Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới - Chương 03 - 04
Chương III
Lúc này là mùa Đông và cái giá lạnh như càng rét
buốt hơn trên đỉnh ngọn đồi của những cây Ô-liu. Từ Jerusalem, xuyên qua hẻm
núi hẹp của thung lũng Kidron, thoảng đến mùi khói, nhang và cả thịt da cháy
khét từ một đền thờ đâu đây gần đó. Trên một sườn đồi thấp hơn một khoảng so
với làng Bethpage, đoàn thương hành của ông Pathros thành Palmyra đang dừng
chân tại đó. Lúc này đã trể và ngay cả những con lạc đà cũng đã thôi không nhai
những cành hồ trăn nữa mà nằm xuống nghỉ yên bên những bụi nguyệt quế mềm mại.
Bên dãy lều bạt lặng lẽ, những bụi gai dầu quây
quanh bốn cây ô liu cổ thụ tạo thành một hàng rào vây lấy đám lạc đà đang chen
chúc vào nhau tìm hơi ấm. Ngoại trừ hai người canh gác đang đi dọc theo những
dãy xe hàng, chỉ còn có bóng của một người cao lớn là còn chuyển động in lên
nền bạt da dê chiếc lều lớn của ông chủ Pathros.
Bên trong, ông Pathros đang đi lại đầy giận giữ,
chốc chốc chau mày dừng lại lúc lắc cái đầu với cậu thanh niên đang quỳ ngay
lối vào của căn lều. Cuối cùng ông ngồi xuống và vẫy cậu trai đến gần.
“Hafid, lúc nào ta cũng đối xử tốt với ngươi. Ta
hoàn toàn bất ngờ và không tin nổi cái yêu cầu lạ lùng của ngươi. Mi không hài
lòng với công việc của mi sao?”
Cậu trai chỉ cúi nhìn xuống đất, không dám ngẩng đầu
dậy: “Không đâu, thưa ông.”
Ông Pathros nhìn cậu thanh niên chăm chú: “Hay là
đoàn lạc đà của ta tăng lên quá nhanh làm nhiệm vụ của ngươi trở nên quá nặng.”
“Không phải vậy, thưa ông.”
“Vậy hãy nhắc lại rõ ràng yêu cầu của ngươi một lần
nữa, cả những lý do dẫn đến yêu cầu bất thường đó nữa.”
“Đó chỉ là lòng ham muốn của con, được trở thành
người bán hàng cho ông thay vì chỉ là một người chăm sóc lạc đà. Con mong muốn
trở thành một người bán hàng như Hadad, Simon, Caled và những người khác, ra đi
với đoàn xe nặng trĩu hàng hóa và trở về với những đồng tiền vàng cho ông và cả
cho họ nữa. Con muốn cải thiện vị trí của mình trong đời sống. Là một người
chăn lạc đà con sẽ chẳng là gì cả, nhưng là một người bán hàng cho ông con có
thể đạt được nhiều hơn. Con sẽ có thể giàu có và đạt được thành công.”
“Làm sao ngươi biết như vậy?.”
“Con vẫn thường nghe ông nói, không một nghề nghiệp
hay việc buôn bán nào mang lại nhiều cơ hội hơn để một người từ nghèo khó trở
nên giàu có cho bằng làm người bán hàng.”
Ông Pathros bắt đầu gật đầu, nhưng ông nghĩ tốt hơn
nên tiếp tục tra vấn cậu thanh niên: “thế ngươi có tin là ngươi có đủ khả năng
để làm việc như Hadad hay những người khác không?”
Hafid ngẩng lên nhìn ông chủ của mình nói: “Rất
nhiều lần con nghe thấy Caled phàn nàn với ông về sự không may của ông ta khi
không bán được hàng, và cũng đã nhiều lần con nghe ông nhắc nhở Caled rằng bất
cứ ai cũng có thể bán mọi thứ trong kho hàng của ông trong một khoảng thời gian
nếu áp dụng chặt chẽ những nguyên tắc và luật lệ của việc bán hàng. Nếu ông có
thể tin là Caled, người mà ai cũng cho là khờ khạo, có thể học được những
nguyên tắc ấy thì tại sao con lại không thể học được những hiểu biết đó?”
“Nếu ngươi tin là mình có thể thấm nhuần những
nguyên tắc đó, vậy đâu là mục đích của… con trong đời sống?” Ông Pathros bắt
đầu thay đổi giọng điệu.
Hafid hơi chần chừ chốc lát rồi nói: “Việc ông là
một người bán hàng vĩ đại nhất thế giới đã được rao truyền trên khắp miền đất
này. Cả thế giới này chưa bao giờ có một vương quốc buôn bán nào rộng lớn như
thương quốc mà ông đã tạo dựng nên sau bao năm buôn bán. Khát vọng của con là
trở thành còn vĩ đại hơn cả ông nữa, người giàu có nhất, và là người bán hàng
vĩ đại nhất trên toàn thế giới này.”
Ông Pathros ngả người ra sau quan sát khuôn mặt trẻ
trung của cậu bé. Mùi của các con lạc đà vẫn còn đượm trên quần áo của cậu
nhưng chỉ có một chút ngại ngùng ẩn hiện trong phong thái.
“Vậy rồi con sẽ làm gì với tất cả những thứ đó và
với quyền lực đáng sợ chắc chắn là luôn đi theo cùng với sự giầu có đó?”
“Con sẽ làm như ông đã làm. Gia đình con sẽ được
cung cấp đầy đủ với những vật dụng tốt nhất và phần còn lại con sẽ chia sẽ với
những ai đang còn thiếu thốn.”
Ông Pathros nhẹ lắc đầu: “Sự giàu có, con ơi, không
bao giờ nên là mục đích của con người trong đời sống. Con nói rất trôi chảy
nhưng chúng chỉ là từ ngữ. Sự giàu có thực sự là ở trong trái tim của con chứ
không phải ở túi tiền.”
Hafid chống chế: “Không lẽ ông không giàu hay sao,
thưa ông?”
Người đàn ông cười vì sự ương ngạnh của cậu bé:
“Hafid ạ! Còn nhiều điều để quan tâm hơn là chỉ sự giàu có vật chất, ở đây chỉ
có một sự khác biệt giữa ta trong lâu đài Herod và tên ăn mày hạng bét lê lết
ngoài đường. Tên ăn mày chỉ nghĩ đến bữa ăn sắp tới, còn ta thì chỉ nghĩ đến
bữa ăn cuối cùng. Không, con trai ơi, đừng khát vọng chỉ vì sự giàu có và cố
sức lao động cật lực để được giàu sang. Thay vì vậy, hãy nổ lực vì hạnh phúc,
để yêu người và được người yêu. Quan trọng hơn hết là đạt đến sự an bình trong
tâm tưởng và tĩnh lặng trong suy nghĩ.”
Hafid tiếp tục phản ứng: “Nhưng những điều này không
thể đạt được nếu không có vàng. Ai lại có thể sống an bình trong tư tưởng một
khi nghèo khổ? Làm sao một người có thể hạnh phúc khi bụng đói? Làm sao có thể
bày tỏ tình yêu với gia đình khi mình không thể nuôi nấng được vợ con? Ông đã
từng nói, sự giàu có là tốt khi nó đem lại niềm vui cho người khác. Vậy sao
mong muốn được giàu có của con lại là không tốt? Sự nghèo khó có thể là chứng
nhân hay một cách sống chỉ dành cho một nhà tu hành trong sa mạc, vì ông ta chỉ
có mỗi một Chúa của ông ta để mà phụng sự. Nhưng con, con cho rằng sự nghèo khó
là dấu chỉ cho sự yếu kém của năng lực cũng như khát vọng. Con không phải là
người thiếu những phẩm chất đó.”
Ông Pathros cau mày: “Điều gì đã khiến con nẩy lên
những khát vọng bất ngờ đó? Con nói về việc nuôi nấng một gia đình, nhưng con
chưa có gia đình mà? Con đã không còn gia đình riêng của con nữa kể từ khi trận
dịch năm đó cướp mất cha mẹ của con đi, và ta đã nhận nuôi con từ đó.”
Nước da sạm nắng của Hafid cũng không thể nào che
giấu được màu hồng đang ửng lên trên hai gò má: “Khi chúng ta dựng trại ở
Hebron trước khi lên đường, con đã... đã gặp con gái của Calneh ở đó... cô ta...
cô...”
“À... à... sự thật là như vậy đó.” Ông Pathros ngắt
ngang.”Tình yêu chứ không phải các lý tưởng sang giầu đã chuyển người chăm sóc
lạc đà của ta thành một chiến binh sẵn sàng đương đầu với cả thế giới. Calneh
thực sự là một người giàu có. Con gái ông ta với một tên chăn lạc đà ư?... Không
bao giờ! Nhưng con gái của ông ta với một lái buôn trẻ, đẹp trai, giàu có lại
là một vấn đề khác hẳn. Tốt thôi, chàng chiến binh trẻ của ta. Ta sẽ giúp con
bắt đầu nghề nghiệp của con, một người bán hàng.”
Chàng thiếu niên sụp xuống chân ông Pathros, nắm lấy
gấu áo của ông ta: “Ôi, thưa ông. Con không biết nói gì để cảm ơn ông nữa.”
Ông Pathros gỡ tay chàng trai trẻ ra, bước lùi lại:
“Hãy giữ lại những lời cảm ơn đó, con trai. Những gì ta sẽ cho con chỉ là những
hạt cát so với những ngọn núi mà con sẽ phải tự mình giành lấy.”
Niềm vui của Hafid bị chặn lại, cậu ngập ngừng: “Thế
ông sẽ không dạy con những nguyên tắc và luật lệ để con trở thành người bán
hàng vĩ đại hay sao?”
“Không đâu. Sẽ không hơn những gì ta đã làm cho tuổi
trẻ của con được yên ổn thong dong bằng những lời dỗ ngọt. Ta đã từng bị chỉ
trích vì để con nuôi của mình làm người chăn lạc đà nhưng ta đã nghĩ rằng nếu
ngọn lửa đúng đắn bùng cháy trong con thì nó sẽ nhấn chìm hết những lời dị nghị
đó... Và một khi nó thực sự bùng cháy, con sẽ là người đàn ông đã trưởng thành
từ những năm tháng khó nhọc. Tối nay, yêu cầu của con đã khiến ta cảm thấy hạnh
phúc vì ngọn lửa khát vọng lấp lóe trong mắt và gương mặt con rạng rỡ vì ham
muốn. Điều này là tốt và quyết định của ta cũng đã được chứng tỏ nhưng con, con
vẫn cần phải chứng minh, còn những gì nữa sau lời nói của con chứ không chỉ là
không khí.”
Hafid im lặng và người đàn ông già tiếp tục: “Đầu
tiên, con phải chứng tỏ với ta, và quan trọng hơn nữa là với chính bản thân,
con phải thực nghiệm đời sống của một người bán hàng chứ không chỉ dễ dàng như
con đã lựa chọn để trở thành. Thực thế, đã nhiều lần con nghe thấy ta nói phần
thưởng là to lớn cho một người thành đạt nhưng phần thưởng chỉ to lớn với một
vài người thành công mà thôi. Rất nhiều người đã thất vọng và rồi đánh mất
chính mình mà không hề biết rằng họ luôn có sẵn những công cụ cần thiết để gặt
hái sự giàu sang. Biết bao nhiêu người đã từng đối diện với trở ngại và xem
chúng như những kẻ thù địch, trong khi thật ra những trở ngại chính là bạn hữu,
là người trợ đỡ. Trở ngại là cần thiết cho sự thành công bởi trong nghề bán
hàng, cũng như trong mọi nghề nghiệp quan trọng khác, vinh quang chỉ đến sau vô
số nỗ lực. Đúng, mỗi một nỗ lực, mỗi một cố gắng sẽ trau chuốt sự khéo léo và
sức mạnh của con, lòng can đảm và sự trải nghiệm của con, khả năng và niềm tin
của con và vì thế mỗi một chướng ngại là một người bạn thân thiết thúc đẩy để
con trở thành tốt hơn... hay con sẽ bỏ cuộc vì xem những ngăn trở đó là thù
địch. Mỗi một lời chối từ sẽ là một cơ hội để tiến lên; quay lưng lại với
chúng, từ chối chúng và con sẽ quẳng cả tương lai của mình đi.”
Người tuổi trẻ gật đầu và mở miệng muốn nói nhưng
ông già đã giơ tay ngăn lại: “Và hơn nữa, con đã chọn lấy một nghề cô độc nhất
trên thế giới này. Ngay cả những người thu thuế rồi cũng trở về nhà khi mặt
trời lặn xuống và đế quốc La Mã có những rào chặn để buộc mọi người phải trở về
nhà khi đêm tới. Nhưng con, là một người bán hàng, con sẽ phải chứng kiến vô số
lần mặt trời lặn và mọc ở xa, thật xa những bạn bè và những người thân yêu nhất
của con. Không gì có thể làm cho một người đàn ông đau khổ và cô đơn bằng những
lúc chỉ một mình đi ngang một ngôi nhà xa lạ trong bóng tối và chứng kiến cảnh
gia đình người ta quây quần ăn uống trong ánh sáng và hạnh phúc.
“Con sẽ phải đối đầu với những khoảng thời gian cô
đơn như thế.” Ông Pathros tiếp tục:
“Con sẽ phải đương đầu với bao nhiêu khuấy động như
thế, những khuấy động sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến nghề nghiệp của con. Khi con
đang trên đường với chỉ những con lạc đà của mình là một cảm giác đáng sợ và xa
lạ. Thường thì đôi lúc tầm nhìn và phẩm giá của ta bị lãng quên và ta sẽ xử sự
không khác gì những đứa trẻ, chỉ mong muốn sự an toàn và tình yêu cho riêng
mình. Biết bao nhiêu người đã phải bỏ ngang giữa chừng, bao gồm cả hàng ngàn
người được đánh giá là có khả năng tiềm tàng lớn trong nghề. Và còn hơn nữa, sẽ
không có một ai làm cho con cười hay an ủi con khi mà con không bán được một
món hàng nào. Không một ai ngoại trừ những người đang tìm cách lấy đi những
hàng hóa của con.” “Con sẽ cẩn trọng và ghi nhớ những cảnh báo này.”
“Nào chúng ta hãy tiếp tục. Lúc này, con sẽ không
được nhận thêm một lời hướng dẫn nào nữa. Con đang đứng trước mặt ta như một
trái chà là còn xanh. Một trái chà là chưa thực sự chín, vẫn chưa được gọi là
chà là và con cũng vậy, khi con chưa thực sự trải nghiệm và hiểu biết, con cũng
chưa được gọi là một người bán hàng.”
“Con sẽ phải bắt đầu ra sao?”
“Sáng ngày mai con hãy gặp Silvio tại chỗ các xe
hàng. Hắn sẽ trao cho con một chiếc áo dài, loại tốt nhất, không bị nhăn nhàu. Chúng
được dệt từ lông dê và có thể chịu được những trận mưa lớn nhất, được nhuộm
bằng rễ cây mắm đỏ nên không bị bay màu. Ở bên trong cổ áo, con sẽ thấy có một
ngôi sao nhỏ được may vào đó. Đó là nhãn hiệu của Tola, nhà may áo dài tốt nhất.
Cạnh bên ngôi sao đó là nhãn hiệu của ta, một vòng tròn trong hình vuông. Cả
hai nhãn hiệu này được nhận biết và tôn trọng trên khắp vùng đất này và chúng
ta đã bán được rất nhiều, một con số không thể đếm được, loại áo này. Ta đã
quan hệ với người Do Thái đủ lâu để biết rằng họ gọi loại áo này là abeyah.
“Hãy nhận lấy chiếc áo và một con lừa rồi khởi hành
ngay từ sáng sớm đi Bethlehem, ngôi làng mà chúng ta đã đi qua trước khi đến
đây. Chưa một người bán hàng nào của ta từng ghé qua nơi này. Họ báo với ta
rằng ghé qua đó chỉ phí thời gian mà thôi, dân chúng ở đó quá nghèo. Ta đã từng
bán được hàng trăm chiếc áo tương tự ở đó nhiều năm trước. Hãy ở lại Bethlehem
cho đến khi con bán được chiếc áo dài đó.”
Hafid gật đầu, cố gắng che giấu sự kích động trong
giọng nói: “Con sẽ bán nó với giá bao nhiêu, thưa ông?”
“Ta sẽ ghi tên con vào sổ với giá một đồng denarius
bạc. Khi trở về con sẽ giao lại cho ta một đồng đó và giữ lại phần lời từ đó
cho con, vì thế con hãy tự định giá cho chiếc áo dài. Con có thể ghé qua khu
họp chợ ở cửa Nam thị trấn hay tự mình đến từng nhà tuỳ thích. Ta chắc với con
là ở đó có hàng ngàn gia đình. Chắc chắn là có thể bán được một cái áo ở đó,
con đồng ý chứ?”
Hafid gật đầu, tâm trí của cậu đã sẵn sàng cho ngày
mai.
Ông Pathros đặt tay lên vai người tuổi trẻ: “Cho đến
khi con quay lại, ta sẽ không chỉ định một ai thay vào vị trí của con hiện tại.
Nếu con nhận ra rằng mình không thích hợp với nghề nghiệp, đừng nên chán nản. Đừng
bao giờ xấu hổ vì thất bại vì những ai không bao giờ thất bại là những ai không
bao giờ cố gắng. Khi con trở về ta sẽ hỏi con nhiều về những gì con đã trải qua.
Và rồi sẽ quyết định phải làm những gì để biến giấc mơ của con thành sự thật.”
Hafid cúi chào và xoay mình bước đi, nhưng người đàn
ông già ngăn lại.”Con trai ạ, có một điều về cách xử sự mà con phải ghi nhớ khi
bắt đầu cuộc đời mới của con. Hãy luôn ghi nhớ nó trong lòng và con sẽ vượt qua
được những trở ngại tưởng chừng không thể vượt qua, những trở ngại mà chắc chắn
là con sẽ phải đối mặt như một con người với khát vọng trong tim.”
“Vâng thưa
ông”
“Thất bại không thể đánh gục được con nếu mong ước
thành công của con đủ mạnh.”
Ông Pathros bước lại gần chàng trai trẻ: “Con có
hiểu đầy đủ ý nghĩa của những lời ta nói chứ?”
“Có, thưa ông.”
“Vậy hãy nhắc lại lời ta nói.”
“Thất bại không thể đánh gục
được một người có mong ước thành công đủ mạnh.”
Chương IV
Hafid đặt sang một bên miếng bánh mì đang ăn dở và
suy nghĩ về số phận không may của mình. Ngày mai đã là ngày thứ tư anh ở
Bethlehem và chiếc áo dài mầu đỏ thắm duy nhất mà anh mang theo khi rời khỏi
thương đoàn vẫn còn đó, trong túi xách trên lưng con lừa có lẽ đang nhơi cỏ khô
trong hang đá đằng sau quán trọ.
Ngồi nghe tiếng cười nói ồn ào ở chung quanh trong
giờ ăn tối, Hafid bực bội nhìn vào bữa ăn dang dở của mình. Những nghi ngờ đã
từng ám ảnh mọi người bán hàng từ xưa đến nay quấy đảo tâm trí anh.
“Tại sao người ta không muốn nghe câu chuyện của
mình? Sao không một ai tỏ ra chú ý? Tại sao họ lại đóng sập cửa lại khi mình
chưa kịp nói được lấy đủ một câu? Tại sao họ không hề quan tâm đến công việc
của mình và vội vã bỏ đi? Có phải mọi người trong thị trấn này đều nghèo khổ?
Ta phải nói gì những khi họ thích chiếc áo nhưng không đủ tiền để mua nó? Tại
sao có nhiều người nói mình hãy trở lại vào một ngày khác? Tại sao những người
khác bán được mà mình lại không thể? Nỗi sợ xiết chặt lấy mình khi đến gần một
cánh cửa đóng kín là gì và làm sao để vượt qua nó? Có phải giá của mình đặt ra
là quá cao?…”
Chàng trai trẻ lắc đầu chán nản vì sự thất bại của
mình. Có thể đây không phải là cuộc đời dành cho anh. Có thể anh nên tiếp tục
làm người chăn lạc đà để có được vài đồng kẽm sau một ngày lao động cực nhọc. Là
một người bán hàng anh phải may mắn và trở về với thương đoàn dù chỉ với một
chút lợi nhuận trong tay. Ông chủ Pathros đã gọi anh là gì? Người chiến binh
trẻ ư? Anh thoáng nghĩ đến việc sẽ trở lại với lũ lạc đà.
Và rồi ý nghĩ của anh quay lại với Lisha và ông bố
già Calneh cáu kỉnh của cô, sự hồ nghi mau chóng rời khỏi tâm trí anh. Hafid
quyết định, đêm nay anh sẽ ngủ lại trên đồi để tiết kiệm số tiền nhỏ nhoi của
mình và sáng mai anh sẽ bán đi chiếc áo dài. Và còn hơn thế nữa, Hafid sẽ nói
thật hay và lưu loát để bán được chiếc áo dài với giá thật cao. Anh sẽ bắt đầu
thật sớm ngày mai, ngay khi mới bình minh, anh sẽ đến giếng nước của thị trấn. Anh
sẽ mời mọc hết cả những người đi ngang qua đó và sẽ mau chóng trở về ngọn đồi
của những cây Ô- liu với những đồng tiền bạc trong túi.
Hafid với lấy phần bánh mì còn lại của mình, anh lại
nghĩ đến ông chủ của mình. Ông Pathros sẽ tự hào vì anh, anh sẽ không trở về
trong thất bại và nản chí. Thực ra thì bốn ngày là quá dài để bán chỉ mỗi một
cái áo nhưng một khi anh có thể hoàn tất việc này trong bốn ngày, anh biết anh
sẽ có thể học từ ông Pathros cách làm sao để có thể bán chỉ trong ba ngày, rồi
hai ngày. Với thời gian anh sẽ càng ngày càng lành nghề và sẽ có thể bán thật
nhiều những chiếc áo dài tương tự trong từng giờ một. Và rồi anh sẽ thực sự trở
thành là một người bán hàng đầy tự hào.
Anh rời khỏi quán trọ ồn ào đi về phía hang đá. Không
khí giá buốt phủ lên lớp cỏ dưới chân Hafid một lớp áo băng mỏng, chúng như kêu
rên, rạn vỡ dưới từng bước chân của Hafid. Anh quyết định không ra đồi ngủ tối
nay, anh sẽ ngủ lại tại hang đá với con lừa của anh.
Anh biết và tin là ngày mai sẽ là một ngày tốt hơn
và anh đã hiểu tại sao mọi người bán hàng khác đều từ bỏ cái ngôi làng nghèo
khó này. Bọn họ đã cho là không một việc buôn bán nào có thể hoàn tất được ở
đây và Hafid vẫn nhớ lại điều này mỗi khi có ai đó từ chối chiếc áo dài đỏ của
anh. Anh tin rằng ông Pathros đã từng bán ở đây hàng trăm chiếc áo tương tự,
nhiều năm trước. Nhưng có thể thời thế đã đổi thay, và hơn nữa ông Pathros là
một người bán hàng vĩ đại nhất.
Chút ánh sáng lập loè từ hang đá chứa gia súc hắt ra
khiến Hafid rảo bước, anh nghĩ có thể có kẻ trộm trong ấy. Anh nhanh chân ập
vào với ý nghĩ là mình sẽ bắt được tên trộm và những gì hắn đánh cấp. Nhưng
thay vì thế, sự căng thẳng trong anh bay biến khi nhìn thấy những gì đang hiện
ra trước mắt.
Trong ánh sáng leo lét, mập mờ ẩn hiện một người đàn
ông râu rìa và một phụ nữ trẻ quần áo phong phanh đang ôm lấy nhau để giữ ấm. Dưới
chân họ, trong máng cỏ gia súc, một đứa bé ngủ yên trong đó. Qua nước da còn đỏ
hỏn của đứa bé, Hafid tuy không rõ mấy nhưng vẫn biết là đứa bé mới vừa được
sinh ra.
Đưá bé được quấn để ủ ấm bằng hai cái áo choàng
ngoài của cha mẹ nó.
Người đàn ông hất đầu về phía Hafid ra hiệu cho vợ,
người đàn bà nhích đến gần đứa trẻ hơn. Họ lặng lẽ nhìn nhau. Người phụ nữ đang
run bần bật vì lạnh, chị ta chỉ mặc có mỗi một chiếc áo dài mỏng manh –quá mỏng
manh để bảo vệ chị ta trước cái lạnh giá buốt trong hang đá ẩm thấp này. Hafid
nhìn đứa trẻ. Anh xúc động khi thấy cái miệng nhỏ nhắn của nó mở ra rồi ngậm
lại như muốn nở một nụ cười, một cảm giác lạ lùng làm anh run rẩy. Không biết
lý do gì Hafid lại nghĩ đến Lisha. Người đàn bà lại run lên bần bật làm Hafid
sực tỉnh khỏi những ý nghĩ về Lisha yêu quý của anh.
Sau một thoáng ngỡ ngàng không chủ định, người sẽ có
thể trở thành một người bán hàng đó đi lại phía con lừa của anh. Anh cẩn thận
gỡ những mối dây buộc lấy túi xách xuống, mở nó ra, lấy chiếc áo dài đỏ thắm
của anh ra. Hafid mở cái áo dài ra, tay mân mê ve vuốt loại vải dệt bằng lông
dê mềm mượt của nó. Màu đỏ như bừng sáng dưới ánh nến và Hafid có thể nhìn thấy
nhãn hiệu của Tola và Pathros ở bên trong cổ áo. Vòng tròn trong hình vuông và
ngôi sao nhỏ. Không biết bao nhiêu lần anh đã mang chiếc áo dài này trên đôi
tay mỏi mệt trong ba ngày qua? Tưởng chừng như anh đã nằm lòng từng thớ dệt,
sợi may của nó. Đây quả thật là một chiếc áo tốt, chất lượng. Với sự gìn giữ,
nó có thể tốt mãi cho cả một đời người.
Hafid nhắm mắt lại, thở dài rồi bước chầm chậm lại
phía cái gia đình nhỏ bé đang ở trước mặt anh. Anh quỳ xuống bên đứa trẻ, chầm
chậm gỡ bỏ chiếc áo choàng ngoài của người cha rồi đến cái của người mẹ. Hafid
trao lại hai cái áo choàng cũ kỹ cho cha mẹ của đứa bé. Cả hai đều ngạc nhiên
trước hành động của Hafid, họ đứng yên không phản ứng. Và rồi Hafid mở rộng
chiếc áo dài đỏ của mình ra và quấn kỹ đứa bé đang ngủ vào trong.
Nụ hôn ẩm ướt của người mẹ trẻ vẫn còn cảm giác trên
má Hafid khi anh dắt con lừa của mình rời khỏi hang đá. Trên đầu của Hafid,
trên trời đêm là một ngôi sao sáng lóe mà Hafid chưa từng được nhìn thấy trong
quãng đời đã qua của mình. Anh mải mê ngắm nhìn ngôi sao cho đến khi mặt anh
đầm đìa nước mắt, rồi Hafid và con lừa của mình ra đi trên con đường hướng về
Jerusalem nơi có thương đoàn đang ngừng chân trên ngọn đồi của những cây Ô-liu.