Trong cơn gió lốc - Chương 04 phần 2
Mai biết Thuận chỉ đặt ra câu hỏi mà không cần trả lời nên cô im lặng ngước
nhìn anh, biểu lộ sự đồng tình. Trên gương mặt Thuận lộ rõ những nét xúc động, anh
định nói điều gì nữa nhưng lại cố kìm nén. Hồi lâu sau, anh mới nói tiếp bằng
giọng nói nhẹ nhàng, thoải mái, bớt chua cay hơn:
- Như thế cô cũng thấy một cách hết sức rõ ràng là sức mạnh của chúng ta
không tùy thuộc ở chúng ta. Vậy thì, đừng hy vọng gì cả.
Mai đột ngột hỏi:
- Như vậy, cuối cùng chiến thắng sẽ thuộc về họ.
Thuận mỉm cười, chua xót:
- Biết đâu có một sức mạnh thần bí nào đó - Chúa chẳng hạn - cứu được sự
sụp đổ của chúng ta.
Mai im lặng giây lâu rồi đột nhiên hỏi:
- Này, tôi hỏi thực anh nhé! Nếu anh biết trước rằng anh đang nằm trong một
con thuyền sắp đắm sao anh không thể nhảy ra mà bơi vào bờ. Hoặc giả, anh cảm
thấy họ đúng hơn chúng ta sao anh không đứng hẳn về phía họ.
- Sự đời đâu có đơn giản thế cô Mai? Tôi đã nói với cô rằng tôi chỉ mới cảm
thấy. Chúng ta ngồi trong một vũng bùn, thấy hết cái thối tha của nó nhưng giũ
được đâu có dễ. Hơn nữa không phải tôi hoàn toàn tán thành cộng sản, tôi chưa
hiểu họ. Cái đã hiểu mà tôi còn chán ngấy nữa là cái chưa hiểu.
- Vậy anh mơ ước một xã hội như thế nào?
- Chà... Rắc rối đấy. Cô truy tôi tới cùng. Thôi được, ý nghĩ của tôi về
một xã hội lý tưởng như thế này: đó là một xã hội không có phe cánh này nọ, không
thân cộng và cũng không thân Mỹ.
- Một chế độ trung lập?
- Gần như thế. Nhưng thôi, quái quỷ thật! Sao tôi lại có thể nói chuyện với
cô thoải mái và say sưa như thế này? Tôi mong rằng cô đừng mang những chuyện
này nói với ai. Họ sẽ cho cô là điên khùng. Như tôi chẳng hạn, bạn bè vẫn gọi
tôi là thằng khùng vì tôi thường có những ý nghĩ kỳ quặc.
Thuận nói rồi bước tới xách va li của Mai về máy bay. Trong giây phút này, Mai
chợt thấy Thuận gần gũi với mình hơn. Mấy ngày trước đây, Mai chỉ coi Thuận như
một gã si tình, vì say mê mình nên tận tụy. Bây giờ cô hiểu rằng Thuận có những
phẩm chất đáng quý hơn cô và anh cô vẫn đánh giá. Ít ra anh là người có tâm
huyết, có chính kiến rõ ràng về thời cuộc. Theo cách hiểu ngây thơ của cô thì
Thuận có cả những trăn trở, xót xa vì cảnh đất nước bị điêu tàn vì chiến tranh,
lửa máu. Nhưng Mai cũng hiểu rằng Thuận bất lực và bế tắc, chính anh ấy cũng
chưa tìm được cách cứu vớt bản thân mình, chính anh ấy cũng chưa biết nên tin
vào đâu? Vậy thì, làm sao mình có thể gửi gắm ở con người ấy niềm tin của bản
thân mình?
Nghĩ vậy Mai khẽ thở dài, lặng lẽ bước theo Thuận trên đường băng xám xịt.
Đã đến giờ cất cánh. Chiếc C.130 từ từ lăn bánh trên đường băng rồi đột
nhiên tăng tốc độ. Mai chợt thấy cảnh vật nhòe đi sau cửa kính. Cô nhắm mắt lại.
Khi tiếng động cơ đã êm dịu trở lại, cô mới mở mắt và thấy mình đã ở trên không
trung. Từ trên cao nhìn xuống, thị xã Buôn Ma Thuột vẫn bình yên như chưa hề
xảy ra một biến cố gì. Đó là sự bình yên giả tạo, cũng như sóng biển lặng đi
trước lúc bắt đầu một cơn bão.
3
Ở Plây Cu tình hình cũng căng thẳng không kém gì Buôn Ma Thuột. Chiếc máy
bay của Thuận vừa hạ cánh chừng ba mươi phút thì sân bay bị một trận pháo kích
dữ dội chưa từng thấy. Trọng pháo 122 ly của Quân giải phóng cứ nhè đúng những
kho xăng, kho đạn, khu để máy bay mà nổ. Khói lửa đùn lên kín trời. Cả sân bay
nhao nhác. Lính cứu hỏa đội mủ vàng ngồi trên xe vòi rồng vun vút phóng đi. Không
gian như tấy lên, nồng nặc mùi thuốc bom, thuốc đạn, mùi ét xăng, mùi thịt
người chết...
Thuận đưa Mai về với chị Tám, chị họ anh, vợ một kỹ sư sửa chữa máy bay.
Đó là một người đàn bà mềm mại, yếu đuối, có gương mặt nhẹ nhõm thanh thoát
như những cô gái trong tranh tố nữ, đôi mắt chị lúc nào cũng như mọng nước, đượm
buồn. Mai đến giữa lúc chị đang bồn chồn đứng ngồi không yên, thỉnh thoảng lại
thấy chị chạy ra cửa ngóng và thở dài não ruột. Thuận ghé tai Mai nói nhỏ: “Anh
Minh đang ở ngoài khu sửa chữa máy bay, chỉ đang lo đó. Em tính cách sao an ủi
chỉ đi.”
Nhưng Mai đã tỏ ra bất lực. Chị Tám không còn lòng dạ nào để tiếp chuyện cô
nữa. Chị đi đi lại lại trong phòng, bồn chồn, khắc khoải. Rồi chị quay
tê-lê-phôn xin nói chuyện với khu sửa chữa nhưng người ta nói rằng đường dây đã
bị đạn pháo băm nát, chưa kịp sửa. Thế là chị la trời, chị khóc, chạy ra chạy
vô như một người mất trí. Đến lúc mệt quá, chị chạy vào giường gục xuống gối. Mai
nghiễm nhiên phải đóng vai trò một “người lớn”. Cô an ủi, vỗ về chị, nói với
chị rằng, có lẽ anh Minh của chị đã chạy kịp vô hầm; rằng, kinh nghiệm cho thấy
bom đạn tùm lum như thế nhưng thường tác hại chẳng là bao. Cứ như cô coi tướng
(qua hình của anh Minh) thì ảnh cao số lắm, chưa thể chết được. v.v... Tất cả
những điều cô viện ra đó đều rất vu vơ, cô nghĩ được điều gì thì nói điều ấy, vậy
mà chị tin. Giống như một người sắp chết đuối được người ta ném cho những cọng
rơm, chị bình tĩnh trở lại, ôm lấy Mai thủ thỉ:
- Chắc ảnh không hề chi, phải không em?
Mai gật đại:
- Chắc vậy chị ơi, ảnh sắp về với chị cho coi.
Mai vừa nói xong thì có tiếng Hon-đa lao xẹt tới. Chị Tám bật dậy như một
chiếc lò xo:
- Ảnh về rồi! Trời ơi! Ảnh về thiệt đó em!
Chị mừng quá, quýnh quáng không biết làm gì. Chị chạy ra tới cửa lại lao
trở vào ôm lấy Mai:
- Trời ơi! Em cưng của chị! Em nói trúng phóc hè!
Buông Mai ra chị lại lao ra cửa như một cơn lốc. Mai mỉm cười chợt nghĩ:
tình cảm của những người vợ yêu chồng mãnh liệt vậy đó, mình chưa hề lo cho ai
như thế, ngay cả đối với Tuấn. Khi nghe tin anh ấy bị bắt, mình có lo sợ nhưng
đâu có quýnh quáng điên dại tới mức đó.
Anh Minh dắt vợ vào, vừa đi vừa vỗ về. Chị vợ không biết đào đâu ra nhiều
nước mắt như thế. Chị cười mà nước mắt vẫn chảy chan chứa trên mặt. Anh Minh
thì buồn bã, mệt mỏi, trên gương mặt đầy vết sạm của khói, quần áo nhàu nát bẩn
thỉu. Chị Tám sờ nắn khắp người, coi anh có bị thương không, rồi chị giục anh
đi thay đồ. Anh Minh như bị chị vợ lôi đi. Mai có cảm tưởng anh làm tất cả
những việc đó: rửa mặt, chải đầu, thay đồ, uống cà phê,... chỉ vì chị.
Nửa giờ sau, chị Tám mới qua cơn xúc động. Lúc đó chị mới nhớ rằng trong
nhà còn có một người thứ ba nữa và chợt thấy ngượng vì tình cảm xô bồ của mình.
Chị mời Mai ra uống cà phê rồi giới thiệu với chồng:
- Đây là cô Mai, em gái thiếu tá Quang ở sư đoàn 23 bạn của cậu Thuận. Ở
trỏng tình hình căng, anh Quang gửi cổ ra ngoài ni để rồi về Sài Gòn.
Kỹ sư Minh khẽ gật đầu chào Mai:
- Ngồi xuống em. Ai chứ thiếu tá Quang với anh cũng là chỗ quen biết. Ủa, nhưng
nghe nói em đang học luật cơ mà? Bỏ học rồi à?
Mai bẽn lẽn đáp:
- Dà...! Em ngán học hành quá rồi mà anh.
Minh cười, xoa tay:
- Các cô các cậu hồi này hư lắm, học hành thì lười nhác, chơi bời thì xả
láng, càn quấy... Nhưng anh tin em không thuộc vào loại người như vậy. Hay em
tính thôi học để lấy chồng cho êm?
Mai cười khúc khích, vội cải chính:
- Đâu có! Em ngán thì bỏ... chồng con chi thời ni cho cực, anh ơi.
Rồi cô lảng sang chuyện khác:
- Ngoài phi trường giờ sao rồi anh?
Minh thở dài:
- Tiêu hết! Mấy chục máy bay đi đời, kho tàng cháy tùm lum cả.
- Có ai chết không anh?
Minh ngước nhìn cô gái tỏ vẻ ngạc nhiên vì câu hỏi ngây thơ ấy.
- Dĩ nhiên là có chứ. Bom đạn quá trời vậy mà. Chị Tám em đây có phước nên
còn được nhìn thấy anh đó. Thời buổi này lấy chồng làm lính cực lắm em ơi.
Mai an ủi:
- Nhưng anh là kỹ sư cơ mà!
Minh nhếch mép cười ngao ngán:
- Với bom đạn thì thịt lính hay thịt kỹ sư đều như nhau cả thôi.
Chị Tám vỗ vào vai chồng:
- Khiếp hè! Nói vậy mà nghe được.
Mình nhìn vợ rồi quay lai nói với Mai:
- Em thấy không! Lúc này thấy anh còn sống trở về chị Tám em coi mừng hết
nói nổi. Vậy, thử đặt giả thiết anh bị bom đạn nó xơi tái như mấy anh bạn xấu
số kia thì lúc đó chị Tám em sẽ sống ra sao?
Chị Tám chợt tái mặt:
- Anh! Đừng nói nữa, em sợ!...
- Nhưng đó là sự thật, em ạ. Biết đâu ngày mai hay ngày kia chẳng đến lượt
anh. Chiến tranh mà! Anh và em đều ghê tởm nó, nhưng vẫn phải tiếp tục sống vì
nó, làm sao khác được.
Mai chợt nhớ những lời Thuận nói với cô ở sân bay Buôn Ma Thuột. Có lẽ
Thuận đã đúng khi nói rằng những người như anh chỉ là những kẻ làm công cho một
áp phe chiến tranh. Tại sao lại phải như vậy? Chẳng lẽ, còn người không thể làm
gì để sống ngoài việc “làm chiến tranh”? Ôi! Ước gì tất cả những cái chết tiệt
ấy mất đi. Con người chỉ sống yêu thương, hòa hợp với nhau. Cùng là người Việt
Nam tại sao bên này lại bắn giết bên kia? Theo cô, bên nào cũng phải gánh lấy
một phần trách nhiệm vì sự đổ máu ấy. Nhưng ai, bên nào, sẽ lãnh trách nhiệm
của lịch sử để dập tắt ngọn lửa đau thương này? Cô không tin những người như
anh Quang, như Thuận, như anh Minh, như những người lính đang hoảng loạn ngoài
sân bay kia lại có thể đảm đương nổi vai trò lịch sử đó. Vậy thì ai? Có thể là
những người cùng lý tưởng với người tù binh cộng sản ấy được chăng? Nhưng, đến
lúc này, những hiểu biết của cô về họ vẫn còn mong manh quá. Cô cũng không rõ, trong
thâm tâm, cô mong cho bên nào thắng trận nữa. Chưa bao giờ tâm trạng cô lại bị
chia năm xẻ bảy như trong những ngày này.
Chiều ấy khu gia binh trĩu nặng màu tang. Tiếng khóc than của những người
vợ lính có chồng chết trong vụ pháo kích và trong những trận đụng độ lẻ tẻ phía
ngoại thị từ ngày qua cho tới nay, vang lên rền rĩ, ai oán. Thuận đi tới tối
xẩm vẫn không thấy trở lại. Pháo vẫn bắn từng chập khi dài, khi ngắn, sân bay
vẫn đang cháy, không hiểu Thuận có hề chi không? Cô chợt thấy thương Thuận quá,
có thể Thuận sẽ chết, điều đó có khăn gì đâu. Nếu vậy, Thuận sẽ không còn có cơ
hội để hiểu ra cái điều anh đang muốn hiểu; thậm chí, tới phút đó Thuận vẫn
chưa thể hiểu được mình chết vì cái gì?
Đối với một con người, còn có gì đau xót hơn thế nữa?
***
Mười giờ sáng hôm sau Thuận mới trở về, mệt mỏi, bơ phờ như người mất hồn. Anh
cứ ngồi lì ra trên ghế, mặc cho chị Tám và Mai săn sóc. Một hồi lâu anh mới
quay sang Mai nói nhỏ:
- Buôn Ma Thuột bị tiến công, có lẽ đã mất rồi.
Mai chợt bủn rủn chân tay:
- Sao?... Vậy thì... Anh Quang có sao không?
Thuận ngồi lặng lẽ một lúc mới đáp:
- Có trời mà biết được. Một phi công trực thăng mới bay trợ chiến ở trỏng
về cho biết Quân giải phóng đã chiếm được những nơi trọng yếu của thị xã và
đang tiến công căn cứ sư đoàn 23.
Mai thảng thốt kêu lên:
- Chỗ anh Quang!
Thuận gật đầu xác nhận:
- Phải, chỗ đó! Cả quân đoàn 2 đang choáng váng vì đòn tiến công bất thần
đó.
Mai giận dữ hét lên:
- Sao lại bất thần? Anh Quang đã đoán trước. Đã...
Thuận chợt cất tiếng cười, khô khốc:
- Anh Quang! Anh Quang cô thì là cái thứ cóc khô gì... cả một lũ tướng tá
lốc nhốc còn mù tịt, còn bất lực nữa là...
- Thế còn anh Quang?
Trong ánh mắt Thuận lại lóe lên những tia sắc lạnh đến rợn người.
- Ông Quang à? Hứ... khỏi lo. Ổng sẽ chết... như một người hùng của thế
giới tự do.
Chợt hiểu rằng điều mình vừa nói đã khiến Mai hoảng sợ, anh vội vàng hạ
giọng, an ủi:
- Tôi nói vậy chứ chết cũng khó lắm, cô Mai ạ. Có thể anh Quang sẽ bị bắt
làm tù binh. Nếu vậy thì thật may mắn cho ảnh.
Im lặng một lúc lâu. Không khí trong nhà như đã nhuốm màu tang tóc. Thuận
vẫn ngồi lầm lì như một tảng đá, điếu thuốc trên môi anh lập bập, khói phun mù
mịt, gương mặt u uẩn của anh ẩn hiện, xa xăm. Hồi lâu anh nói:
- Cô Mai ạ, máy bay của tôi cũng đã bị cháy. Phải, chính cái máy bay mà cô
đã bay từ Sài Gòn lên cái vùng khói lửa này ấy. Nó tiêu ma rồi. Người ta đã
chuyển tôi sang môt phi đội máy bay chiến đấu A.37 vì hiện nay đang thiếu người
lái. Có thể chiều nay tôi sẽ bay đi Buôn Ma Thuột, ném bom vào một chỗ nào đó
mà người ta sẽ chỉ cho tôi, để chi viện cho những người đang cầm cự một cách
tuyệt vọng ở đó. Cố nhiên, bây giờ người ta không thể làm gì hơn.
Mai lo lắng hỏi:
- Anh đi... ném bom! Vậy, có nguy hiểm lắm không?
Thuận cười, chua chát:
- Biết nói sao? Mình dội bom xuống đầu họ thì họ phải tìm cách xả đạn vào
đầu mình. Đó là quy luật của chiến tranh mà. Nếu tôi có chết cô cứ bám riết lấy
anh Minh và chị Tám, anh chị đây sẽ tìm cách đưa cô về Sài Gòn an toàn.
Mai nhìn Thuận rồi nhìn chị Tám đầy vẻ hoang mang. Sao người ta ở đây nói
đến cái chết với vẻ thờ ơ như vậy? Chẳng lẽ tính mạng con người rẻ rúng đến vậy
hay sao? Còn cô, sao chưa bao giờ cô nghĩ rằng mình cũng có thể trúng một viên
đạn. Có thể như vậy lắm chứ. Có lẽ, cho đến tận phút này cô vẫn cảm thấy mình
còn là người ngoài cuộc, chính mình cũng đang là nạn nhân của cuộc chiến tranh
tàn khốc này.
Chị Tám mang rượu và mực nướng lên. Thuận vừa xé mực ăn vừa nhấm nháp ly
rượu. Mắt Thuận nhìn ở tận đâu đó xa hút. Dường như lúc này anh quên tất cả rồi.
Quên cả cái chuyện Quang định làm mai cho anh lấy cô em gái đang ngồi kia làm
vợ. Quên cả bầu trời ám khói chiến tranh; quên cả chính mình nữa. Có cái gì
đáng để cho anh nhớ chăng? Phải, nếu có thì cái đó ở xa lắm, từ thuở anh còn là
cậu bé kháu khỉnh, nghịch ngợm, chuyên gây gổ, đánh lộn để rồi về nhà với cái
trán sưng vù, cho má vừa khóc vừa lấy dầu xoa lên vết đau đó. Còn bây giờ, những
cái bây giờ sao mà mờ nhạt, vô vị đến thế? Cả tình yêu mà anh dành cho Mai cũng
nhạt nhẽo, vô vị như vậy. Thật may mắn vì anh chưa nói gì với Mai. Nếu anh nói
ra. Mai nhận lời thì một mai anh chết, Mai sẽ đau khổ; Mai không nhận lời thì
cho đến khi chết anh vẫn còn mang mối hận tình. “Tốt quá! Mình chưa nói gì cả
và như vậy nếu mình có chết thì cũng chẳng có gì phải ân hận. Không đúng! Mình
có nhiều điều phải ân hận chứ. Trong đó điều ân hận lớn nhất là mình đã phó
thác cuộc đời mình, tuổi trẻ mình cho một cái gì đó rất vô nghĩa nhưng cũng rất
bẩn thỉu. Phải, bẩn thỉu quá, ghê tởm quá! Bẩn thỉu và ghê tởm tới mức không ít
người như mình, nhận ra sự bẩn thỉu, ghê tởm ấy mà không tìm cách thoát ra được.”
Thuận vừa ngồi nhấm nháp vừa tự vấn mình, hơi men càng bốc lên, đầu óc anh
càng nhằng nhịt những ý nghĩ, những câu hỏi, những câu trả lời. Nhưng... cũng
đến lúc phải đứng lên, trở về với thực tại. Hà!... Cuối cùng cũng chẳng có gì
khác hơn là trở về với thực tại. Chết chìm trong lòng nó. Anh đặt cái ly đánh
cạch xuống bàn, đứng vụt dậy chụp mũ lên đầu rồi quay lại nói với chị Tám:
- Em đi nghen! Nếu rủi em có chết thì chị lo cho cô nhỏ này nhé.
Chị Tám la lên:
- Nói tầm bậy tầm bạ không hà.
Thuận không đáp, chỉ cười để chứng tỏ rằng mình tin vào những lời vừa nói. Rồi
anh quay sang Mai, đặt tay lên vai cô, ân cần nói nhỏ:
- Anh đi nghe Mai! Nếu anh không trở về thì Mai hãy nhớ lấy những điều mà
chúng mình đã nói với nhau ở sân bay Buôn Ma Thuột. Còn, nếu anh trở về thì sớm
muộn anh cũng sẽ hiểu ra cái điều mà chúng ta chưa hiểu nổi...
... Và Thuận ra đi. Mai thấy có cái gì nghèn nghẹn nơi cổ. Phút ấy, nếu
Thuận quay lại, đến bên cô, có lẽ cô sẽ không ngăn nổi mình, sẽ ôm lấy Thuận mà
hôn, mặc dù cô không yêu Thuận. Cô thấy thương anh, thương số phận của anh vô
cùng. Khi cái bóng cao lớn của Thuận đã đi khuất, Mai chợt có linh cảm rằng từ
nay mình sẽ mất một nơi nương tựa vững chắc nhất, tin tưởng nhất.
Lại có tiếng đại bác rít trên đầu. Chị Tám hốt hoảng dắt tay Mai lôi vào
hầm trú ẩn. Tiếng pháo nổ mỗi lúc một dữ dội. Hai người đàn bà nép vào nhau khẽ
thở dài.
4
Cái điều Mai linh cảm thấy khi tiễn Thuận ra phi trường chiều hôm qua đã
trở thành sự thật. Thuận đã ra đi và không bao giờ trở về nữa.
Sáng hôm sau, Mai và chị Tám đang ngồi nghe Minh kể về tình hình Buôn Ma
Thuột thì một trung úy phi công từ ngoài bước vào. Sau khi chào mọi người, anh
ta hướng về Mai hỏi:
- Xin lỗi, cô có phải là cô Thanh Mai không ạ?
Biết có tin chẳng lành. Mai đứng bật dậy, mặt tái nhợt đi:
- Vâng, tôi là Thanh Mai, có chuyện gì vậy ông?
Người sĩ quan không quân ngập ngừng giây lát rồi nói:
- Dạ thưa... Tôi được ủy thác tới báo tin... đại úy phi công Huỳnh Thuận đã
bị các lực lượng phòng không của Quân giải phóng bắn hạ!
Mai lao tới ôm lấy chị Tám:
- Trời! Chị ơi... Anh Thuận!
Hai chị em ôm lấy nhau mà khóc. Mai cũng không hiểu sao mình lại đau xót
thực sự như vậy. Thì ra Thuận vẫn gần gũi với cô hơn cô vẫn thường nghĩ.
Cô xót xa cho cuộc đời anh, một cuộc đời đầy u uất, trắc ẩn. Anh chết cũng
tự nhiên như anh đã sống. Tựa hồ, anh biết mình sẽ chết mà không sao tránh nổi
cái chết.
Chị Tám vừa khóc vừa kể lể gì đó. Hình như chị đang kể về gia đình Thuận. Đó
là một người đàn bà bất hạnh. Sinh Thuận xong bà lâm bịnh và sau đó tuyệt đường
sinh nở, người mỗi ngày một cằn cỗi. Ba Thuận lấy vợ hai và từ đó ông ta quên
luôn rằng mình đã có một người vợ cả đang đau khổ vì bệnh tật. Thuận lớn lên
trong một gia đình như vậy. Tuy vẫn được cha nuôi nấng, cho học hành, nhưng
cuộc đời của mẹ anh, anh đã sớm nhìn thấy cảnh đời đen bạc.
Mai tự hỏi: “Cuộc đời anh có thể khác đi được không?” Nhưng làm sao mà trả
lời được câu hỏi ấy, khi chính cô cũng không hiểu rằng, rồi đây, cuộc đời mình
có thể khác đi được không?
Anh trung úy phi công nói lí nhí mấy câu gì đó. Hình như anh an ủi Mai và
chị Tám rồi vội vã quay gót. Còn Minh, anh cũng chẳng biết nên an ủi vợ và Mai
câu gì. Họ khóc cho người chết và cũng khóc luôn cho số phận của những người
đang sống. Mai khóc Thuận và cũng là khóc Quang. Vợ anh khóc cho em họ và cũng
là khóc chồng. Đồng thời, họ cũng đang than khóc cho số phận của họ nữa.
Mặc cho hai người đàn bà nỉ non than khóc, Minh lững thững bước ra khỏi nhà,
đứng nhìn về phía sân bay. Ở đó, những đám cháy vẫn bốc lên dữ dội, khói đùn
lên đen trời. Đó, sức mạnh của họ là như vậy đấy! Anh không hiểu, không hình
dung nổi đối phương đã lấy đâu ra lực lượng để vừa dương Đông vừa kích Tây. Họ
ép Plây Cu tưởng tắt thở, tưởng chỉ ngày một ngày hai sẽ đánh chiếm thị xã này,
ai ngờ họ lai bất thần úp Buôn Ma Thuột. Toàn bộ lực lượng của sư đoàn 23 và
phần lớn các liên đoàn biệt động tinh nhuệ đã được tung đi giải tỏa, nhưng vô
hiệu. Cả cao nguyên có nguy cơ mất trắng, nếu Việt cộng đánh tiếp Plây Cu hay
Công Tum nữa thì quân đoàn 2 còn đâu lực lượng mà chống đỡ. Các lực lượng dự bị
chiến lược của Bộ tổng tham mưu cũng bị chia năm xẻ bảy và bị chôn chân khắp
nơi rồi. Tình hình này cũng đừng trông mong gì ở bọn Mỹ. Chúng đang đứng ngoài
nhìn xem liệu ta có đứng được hay không, hễ ta xuống thế là chúng phủi tay liền,
bản chất của bọn Mỹ là như vậy.
Tình hình có thể còn xấu đi rất nhiều, rất nhanh. Anh cảm thấy mình cần
phải có biện pháp nào đó để thu xếp cho Mai và vợ mình lánh trước đi. Tốt nhất
nên để cho họ về Nha Trang trước, như vậy anh đỡ vướng bận, đỡ lo lắng hơn. Nghĩ
vậy anh vội vã bước vào nhà.
Cả hai chị em đã thôi khóc, mỗi người ngồi một nơi, mặt mày ủ dột, não nề. Anh
tiến lại, đặt tay lên vai Mai nhẹ nhàng an ủi:
- Đừng buồn nữa em. Anh chẳng biết an ủi em ra sao cả. Trong lúc này có bao
nhiêu điều bất hạnh, chúng ta làm sao mà đủ nước mắt để khóc tất cả những điều
đó. Phải có nghị lực, phải bình tĩnh để mà vượt qua, em ạ.
Mai ngước nhìn Minh bằng đôi mắt biết ơn. Cô biết, anh muốn nói nhiều hơn
tất cả những điều anh đã nói. Chợt anh thở dài, hỏi:
- Em với Thuận... thế nào rồi?
Mai khẽ lắc đầu:
- Không... có gì đâu anh. Nhưng... chính vì thế mà em thương anh Thuận hơn.
Anh là một người tốt, ngay thẳng, chính trực mà... chết...
Nói tới đó nước mắt cô tự nhiên lại trào ra. Không muốn kéo dài cảnh đó, Minh
quay sang bảo vợ:
- Em này, anh tính vầy có được không? Tình hình ở đây căng lắm, e rằng rồi
đến lượt Plây Cu cũng bị tiến công. Anh tính thu xếp để em và Mai về Nha Trang
trước đi!
Chị Tám giãy nảy:
- Không được! Em không thể bỏ mặc anh ở đây.
- Bộ em tính ở đây làm gì?
Chị Tám dằn dỗi:
- Em không thể bỏ anh ở đây một mình, vậy thôi. Cứ ở đây, chết bỏ!
Rồi, không để chồng tiếp tục thuyết phục, chị quay sang bảo Mai:
- Êm rồi, chị em mình ra phố mua cái gì... cúng cậu Thuận cho khỏi tội.
Mai ngoan ngoãn đứng dậy, tới trước gương sửa mình qua quýt rồi xách làn
cùng chị Tám bước ra. Chị Tám liếc xéo về phía chồng một cái mà không chào, ra
bộ mặt giận. Anh Minh đành bất lực, cười xòa cho qua chuyện.
Ra tới đường phố, Mai mới thấy rõ hơn tình cảnh chiến tranh. Dân phố kéo
kín đặc các quầy bán gạo, dầu, chất đốt. Giá cả tăng vùn vụt. Dân chúng thì
thầm kháo nhau về những chuyện bom đạn, chết chóc, bắt bớ về Quân giải phóng
đánh nơi này nơi nọ. Có người còn quả quyết rằng chỉ vài bữa nữa Quân giải
phóng sẽ chiếm được cả Plây Cu và Công Tum.
Quầy vàng hương đông nghẹt. Nhiều thiếu phụ chít khăn tang, mắt đỏ hoe tới
mua hàng. Bà bán vàng hương mập ú như một cái thùng tô nô, toe toét cười, đon
đả mời khách. Mai chợt thấy khó chịu. Sao mụ ta lại cười được nhỉ? Có lẽ nhiều
người chết nên mụ ta mừng vì hàng mắc?
Có tiếng la hét ở đầu phố. Rồi tiếng súng nổ. Đám người vô công rồi nghề ấy
la lên oai oái, đạp nhau chạy tản ra, để rồi, chỉ một lát sau lại ùn ùn kéo tới.
Một bà bán hàng rau tất tưởi chạy ra, mặt trắng như sáp, miệng ngọng líu:
- Li... ính biệt động... say
rượu... Đánh lộn... chọi lựu... đạn... bắn súng... đạn... sạ... ạt màng... tang...
Ở một góc chợ, người phế binh
hát rong vẫn đang phật phừng cây đàn ghi-ta cho đứa con gái ốm nhách, gân cổ ca
mấy câu vọng cổ. Tiếng hát của em bé gái chưa vỡ giọng nghe the thé như tiếng
kêu của một chim bị săn đuổi. Tiếng hát của em lạc lõng chìm nghỉm trong tiếng
ồn ào của người xe, của những tiếng rao hàng.
Mai cúi đầu lặng lẽ đến bên
cha con người phế binh rồi mở ví rút ra tờ giấy bạc một trăm bỏ vào chiếc mũ
cói cáu bẩn của em bé. Em ngừng ca, ngước nhìn Mai bằng ánh mắt biết ơn của kẻ
hèn mọn. Mai vội vã quay đi, trốn ánh mắt ấy, chậm một chút nữa có lẽ nước mắt
cô lại trào ra.