Những bí ẩn của cuộc đời - Chương 23 - 24

Chương 23

Khía Cạnh Của Luật
Nhân Quả

Trước đây, chúng ta đã thấy trường hợp của người nhạc sĩ
mù, mà nguyên nhân là do bởi kiếp trước, trong một bộ lạc dã man ở Ba Tư, ông
đã lấy dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào mắt những kẻ tù binh để hành tội những
người này. Trong trường hợp này, người ta sẽ đặt câu hỏi: "Tại sao ông lại
chịu trách nhiệm về những phong tục bổn xứ hồi đương thời? Tại sao một người
phải bị quả báo trong khi ông chỉ thừa hành chức vụ mà xã hội giao phó cho
ông?"

Thí dụ, hồi xưa nước Pháp dùng những đao phủ quân để hành
tội những phạm nhân trên đoạn đầu đài. Người đao phủ ấy chỉ là một công chức
của Nhà Nước và làm việc ăn lương của chính phủ. Có thể nào người ấy bị quả báo
khi ông thừa hành chức vụ chém đầu tội nhân do luật pháp bắt buộc chăng? Nếu là
không, thì tại sao người đao phủ của bộ lạc dã man nước Ba Tư hồi thời cổ, lấy
dùi sắt nung đỏ chọc vào mắt tù binh của một bộ lạc cừu địch, lại phải chịu quả
báo? Trước đây chúng ta đã thấy rằng không phải hành động gây nên nghiệp quả mà
chính là cái nguyên nhân làm động lực bên trong cho hành động ấy, chính cái
tinh thần bên trong làm chủ động cho mọi việc làm, mới là cái nguyên nhân tạo
nên nghiệp quả. Ngoài ra, còn có vấn đề trách nhiệm chung, hay nghiệp quả công
cộng, nghĩa là nếu một xã hội có những tập quán xấu xa, độc ác gây nên đau khổ
cho nhiều người thuộc về xã hội đó đều phải chia xẻ một phần nào trách nhiệm và
quả báo của xã hội ấy gây nên. Theo ý nghĩa của nền luân lý thông thường, nếu
những hành vi tàn bạo như sát phạt, giết chóc, gây thương tích cho kẻ khác,
tuyệt đối là những điều ác dữ, thì tất cả những người nào thuộc về thành phần của xã hội tàn bạo đó đều
phạm tội, nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp. Tội ác đó càng tăng nếu họ
biết rằng phong tục tập quán đó là độc ác, mà họ vẫn tiếp tục tán thành và
không làm gì để trừ bỏ những thói tàn bạo hung ác ấy. Và nếu họ trực tiếp nhúng
tay vào những hành động hung dữ ấy, thì tội ác của họ càng tăng hơn nhiều.

Lấy dùi sắt nhọn chọc thủng mắt những người khác chỉ vì họ là tù binh
của một bộ lạc cừu địch, dĩ nhiên là một hành động hung ác bạo tàn. Nếu người
đao phủ tự trong lòng ông chống đối việc làm hung bạo này, và chỉ thừa hành
chức vụ vì bắt buộc phải tuân lệnh thượng cấp, thì có lẽ ông không gây nên
nghiệp ác. Nhưng nếu trong khi thừa hành chức vụ, tự trong lòng ông tán thành
việc làm hung ác này, nghĩa là ông cũng nuôi trong lòng một sự hung ác tương
đương với phong tục bổn xứ của ông, thì chắc chắn là ông phải chịu quả báo.

Vấn đề này được giải đáp một cách mỹ mãn trong kinh Bhagavad Gita của
Ấn Độ: "Làm mà như không làm, tuy hữu vi mà vô vi, nghĩa là làm một cách
vô tư, với một tinh thần giải thoát, không bám víu, không vụ lợi; đó tức là cái
bí quyết của sự hành động cao thượng, siêu thoát, và không gây nên nghiệp
quả... "

Thậm chí đến tình thương cũng phải là một tình thương vô tư, không tha
thiết, không chiếm hữu, một tình thương siêu thoát, chứ nếu không, nó sẽ tạo
nên những sợi dây trói buộc trong kiếp sau. Nếu người đao phủ xứ Ba Tư kể trên
chỉ thừa hành chức vụ với một tinh thần hy sinh theo như việc làm của những nhà
hiền triết thời xưa, không thỏa mãn dục vọng riêng, không có lòng hung dữ bạo
tàn và đàn áp kẻ khác, thì ông sẽ không gây nên ác quả. Theo lý luận đó, vì lẽ
người ấy đã bị quả báo mù mắt trong kiếp này, nên ta có thể kết luận rằng ông
đã nuôi thói hung ác trong khi thừa hành chức vụ, theo phong tục bổn xứ của y.

Trong chương mười một, chúng ta đã thấy rằng sự hiểu biết về Luật Nhân
Quả không khỏi làm cho người ta băn khoăn lưỡng lự trước một vài vấn đề xã hội,
và không biết sẽ hành động như thế nào cho hợp lý. Chúng ta đã thấy rằng trong
nhiều trường hợp, sự lạm dụng quyền năng trong những kiếp quá khứ đã đưa đến
cảnh nghèo khổ, khó khăn trắc trỏ trong kiếp hiện đại. Nếu phần nhiều sự đau
khổ buồn rầu của con người đều do bởi những việc làm ác của họ gây nên trong
quá khứ thì ta phải đối xử thế nào với những kẻ hoạn nạn khốn cùng? Ta phải có
thái độ như thế nào đối với hoàn cảnh khó khăn đau khổ của kẻ khác? Ta có nên
ngảnh mặt làm ngơ và nói như thế này chăng: "Này ông bạn ơi, ông bạn đau
khổ vì quả báo của ông bạn tự gây ra, chứ không phải oan uổng gì đâu. Tôi không
còn quyền can thiệp vào sự hành động của Luật Nhân Quả."

Ta có nên nghĩ rằng sự thiện cảm là một thái độ trái mùa, và lòng nhân
từ là một điều không phải chỗ của nó trước sự hành động vô tư của Luật Nhân Quả
hay chăng? Có lẽ ta không nên giải đáp những câu hỏi đó một cách hấp tấp vội
vàng, và với một sự cảm tình bồng bột. Chúng ta biết rằng một kẻ sát nhân nguy
hiểm sẽ không học được bài học của y, nếu vì lòng nhân hậu quá đáng, người ta
để cho ông được tự do có điều kiện sau một thời gian giam cầm ngắn ngủi. Chúng
ta biết rằng một người học trò dốt không thể học hết chương trình lớp học của y,
nếu ông giáo sư quá dễ dãi để cho y về sớm ba giờ mỗi ngày. Chúng ta biết rằng
một đứa trẻ không thể biết vâng lời, nếu người mẹ luôn luôn bênh vực con, không
để cho nó chịu hình phạt nghiêm khắc và roi vọt của người chạ Chúng ta biết
rằng những khó khăn trắc trở và đau khổ của người đời, dưới hình thức những tật
nguyền, tại nạn, nghèo khổ... Thật ra là sự biểu hiện ý muốn cải thiện và giáo
dục của Thiêng Liêng. Như vậy, làm sao ta dám can thiệp vào sự hành động của
Thiên Y, và phá luật lệ thiên nhiên?

Thí dụ, chúng ra thấy một người kia sống trong cảnh lầm than khốn khổ,
nghèo nàn cơ cực, với một thân hình tàn phế, tật nguyền, chúng ta không khỏi
động lòng thương hại. Nhưng nếu chúng ta xét mọi sự theo khía cạnh Nhân Quả,
chúng ta cũng có thể nhìn thấy con người bất hạnh ấy dưới một hình thức khác.
Chúng ta có thể nhìn về dĩ vãng và tưởng tượng người ấy trong một vai trò khác,
với một bộ y phục khác và sống trong một thời đại khác hơn bây giờ.

Chúng ta có thể tưởng tượng con người vô phước ấy dưới những nét của
một vị lãnh chúa nước Nga hồi thời Nga Hoàng; một vị lãnh chúa có một thân hình
cao lớn, lực lưỡng, khỏe mạnh, nhưng lại hung tợn, độc ác và vô nhân đạo. Với
những tài sản khổng lồ, giàu sang không kể xiết, ông đã tỏ ra lạnh nhạt dửng
dưng trước sự đau khổ của những người nông dân đã làm việc cặm cụi suốt đời để
làm giàu cho ỵ Với một thân hình tráng kiện, sức khỏe dồi dào, ông ra hiên
ngang hống hách, khinh thường những kẻ yếu đuối, đối xử tàn nhẫn với đàn bà,
trừng phạt thẳng tay không chút lòng thương xót đối với những kẻ đã làm mất
lòng ông. Đó là hình ảnh cho người của ông trong kiếp trước. Nhìn chung quanh
ông, ta thấy những nạn nhân của ông đang sống vất vưỡng, dở chết dở sống trên
những vùng hoang vu lạnh lẽo ở xứ Tây Bá Lợi Á, do bởi ông đã dùng quyền lực áp
chế để đày ải họ sang xứ này. Ta thấy những trẻ con xanh xao gầy còm, mặt mày
ngơ ngác vì đói lạnh, bởi cha mẹ chúng là những nông dân nô lệ, suốt đời phục
dịch vị lãnh chúa tàn bạo, nhưng vẫn không đủ cơm ăn áo mặc, vợ con phải chịu
đói rách quanh năm.

Khi chúng ta nhìn thấy cảnh tượng kiếp trước của người ấy như thế, một
cảnh tượng có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới, trong những thời đại
đã qua, thì chúng ta biết rằng ông sẽ có lúc phải trả quả báo về những tội ác
của ông đã làm. Và ngày nay, chúng ta đã gặp lại ông trong bộ áo của một kẻ
hành khất khốn khổ lầm than, thân hình tàn phế, chúng ta có thể nào còn thương
hại ông được chăng? Gặp cảnh này, chúng ta đã đứng trước một vấn đề tâm lý,
luân lý và xã hội có một tầm quan trọng rất lớn, một vấn đề mà chúng ta cần
phải hiểu rõ trong việc xử thế hằng ngày. Người ta đã tìm thấy một phương pháp
giải quyết vấn đề này trong chế độ xã hội của một xứ trên thế giới là xứ Ấn Độ.

Vấn đề mà chúng ta nêu ra khi chúng ta vừa mới chấp nhận thuyết Luân
Hồi, người Ấn Độ đã từng biết rõ từ bao nhiêu thế kỷ về trước. Người Ấn Độ đã
giải quyết vấn đề này bằng cách không can thiệp vào sự hành động của luật nhân
quả. Điều này giải thích một phần lớn thái độ thản nhiên của họ đối với những
kẻ đau khổ, hoạn nạn, khốn cùng, và cách đối xử đặc biệt mà họ dành cho những
người thuộc gia cấp cùng đinh (paria)

Chế độ giai cấp ở Ấn Độ vốn căn cứ trên pháp luật của đức Manou, một
luật gia và triết gia danh tiếng của Ấn Độ thời cổ. Cũng như Platon, Ngài tuyên
bố rằng theo luật tự nhiên, xã hội loài người chia ra từng thành phần, tùy theo
công việc hay chức nghiệp của mỗi người. Điều huấn thị này về sau trở nên một
tập quán xã hội, và tập quán đó dần dần kết tinh lại thành ra một trật tự về
giai cấp. Truyền thống, phong tục và thói dị đoan của một dân tộc gồm đến chín
mươi phần trăm những kẻ thất học, đã làm cho tập quán nói trên trở thành bất di
dịch, không thể sửa đổi.

Gia cấp hạ tiện gồm thành phần những người làm những công việc ti tiện,
thấp kém nhất trong xã hội. Giai cấp này về sau trở nên thành phần "Bất
khả tiếp xúc" (intouchable), do sự lý luận rằng nếu họ đầu thai làm những
người thuộc giai cấp hạ tiện đó, là để trả quả báo về những việc làm xấu xa và
tội ác của họ trong một kiếp trước. Bởi sử lý luận đó, người ta không can thiệp
vào luật Trời khiến cho họ phải lầm than khổ sở, mà cứ dửng dưng trước sự hành
động tự nhiên của Luật Quả Báo.

Nếu chúng ta chấp nhận lý lẽ thứ nhứt của người Ấn Độ, theo đó Luật
Nhân Quả đặt để ta vào một hoàn cảnh hay thân phận thích nghi, tương xứng với
nghiệp quả của mình, và nếu chúng ta cũng chấp nhận luôn lý lẽ thứ hai của họ
về đẳng cấp trong xã hội, thì ta thấy rằng lập luận của họ rất vững chắc và rất
có lý. Lập luận ấy dầu rằng có cái lý lẽ vững chắc, nhưng nếu nó đưa chúng ta
đi đến kết luận là phải dửng dưng trước sự đau khổ của kẻ khác, thì đó thật là
một điều đáng buồn! Tuy thế, ta cũng thấy có những người luôn luôn cố gắng hoạt
động trong các công trình cứu tế để làm dịu bớt sự đau khổ của nhân loại. Đó là
bởi vì họ có lòng nhân từ bác ái đến một mực độ rất cao.

Thấy vậy, lòng bác ái tức là tình thương bao la phủ nhận lý luận của
những kẻ thản nhiên, bất can thiệp, mặc dầu lý luận này bề ngoài dường như có
lý. Chính đó là ý nghĩa lời răn dạy của đấng Christ, vì Ngài đã dành trọn cuộc
đời để đi truyền giáo và chữa bịnh cho người thế gian mê lầm và đau khổ. Cuộc
đời của đấng Christ đã chứng minh rằng dầu cho tội lỗi của con người nặng đến
đâu, ta cũng phải luôn luôn đưa ra một cánh tay cứu giúp.

Cuộc đời của ông Edgar Cayce tuy không thể đem so sánh với đấng Christ,
nhưng ông cũng là một người cái tinh thần cứu độ chúng sinh giống như đấng
Christ, vì trong bốn mươi năm, ông đã hoạt động với một tấm lòng nhiệt thành và
bác ái để cứu giúp những người đau khổ từ thể xác đến tinh thần. Những cuộc soi
kiếp của ông Cayce đều xác nhận rõ ràng quan niệm này, là đời người bị chi phối
và cai quản bởi một định luật rất khoa học, đó là Luật Nhân Quả mà phương Đông
đã biết rõ từ lâu đời. Đồng thời, những cuộc soi kiếp đó cũng xác nhận định
luật bác ái nhân từ và lý tưởng phụng sự, là những điểm cốt yếu trong giáo lý
của mọi tôn giáo.

Không cần biết về tội lỗi của người khác ra sao trong những kiếp quá
khứ, chúng ra nên cố gắng giúp đỡ họ, và đừng lầm tưởng rằng làm như thế, chúng
ta có thể can thiệp vào sự hành động của Luật Nhân Quả. Ngoài ra, chúng ta nên
hiểu rằng dửng dưng nguội lạnh trước sự đau khổ của kẻ khác cũng là một tội ác
mà chúng ta phải chịu quả báo về sau này. Một khía cạnh khác của vấn đề tế nhị
này là con người có quyền tự do ý chí trong mọi hành động, và không phải tất cả
mọi việc lớn nhỏ trong đời đều đã được định sẵn từng chi tiết theo một cái định
mệnh bất di dịch.

Bởi đó, sự cố gắng của chúng ta để giúp đỡ một người đau khổ hoạn nạn,
không phải chỉ là một kinh nghiệm bản thân cần thiết cho ta để tự cải thiện lấy
mình trong sự thực hành tình bác ái mà thôi, nó còn là một điều quý báu có thể
làm thay đổi cả một thái độ tinh thần, và cả một cuộc đời của đương sự. Xét cho
cùng, ta nên hiểu rằng nghiệp quả là do tư tưởng tạo nên. Sự sinh hoạt trái
đạo, cách xử thế sai lầm, nguyên nhân là do sự lầm lạc trong tư tưởng. Bởi đó,
người ta chỉ có thể hoàn toàn thay đổi thái độ đối với cuộc đời bằng ách hoàn
toàn cải tạo tư tưởng. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tuyên bố một cách
rất đúng rằng tư tưởng chính là sức mạnh sáng tạo, và trừ phi có sự thay đổi tư
tưởng ở tự nơi mình, người ta không thể nào cứu chuộc và sửa đổi lại những
nghiệp quả xấu đã gây từ trước.

Hiểu theo một ý nghĩa thần bí, các tôn giáo cho rằng Thượng đề sáng tạo
ra con người; những theo ý nghĩa thiết thực thì con người tự sáng tạo lấy mình!
Luật Nhân Quả là cái định luật theo đó con người tự tạo nên cái thân phận sang
hèn, may rủi, tốt xấu, vui buồn của chính mình. Luật Nhân Quả đặt con người
trong sự kiềm tỏa, trói buộc và đặt ông trong vòng kỷ luật để cho ông tự tu
tiến lấy bản thân, nhưng đồng thời nó cũng là kẻ giải phóng và là một người bạn
tốt. Biết rõ điều này, người Phật tử luôn luôn giữ thái độ hồn nhiên, thanh
thoát trước mọi nghịch cảnh, mọi nỗi thăng trầm chìm nổi của cuộc đời và nói:
"Phật Pháp là chỗ trú ẩn của tạ"

Đối với những người thông hiểu mục đích tốt lành của mọi định luật
thiên nhiên trong Trời Đất, thì câu nói đó cũng có ý nghĩa đầy đủ với những
tính cách an ủi và khích lệ như câu tương tự của người tín đồ Gia Tô Giáo:
"Chúa Trời là niềm vui, là Ánh Sáng, và là đấng Che Chở của ta."

Chương 24

Một Phương Châm Xử Thế

Trong thời gian chữa bệnh giúp đời, ông Cayce đã nhận được nhiều thơ
tín từ khắp nơi trên thế giới gửi đến. Đọc những bức thư đó, người ta không
khỏi lấy làm buồn tủi, nghẹn ngào và động lòng trắc ẩn trước bao nỗi đoạn
trường, đau khổ, lầm than của nhân loại. Ông Cayce đã không quản công lao khó
nhọc, làm việc không tiếc thân, bất kể ngày đêm, để giúp đỡ tất cả mọi người
bằng những cuộc soi tiền kiếp, giúp đỡ và bày vẽ phương pháp điều trị bịnh tật,
cùng phương pháp giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ trong cuộc đời của họ.

Có những bức thư trình bày những nỗi thắc mắc, băn khoăn của đương sự,
chẳng hạn như của một thiếu phụ viết như sau: "Tôi tự hỏi không biết ông
có thể dành cho tôi một cuộc soi kiếp để giúp ý kiến về đời sống tình cảm của
tôi chăng? Tôi thật không còn biết tính sao? Tôi muốn tái giá và hy vọng có một
gia đình ấm cúng, hạnh phúc, nhưng tôi e ngại không biết có lấy được người
chồng vừa ý hay không, hay là có lẽ tôi không nên nghĩ đến việc tái giá nữa? Và
chắc có lẽ cũng không có ai thương yêu tôi?"

Một người đàn bà khác viết: "Làm sao cho chồng tôi thay đổi tính
tình, để cho gia đình tôi được sống trong bầu không khí yên vui và hạnh
phúc?"

Những người viết thơ bày tỏ tâm sự, dầu là thông minh hay dốt nág, giàu
hay nghèo, sang hay hèn, tất cả đều tiết lộ cho ta thấy sự thắc mắc băn khoăn
của nhân loại. Dầu họ là những người nhút nhát, tánh tình khép chặt, cô đơn,
bệnh tật, thất bại trên đường đời hoặc gia đình rối rắm, họ đều có một nguyện
vọng chung, là cải tiến tình trạng hiện tại để làm cho số phận của họ trở nên
tốt đẹp hơn. Trong hầu hết mọi trường hợp, họ đều được cho biết rằng nguyên
nhân tình trạng đau khổ của họ là do chính họ tự gây ra. Đó là điểm đầu tiên mà
đương sự phải nhìn nhận. Xét cho cùng, mỗi người tự tạo lấy những khó khăn đau
khổ cho mình, và bởi đó chính họ phải tự giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ
đó.

Bất luận sự khó khăn trắc trở đó như thế nào, như khổ về sự cô đơn;
hoặc vì người chồng tánh tình xung khắc, không thể cùng nhau hòa hợp; vì một
đức con hư hỏng; một hoàn cảnh chật hẹp tù tùng chẳng hạn; chúng ta chỉ có thể
vượt qua được sự khó khăn bằng cách tự sửa đổi lấy tâm tính của mình. Điều cần
phải sửa đổi, chính là cái thái độ tinh thần và cách xử thế hằng ngày của chúng
ta vậy. Hãy dẹp bỏ tánh hay chỉ trích, chê bai, sẵn sàng lên án những người
chung quanh, tánh thù vặt, kiêu căng, ngã mạn, dửng dưng, lạnh lùng. Hãy trừ bỏ
thói ích kỷ, khinh mạn, đố kỵ. Những khó khăn chướng ngại của ta chỉ có thể
giải quyết được bằng cách tu sửa tánh tình, tập lấy những đức tính tốt lành,
nhân đức, thuộc về địa hạt tâm linh.

Sự giáo dục tâm linh và thay đổi thái độ trong cách xử thế hằng ngày
phải được đặt trong khuôn khổ một sự hiểu biết sâu xa về Vũ Trụ, cùng những mối
liên quan về Vũ trụ và Con Người. Quan niệm do biểu lộ rõ rệt trong các tập hồ
sơ Cayce và những cuộc soi kiếp mà ông đã thực hiện cho hằng trăm người. Quan
niệm ấy gồm có những đường lối đại cương như sau:

Có một Quyền Năng Sáng Tạo vô biên mà người ta gọi là Thượng Đế.

Mỗi linh hồn là một phần tử của Thượng Đế.

Đời người có một mục đích, và diễn ra một cách liên tục. Đời sống con
người vẫn tiếp tục luôn luôn sau khi chết.

Đời người được cai quản bởi những định luật Luân Hồi và Nhân Quả:

"Thực hiện lòng bác ái tức là thuận theo Cơ Trời."

"Ý chí con người tạo nên định mệnh"

"Tư tưởng có một quyền năng sáng tạo."

"Sự giải đáp cho mọi vấn đề khó khăn là ở tự nơi linh hồn mỗi
người... "

Căn cứ trên những điều ấy, là những điều răn dạy sau đây:

"Ta hãy bắt đầu tìm hiểu những mối tương quan giữa mình và những
Sức Mạnh Sáng Tạo của Vũ Trụ, hay Thượng Đế."

"Ta hãy đặt mục đích và lý tưởng trong đời mình, và hãy cố gắng
thực hiện những lý tưởng đó."

"Hãy hoạt động, kiên nhẫn, và vui vẻ luôn luôn."

"Đừng nghĩ đến kết quả của việc làm, hãy dâng mọi kết quả lên
Thượng Đế."

"Đừng trốn tránh những khó khăn xảy đến cho tạ"

"Hãy làm mọi việc lành để giúp đỡ kẻ khác."

Nhiều người phương Tây không chấp nhận quan niệm của những tôn giáo
Phương Đông về Vũ trụ và nhân sinh, nhưng quan niệm này đã được những cuộc soi
kiếp của ông Cayce xác nhận. Tuy nhiên, mặc dầu họ không thể chấp nhận quan
niệm đó vì thiếu bằng chứng khoa học xác đáng, chặt chẽ hơn là những bằng chứng
trong hồ sơ Cayce, họ cũng không thể phủ nhận một cách dễ dàng tánh cách đúng
đắn, hợp lý và làm thỏa mãn lý trí của thuyết Luân Hồi, cùng lập luận vững chắc
và thỏa đáng của thuyết ấy trên các phương diện tâm lý, luân lý và khoa học.
Đối với người nào có thể chấp nhận thuyết Luân Hồi, thì nó đem lại cho họ một
lẽ sống mới, một kim chỉ nam để soi hướng và dìu dắt họ trên đường đời, và một
sự quả quyết chắc chắn rằng họ sẽ không bị lạc bước trong chốn mê đồ gồm những
sức mạnh tối tăm, cuồng loạn, và không mục đích.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3