Phần VI- Hồi 1
Chương 6: KẺ CẬN KỀ
THIÊN QUỐC
Hồi thứ nhất: ĐÁP ÁN THỨ
CHÍN
Tiền Bảo Sơn - kẻ may mắn sống sót thứ năm nói với hội Tư Mã
Khôi: “Trong đường hầm hình bụng rắn dưới chân tòa tháp cổ… tồn tại ác quỷ.”
Đôi tai Tư Mã Khôi nào phải được làm bằng bông, anh đâu chịu
tin mấy lời ma quỷ của hắn, cái câu: “Không được có tâm hại người, nhưng không
thể không có tâm phòng người”, chính là để chỉ lúc này đây. Anh xem xét địa
hình trong đường hầm và khẳng định: chắc chắn không một ai có thể sinh tồn lâu
dài dưới huyệt động cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, hơn nữa trên cơ
thể đối phương lại toát ra mùi tử khí chết chóc không thể che giấu, càng khiến
anh lập tức liên tưởng đến Nấm mồ xanh. Tuy rằng giọng nói của hai người này
hoàn toàn khác biệt, nhưng giọng nói và thân phận đều có thể ngụy tạo, còn câu
chuyện xây đường trong núi Dã Nhân của đoàn lính công trình tác chiến độc lập
thứ sáu, cũng chẳng phải chuyện cơ mật tuyệt đối, nên không hẳn không ai biết
tới. Giả sử Nấm mồ xanh như vong hồn kia thực sự tồn tại, sau khi hắn kích nổ
bom địa chấn, nhất định cũng sẽ liều mạng tiến vào thành cổ, mà không cần để ý
hậu quả, bởi nếu không, tất cả những việc hắn làm trước đây đều trở nên vô
nghĩa.
Tư Mã Khôi suy đoán: không thể có thêm kẻ may mắn sống sót
nào nữa, nên kẻ tự xưng là quân nhân mất tích Tiền Bảo Sơn có lẽ chính là Nấm
mồ xanh, luôn luôn theo dõi hành tung của đội thám hiểm từ bóng tối. Chuyện này
còn ẩn chứa rất nhiều uẩn khúc, chỉ e bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra biến
cố. Nghĩ đến đây, một dự cảm không lành đột ngột dội lên, nhưng anh lại nghĩ
theo góc độ khác: tạm thời bất luận thân phận thực sự của Tiền Bảo Sơn là gì,
nếu khi nãy chẳng phải hắn ta đã sử dụng pháo tín hiệu để dẫn mọi người vào
đường hầm, thì bốn người bọn ta đã sớm chết trong sương mù từ khuya rồi. Xem ra
tạm thời hắn chưa muốn giết người diệt khẩu, mà chắc hẳn còn che giấu ý đồ gì
khác… Thế là anh giả bộ tin tưởng, đồng cảm với Tiền Bảo Sơn, đoạn nói: “Đường
đời vốn dĩ khúc khuỷu khó đi vậy đấy, huống hồ lại đi nhầm đường, bị nhốt ở nơi
quái quỷ này mấy chục năm, nghĩ cũng đáng thương cho ông anh thật. Có điều, khi
xưa Khương Tử Nha tám mươi tuổi vẫn ngồi bên bờ sông Vị câu cá, mãi khi tương
ngộ với Tây Bá Cơ Xương, ông ta mới được đón lên xe về cung, bái làm thầy, mới
dẫn binh thảo phạt nhà Thương, định ra cơ nghiệp tám trăm năm của nhà Chu. Thế
mới thấy, kỳ ngộ trong cuộc đời chẳng hề phân biệt sớm muộn đâu anh bạn ạ.”
Tiền Bảo Sơn nghe xong, chỉ co người lại sau tượng đá thở
dài một tiếng, mà chẳng tiếp lời, liền sau đó định dẫn mọi người đi vào đường
hầm dưới thành cổ.
Tư Mã Khôi có ý thăm dò, anh vòng vo mấy câu, nhằm tìm manh
mối, thấy Tiền Bảo Sơn định đứng dậy khởi hành, liền vội bảo: “Ông anh chậm
bước một lát, trước khi chúng ta xuất phát, tôi muốn nhìn rõ mặt ông anh cái
đã, ông anh cũng chẳng cần đa nghi làm gì, tôi làm vậy tuyệt đối chẳng có ý gì
khác, chỉ là nhất thời hiếu kỳ mà thôi, bởi vì nghe nói những người quanh năm
không ăn muối, toàn thân sẽ mọc lông trắng.” Tư Mã Khôi nhớ lại bộ phim “Cô gái
tóc bạc” từng xem khi trước, mà nguyên tác của nó dựa vào truyền thuyết dân
gian: “Cô tiên tóc bạc” của khu vực Sơn Tây, Sát Ha Nhĩ, Hà Bắc, sau này được
cải biên dựng thành phim. Cô gái tên là Dương Hỉ Nhi bị địa chủ bức phải trốn
vào núi sâu, lấy nước suối, quả rừng và đồ cúng lễ ăn trộm trong miếu thổ địa
làm thức ăn sống qua ngày, rồi ngày qua tháng lại, mái tóc xanh trên đầu dần
dần trở nên trắng toát; bởi tục truyền, những người không ăn muối đều bị như
vậy. Tư Mã Khôi cũng không biết điều này là thật hay giả, nhưng mặc kệ nó thế
nào, anh cũng chỉ muốn mượn cớ để xem rõ khuôn mặt thật sự giấu kỹ dưới chiếc
mũ sắt của Tiền Bảo Sơn mà thôi; kỳ thực chỉ cần anh ta nhắm chặt mắt lại, ở
khoảng cách xa thế này, cho dù có bị đèn pin chiếu một chút thì cũng chẳng hề
hấn gì.
Ba người còn lại, mỗi người đều có mối lo riêng, nếu Tiền
Bảo Sơn quả thực là Nấm mồ xanh, thì lỡ nhẹ dạ tin lời đối phương, nhất định sẽ
rơi vào miền đất vạn kiếp không thể siêu sinh, nhưng đối phương lại nói năng
trơn tru, chẳng để sơ hở nửa lời, nên trước mắt căn bản không thể phân biệt
được thật giả; lúc này nghe Tư Mã Khôi nói, đúng là đã khiến Tiền Bảo Sơn không
còn đường lui mà thoái thác, nên bọn họ đều ngầm gật đầu.
Tiền Bảo Sơn dường như không ngờ đến tình tiết ấy, kết quả
gã cũng chẳng tìm được cớ gì từ chối, nên phủ phục sau tượng đá im lặng hồi lâu
chẳng đáp lời, rồi mãi sau mới lên tiếng thừa nhận lúc trước đúng là mình có ý
che giấu, nhưng không hề mang ác ý, mà chỉ là một vài chuyện thực sự rất đáng
sợ, nếu nói tuột chân tướng, có khi mọi việc sẽ càng tệ hơn…
Tư Mã Khôi đang định hỏi tiếp, đột nhiên thấy các bức tường
đá xung quanh rung chuyển mãnh liệt, gan bàn chân tê rần, mọi người vội vàng
trèo lên mình tượng đá. Mặt đất rung chuyển kéo dài chừng nửa phút, sau đó lại
trở về bình thường, nhưng ở hướng lối vào, không ngừng vọng tới âm thanh như
thể đá vỡ rơi xuống nước, ngoài ra gã Tiền Bảo Sơn trốn ở đường hầm phía đối
diện cũng tự dưng bốc hơi biến mất dạng.
Mọi người đành giơ cao đèn pin lên soi, hàng tượng đá sừng
sững quỳ dưới đất trong bóng tối vẫn còn đó, chỉ duy bóng dáng đội mũ sắt là
chẳng thấy đâu. Vì sự hạn chế của địa hình, nên mọi người cũng không có cách
nào sang bờ đối diện để truy rõ trắng đen, Tuyệt thấy lạ hỏi: “Kẻ chúng ta vừa
gặp rốt cục là người hay...”
Tư Mã Khôi cau mày, nói với ba người: “Trước tiên chẳng cần
quan tâm gã cựu binh đó là người hay ma, gã từng nói với chúng ta, phía dưới
lòng đất là đầm lầy rộng lớn, việc này chắc là sự thật. Tuy Udumbara đã hồi
sinh trở lại, nhưng bom địa chấn và chất độc màu da cam thì vẫn phá hủy kết cấu
núi Dã Nhân ở một mức độ nhất định; cơn địa chấn khi nãy có lẽ là do tòa thành
cổ tiếp tục lún xuống tạo ra. Nếu đường hầm bị sụt lở nghiêm trọng, bất kể
sương mù hay khí mêtan trào ra, thì chúng ta cũng chẳng thể đương đầu nổi.”
Hải ngọng nghe xong, kinh hãi nói: “Như thế chúng ta khác gì
gà rơi vào nồi nước sôi, giãy giụa sống chết thế nào cũng chẳng nhào ra được?”
Nói đoạn, anh liền lớn tiếng mắng chửi thậm tệ: “Tớ thấy cái tên họ Tiền kia
chắc chắn chẳng phải tên tốt đẹp gì, làm sao có thể tin lời ma quỷ của gã? Gã
tự mình biến mất lại càng hay, tục ngữ nói: ‘Bớt một bát hương, ít một con ma’,
chúng ta càng đỡ phải nơm nớp đề phòng, có gã, lòng dạ chẳng được một phút yên
ổn.”
Tư Mã Khôi nhìn trái ngó phải, rồi nói với mọi người: “Gã
này cố ý ẩn giấu chân tướng, chẳng hiểu định giở trò quỷ gì. Nhưng mọi chuyện
xảy ra trong núi Dã Nhân, đều liên quan đến bí mật mà vua Chăm Pa vùi chôn ở
nơi sâu nhất trong tòa thành cổ, nên chúng ta buộc phải liều chết tiến vào làm
rõ sự tình, mới mong tìm ra cách giải quyết.”
Mọi người đều cảm thấy lời Tư Mã Khôi nói rất phải, cả tòa
thành cổ đều bị sương mù bao vây, sơn cốc núi Dã Nhân vốn dĩ chẳng hề tồn tại
một nơi nào an toàn tuyệt đối, nên tiếp tục lưu lại đường hầm cũng rất nguy
hiểm, chỉ còn có cách biến nguy thành an. Thế là, cả hội bèn men theo bệ đá,
tiếp tục tiến sâu vào trong, đi thêm một đoạn nữa, thì gặp một dải sụt lún nằm
vuông góc với đường hầm, tạo ra một không gian khoáng đạt hình chữ “T”.
Hình dáng ban đầu của nó đã sớm chẳng thể nhận ra, chỉ thấy
bên trong bức tường đổ nát xung quanh lộ ra từng tầng đá đen ngòm, gốc rễ của
Udumbara cũng bắt đầu khởi nguồn từ đây. Những chiếc rễ còn to hơn cả thân cây,
phảng phất tựa hồ vô số huyết quản, lồi hẳn lên trên bề mặt. Sự xâm thực của
thực vật đã khiến tòa thành cổ đá vôi này phải chịu một tác động ngoại lực không
nhỏ, tạo ra rất nhiều khe nứt và huyệt động chẳng theo quy tắc nào từ bên
trong, nhưng quá nửa những khe nứt ấy đều bị tảng đá lớn sụt xuống chặn lại.
Trên bức tường đối diện với đường hầm, tồn tại vô số những huyệt động lớn giống
như tổ kén, đường kính khoảng trên dưới một mét, mà ánh sáng đèn pin soi không
tới đáy.
Lúc này đèn đã hết sạch pin, trong tay bốn người chỉ còn
ngọn đèn tiết kiệm điện sử dụng được. Tư Mã Khôi thường đặt mạng sống trên
chiến mã, giáp sắt, coi dao súng là bạn, dường như ngày nào cũng “treo sọ ngang
thắt lưng quần”, chẳng hề bận tâm đến sự sống chết, nhưng cứ nghĩ phải lạc vào
miền đất tối tăm âm u, chẳng nhìn thấy gì, thì trong lòng anh cũng khó tránh
khỏi cảm giác ngộp thở đến khó chịu. Anh dự định nhân lúc còn nguồn sáng, phải
mau chóng hành động, nếu không hoàn cảnh sẽ càng trở nên gian nan hơn. Lắng tai
nghe ngóng, thấy gần đó hoàn toàn im ắng, anh bèn dẫn đầu đội thám hiểm, giẫm
chân lên tượng đá bị đổ vượt sông, sau đó giơ đèn lên, lần lượt đón ba người
còn lại sang.
Bốn người chỉ có thể dựa vào chút ánh sáng yếu ớt của một
ngọn đèn, họ biết chỉ cần cách xa một chút là hoàn toàn rơi vào bóng tối đen
ngòm, bởi vậy chẳng ai dám lơ là, người nọ bám sát người kia, nửa bước không
rời. Đợi khi tất cả đều sang được bờ đối diện, họ soi đèn lên trước, chỉ thấy
trong động có một hàng tượng người sơn màu, tướng mạo xấu xí, đáng sợ, vừa đen
vừa béo, râu ria xồm xoàm, trang phục quái dị. Mọi người lại nhìn mấy nơi khác
thì thấy chỗ nào cũng như vậy, đếm đi đếm lại thấy có tất cả chín bức tượng,
được đặt trong hốc đã lõm sâu vào lõi tường.
Tư Mã Khôi phát hiện phần tường lõm vào, phía sau thân tượng
sơn màu có điểm khác thường, anh liền lại gần quan sát, thì thấy ngoài riềm có
vết nứt rất rõ ràng, liền thắc mắc: “Những chỗ này dường như đều là cánh cửa
ngầm, hơn nữa còn được sắp xếp theo thế ‘Cửu cung tổng nhiếp’ đời Hán, như vậy
thì từ trái qua phải, cửa thứ bảy chắc là cửa sinh thì phải. Có điều không biết
vua Chăm Pa
có hiểu về lý luận thuật số này không nhỉ?”
Hải ngọng sốt ruột thúc giục: “Nghĩ lắm làm gì cho mệt, nói
không chừng người ta cũng từng đến Trung Quốc du học rồi cũng nên, hơn nữa có
khi lại còn đào sâu nghiên cứu bộ môn này ấy chứ,” nói xong liền bảo Tuyệt giơ
đèn lên soi, gọi Tư Mã Khôi thò tay giúp sức, bước lên định đẩy bức tượng sơn
màu trong hốc đá.
Ngọc Phi Yến vội ngăn lại: “Hai kẻ liều mạng các anh chẳng
muốn sống thì chớ, đừng hại chết cả tôi lẫn Tuyệt. Tôi từng thề là mình sẽ chết
trong an lành, tôi không muốn nuốt lời… ít nhất không phải hôm nay.” Liền sau
đó cô rút cây giáo mỏ vịt sau lưng ra, vừa bấm lẫy một cái, ống ngầm bên trong
bật ra. Cô ta lại tiếp lấy ngọn đèn từ tay Tuyệt, treo nó lên đầu mũi giáo như
thể người ta treo đèn lồng, giơ tít lên trên cao.
Hội ba người Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Tuyệt thuận theo ánh
đèn, ngước mắt nhìn, người nào người nấy đều thầm kinh ngạc trong lòng: thì ra
phía trên chín cánh cửa ngầm là một bức bích họa lớn, lồi hẳn lên bề mặt tường,
trong tranh là hình một con voi trắng, thân voi lấp lánh ánh hào quang phát ra
từ châu báu, vàng bạc. Trên lưng voi có một người tay chân rất dài ngồi chễm
chệ, người này mình khoác giáp ma, vai đeo trường đao, trang phục lộng lẫy,
xung quanh điểm xuyết hoa lá cà độc dược, thần thái giống y như người thật,
dường như chỉ cần gọi một cái là có thể từ trong tranh bước ra, kích thước tỷ
lệ gấp đôi người thường.
Ngọc Phi Yến di chuyển chùm sáng vào đúng khuôn mặt trên bức
bích họa, rồi nói với hội Tư Mã Khói: “Các anh hãy quan sát kỹ gương mặt này
nhé…”
Tư Mã Khôi định thần lại, hai mắt giương to, nhìn chằm chằm
hồi lâu, mà vẫn chẳng thể phát hiện ra điểm gì bất thường. So với mấy bức phù
điêu đá Chăm Pa đầu thần mặt quỷ kia, thì người cưỡi trên lưng voi mặt mũi lại
tròn trịa, hồng hào, toát ra nét đoan trang hiền từ, chẳng khác nào Phật Tổ
chuyển thế, chỉ có điều hai mắt người này hơi lồi ra một chút, đỉnh trán rất
dài, hai tai rủ xuống khá rộng, môi cực dày. Thần thái, hình ảnh của bức bích
họa được điêu khắc sinh động như người sống, khóe miệng khẽ giữ nụ cười mỉm bí
ẩn không dễ phát hiện, dường như nụ cười đó mang sự khoan dung vô hạn đối với
những tranh chấp bon chen nơi trần thế, tuy hiện rõ nét hòa bình nhân hậu,
nhưng cũng thần bí khó lường, khiến người ta chỉ cần nhìn một lần là nhớ mãi.
Tư Mã Khôi nhìn đến đây, tim bỗng nhiên đập thình thịch, thầm
nghĩ: “Chẳng biết người được vẽ trên tường đá là nhân vật nào, chứ ngoài đời
làm gì có ai giống thế này”. Anh hỏi Ngọc Phi Yến: “Khuôn mặt người này thì có
gì hay mà xem?”
Ngọc Phi Yến nói, người Chăm Pa rất coi trọng gương mặt, bởi
vậy thần phật trên bức phù điêu vàng được khắc thành muôn hình vạn trạng, dung
mạo mỗi bức một khác, trong khi tạo hình của tượng đá và nô lệ bên trong đường
hầm thì tất cả chỉ có một tướng mạo. Điều này thể hiện sự khác biệt về thân
phận và địa vị của từng tầng lớp trong xã hội thời thượng cổ. Bức bích họa còn
sót lại ở lãnh thổ Lào của vương triều Chăm
Pa, cũng có vẽ chân dung vua
Anagaya. Tương truyền vị vua Chăm
Pa này khi sinh ra tướng mạo đã
khác thường, khiến người ta không dám trực diện ngước nhìn, dân gian hậu thế
gọi ông ta là Bồ Tát sống, là người gần kề Thiên quốc nhất. Trong khi đó, dân
chúng cùng thời với ông ta, lại căm hận gọi là mặt quỷ hoặc mặt yêu tinh. Đặc
trưng nhân vật được vẽ trong bức bích họa rất rõ rệt, chắc chắn đây chính là
vua Anagaya - kẻ đã xây dựng tòa thành Nhện Vàng.
La Đại Hải và Tuyệt không hiểu cách nói cũ về mấy chuyện
tướng thuật, nên chẳng thể giác ngộ sâu xa, chỉ có Tư Mã Khôi am tường cổ pháp
Kim điển, cổ pháp Kim điển ngoài môn tướng vật, còn bao hàm thuật tướng người.
Phàm dung mạo tướng người, đều là để người ta xem số mệnh; trước tiên phải xem
phần đầu, vì đầu mặt là chủ của ngũ tạng, là tôn của bách thể, nên trước hết
phải xem khung xương mặt. Người ta nói: “tứ phía tám hướng phải cân đối”, trong
đó “tứ phía” có nghĩa, tai trái là phía đông, tai phải là phía tây, mũi là phía
nam, gáy là phía bắc. Sau khi xem “tứ phía” phải xem đến “cửu cốt”, cũng chính
là xem tất cả hệ thống xương khớp trên cơ thể, rồi cuối cùng mới xem đến mi
nhãn, ngũ quan và các thứ khác như minh độ, linh nhạc, u ẩn, tâm ẩn, hà nhạc
v.v... từ đó có thể suy đoán sự hưng suy của mệnh lý. Nhưng tất cả những thuật
số ma quỷ này đều của giới giang hồ, lai lịch thực ít hư nhiều, nên tuy Tư Mã
Khôi cũng am hiểu một chút, nhưng chẳng bao giờ nghiên cứu kỹ lưỡng. Lúc này nghe
Ngọc Phi Yến nhắc đến, anh mới phát hiện thân hình tướng mạo của vua Anagaya
đúng là đặc biệt kỳ lạ, trong tướng thuật cổ, căn bản không tồn tại khuôn mặt
như vậy.
Tư Mã Khôi lại nhớ đến lúc Ngọc Phi Yến bảo vua Anagaya
không phải “người”, bây giờ nhìn lại, anh cảm thấy nói vậy dường như cũng hơi
quá lời, cùng lắm thì dung mạo vua Anagaya trên bức bích họa cũng chỉ kỳ dị một
chút mà thôi. Dù sao hơn một ngàn năm trước đâu có máy ảnh, nên ai biết dung
mạo thực sự của nhà vua có giống y chang bức họa hay không? Những thứ cố tình
phô trương thần thoại này không thể coi là thật được. Nghĩ vậy, anh bèn nói:
“Đại khái quan niệm thẩm mỹ của người Chăm Pa là thế này, tay cầm quả trứng lạc
đà mà vẫn có thể bảo nó là viên thuốc đông y. Tướng mạo vua Anagaya đối với chúng
ta tuy cũng kỳ dị thật, nhưng trong con mắt của người Chăm Pa, thì đó lại là tư
thế của long phụng, là gương mặt của trời đất, điều này cũng chẳng có gì đáng
phải ngạc nhiên lắm.”
Ngọc Phi Yến nói: “Tôi cũng không biết tướng mạo ngoài đời
của vua Anagaya có giống với bức bích họa phù điêu hay không, nhưng anh cứ nhìn
vua Anagaya vẽ trên tường mà xem, thân cưỡi chiến tượng, mình khoác giáp trụ,
vai đeo trường đao, phía dưới lần lượt có chín vị tôn giả râu ria xồm xoàm quỳ
mọp ra đất, chắc đó là chín vị yêu tăng. Cảnh tượng này quả thực đã từng diễn
ra vào thời cổ, ngay cả sử sách Trung Hoa cũng ghi chép sự việc đó.”
Theo ghi chép trong cuốn: “Chân Lạp phong thổ ký”, ngày
trước nước Chăm Pa vì chuyện diệt Phật mà giao đấu với kẻ địch, chém đầu vô số,
đồng thời bắt được chín vị yêu tăng đến từ Thổ Phồn, dẫn đến trước kiệu vua,
vua hỏi chúng tăng: “Từng nghe trình độ tu luyện của các vị đã đạt đến độ cao
thâm, không biết các vị có tường tận chuyện quá khứ tương lai?” Chúng tăng đáp:
“Chúng tôi khác với những kẻ phàm tục, có thể biết chuyện quá khứ, tương lai.”
Vua không biến sắc mặt, liền hỏi một vị trong đó: “Đã biết
chuyện tương lai, vậy chẳng hay có biết hôm nay ngài phải chết hay không?” Tăng
nhân này trả lời: “Không chết.” Vua Chăm Pa liền ra lệnh cho thị vệ lập tức
trảm đầu ngay trước mũi voi, rồi lại hỏi vị tăng nhân thứ hai: “Hôm nay ngài
phải chết hay không?” Người thứ hai cũng đáp: “Không chết,” thế là cũng bị chém
phăng thủ cấp. Vua lại hỏi người thứ ba, vị tăng nhân này rút ra bài học, cho
rằng vua Chăm Pa cố tình khiến bọn họ đoán không trúng,
nên đáp: “Hôm nay tất sẽ chết.” Chẳng ngờ vua Chăm Pa lại
nói: “Lời ngài rất chuẩn, vậy thì trẫm sẽ tiễn ngài về thế giới cực lạc Tây
phương,” kết quả vị tăng nhân đến từ Thổ Phồn cũng bị chém đầu tại trận.
Vua Anagaya lại tiếp tục hỏi lần lượt những vị còn lại cùng
một câu hỏi như vậy. Vị tăng thứ tư bị ép đến chẳng biết làm thế nào, đành trả
lời: “Không biết,” vua cười nhạt, lập tức ra lệnh xử tử. Vị tăng nhân thứ năm
hơi giảo hoạt một chút, nghĩ đi nghĩ lại, bèn trả lời: “Chết là tại phật pháp
bất linh, không chết là tại vương pháp bất hành.” Vua Chăm Pa nổi cơn thịnh nộ,
quát lớn: “Đồ chuột thối, yêu pháp nhà mi mà dám so sánh với vương pháp của ta
sao?” Rồi vua hắng giọng một tiếng ra lệnh xử trảm tức thì. Vị tăng thứ sáu
ngấm ngầm thăm dò ý nhà vua, ra giọng thỏa hiệp, thưa: “Hôm nay có thể chết,
cũng có thể không chết, chết hay không chết, tất cả đều do số phận.” Vua Chăm
Pa giận dữ mắng: “Mi đúng là hạng dao nhọn hai đầu, tội ác tày đình, lập tức
phanh thây trăm mảnh,” nói xong, nhà vua liền tự tay vung dao xẻ thịt. Vị tăng
thứ bảy, thứ tám đã sớm thất kinh, hồn lìa khỏi xác, bị hỏi đến chẳng biết trả
lời làm sao, đương nhiên không tránh khỏi họa dao chém. Đến lượt vị tăng nhân
thứ chín, ông chỉ nói một câu, vậy mà lại khiến vua Chăm Pa hạ
đao dừng hình.