Những bí ẩn của cuộc đời - Chương 21 - 22
Chương 21
Bí Quyết Đào Tạo Khả Năng
Những điều tiết lộ của ông Cayce về những khả năng của con người và sự
phát triển khả năng một cách liên tục từ kiếp này qua kiếp khác, có những ảnh
hưởng rất sâu sắc về phương diện thực tế. Trước hết, nó trình bày cho ta thấy
những triển vọng vô giới hạn về sự tiến hóa của con người, và điều này tùy ở sự
cố gắng của từng cá nhân. Nói về những khả năng tiềm tàng được tích tụ từ lâu
trải qua thời gian, thì người ta có thể xử dụng lần hồi chẳng khác nào như một
số vốn cất trong ngân hàng. Lẽ tự nhiên, những nguồn tài nguyên tiềm tàng về
khả năng và đức tánh của mỗi người hoàn toàn tùy thuộc nơi cố gắng mà y đã thực
hiện trong dĩ vãng, và đã tích tụ trong kho tàng tâm linh của y.
Điều này cũng áp dụng cho những khả năng của ta trong tương lai. Cũng
như những khả năng của chúng ta bây giờ là do sự cố gắng tích lũy từ thuở quá
khứ, thì những khả năng mà ta sẽ có trong tương lai cũng là do bởi những cố
gắng của ta đang làm ngay bây giờ. Những số vốn nghị lực, thời giờ và công phu
khó nhọc mà chúng ta dùng để thu thập một khả năng trong kiếp hiện tại sẽ không
phải là mất, mà sẽ mang lại kết quả cho ta xử dụng trong những kiếp tương lai.
Trên thế gian có hàng nghìn người âm thầm cố gắng theo đuổi một chí
hướng nuôi từ thuở nhỏ mặc dầu họ biết chắc rằng họ không bao giờ thực hiện
được. Xét theo lối thường tình, thì đó thật là một việc đáng buồn; nhưng sự cố
gắng và thích thú say mê của họ thật ra không phải là hoài công vô ích nế người
ta xét lại vấn đề dưới ánh sáng của thuyết Nhân Quả Luân Hồi.
Một ông lão cố gắng vun trồng những khóm hoa trong vườn nhà ông, có lẽ
không mong ước chiếm giải quán quân về cuộc thi trồng hoa đẹp; hoặc được lời
khen tặng và biểu dương trong những tạp chí nông nghiệp. Tuy nhiên, trong lúc
hiện tại, ông ta đang xây đắp mầm mống cho sự hiểu biết về ngành thảo mộc học,
để rồi trong một kiếp tương lai, nó sẽ đâm chồi nẩy lộc thành những kiến thức
sâu rộng về ngành này và làm ông ta trở thành một nhà trồng tỉa trứ danh hay
một nhà thảo mộc học uyên bác.
Những cố gắng thô thiển và vụng về của một người đàn bà đứng tuổi đang
tập vẽ tranh, không phải chỉ là một đầu đề chế giễu của bạn bè thân quyến trong
gia đình cô mà thôi; nó còn là những bước đầu cho một nghệ thuật già dặn và
chắc chắn để làm cho cô có thể trở thành một họa sĩ tài danh trong một kiếp xa
gần trong tương lai.
Ông giáo sư âm nhạc trải qua nhiều năm tận tụy với nghề dạy đờn dương
cầm, vẫn cố gắng hành nghề một cách vô danh, không tên tuổi. Với thời gian trôi
qua, năm tàn tháng lụn, ông không còn nuôi hy vọng trở thành một nhạc sĩ tài
danh nữa, nhưng có lẽ ông ta sẽ tự an ủi nếu ông ta biết rằng chính ông ta đang
lần bước đi trên con đường sự nghiệp vẻ vang trong những kiếp tương lai. Những
tiếng đàn du dương gieo vào tiềm thức của ông một ý niệm chắc chắn về nhịp độ;
sự lập đi lập lại những bài đàn dạy học trò, trải qua thời gian đã gieo trong
tâm hồn ông những vết ký ức sâu đậm không thể phai mờ về nhạc lý. Chỉ trong
một, hai, hay ba kiếp nữa, ông sẽ trở thành một thiên tài về đàn dương cầm, làm
cho người đương thời phải ngạc nhiên khâm phục về tài năng xuất chúng của ông.
Nói tóm lại, theo thuyết Luân Hồi, không có một cố gắng nào là mất đi.
Nếu luật Nhân Quả hành động một cách chắc chắn và vô tư để đem lại cho ta sự
trừng phạt về những hành vi bất chính của mình, thì nó cũng hành động một cách
vô tư chắc chắn để đem lại cho ta phần thưởng về những cố gắng công phu có tính
cách xây dựng. Nếu chúng ta thật tin tưởng nơi điều quan trọng này, thì chúng
ta sẽ không bao giờ bị thất vọng trên đường đời. Mỗi giờ phút trôi qua, chúng
ta đều tự tạo nên tương lai của mình. Cái tương lai đó được tốt đẹp hay không,
là tùy nơi trong lúc hiện tại chúng ta có những cố gắng tốt lành và xây dựng,
hay là chúng ta lãng phí thời giờ vô ích để tìm những thú vui vật chất phù du
giả tạm của cuộc đời trần thế.
Hiểu như thế, người ta sẽ không còn cho rằng giai đoạn cuối cùng của
đời người, thường gọi là lúc "Tuổi già", là một giai đoạn bất lực và
vô dụng, cần phải nghỉ ngơi, an phận, và không làm gì cả. "Tuổi già"
hiểu như thế là một sự dị đoan. Theo các cuộc soi kiếp của ông Cayce, ở xứ Ai
Cập cách đây độ mười ngàn năm, đời sống trung bình của con người là trên một
trăm tuổi. Sự ăn uống tiết độ, đúng phép vệ sinh, và bí quyết giữ cho tư tưởng
được lành mạnh trong sạch, giúp cho con người sống rất lâu, và thậm chí đến lúc
tuổi già, họ cũng không đến nỗi rung rẩy lụm cụm. Khoa học hiện đại cũng đã
chứng minh điều này. Khoa Tâm bịnh học (Psychosomatiquie) cũng khám phá rằng sự
già nua một phần lớn do bởi một bệnh trạng tâm lý của đương sự, theo đó ý nghĩa
rằng y là một người vô ích, vô dụng trong xã hội, và đã đến lúc y cần phải được
thay thế bởi những người trẻ.
Sở dĩ họ có thái độ đó bởi vì họ có cái quan niệm theo "Chiều
ngang" về cuộc đời, tức là một thói quen hay so sánh mình với những kẻ
khác trên bình diện "Ngang" trong thời gian và không gian. Nhưng theo
thuyết Luân Hồi thì quan niệm chân thật về cuộc đời phải là một quan niệm theo
"Chiều dọc". Tự so sánh mình với những người trẻ tuổi hơn, không
những là một điều chướng, mà còn là vô ích vì chúng ta chỉ hoạt động để tự vươn
mình và tiến bộ lấy cho mình, sự tiến bộ của chúng ta không phải là tương đối
với kẻ khác, mà là tương đối với chính mình và với Thượng Đế.
Hiểu như thế, ta sẽ không còn thắc mắc ganh tị với những người ở vào
một hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn hoàn cảnh của ta trong hiện tại. Sự
ganh tị chỉ là một ảo tưởng vật chất. Trên phương diện tâm linh, ta không đua
tranh với ai cả, nếu không là với chính linh hồn mình.
Dầu sao, một người đến lúc tuổi già không nên tự coi như một phế nhân,
ở ngoài lề xã hội. Trái lại, trong sự tịch mịch âm thầm, y nên dành thời giờ
còn lại để trau dồi một vài khả năng mới, và học hỏi thêm những gì mà trước kia
vì bận rộn công việc hoặc vì bổn phận gia đình, y không có thời giờ theo đuổi
một cách tận tâm và trọn vẹn. Làm như vậy, y sẽ xây đắp nền tảng cho sự tiến bộ
tâm linh của y trong những kiếp sau. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường
nói rằng chúng ta nên sống một cách xây dựng cho đến lúc cuối cùng trong đời tạ
Dưới đây là một vài đoạn có ý nghĩa:
"Anh hãy có điều độ trong tất cả mọi chuyện; không nên làm điều gì
thái quá. Được như vậy, anh sẽ sống đến trăm tuổi, với điều kiện là anh sẽ sống
cách nào để xứng đáng với tuổi thọ của anh. Anh có gì để ban rải cho kẻ kkhác?
Nếu anh không có gì để cho ra, thì anh có quyền gì để sống cho chật đất?"
Hỏi: "Tôi phải làm sao để tự chuẩn bị cho lúc tuổi già?"
Đáp: "Cô hãy tự chuẩn bị cho lúc hiện tại. Tuổi già sẽ làm cho cô
khôn ngoan già dặn thêm. Cô hãy dịu dàng, dễ thương và biết thương người, nếu
cô muốn được trẻ trung mãi mãi... "
Hỏi: "Tôi phải làm gì để khỏi sự bị cô đơn khi tuổi già sắp
đến?"
Đáp: "Anh hãy săn tay áo lên và bắt tay vào làm một việc gì để
giúp đỡ một người nào đó. Anh hãy làm cho người khác vui vẻ hạnh phúc, và hãy
tự quên mìn để giúp đỡ người chung quanh. Như thế, anh sẽ không còn sợ sệt lo
âu về những gì có thể xảy đến cho mình và sẽ không cảm thấy buồn chán, cô
đơn."
Hỏi: "Tôi phải làm gì để được yên ổn trong lòng và tìm thấy sự an
tịnh?"
Đáp: "Anh hãy giúp đỡ kẻ khác. Anh hãy quyết định mỗi ngày làm một
điều thiện, hoặc giúp một tay nâng đỡ một việc gì cho một người nào đó cần sự
giúp đỡ. Thí dụ: Anh có thể đến viếng thăm một người bịnh, và trò chuyện an ủi
họ. Như thế anh sẽ thấy trong lòng yên ổn, không thắc mắc, nghĩ ngợi, lo
âu."
Như vậy, tính cách liên tục của đời người trở nên một sự thật đầy ý
nghĩa, xét về vấn đề phát triển khả năng và đức tánh trải qua nhiều kiếp luân
hồi sinh tử. Hiểu được chân lý đó, người ta sẽ không còn có sự ganh tị đối với
kẻ khac, vì sự ganh tị là một điều vô ích. Triết gia Emerson nói sẽ có lúc
người ta nhận định rằng thói ganh tị là do sự vô minh mà ra. Điều ấy rất đúng,
nhưng nó chỉ được hiểu rõ là khi nào người ta hiểu thuyết luân hồi. Những kẻ
ganhtị là những người không biết rõ sự kiện này, là bất cứ điều gì người khác
làm được, ta cũng có thể làm được; tất cả những gì người khác có, như sắc đẹp,
tài năng, danh vọng, giàu sang, đức hạnh... Ta cũng có thể có được, với điều
kiện chúng ta chỉ cần thực hiện những cố gắng cần thiết mà thôi.
Một thái độ xử thế thích nghi về điểm này đã được diễn tả trong cuộc
đời của nhạc sĩ trứ danh Paganinị Người ta thuật lại rằng nhạc sĩ này có lần bị
hai năm tù vì mắc nợ không trả được. Trong khi bị giam, hằng ngày ông vẫn chơi
một cây đàn vĩ cầm cũ, chỉ có ba dây. Sau khi được phóng thích, ông trình diễn
đàn vĩ cầm trước công chúng với một ngón đàn sắc xảo tuyệt diệu hơn trước, làm
cho cử tọa phải ngạc nhiên về tài nghệ xuất chúng của ông. Ngón đàn đặc biệt
của ông là mỗi khi đến những đoạn nhạc khó khăn nhất, thì ông bèn cắn đứt sợi
dây dưới của cây đàn vĩ cầm và tiếp tục kéo đàn chỉ có ba dây! Ngón đàn tuyệt
luân này, ông đã học được trong thời gian hai năm ngồi tù.
Việc bị giam cầm trong khám là một điều chướng ngại khó khăn và là một
nghịch cảnh, nhưng Paganini đã phản ứng một cách xây dựng, chứ không thối chí
hay thất vọng. Ngày nay con người còn sống ở thế gian, thì ông còn phải bị
những cảnh do quả báo đưa đến. Nhưng chúng ta không nên để ch nghịch cảnh đè
bẹp hoặc làm cho ta bị điêu đứng khổ sở; mà trái lại, giữa cơn nghịch cảnh,
chúng ta cũng vẫn có thể vui sống với một niều hy vọng.
Khi nghịch cảnh xảy đến không thể tránh khỏi, chúng ta có thể chấp nhận
nó một cách kiên nhẫn, can đảm và vui vẻ; và như thế, chúng ta xây đắp nền tảng
cho sự thành công vẻ vang trong tương lai.
Chương 22
Tiềm Năng Của Con Người
Từ những đoạn trên, chúng ta đã thấy rằng luật Nhân Quả gồm có hai khía
cạnh: Khía cạnh liên tục và khía cạnh chấn chỉnh, hay sửa đổi. Nói về khía cạnh
liên tục của luật Nhân Quả, thì có nhiều khuynh hướng trái ngược từ thuở quá
khứ có thể xuất hiện cùng một lượt trong kiếp này, và tạo nên một sự xung đột
bên trong tâm hồn của một người.
Trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những khuynh hướng về khả năng
hay tánh tình của một người có thể truy nguyên từ những kinh nghiệm của ông
trong một kiếp trước. Thí dụ: Một người kia có những khuynh hướng về âm nhạc mà
ông đã hấp thụ trong một kiếp trước, nhưng đồng thời ông cũng mang theo một
khuynh hướng về ngành dạy học, từ một kiếp trước nữa. Thề là ông có cả hai
khuynh hướng về hai ngành học thuật khác nhau: Aâm nhạc và giáo dục. Những
khuynh hướng trái ngược này gây ra một sự xung đột âm thầm trong tâm hồn ông,
khi ông phải chọn lấy một nghề nhứt định. Ông sẽ là một nhạc sĩ hay một giáo sử
Trong nhiều năm, ông bị dày vò bởi một sự lưỡng lự phân vân, không biết chọn
lấy nghề nào. Sau khi sự xung đột ngấm ngầm này phải được giải quyết bằng cách
dung hòa cả hai khuynh hướng, hay là bỏ một nghề mà chỉ chọn lấy một nghề, tùy
theo lý tưởng của đương sự đối với cuộc đời, hay là do sự nhu cầu tài chánh.
Một sự xung đột còn khó khăn hơn nữa, là trường hợp mà đươngsự chưa
diệt trừ xong một tật xấu cũ. Thí dụ: Một người có thói khinh ngạo, di sản từ
một kiếp trước, trong kiếp đó ông lạm dụng quyền thế một cách độc tài đối với
một dân tộc bị áp chế. Trong một kiếp sau, ông đầu thai làm một đứa trẻ tàn tật
sống trong một túp lều nghèo nàn. Thói khinh ngạo của ông đã bị chận đứng vì
luật quả báo, và ông đã bắt đầu tập lấy thái độ khoan dung, ôn hòa với mọi
người. Nhưng thói khinh ngạo của ông vẫn chưa được diệt trừ tận gốc, và hãy còn
biểu lộ một phần nào. Bởi đó trong kiếp này, ông có hai khuynh hướng trái ngược
lẫn nhau trong tâm tính, khi thì ông có thái độ khinh ngạo, khi thì có lòng
khoan dung. Chính đương sự cũng biết rõ điều này, và mỗi khi ông nghĩ đến tình
bác ái đại hồng trong nhân loại, ông sẽ bắt đầu cố gắng diệt trừ thói kinh ngạo
còn tiềm tàng trong người. Nhưng phần nhiều, người ta không ý thức được vấn đề
này.
Các tập hồ sơ Cayce có chứa đựng rất nhiều trường hợp như trên, mà dưới
đây là một trường hợp rõ rệt nhất:
Một người kia có hai khuynh hướng trái ngược: Khi thì khép chặt, cách
biệt, lạnh lùng; khi thì lại hồn nhiên, cởi mở. Theo cuộc soi kiếp, điều này
được truy nguyên từ hai loại kinh nghiệm khác hẳn nhau. Trong một kiếp trước,
ông là một tu sĩ trong một nhà tu kín bên Anh, chính kiếp này đã tạo cho ông
một tâm hồn khép chặt và lánh đời. Trong một kiếp trước nữa, ông là một người
tình nguyện tùng chinh trong cuộc Thánh Chiến hồi thời Trung Cổ; kiếp đó đã
giúp cho ông có tâm hồn cởi mở và yêu đời. Sự trái ngược đó làm cho mọi người
đều xa lánh, vì họ không dám chơi với một người tính khí bất thường, hôm qua
vừa mới vui vẻ hồn nhiên, hôm nay đã lạnh lùng cách biệt!
Ông Aldous Huxley có thuật chuyện một tu sĩ Y Pha Nho hồi thế kỷ mười
bảy tên là Pierre Claver, hy sinh tận tụy suốt một đời để phụng sự những người
da đen nhập cảng từ Phi Châu thường bị ngược đãi và đối xử tàn nhẫn. Tu sĩ
thường khuyên những mọi da đen này hãy ăn năn sám hối những tội lỗi của họ đã
làm. Ông Huxley nói: "Lời khuyên đó có vẻ dường như không đúng chỗ, nhưng
biết đâu tu sĩ có lý là vì dầu ở hoàn cảnh nào, con người cũng vẫn luôn luôn
cần phải cứu chuộc lại những tội lỗi và sai lầm trong quá khứ mà họ phải chịu
quả báo. Những sự ngược đãi, hung ác, bất công của người đời biết đâu chẳng là
những cơ hội để nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những hành động hung dữ, độc ác
bất công mà chính chúng ta đã làm trong những kiếp trước?"
Ông Huxley còn nêu ra một vấn đề quan trọng: đó là điều ảo tưởng nó làm
cho ta nghĩ rằng mình là trong sạch và vô tội. Phần nhiều chúng ta khi lâm
nghịch cảnh hay bị những nỗi đau khổ bất công, thường nghĩ rằng mình là oan ức,
vô tội mà phải bị thiệt thòi, chớ không nghĩa rằng có lẽ mình đã từng gây ra
những nỗi bất công đau khổ cho kẻ khác. Chúng ta luôn luôn tưởng rằng mình tốt
lành và vô tội. Có lẽ là do thói kiêu căng vốn tự nhiên trong mọi người, nhưng
còn một lý do khác, đó là sự lãng quên: Một định luật thiên nhiên đầy nhân từ
và bác ái khiến cho chúng ta quên đi một cái dĩ vãng sai lầm và tội lỗi trong
những kiếp quá khứ.
Một người đàn bà nọ phàn nàn: "Tôi luôn luôn đối xử tốt lành với
tất cả mọi người; nhưng người ta đối xử tệ bạc với tôi như vậy. Con người thật
là bạc bẽo và vô ơn!"
Chúng ta có thể đáp lại như vầy: "Phải, bà đã tốt lành và lương
thiện trong kiếp này bởi vì bà nhận thấy rằng về phần thể chất, bà không đẹp;
và bà chỉ có thể thâu phục được lòng người bằng những hành động tốt lành và vị
thạ Nhưng đó chỉ là một đức tánh mà bà mới tập. Bà hãy nhình lại kiếp trước: Bà
rất đẹp, với một nhan sắc đẹp duyên dáng, sắc xảo, mặn mà, nhưng lòng bà rất
độc! Ngày nay, bà chỉ gặt hái lấy những gì bà đã gieo trong kiếp trước. Việc bà
bị đối xử độc ác và bất công không phải là do bởi sự vô ơn tệ bạc của người
đời; mà đó chỉ là những quả báo của những hành vi độc ác mà bà đã gây ra đối
với kẻ khác. Bà đã trồng hoa thơm cỏ ngọt suốt đời, nhưng bà chỉ lấy gai nhọn
và trái đắng là những thứ mà bà đã gieo trong kiếp trước. Mùa gặt sau, sẽ đem
lại cho bà những hoa thơm trái ngọt mà bà đã gieo trong kiếp này. Trong khi chờ
đợi, bà hãy vui lòng nhận lãnh những quả đắng và gai nhọn, nhưng bà đừng thối
chí và hãy tiếp tục vun trồng hoa thơm trái ngọt một cách can đảm và đầy tin
tưởng... ""
Những sự đau khổ và nghịch cảnh trong đời đều có một mục đích giáo dục
để đào tạo tánh tình, dầu cho đó là những tai nạn bên ngoài như chiến tranh,
dịch lệ, động đất, bão lụt; hoặc đó là những mối xung đột ngấm ngầm trong tâm
hồn. Khi nào khoa Tâm Lý Học nhìn nhận rằng tất cả mọi sự đau khổ cay đắng, tai
ương và nghịch cảnh của người đời đều có một ý nghĩa sâu xa thâm trầm để dìu
dắt họ trên con đường tiến hóa, thì chừng đó ngành học thuật ấy đã tiến được
một bước khác lớn.