Hỏa ngục - Chương 090 + 091

Chương 90

Mưa bắt đầu giăng khi tiến sĩ
Sinskey bắt đầu lao vội ra khỏi Hagia Sophia cùng với Langdon, Brüder và anh
chàng hướng dẫn viên Mirsat đang choáng váng của họ.

Hãy lần sâu vào tòa cung điện
bị chìm, Sinskey nghĩ.

Địa điểm bể chứa nước của
thành phố - Yerebatan Sayari - rõ ràng ở phía sau Giáo Đường Xanh và hơi chếch
về phía bắc.

Mirsat dẫn đường.

Sinskey không còn lựa chọn
nào khác là nói cho Mirsat biết họ là ai và rằng họ đang phải chạy đua để ngăn
cản một cuộc khủng hoảng y tế có thể nổ ra ngay trong cung điện chìm đó.

“Lối này!”, Mirsat gọi, dẫn
họ chạy men theo công viên tối om. Giờ Hagia Sophia đồ sộ như trái núi đã ở
phía sau họ, và những ngọn tháp như trong truyện cổ tích của Giáo Đường Xanh
lấp lánh phía trước.

Bên cạnh Sinskey, đặc vụ
Brüder nói như quát vào điện thoại, cập nhật tình hình cho đội SRS và ra lệnh
cho họ gặp nhau tại lối vào bể chứa nước. “Xem ra Zobrist nhắm vào nguồn cấp
nước của thành phố”, Brüder nói, thở không ra hơi. “Tôi cần giản đồ của tất cả
đường ống ra-vào bể chứa. Chúng ta sẽ thực hiện quy trình ngăn chặn và cách ly
hoàn toàn. Chúng ta cần các rào chắn hóa học và vật lý với chân không…”

“Đợi đã”, Mirsat gọi anh ta.
“Anh hiểu nhầm tôi rồi. Bể chứa không phải là nguồn cấp nước của thành phố.
Không còn chức năng ấy nữa!”

Brüder hạ điện thoại, nhìn
sững người hướng dẫn. “Sao cơ?”

“Thời xưa thì bể nước là
nguồn cấp nước”, Mirsat nói rõ. “Nhưng không còn thế nữa rồi. Chúng tôi đã hiện
đại hóa rồi.”

Brüder dừng phắt lại bên dưới
tán cây, và tất cả mọi người cũng dừng lại theo.

“Mirsat”, Sinskey nói, “anh
có chắc rằng không còn ai uống nước từ bể chứa không?”.

“Hoàn toàn không”, Mirsat
nói. “Nước nằm nguyên dưới đó… cuối cùng tự thẩm thấu vào trong đất.”

Sinskey, Langdon và Brüder
cùng nhìn nhau vẻ không chắc chắn. Sinskey không biết mình cảm thấy nhẹ nhõm
hay thêm hoảng. Nếu không ai thường xuyên tiếp xúc với nước thì tại sao Zobrist
lại chọn đầu độc nơi đó?

“Khi chúng tôi hiện đại hóa
nguồn cấp nước từ nhiều thập kỷ trước”, Mirsat giải thích, “bể chứa không còn
được sử dụng nữa và trở thành một cái bể lớn trong một gian phòng ngầm dưới
đất”. Anh ta nhún vai. “Còn bây giờ thì chỉ là một điểm du lịch thôi.”

Sinskey xoay người về phía
Mirsat. Một
điểm du lịch ư? “Khoan đã… mọi người có thể đi xuống đó à? Xuống bể nước ấy?”

“Dĩ nhiên rồi”, anh ta nói. “Có đến hàng nghìn người tham quan mỗi ngày.
Hang ngầm khá ấn tượng. Có các lối đi lót ván phía trên mặt nước… và thậm chí
còn có một quán cà phê nhỏ. Thông khí hơi hạn chế nên không khí khá ngột ngạt
và ẩm thấp, nhưng nơi đó vẫn rất nổi tiếng.”

Sinskey nhìn sững Brüder, và bà có thể khẳng định rằng cả bà và anh chàng
đặc vụ SRS được huấn luyện kỹ càng đều cùng hình dung ra một điều - một hang
ngầm ẩm thấp, tối tăm toàn nước đọng trong đó có ủ một thứ mầm bệnh. Cơn ác
mộng thêm hoàn chỉnh với sự hiện diện của những lối đi lót ván nơi khách du
lịch qua lại suốt ngày, ngay phía trên mặt nước.

“Hắn tạo ra một dạng thuốc phun sinh học”, Brüder tuyên bố.

“Nghĩa là sao?”, Langdon hỏi.

“Nghĩa là”, Brüder đáp, “nó có thể lan truyền trong không khí”.

Langdon im bặt, và Sinskey thấy rõ lúc này anh đang hình dung mức độ ghê
gớm của cuộc khủng hoảng này.

Đã có lúc trong đầu Sinskey nghĩ đến kịch bản một thứ mầm bệnh lan truyền
trong không khí, nhưng khi bà tin rằng bể chứa nước chính là nguồn cung cấp
nước của thành phố, bà hy vọng có lẽ Zobrist chọn một dạng bệnh lây lan theo
nước. Các vi khuẩn sống trong nước rất mạnh và chống chịu được thời tiết, nhưng
chúng cũng chậm phát tán.

Các mầm bệnh dựa vào không khí lại lan truyền nhanh.

Rất nhanh.

“Nếu nó tồn tại trong không khí”, Brüder nói, “thì có khả năng là vi rút”.

Một loại vi rút, Sinskey đồng ý. Thứ mầm bệnh lây lan nhanh nhất mà Zobrist
có thể lựa chọn.

Phải thừa nhận việc giải phóng một loại vi rút tồn tại trong không khí
xuống nước là điều lạ thường, nhưng có điều dạng sống sinh trưởng trong chất
lỏng và sau đó nở trong không khí - muỗi, bào tử nấm mốc, những loại vi khuẩn
gây bệnh viêm phổi khuẩn, độc tố nấm, thủy triều đỏ (59), và thậm chí cả con
người. Sinskey hình dung ra thứ vi rút tỏa ra khắp đầm nước trong bể chứa, và
sau đó những giọt nước siêu nhỏ bị lây nhiễm bay lên trong không khí ẩm thấp.

Lúc này Mirsat trân trân nhìn một đường phố ùn tắc với vẻ lo sợ hiện rõ
trên mặt. Sinskey nhìn theo ánh mắt của anh ta tới một tòa nhà thấp lát gạch
trắng-đỏ có một cánh cửa mở, để lộ ra thứ trông như cầu thang. Một nhóm người
ăn mặc chỉnh tề đang đứng dưới những chiếc ô che bên ngoài trong khi một nhân
viên gác cửa đang kiểm tra dòng khách khứa theo lối cầu thang đi xuống dưới.

(59) Thủy triều đỏ (red tide) là
tên gọi quen thuộc chỉ hiện tượng các vi sinh vật biển, đặc biệt là các loại
thực vật phù du, tập trung dày đặc gần mặt nước, khiến nước như đổi sang màu đỏ
hoặc nâu. Một số trường hợp thủy triều đỏ sản sinh ra các độc tố tự nhiên, làm
giảm ô xy trong nước và gây ra những tác động có hại khác. Ảnh hưởng đáng sợ
nhất của hiện tượng này là khiến cho các loài cá, chim, động vật biển và những
sinh vật đại dương và duyên hải khác chết hàng loạt.

Một sàn nhảy dưới lòng đất thì phải?

Sinskey nhìn dòng chữ vàng khắc trên tòa nhà và cảm thấy ngực đột nhiên
thắt lại. Sàn nhảy này được gọi là Bể chứa và được xây dựng vào năm 523 sau
công nguyên, cho nên bà nhận ra tại sao Mirsat trông lo lắng như vậy.

“Cung điện chìm”, Mirsat lẩm bẩm. “Dường như… có một buổi hòa nhạc tối nay.”

Sinskey có vẻ hoài nghi. “Hòa
nhạc trong một cái bể chứa à?”

“Đó là một không gian trong
nhà rất rộng”, anh ta đáp lại. “Nó thường được sử dụng như một trung tâm văn
hóa.”

Rõ ràng Brüder cũng đã nghe
được đầy đủ. Anh ta lao vội về phía tòa nhà, lách qua dòng xe cộ lộn xộn trên
Đại lộ Alemdar. Sinskey và những người khác cũng vội chạy theo, bám sát gót anh
chàng đặc vụ.

Khi họ đến lối vào bể chứa,
khuôn cửa bị chặn bởi một nhóm người dự hòa nhạc đang đợi đến lượt vào trong -
một nhóm ba phụ nữ mặc áo choàng che kín mặt, hai du khách tay nắm tay, một
người đàn ông vận lễ phục. Tất cả đều túm tụm bên dưới khung cửa, cố gắng tránh
nước mưa.

Sinskey nghe rõ những giai
điệu du dương của một tác phẩm âm nhạc cổ điển vang lên từ bên dưới. Berlioz,
bà phỏng đoán căn cứ theo cách phối âm rất đặc trưng, nhưng cho dù đó là bản gì
thì cũng có cảm giác nó không thích hợp lắm trong khung cảnh những đường phố
tại Istanbul này.

Khi họ đến gần cửa hơn, bà
cảm nhận được một luồng hơi ấm thổi ngược lên cầu thang, từ tít sâu trong lòng
đất và thoát ra từ cái hang kín mít. Luồng hơi mang theo lên mặt đất không chỉ
tiếng vĩ cầm, mà cả mùi hơi ấm và mùi đám đông người không lẫn đi đâu được.

Nó còn mang tới cho Sinskey
một linh tính vô cùng bất an.

Một nhóm du khách từ dưới cầu
thang xuất hiện, vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ trong lúc ra khỏi tòa nhà, nhân
viên gác cửa liền cho nhóm tiếp theo đi xuống.

Brüder lập tức tiến vào,
nhưng nhân viên gác cửa chặn anh ta lại bằng một cái vẫy tay vui vẻ. “Một lát
thôi, thưa ông. Bể chứa kín người rồi. Chưa đến một phút nữa là du khách tiếp
theo ra thôi. Cảm ơn ông.”

Nhìn Brüder có vẻ sẵn sàng cố
chen vào, nhưng Sinskey vẫn đặt một tay lên vai anh ta và kéo sang một bên.

“Đợi đi”, bà ra lệnh. “Nhóm
của anh đang trên đường và anh không thể lùng sục ở nơi thế này một mình đâu.”
Bà ra hiệu về phía tấm biển trên tường bên cạnh cửa. “Bể chứa rất rộng.”

Tấm biển thông tin nói rõ về
một gian phòng dưới lòng đất có kích thước bằng cả một thánh đường - gần chín
nghìn ba trăm mét vuông và được chống đỡ bằng cả một khu rừng ba trăm ba mươi
sáu cây cột đá cẩm thạch.

“Nhìn xem”, Langdon nói, đứng
cách đó vài thước. “Các vị sẽ không tin nổi đâu.”

Sinskey quay lại. Langdon ra
hiệu về phía một tấm áp phích hòa nhạc trên tường.

Ôi, lạy Chúa lòng lành.

Giám đốc WHO đã đúng khi xác
định phong cách âm nhạc là lãng mạn, nhưng tác phẩm đang được biểu diễn không
phải do Berlioz biên soạn. Nó là của một nhà soạn nhạc phong cách lãng mạn khác
- Franz Liszt.

Tối nay, sâu trong lòng đất,
dàn nhạc Giao hưởng Bang Istanbul biểu diễn một trong những tác phẩm nổi tiếng
nhất của Liszt - Giao hưởng Dante - một tác phẩm hoàn toàn lấy cảm hứng từ cuộc
du hành xuống địa ngục rồi trở về của Dante.

“Nó được trình diễn ở đây một
tuần liền”, Langdon nói trong lúc chăm chú đọc tấm áp phích. “Một buổi hòa nhạc
mở cửa tự do. Bên dưới ký tên một nhà tài trợ giấu tên.”

Sinskey nghĩ mình có thể đoán
ra ai là nhà tài trợ giấu tên đó. Niềm đam mê kịch của Bertrand Zobrist dường
như cũng là một chiến lược rất thiết thực nhưng nhẫn tâm. So với bình thường,
tuần biểu diễn hòa nhạc miễn phí này sẽ thu hút thêm hàng nghìn du khách kéo
xuống bể chứa và nhét họ vào một khu vực chật cứng, nơi họ sẽ hít thở thứ không
khí bị nhiễm bệnh, sau đó quay về nhà mình cả ở đây lẫn ở nước ngoài.

“Thưa ông?”, nhân viên gác
cửa gọi Brüder. “Chúng tôi có chỗ cho hai người nữa.”

Brüder quay sang Sinskey.
“Gọi cho chính quyền địa phương. Cho dù tìm ra thứ gì dưới đó, chúng ta cũng
vẫn cần hỗ trợ. Khi nhóm của tôi đến, bảo họ liên lạc với tôi để cập nhật tình
hình. Tôi sẽ xuống dưới và xem xem liệu tôi có thể nhận ra Zobrist ém thứ này ở
đâu không.”

“Không dùng mặt nạ phòng độc
à?”, Sinskey hỏi. “Anh không biết chắc cái túi Solublon còn nguyên vẹn không.”

Brüder cau mày, tay giơ lên
luồng khí ấm nóng phả ra khỏi cửa. “Tôi phải nói điều này, nếu thứ bệnh lây này
thoát ra thì tôi đoán có lẽ tất cả mọi người trong thành phố này đều bị nhiễm
rồi.”

Sinskey cũng đang nghĩ đến
chính điều ấy nhưng không muốn nói ra trước mặt Langdon và Mirsat.

“Thêm nữa”, Brüder nói thêm,
“tôi đã nhìn thấy chuyện gì sẽ xảy ra với đám đông khi nhóm của tôi tiến vào
cùng với trang phục phòng độc. Chúng ta sẽ gặp cảnh hoảng loạn và giẫm đạp lên
nhau”.

Sinskey quyết định chiều theo
Brüder vì nói cho cùng, anh ta là một chuyên gia và đã ở trong những tình huống
như thế này trước đó rồi.

“Lựa chọn thực tiễn duy nhất
của chúng ta”, Brüder nói với bà, “là giả định rằng nó vẫn còn an toàn dưới đó,
và cố gắng ngăn chặn việc này”.

“Được rồi”, Sinskey nói. “Làm
đi.”

“Còn một vấn đề nữa”, Langdon
xen vào. “Sienna thì sao?”

“Cô ta sao chứ?”, Brüder hỏi.

“Cho dù ý định của cô ta ở
Istanbul này là gì thì cô ta cũng rất giỏi ngôn ngữ và có thể nói chuyện với
một số người Thổ Nhĩ Kỳ.”

“Vậy thì sao?”

“Sienna biết bài thơ nói đến
‘cung điện bị chìm’”, Langdon nói. “Và trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, ‘cung điện bị
chìm’ theo nghĩa đen chính là…” Anh chỉ về phía tấm biển YEREBATAN SAYARI phía
trên khung cửa. “… đây.”

“Đúng vậy”, Sinskey mệt mỏi
đồng ý. “Cô ta có thể đoán ra nơi này và đã bỏ qua Hagia Sophia.”

Brüder nhìn khuôn cửa hiu quạnh
và lầm bầm rất khẽ. “Được thôi, nếu cô ta xuống đó và tìm cách phá vỡ cái túi
Solublon trước khi chúng ta kịp bao nó lại thì ít nhất cô ta cũng chưa ở đó
được lâu. Đó là một khu vực rất rộng, và có lẽ cô ta chưa biết tìm đến chỗ nào.
Và có rất nhiều người ở xung quanh, nên cô ta không thể nhảy ùm xuống nước mà
không bị chú ý.”

“Thưa ông?”, nhân viên canh
cửa lại gọi Brüder. “Ông có muốn vào bây giờ không?”

Brüder nhìn thấy một nhóm
người đi dự hòa nhạc nữa đang từ bên kia phố tiến sang, nên gật đầu với nhân
viên canh cửa ra ý rằng anh ta đến ngay.

“Tôi sẽ đi cùng anh”, Langdon
nói và đi theo.

Brüder xoay lại và đối diện
với anh. “Chẳng để làm gì đâu.”

Giọng Langdon rất cương
quyết. “Đặc vụ Brüder, một trong những lý do chúng ta ở trong tình thế này là vì
Sienna Brooks đã dắt mũi tôi suốt cả ngày nay. Và như anh nói, có thể tất cả
chúng ta đều đã bị nhiễm bệnh rồi. Tôi sẽ giúp anh cho dù anh có thích hay
không.”

Brüder nhìn anh một lúc rồi
dịu lại.

Khi vượt qua ngưỡng cửa và
bắt đầu đi xuống cầu thang khá dốc theo sau Brüder, Langdon cảm thấy luồng hơi
ấm thổi qua họ từ rất sâu dưới bể chứa. Luồng khí ẩm thấp mang theo nó những
giai điệu bản Giao hưởng Dante của Liszt cũng như một thứ mùi quen thuộc nhưng
khó tả - thứ mùi của rất nhiều người chen chúc nhau trong một không gian kín
mít.

Langdon bỗng cảm thấy có một
tấm màn ma quái vây phủ lấy mình, như thể những ngón tay rất dài của một bàn
tay vô hình đang vươn lên từ mặt đất và sờn nắn da thịt anh.

Âm nhạc.

Dàn hợp xướng giao hưởng -
với một trăm giọng hát - lúc này đang trình bày một đoạn nổi tiếng, đọc rành rẽ
từng âm tiết trong lời văn u sầu của Dante.

“Lasciate ogne speranza”, họ
cất tiếng hát vang, “voi ch’ entrate”.

Sáu từ này - chính là dòng
thơ nổi tiếng nhất trong toàn bộ phần Hỏa ngục của Dante - vang lên từ tít phía
dưới cầu thang chẳng khác gì mùi tử khí đáng sợ.

Kèm theo tiếng kèn cùng tù và
vút cao, dàn hợp xướng lại ngân nga lời cảnh báo ấy. “Lasciate ogne speranza
voi ch’ entrate!”

Vứt bỏ mọi hy vọng, những kẻ
bước vào đây!

Chương 91

Ngập trong thứ ánh sáng màu
đỏ, cái hang ngầm âm vang những tiếng nhạc đầy hơi hướng địa ngục - những giọng
hát rền rĩ, tiếng dây đàn chói tai, và tiếng trống trầm đục, vang vọng khắp
hang như một cơn địa chấn nhẹ.

Theo những gì Langdon nhìn
thấy trong tầm mắt, thì nền của cái thế giới ngầm này là một màn nước trong vắt
- tối tăm, tĩnh tại, phẳng lặng - giống như lớp băng màu đen ở một hồ nước đóng
băng tại New England.

Cái đầm không hề phản chiếu
ánh sao.

Nhô lên khỏi mặt nước là hàng
trăm cột trụ Doric vững chãi được bố trí kỹ càng thành những hàng lối dường như
bất tận, vươn cao đến hơn chín mét để đỡ phần trần uốn vòm cung của lòng hang.
Các cột trụ được rọi từ bên dưới nhờ hàng loạt bóng đèn rọi sắc đỏ, tạo thành
một cánh rừng siêu thực với những thân cây được chiếu sáng chạy hút vào bóng
tối, tựa như một dạng ảo ảnh qua gương.

Langdon và Brüder dừng lại ở
chân cầu thang, đứng ngây một lúc ở ngưỡng cửa trước khi tiến vào khoảng không
gian trước mặt. Dường như chính lòng hang cũng tỏa ra một thứ sắc đỏ, và khi quan
sát xung quanh, Langdon nhận thấy mình đang cố gắng hít thở nhẹ nhàng hết sức.

Không khí dưới này nặng nề
hơn anh tưởng.

Langdon nhìn thấy đám đông
cách đó một quãng bên tay trái họ. Buổi hòa nhạc đang diễn ra tít sâu trong
không gian ngầm này, ở quãng giữa khoảng cách tới bức tường bên kia, và khán
giả đều ngồi trên những cái bục. Vài trăm khán giả ngồi thành những vòng tròn
đồng tâm được bố trí xung quanh dàn nhạc trong khi có khoảng một trăm người
khác đang đứng ở vòng ngoài. Vẫn có thêm những người ở các vị trí bên ngoài,
trên những lối đi lót ván gần đó, tựa người vào hàng rào chắn vững chãi và chăm
chú nhìn xuống nước trong lúc lắng nghe tiếng nhạc.

Langdon đưa mắt nhìn khắp
lượt những cái bóng vô định hình, mắt anh cố tìm kiếm Sienna. Không nhìn thấy
cô ở đâu cả. Thay vào đó, anh thấy những bóng người mặc áo đuôi tôm, áo choàng
dài, bisht của người Ả Rập, áo che mặt của người Hồi giáo, và thậm chí cả những
du khách mặc quần cộc và áo lạnh cộc tay. Cảnh tượng nhiều người tụ lại trong
thứ ánh sáng màu đỏ đối với Langdon giống như những người tham dự một nghi thức
tế lễ huyền bí nào đó.

Nếu Sienna ở dưới này, anh
nhận ra như vậy, thì gần như không thể nào phát hiện ra cô ấy.

Đúng lúc đó, một người đàn
ông bệ vệ đi qua họ, len lên cầu thang, ho sặc sụa. Brüder quay phắt lại và
nhìn theo người đó, chăm chú quan sát anh ta. Langdon cảm thấy hơi nhột nhạt ở
trong cổ họng nhưng tự nhủ đó chỉ là do tưởng tượng.

Lúc này Brüder quả quyết bước
lên lối đi lót ván, đưa mắt nhìn vô số khả năng lựa chọn của họ. Lối đi trước
mặt họ chẳng khác gì lối vào mê cung của quái vật đầu bò Minotaur. Lối đi lót
ván duy nhất nhanh chóng chia làm ba ngả, từng ngã lại tiếp tục chia nhánh, tạo
thành một mê cung lơ lửng trên mặt nước, luồn lách qua những cột trụ và chạy
hút vào trong bóng tối.

Mình đang ở trong một khu
rừng tối tăm, Langdon nghĩ thầm, nhớ đến khổ thơ đầu tiên trong kiệt tác của
Dante, vì cái lối đi dễ thấy đã mất dấu rồi.

Langdon ngó qua hàng rào chắn
của lối đi, nhìn xuống nước. Nước sâu đến hơn một mét và trong đến kỳ lạ. Có
thể nhìn rõ nền lát đá, phủ một lớp bùn mịn.

Brüder nhìn nhanh xuống dưới,
bật ra tiếng lầm bầm không rõ thái độ cụ thể, và sau đó lại đưa mắt về phía
gian phòng. “Anh có nhìn thấy gì giống như khu vực trong đoạn video của Zobrist
không?”

Tất cả mọi thứ, Langdon nghĩ,
mắt quan sát những bức tường trơn trượt, ẩm ướt xung quanh họ. Anh ra hiệu về
góc hang xa nhất, tít bên phải, cách biệt hẳn với khu sân khấu hòa nhạc đông
nghịt. “Tôi đoán ở đâu đó phía sau kia.”

Brüder gật đầu. “Trực giác
tôi cũng mách bảo như vậy.”

Hai người vội vã bám theo lối
đi lót ván, men theo ngả bên phải dẫn họ rời xa đám đông về hướng xa nhất của
cung điện chìm.

Trong lúc họ di chuyển,
Langdon nhận ra việc ẩn náu qua đêm tại nơi này mà không bị phát hiện thật quá
dễ dàng. Zobrist có thể đã làm như vậy để thực hiện đoạn video của mình. Dĩ
nhiên, nếu hắn đã hào phóng đứng tên tổ chức Chương trìn hòa nhạc dài cả tuần
này thì hắn cũng có thể đề nghị được sử dụng một khoảng thời gian riêng tư ngay
trong bể chứa.

Chuyện đó không còn thành vấn
đề nữa.

Giờ Brüder sải bước nhanh
hơn, như thể đang vô thức bắt theo nhịp độ của bản giao hưởng lúc này đã tăng
tốc thành cả loạt quãng lửng bán cung thấp dần.

Dante và Virgil đi xuống địa
ngục.

Langdon chăm chú nhìn khắp
lượt những bức tường rêu trơn trượt phía xa bên phải họ, cố gắng so sánh những
gì họ đã thấy trong đoạn video. Đễn mỗi ngã ba mới, họ đều rẽ sang phải, di
chuyển rời xa đám đông thêm nữa, tiến về góc xa nhất của cái hang. Langdon
ngoái nhìn lại và vô cùng kinh ngạc trước quãng đường mà họ đã đi.

Giờ họ đi rảo chân hơn, vượt
qua một vài khách tham quan đang đi vẩn vơ, họ càng tiến vào sâu, số người lại
càng thưa dần cho đến khi chẳng còn ai.

Chỉ còn lại Brüder và
Langdon.

“Nhìn chỗ nào cũng giống
nhau”, Brüder tỏ vẻ thất vọng. “Chúng ta bắt đầu từ đâu đây?”

Langdon cũng chung tâm trạng.
Anh còn nhớ rất rành rẽ đoạn video, nhưng dưới này chẳng có gì làm đặc điểm
nhận diện cả.

Langdon đọc kỹ những tấm biển
thông tin có đèn chiếu sáng được bố trí từng quãng dọc lối đi trong lúc họ di
chuyển về phía trước. Một tấm biển ghi rõ không gian này có sức chứa gần tám
mươi nghìn mét khối. Một tấm biển khác cho biết có một cây trụ không đồng bộ vì
được đoạt về từ một công trình gần đó trong quá trình xây dựng. Và còn một tấm
biển khác nữa vẽ một hình chạm cổ giờ đã mờ không còn nhìn rõ nữa - đó là biểu
tượng Mắt Gà Nhỏ Lệ - khóc thương cho tất cả những nô lệ đã bỏ mình trong quá
trình xây dựng bể chứa này.

Rất lạ là có một tấm biển chỉ
vỏn vẹn có một từ duy nhất khiến Langdon dừng sững lại.

Brüder cũng dừng bước, quay
trở lại. “Có chuyện gì sao?”

Langdon chỉ tay.

Trên tấm biển, kèm theo một
mũi tên chỉ phương hướng, là tên của một yêu nữ đáng sợ - một con quái vật khét
tiếng.

MEDUSA→

Brüder đọc tấm biển rồi nhún
vai. “Thì sao chứ?”

Tim Langdon đập rộn lên. Anh
biết Medusa không chỉ là con quỷ có tóc là những con rắn đáng sợ, với cái nhìn
có khả năng biến bất kỳ ai nhìn nó hóa thành đá, mà còn là một nhân vật nổi bật
trong hệ thống yêu thần sống trong lòng đất của Hy Lạp - một nhóm đặc biệt thường
được biết đến như là những quái vật địa phủ.

Hãy lần sâu vào tòa cung điện
bị chìm…

vì ở đây, trong bóng tối, con
quái vật chốn địa phủ chờ đợi…

Ả đang chỉ lối, Langdon nhận
ra như vậy, và vùng chạy dọc theo lối đi lót ván. Brüder khó khăn lắm mới bắt
kịp Langdon trong khi chạy ngoằn ngoèo khuất vào bóng tối, theo đúng những tấm
biển mà chỉ dẫn tới chỗ Medusa. Cuối cùng, anh tới một lối cụt chỗ một sàn quan
sát nhỏ, gần móng bức tường tận cùng bên phải của bể chứa.

Ở đó, trước mắt anh là một
cảnh tượng lạ thường.

Vọt lên khỏi mặt nước là một
khối cẩm thạch đồ sộ đã được đục đẽo - chính là đầu Medusa - với mái tóc chính
là những con rắn quằn quại. Sự hiện diện của ả ở đây càng kỳ quái hơn nữa vì
cái đầu ả được đặt xoay ngược trên cổ.

Đảo ngược như kẻ bị đầy đọa,
Langdon nhận ra như vậy, trong đầu lại hình dung ra bức Vực Địa Ngục của
Botticelli và những kẻ tội đồ bị xoay ngược đầu mà ông đã đưa vào rãnh quỷ
Malebolge.

Brüder hổn hiển đến bên cạnh
Langdon chỗ rào chắn, nhìn sững chiếc đầu lộn ngược của Medusa với nét mặt sửng
sốt.

Langdon ngờ rằng cái đầu chạm
khắc này, hiện có chức năng như chân đế đỡ lấy một chiếc cột, có lẽ được đoạt
về từ một nơi nào đó khác và sử dụng ở đây như một hạng mục cung ứng xây dựng
không mấy tốn kém. Lý do tư thế đảo ngược của Medusa chắc chắn là do niềm tin
có phần mê tín rằng việc xoay ngược như vậy sẽ tước bỏ quyền năng hắc ám của ả.
Mặc dù vậy, Langdon vẫn không thể nào xua tan được những ý nghĩ đầy ám ảnh đang
dồn dập tấn công anh.

Hỏa ngục của Dante. Đoạn
cuối. Trung tâm trái đất. Nơi trọng lực đảo ngược. Nơi lên biến thành xuống.

Lúc này anh thấy nổi gai ốc
với lời tiên tri, anh nheo mắt nhìn qua làn hơi nước đỏ ngầu xung quanh cái đầu
chạm khắc kia. Phần lớn mái tóc rắn của Medusa ngập chìm trong nước, nhưng đôi
mắt của ả thì ở trên mặt nước, ngoảnh sang trái, đăm đăm nhìn qua đầm nước.

Đầy sợ hãi, Langdon nhoài
người ra ngoài rào chắn và ngoái đầu, đưa mắt dõi theo ánh mắt của bức tượng về
phía góc tường trống trơn khá quen của tòa cung điện chìm.

Trong khoảnh khắc, anh biết
rõ.

Đây chính là vị trí cần tìm.

Điểm không bề mặt của
Zobrist.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3