Phần V- Hồi 9

Hồi thứ chín: ĐƯỜNG
HẦM CHẾT

Tiền Bảo Sơn nói, bản thân anh ta chưa bao giờ tin vào tà
thuật, nhưng những gì gặp phải trong núi Dã Nhân, đã thực sự khiến anh ta cảm
thấy dường như đã chạm tới hơi thở của ma quỷ.

Sau khi đội vận tải chạy trốn vào đường hầm, liền bị mất
phương hướng, vô tình đâm xuống một hang sâu rộng lớn, thần bí. Huyệt động cổ
xưa này được hình thành từ hàng trăm triệu năm về trước, đi đến đâu cũng thấy
ngà và xương voi cao ngất như núi, mạng lưới huyệt động đá vôi và hành lang
dưới lòng đất giao thoa chằng chịt, tuy nơi nào cũng rộng rãi bằng phẳng như
đường hầm, thậm chí có chỗ còn to bằng mấy sân bóng đá gộp lại, nhưng nó thực
sự là một mê cung vô cùng phức tạp, chằng chịt; không ít khu vực bị sương mù
phong tỏa, nên phân đội trinh sát đi trước dò đường chẳng thấy ai trở về.

Anh Mukhan người Miến Điện đã nói với sư đoàn trưởng: chỉ e
nơi này là huyệt động ma mút trong núi Dã Nhân. Anh ta còn tự nhận mình rất thông
thạo tập tính của voi rừng, nên chắc chắn sẽ tìm thấy lối ra khỏi Tượng Môn,
nói đoạn liền đi trước dẫn đường. Anh ta dẫn đội xe quay đầu về hướng có bức
màn được kết thành bởi trùng điệp những mạng lưới đá vôi, rồi đi sâu mãi vào
một huyệt động thấp lè tè, chiều cao của nó chỉ khoảng mười mấy mét, nhưng tứ
phía vô cùng khoáng đạt, hình dáng tựa như vỏ sò, trên mặt đất chi chít những
nếp gấp khúc, địa hình gồ ghề lồi lõm rất khó đi, hơn nữa phần phủ dưới đáy
động cũng không phải lớp đất đá, mà dường như là một loài thực vật, nên đi được
nửa đường thì nhiều bánh xe bắt đầu lún xuống.

Sư đoàn trưởng phát hiện tình hình không ổn, vội vàng ra
lệnh cho cả đoàn vận tải bỏ xe chạy lấy người, rút trở về đường cũ, ai ngờ đáy
động bị đoàn xe nặng trăm tấn đè xuống, nứt toác thành một khe hở rất rộng, rồi
từ giữa kẽ nứt, sương mù trào lên mù mịt, chẳng đợi đoàn vận tải kịp hiểu ra
chuyện gì, thì tất cả đã bị rơi vào sương mù.

Chiếc xe của Tiền Bảo Sơn và Mukhan rơi xuống tán lá một cây
cổ thụ nằm sâu dưới lòng đất, người ngồi trong xe ngã xây xẩm mặt mày, chỗ nào
cũng bê bết máu. Họ nghe có tiếng hét lớn kêu cứu vọng ra từ những chiếc xe
khác, nhưng trong chớp mắt đã im bặt không một động tĩnh, cũng chẳng rõ họ đã
gặp phải thảm cảnh gì. Hai người vội vàng trèo ra khỏi xe, định đến ứng cứu,
nào ngờ chiếc xe tải mười bánh vắt vẻo trên một cành cây, phía dưới gốc cây là
con đường sâu hút lênh láng nước tù. Tiền Bảo Sơn không phân biệt được phương
hướng trong sương mù, vừa giẫm chân đã bước hụt xuống khoảng không chơi vơi, cả
thân thể lập tức ngã nhào. Mukhan ở phía sau định kéo anh ta lên, kết quả Tiền
Bảo Sơn lôi tuột cả hai xuống. Hai người men theo gốc cây lăn vào một huyệt
động âm u, lạnh lẽo dưới lòng đất, suýt chút nữa thì sặc nước mà chết, rồi khi
bọn họ giãy giụa bò được dậy, dùng đèn pin chiếu sáng, leo lên chỗ cao, thì mới
phát hiện nơi rơi xuống khi nãy đã bị bánh xe lún xuống chặn đứng.

Hội Tư Mã Khôi nghe đối phương nói đến đây, mới biết dãy xe
tải mười bánh xuất hiện trong cánh rừng rậm, quả nhiên từ trên cao rơi xuống,
chẳng trách toàn thân xe đều vỡ nát, hư hỏng nặng nề. Quả của cây Udumbara to
lớn hình thành một tầng kén hình chiếc ô che phủ toàn bộ thành cổ, giữa tầng
kén tồn tại một khoảng không gian trống rỗng, không hề có sương mù. Đội vận tải
bổ sung đoàn lính công trình tác chiến độc lập thứ sáu, vì tránh né sự truy sát
của quân Nhật, đã lỡ chân lạc bước vào huyệt động ma mút giống như mê cung
huyền bí, kết quả là cả đội xe đều rơi xuống đáy động, toàn bộ thành viên bị
sương mù nuốt chửng, chỉ có hai người là Tiền Bảo Sơn và Mukhan may mắn sống
sót, nhưng tiếp sau đó, hai người bọn họ đã gặp phải những tai ương gì? Làm sao
có thể người chẳng ra người, ma chẳng ra ma, sinh tồn mấy chục năm ở nơi hoàn
toàn đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài này? Anh lính Miến Điện tên Mukhan bây
giờ còn sống hay đã chết?

Tiền Bảo Sơn tiếp tục kể phần còn lại của câu chuyện: anh ta
và Mukhan rơi vào một huyệt động ẩm ướt, âm u, lạnh lẽo, xung quanh tử khí bốc
lên ngùn ngụt, chẳng nhìn thấy nửa bóng người, kêu trời trời không thấu, gọi
đất đất không hay, nên thần kinh dường như suy sụp đến tột độ. Cũng chẳng biết
họ lần mò bao lâu trong đường hầm rồi vô tình chui vào một sơn động rất sâu,
trong động đá ngọc cao ngất, rêu xanh phủ dày, sinh trưởng rất nhiều loại nấm
đất và quả mọng, thịt quả dày, nhiều nước, vị hơi đắng, nhưng có thể ăn được.

Hai người hoảng loạn trong lòng, ăn bừa vài trái quả mọng,
rồi tiếp tục đi về phía trước, đi mãi cũng đến con đường hầm rộng rãi ẩn giấu
dòng sông ngầm này, càng đi vào sâu, càng thấy khí đen âm u mịt mùng, khiến họ
ớn lạnh tận tim, dừng chân không dám bước tiếp.

Tiền Bảo Sơn chỉ muốn quay đầu ra ngay, nhưng lúc này Mukhan
lại tiêt lộ một câu chuyện rất kỳ lạ. Anh ta nói từ hơn một ngàn năm trước, sơn
cốc núi Dã Nhân từng là thần cung của một vương triều Chăm Pa hiển
hách. Thần cung dùng để thờ phụng các thần linh Vệ Đà trên trời, tầm cỡ tương
đương như quốc miếu vậy. Sau khi người Chăm
Pa chinh phục vương quốc Thaton,
những nô lệ bị bắt giữ và một lượng lớn thợ mộc lành nghề điêu luyện, đều được
tập hợp lại để xây dựng tháp cổ. Trong khoảng thời gian đằng đẵng trên dưới hai
trăm năm, họ đã xây dựng được mười ba ngàn tháp đá lớn nhỏ với hình thù độc
đáo, phong phú, mỗi tòa một khác, rồi đem toàn bộ châu báu của vương triều Chăm
Pa cổ chôn cả xuống dưới chân tháp. Khi ấy, núi cao trập trùng, quần thể tháp
cổ dày đặc như cánh rừng, trèo lên bất cứ tòa tháp nào, tiện tay chỉ về đâu,
hướng tay chỉ cũng sẽ có một tòa tháp khác cao to sừng sững chắn ngang tầm mắt.
Mỗi khi mặt trời lặn, ánh hoàng hôn đỏ au và những vầng mây đầy trời sẽ nhuộm
cả rừng tháp thành một màu vàng ánh kim rực rỡ, sau đó mới dần dần chìm sau
những đỉnh núi nhọn hoắt trùng điệp ở phía xa. Phàm những ai đã tận mắt trông
thấy kỳ quan này, đều không khỏi trầm trồ thán phục trước vẻ uy nghiêm, lộng
lẫy như cõi mộng của nó.

Có điều, tuy địa thế núi Dã Nhân kỳ lạ tột độ nhưng đó lại
là một ngọn núi cát có vỏ ngoài là đá. Vì bên trong toàn bộ là đất cát, nên
lòng núi rỗng ruột, đáy thần điện che phủ dải hồ rộng lớn dưới lòng đất. Sau này,
do mạch nước lún xuống, lòng núi sụt vỡ, nên vô số tháp cổ cùng toàn bộ thực
vật trong cánh rừng gần đó đều bị lún chìm dưới vực sâu không đáy, từ đó hình
thành nên khe sâu núi Dã Nhân.

Nói khe sâu núi Dã Nhân là một vực sâu không đáy, thì cũng
chẳng ngoa chút nào. Thì ra, mạch nước hồ dưới lòng đất đã sớm khô kiệt, nhưng
đáy hồ vẫn sót lại bể bùn rộng lớn vô biên, thành cổ và cánh rừng sụt xuống
dưới, đều bị bùn lầy sâu khôn lường và khí mêtan che đỡ, và vì nằm chêch vênh
trên lớp bùn lầy, nên bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng tiếp tục sụt lún sâu hơn.

Đại nạn khủng khiếp bất ngờ đổ xuống, khiến vương triều Chăm Pa
vô cùng khiếp sợ. Họ cử người xuống khe núi thăm dò, chỉ thấy tòa thành bốn
triệu bảo tháp bị hư hại nghiêm trọng, bèn cho rằng đây là họa trời tru đất
diệt, là thần phật nổi trận lôi đình, là điềm hung vong quốc.

Quốc vương Chăm Pa lúc bấy giờ là vua Anagaya, ông ta nghĩ
kế đề phòng hậu họa về sau, liền sai người luyện vàng, đúc cảnh tượng bốn triệu
tòa bảo tháp lên bức tường thành, rồi từng thỏi vàng trùng trùng điệp điệp
chồng chất lên nhau, tạo thành thứ kiến trúc hình con nhện quái dị. Bởi vậy, họ
đặt tên cho khối vàng thỏi này là “tòa thành bốn triệu bảo tháp”, với ý định
lưu lại, đợi khi nào phục hưng đất nước thì sẽ dùng tới.

Cũng chẳng ai hiểu rõ vì sao người Chăm Pa khi
ấy lại có nhiều vàng đến thế. Có thuyết nói, người cổ xưa biết nuôi loài “kiến
tha vàng”, vàng đúc tòa thành cũng không phải là loại vàng ròng tinh khiết, mà
những thỏi vàng ấy thực ra là “vàng hời”, loại vàng có pha lẫn bạc, màu vàng
xanh được cán mỏng như tờ giấy, bọc bên ngoài viên gạch. Công nghệ xây dựng này
rất thường thấy ở Miến Điện, nên ngẩng đầu lên nhìn chỉ thấy những tòa tháp
vàng cao chọc trời, mà bên ngoài chính là lớp giấy vàng, nhìn từ đằng xa lấp
lánh rực rỡ, sừng sững huy hoàng. Thế nhưng, nếu muốn tính riêng số vàng và đá
quý bao bọc ở bề mặt, thì cũng chẳng thể biết chính xác rốt cục người Chăm Pa
đã sử dụng bao nhiêu châu báu nữa.

Sau khi mạch nước trong khe núi biến mất, lòng núi bỗng dưng
mọc lên cây thần Udumbara cổ xưa, nó dần dần bao trùm kín mít toàn bộ tòa thành
Nhện Vàng dưới lòng đất, rồi từ đó sương mù bủa vây khắp nơi. Người Chăm Pa lại
phá hủy toàn bộ những kiến trúc cổ đại còn sót lại trên mặt đất, đồng thời để
lại lời nguyền độc địa: mãng xà và tháp cổ sẽ bảo vệ vĩnh viễn những bí mật của
vua Anagaya, kẻ nào có ý đồ nhòm ngó kho báu của vương triều Chăm Pa, đôi cánh
tử thần sẽ giáng xuống đầu kẻ đó.

Về sau, vương triều Chăm Pa quả nhiên dần dần suy vong, có
điều dân tộc cổ xưa này vẫn còn chút thế lực nhất định ở phía bắc Việt Nam và
Lào, thậm chí có thể nói, mấy trăm năm trở lại đây, cả lịch sử Việt Nam chính
là lịch sử giao chiến giữa người Việt và người Chăm. Mãi đến ngày nay, hậu duệ
người Chăm Pa vẫn còn rơi rớt lại ở hai đất nước này. Do ngày dài tháng rộng,
họ dần dần cũng quên mất cội nguồn của chính mình, chẳng thể giải mã nổi ám
hiệu của tiền nhân để lại, duy có một vài truyền thuyết cổ quái ly kỳ là vẫn
lưu truyền cho đến giờ. Truyền thuyết nói: “Tòa thành cổ chìm sâu dưới lòng
đất, rắn bay xuyên qua, sương mù bủa vây khe núi”, nhưng chẳng ai có thể giải
thích rõ ràng rốt cục đó là lời tiên tri hay ám thị.

Sương mù trong khe núi Dã Nhân sinh ra bởi thực vật dưới
lòng đất. Tương truyền, đài hoa dạng sương mù Udumbara tuy sợ nước, nhưng với
địa hình đặc thù của sơn cốc, nếu chẳng phải mưa lớn cuồng phong khiến lũ lụt
kéo về đột ngột, thì cũng rất khó có thể xua tan được đám sương mù. Trong khi
đó người Chăm Pa lại đào một huyệt động hình bụng rắn ở phần đáy tòa cổ thành,
đồng thời cài đặt rất nhiều hố cát ngấm nước suốt dải rừng; nước tụ thành dòng
ở đáy động, hàng tượng đá dọc hai bờ sông đều há miệng rỗng bụng, tất thảy đều
liên quan đến bùn cát dưới đáy thành cổ, nó có tác dụng điều chỉnh mực nước, mà
những khu vực có nước tù, sương mù sẽ không xuất hiện, bởi vậy đường hầm này là
nơi an toàn duy nhất trong sơn cốc núi Dã Nhân.

Mukhan không phải hậu duệ của triều đại Chăm Pa còn sót lại
ở Bắc Miến, sở dĩ anh ta biết những chuyện này là bởi vì trong thời kỳ thực dân
Anh thống trị, anh là lính Anh quốc tịch Miến Điện, từng chuyên trợ giúp đoàn
thám hiểm Anh tìm kiếm tin tình báo khắp nơi, nhưng chưa kịp đợi đến khi người
Anh khai quật kho báu của quốc vương Anagaya, thì quân Nhật đã đánh chiếm toàn
bộ Miến Điện.

Về sau, quân Đồng minh phản công, thu hồi phần lớn vùng đất
đã mất, Mukhan trở thành phiên dịch, chẳng ngờ lần thi hành nhiệm vụ đi theo
đoàn vận tải này, lại rơi vào khe sâu trong núi Dã Nhân, nơi các đoàn thám hiểm
nằm mơ cũng muốn tới, đúng là kết quả vượt xa dự tính ban đầu của con người.
Nhưng trong tình hình này, những người còn lại chỉ sợ đều đã gặp nạn, bởi đường
hầm chẳng có lối nào thoát thân, bên ngoài sương mù che phủ khắp nơi, lại còn
mất liên lạc, còn những đội quân Đồng minh khác, căn bản không hề hay biết việc
đội vận tải bổ sung đã bị rơi xuống huyệt động ma mút, nên chẳng thể hi vọng
bọn họ đến cứu viện.

Mukhan nói với Tiền Bảo Sơn rằng kỳ thực tòa thành bốn triệu
bảo tháp vốn dĩ không phải thành trì, và bên trong chỉ có một con đường duy
nhất, ngoài con đường đó ra, thì không tồn tại bất kỳ khoảng không gian nào.
Trên thực tế, cả tòa thành cổ là một con đường xuyên suốt, tất cả bí mật của
quốc vương Chăm Pa đều được cất giấu sau bức tường phía cuối con đường, nhưng
tình hình bên trong cụ thể ra làm sao, thì anh ta không hề hay biết.

Mukhan cho rằng trước mắt chỉ có nghĩ cách thăm dò nơi sâu
nhất, may chăng mới tìm được lối ra, bởi vì sau khi đất sụt, người Chăm Pa
mới xuống khe núi xây dựng tòa thành cổ. Nơi này lại quá sâu, không thể trực
tiếp xuống dưới được, nên chắc chắn phải còn một lối vào bí mật khác, có điều
tất cả chỉ là phỏng đoán, không thể xác định chắc chắn. Anh ta lại nói: “Tương
truyền bất cứ kẻ nào to gan dám nhòm ngó bí mật của vua Anagaya, thì kẻ đó sẽ
bị chết bất đắc kỳ tử. Tình hình trước mắt hoàn toàn mờ mịt, nếu lỡ bên trong
quả thực có ác quỷ, thì chắc phải nạp mạng cho nó, chi bằng bây giờ một người
vào trong trước, nếu lỡ không may gặp phải điều gì bất trắc, thì cũng không đến
nỗi cả hai đều bỏ mạng.” Thế là Mukhan để Tiền Bảo Sơn đứng đợi bên ngoài, một
mình xách súng bước sâu vào trong đường hầm tìm lối. Thế nhưng anh ta đã một đi
không trở lại, như tượng đất chìm bể sâu, trâm bạc rơi đáy giếng, từ đó trở đi
hoàn toàn bặt vô âm tín, mặc kệ Tiền Bảo Sơn ở ngoài hét khản cả cổ họng, bên
trong vẫn chẳng tiếng hồi âm.

Tiền Bảo Sơn cho rằng Mukhan chắc chắn đã gặp phải ác quỷ,
và ít ra là cũng đã bị nó lột da nuốt sống. Tuy anh ta cũng từng làm lính,
nhưng tính tình lại yếu đuối nhát gan, chẳng bao giờ cương quyết làm nổi việc
gì, nên lúc này trong lòng cũng khiếp vía, chẳng dám lại gần đường hầm nơi
Mukhan mất tích nữa.

Do bản năng mưu cầu sinh tồn của loài người, anh ta đành ăn
loài nấm đất sinh trưởng trong huyệt động để sống qua ngày. Gắng gượng khổ sở
suốt gần ba mươi năm dưới đường hầm, ngày nào Tiền Bảo Sơn cũng phải liên tục
tự nói chuyện một mình, nếu không có khi ngay cả ngôn ngữ của loài người cũng
quên mất. Hơn nữa, do sống lâu trong đêm tối âm u, sinh khí của người sống trên
cơ thể cũng dần dần biến mất, nên bản thân anh ta cũng chẳng rõ rốt cục mình là
người hay là ma, và đã sớm từ bỏ mọi hi vọng thoát thân khỏi nơi này, chỉ đợi
dương thọ vừa tận, là đổ vật nằm chết mà thôi. Nhưng hôm nay đột nhiên lại nghe
thấy ở bên trên dường như trời long đất lở, rồi nước tù trong đường hầm cũng
theo đó dâng lên mạnh mẽ, anh ta lại cho rằng nước lũ trên núi tràn xuống, liền
liều chết trèo lên để nhìn cho rõ trắng đen. Vì sống quá lâu trong bóng tối,
hai mắt đã thích ứng với môi trường nơi đây, lúc nhìn thấy hội Tư Mã Khôi ẩn
mình trong hốc cây nghỉ ngơi, anh ta không biết kẻ đến là loại người nào, nếu
lỡ gặp phải bọn gian tặc tìm đến khai quật kho báu vua Chăm Pa, thì khó mà
tránh khỏi họa giết người diệt khẩu, bởi vậy chỉ âm thầm theo dõi trong bóng
tối, không dám lại gần.

Tiền Bảo Sơn quan sát rất lâu, và cảm thấy hội Tư Mã Khôi
không giống bọn phỉ. Mãi đến khi Udumbara khô héo bắt đầu hồi sinh trở lại, rồi
sương mù theo đó xuất hiện ngày càng dày đặc, bốn kẻ may mắn sống sót bị lạc
đường giữa đám tàn tích rừng thực vật, anh ta mới dùng pháo phát tín hiệu để
dẫn họ vào đường hầm bụng rắn.

Khi kể hết câu chuyện, Tiền Bảo Sơn liền dò hỏi hội Tư Mã
Khôi vì sao lại đến đây. Tư Mã Khôi chỉ nói bọn họ đều là dân du kích, căn bản
không hề hay biết trong núi Dã Nhân có tồn tại tòa thành Nhện vàng của vua
Anagaya, rồi vì gặp phải cơn bão nhiệt đới, buộc phải nhảy vào sơn cốc tránh
né, không ngờ mặt đất sụt lở, mới lạc bước đến nơi đây. Còn về những chuyện
quan trọng khác như: sau khi quân Đồng minh phản công Miến Điện, tình hình thế
giới thay đổi thế nào, và cả chuyện bọn họ vào núi tìm chiếc tiêm kích vận tải,
kích nổ quả bom địa chấn v.v... thì anh không nhắc đến chữ nào.

Tiền Bảo Sơn cũng chẳng dò hỏi thêm về việc này nữa, mà chỉ
nói chắc do trời còn thương nên khiến anh ta còn sống sót sau hàng trăm tai nạn
lẽ ra phải chết, không những vậy, còn có thể gặp được đồng hương. Anh ta sống
trong đường hầm chớp mắt đã mấy chục năm, hiểu rõ địa hình nơi này tựa lòng bàn
tay, phát hiện phía dưới đường hầm là bãi đầm lầy không đáy, quả thực chẳng tồn
tại bất kỳ lối ra nào. Hơn nữa, cơn địa chấn lúc trước đã khiến huyệt động tàn
phế này xuất hiện rất nhiều chỗ sụt lở, giờ đây chỉ có đường hầm chính trong
tòa cổ thành có thể tạm coi là an toàn, còn những khu vực xung quanh đều bị
chặn đứng hoàn toàn, khí ôxy còn sót lại chỉ sợ không thể duy trì lâu dài. Cũng
may người nhiều thế mạnh, có thể giúp đỡ lẫn nhau, biết đâu lại vững dạ dám
chui vào trong thăm dò, tìm hiểu rõ trắng đen ngọn ngành thế nào, như vậy còn
tốt hơn tiếp tục bị nhốt dưới lòng đất đợi ngày thần chết dang tay ra đón. Lúc
đó, hai bên vẫn đứng cách nhau một dòng sông, trong nước vẫn lảng vảng lũ cá
sấu hung tợn, nên họ đành phải ẩn mình sau bệ đá nói chuyện, tạm thời không thể
gặp mặt.

Tư Mã Khôi từ khi mưu sinh ở khu Hắc Ốc đã sớm thấu hiểu sự
nham hiểm của thế nhân, nên không thể không đề phòng kẻ khác. Càng ngẫm nghĩ
câu chuyện của Tiền Bảo Sơn, anh càng thấy bên trong có gì không ổn, nên thầm
nghĩ: “Gã ta tự xưng là thành viên bị mất tích của quân Đồng minh, cứ tưởng bịa
chuyện ma như thể Robison Crusoe một mình giữa đảo hoang, là có thể hù dọa được
ông mày sao? Trong đường hầm chẳng có ác ma thì thôi, chứ nếu quả thực có ác ma
tồn tại, thì tuyệt đối cũng chính là mi, kẻ may mắn sống sót thứ năm!”

Tư Mã Khôi cẩn thận xem lại cuốn nhật ký của ông Từ Bình An,
bên trong có ghi chép rất nhiều tư liệu liên quan đến quá trình xây dựng đường
bộ trong núi Dã Nhân của đoàn lính công trình độc lập tác chiến thứ sáu. Anh
lại phát hiện những lời kể của Tiền Bảo Sơn có lẽ nửa thực nửa hư, bên trong
nhất định có phần thực, ví dụ như truyền thuyết về vua Anagaya và vương triều
Chăm Pa, chuyện đoàn vận tải bị sụt xuống cánh rừng rậm dưới lòng đất coi như
tương đối đáng tin; nhưng những thông tin liên quan đến thân phận và lai lịch
của Tiền Bảo Sơn thì chưa hẳn là thật, rất có thể hắn mạo nhận tên tuổi ai đó.

Những nghi hoặc này đã khiến Tư Mã Khôi cảm thấy vô cùng bất
an. Nơi sâu nhất trong sơn cốc núi Dã Nhân vốn dĩ là một không gian hoàn toàn
khép kín, phía dưới tòa thành cổ lại là bãi đầm lầy tràn ngập khí mêtan, nếu
chẳng phải chất độc màu da cam khiến Udumbara khô héo, khiến lượng bùn nước
trầm tích trên tầng kén bị sụt lở xuống lòng đất, thì không khí trong huyệt
động và đường hầm căn bản không thể đủ cho một người bình thường sống sót suốt
thời gian dài. Ngoại trừ loài thực vật đặc biệt không chịu sự ràng buộc của môi
trường như Udumbara, thì trong huyệt động chắc chắn không thể xuất hiện bất kỳ
loài nấm đất nào, mà điều đáng nghi nhất là đối phương không mang theo máy bộ
đàm, cho dù anh ta là lính thông tin, mang chiếc bộ đàm không dây SCR cũ rích
từ thời chiến tranh thế giới thứ hai, thì trải qua khoảng thời gian dài đằng
đẵng như thế, máy cũng đã sớm hỏng hóc, không thể sử dụng được nữa.

Từ tình hình trên có thể suy đoán: kẻ tự xưng là cựu binh
Tiền Bảo Sơn, chắc chắn đang âm mưu che giấu ý đồ gì đó, hơn nữa lại không dám
trực diện lộ mặt cho mọi người biết, hành tung lén lút khác thường, chẳng biết
phía dưới chiếc mũ sắt M1 kia, rốt cục ẩn giấu một khuôn mặt như thế nào?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3