh. Thấy vậy Quang hơi yên lòng, gã nhìn đồng
hồ rồi nói với Mai:

- Hôm nay anh phải trực nên không thể chờ tới lúc Thuận cất cánh được. Em ở
lại đây rồi về nghen!

Nói rồi Quang kêu Thuận ra một góc rỉ tai nói nhỏ điều gì đó. Mai chỉ thấy
Thuận gật đầu và liếc xéo về phía cô. Biết cả hai đang bàn định về số phận của
mình, lo lắng cho mình, cô khẽ thở dài, quay đi.

Lát sau Quang tiến lại, âu yếm hôn lên trán Mai và nói:

- Thôi, em về nghen! Anh gửi lời chào ba má. Em phải vui lên chứ, cưng!

Mai khẽ nhếch mép cười, nhưng nụ cười trên môi cô mới gượng gạo làm sao!
Quang quay gót, đi nhanh lại xe. Gã bước vội lên xe, nổ máy, đưa tay vẫy chào
hai người rồi cho xe lao vút đi. Mai chạy lên mấy bước, thảng thốt gọi:

- Anh Quang!

Nhưng Quang không quay lại. Mai đứng lặng trên đường băng nhìn theo chiếc
xe cho tới khi nó khuất sau dãy nhà kho trước mặt. Lòng cô rối bời. Miệng cô
luôn lẩm nhẩm mấy tiếng: “Chiến tranh! Chiến tranh!”

Thuận đã tới bên cô. Anh cũng chỉ lặng yên, không nói gì. Lòng anh cũng
đang như lòng cô. Rối bời.

Lát sau, Mai quay lại nhìn thẳng vào đôi mắt đượm buồn của Thuận, khẽ hỏi:

- Theo anh, nếu Buôn Ma Thuột bị tiến công, quân ta có giữ nổi không?

Thuận lắc đầu:

- Vô phương!

Mai cũng chợt thấy điều đó thật rõ ràng. Trong đầu cô thoáng hiện lên hình
ảnh người chiến sĩ giải phóng mà cô đã gặp ở phòng thẩm vấn của anh cô. Anh ta
là tù binh, bị xiềng xích, bị đánh đập nhưng anh ta có sức sống hơn cả những
người được tự do như anh Quang, như Thuận. Niềm tin của anh ta chặt chẽ, vững
chắc chứ đâu có ốm yếu như niềm tin của Quang, của Thuận. Có một cái gì khác
biệt giữa họ mà cô không hiểu nổi? Một người ngồi trong tù, bị xiềng xích lại
mỉm cười và tin mình sẽ thắng; còn những người như Thuận đây chẳng hạn, ngồi
bên những chiếc máy bay hiện đại, được tự do mà luôn nhăn nhó, sầu não và chỉ
nghĩ rằng mình sẽ thua? Tại sao lại như vậy? Sức mạnh của họ, của những người
như anh tù binh cộng sản kia, ở đâu?

Đột nhiên, cô quay lại hỏi Thuận:

- Anh có sợ chết không?

Thuận nhìn cô, hơi ngạc nhiên vì câu hỏi ấy. Suy nghĩ một lát, anh trả lời:

- Nói cho cùng thì ai mà chẳng yêu quý sự sống của mình. Nói cho thật lòng
tôi rất sợ phải chết, cô Mai ạ. Tôi sợ, không phải vì nghĩ rằng: nếu mình chết,
có nghĩa là chẳng được ăn, nói, đi đứng, yêu thương... mà vì rằng, sẽ có một
lúc nào đó tôi chết vì cuộc chiến tranh này mà không hiểu mình chết để làm gì?
Người ta đã nói quá nhiều đến sự hy sinh, đến lòng ái quốc, đến sự tri ân liệt sĩ
của muôn đời. Nhưng tôi thấy rằng, xin lỗi cô, tất cả đều láo toét hết. Tôi chỉ
thấy có mỗi một ý nghĩa ràng buộc tôi với cuộc chiến tranh là tiền. Nếu bây giờ
người ta cắt lương của tất cả các sĩ quan và bảo rằng để đóng góp vào việc mua
sắm vũ khí chống cộng chẳng hạn; rồi hô hào họ hãy chiến đấu, hãy hy sinh, thì
tôi đoán chắc với cô rằng: chỉ một tuần, có khi chỉ vài ba ngày thôi; thì sẽ
chẳng còn thằng ma nào chịu bận cái bộ đồ lính này làm gì. Chiến tranh như một
áp phe lớn, là tôi nói chiến tranh ở phía chúng ta, bọn Mỹ có tiền và tung ra, chúng
ta là những người làm công cho họ. Vậy thì, giữa kẻ làm công và ông chủ áp phe
chỉ có mỗi sợi dây ràng buộc là tờ i ê iên tiên huyền tiền.

Thuận đánh vần chữ “tiền” bằng một giọng khinh bạc và cay đắng. Mai hiểu, Thuận
là người thành thật. Ít có ai dám nói ra điều đó, mặc dù hầu như tất cả mọi sĩ
quan, binh lính chế độ này đều nghĩ như vậy. Cô thấy rằng giữa Thuận và anh cô
đã có những quan điểm trái ngược nhau. Anh cô thường nói đến lý tưởng, đến tự
do, đến lòng yêu nước, đến hiểm họa cộng sản... Nhưng, chưa bao giờ cô thấy anh
cô nhắc tới những điều đó với một tình cảm chân thành như Thuận nói đến “tiền”.

- Hôm rồi... - Cô nói. - Tôi có được xem anh Quang hỏi cung một tù binh
cộng sản. Tôi có thể nói với anh rằng đó là một con người đáng kính phục. Bị
tra tấn đến bầm dập cơ thể nhưng anh ta vẫn không hề khai nửa lời. Anh ta luôn
tỏ ra đĩnh đạc, tự tin. Tôi đã nghe anh ta nói thế này về cái chết và sự sống: “Tôi
sẵn sàng chết để khỏi phải sống kiếp sống nô lệ như các ông. Còn các ông thì
sống bằng mọi giá...”

Mai không dám nhắc lại mấy câu cuối, sợ chạm đến lòng tự ái của Thuận, cô
dừng lại ở đó và hỏi:

- Về họ, anh Thuận có nhận xét gì không?

Thuận hơi ngạc nhiên về những vấn đề mà Mai đặt ra. Rõ ràng, đó không phải
là những điều chỉ muốn biết để thỏa trí tò mò. Mai đặt ra những điều đó chứng
tỏ cô đã có những suy nghĩ nghiêm túc về thời cuộc. Có thể, cũng như anh, cô
đang đi tìm sự thật của cuộc chiến tranh này. Anh biết, đối với cô có thể hoàn
toàn thành thật.

- Về họ, - Anh nói. - tôi chưa có được những hiểu biết chính xác và sâu sắc.
Có lẽ những ngăn cách về ý thức hệ đã ngăn trở chúng ta hoặc vì chúng ta không
dám nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vì sự thật bao giờ cũng khắc nghiệt. Tôi chỉ có
một nhận xét: họ thực sự có sức mạnh. Sức mạnh của họ không xuất phát từ nguồn
gốc vật chất. Bằng chứng là họ đã bắt đầu đối chọi với chúng ta bằng những vũ
khí thô sơ và bằng tay không. Còn chúng ta thì bắt đầu cuộc đối chọi với họ
bằng những phương tiện hiện đại. Bây giờ, tuy so sánh lực lượng giữa ta và họ
đã gần ngang bằng nhau, thậm chí có những mặt họ hơn hẳn chúng ta. Điều đó
chứng tỏ họ đi lên mà ta thì đi xuống, mặc dù ta chẳng thiếu một thứ gì trong
tay. Vậy thì, sức mạnh của họ phải có nguồn gốc từ một cái gì đó, thuần nhất về
tinh thần, về lý tưởng. Khái niệm lòng yêu nước của họ hình như đúng hơn của
chúng ta. Họ có một ý chí kiên định về toàn vẹn lãnh thổ. Còn chúng ta, chúng
ta chỉ mong đất nước Việt Nam này có hai quốc gia riêng biệt. Thậm chí, đã có
một thời, người ta mong muốn miền Nam này trở thành một bang của hiệp chủng
quốc Hoa Kỳ, nhưng sau đó, thấy như vậy thì trắng trợn quá, nên không còn ai
dám nhắc tới điều đó nữa. Nhưng tôi tin rằng không ít người trong chính phủ ta
còn mong muốn như vậy. Họ đang hoảng sợ vì Mỹ ngày càng lộ rõ ý định bỏ rơi
chúng ta. Cô có thấy ở Sài Gòn dạo này người ta đang làm ầm ĩ lên về chuyện đó
không? Như thế là nghĩa lý gì? Kêu van quốc hội Mỹ đừng bỏ rơi Việt Nam Cộng
Hòa (!) Chao ôi! Khái niệm về “danh dự” và “Tổ quốc” của chúng ta là như vậy
đấy. Ở bên kia Thái Bình Dương, người ta đang mặc cả xem cái giá của chính phủ
Sài Gòn là một tỉ bảy hay là hai tỉ hai! Vậy thì cô bảo nó đáng giá bao nhiêu?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3