Phần V- Hồi 8
Hồi thứ tám: KẺ MAY
MẮN SỐNG SÓT
Tư Mã Khôi vốn dĩ cho rằng tòa thành cổ này là lăng tẩm dưới
lòng đất của vua Chăm Pa, nhưng giờ đây nghe Ngọc Phi Yến nói, lòng anh tràn
đầy kinh ngạc, vua Anagaya không phải là người? Vậy chẳng lẽ vương triều cường
thịnh bậc nhất thời cổ đại lại để một con khỉ lên làm chủ đất nước?
Ngọc Phi Yến lườm Tư Mã Khôi một cái, ánh mắt sắc như dao:
“Tôi bảo ông ta là khỉ hồi nào? Anh đừng có xằng xiên bậy bạ, phải nghe tôi nói
hết đã chứ. Vua Chăm Pa…” cô ta đang định giải thích cặn kẽ, thì nghe có tiếng
khuấy động “bì bõm” trong làn nước đen ngòm từ nơi không xa lắm vọng đến, một
con cá sấu xù xì như đoạn củi khô nổi lềnh bềnh trên mặt sông đang lao vào bọn
họ.
Thì ra lúc đầm lầy sụt lở, vô số cá sấu không kịp tránh nạn,
đã trượt xuống đáy vực, chúng đuổi theo mùi âm khí tối tăm, ẩm ướt mà lần được
tới đây. Cũng chẳng rõ chúng chui vào đường hầm từ khe nứt nào, nhưng con sông
ngầm này là dòng nước chết, nên chẳng tìm thấy bất kỳ loại thức ăn nào, trong
khi ống quần và giày của Hải ngọng ướt đẫm máu tươi, nên phút chốc như mời gọi
tất cả bầy cá sấu dưới nước đến.
Tuy bốn người đều mang theo vũ khí, nhưng lại không có thiết
bị chiếu sáng, nên họ chẳng dám dựa vào đèn pin mà liều mạng đối đầu với chúng
giữa đêm tối. Thấy tình hình không ổn, họ liền rút lui lên bệ đá nhỏ hẹp ngay
bên sườn đường hầm.
Bệ đá chỉ rộng chừng nửa mét, cách một đoạn lại có một tượng
người đá thấp lùn quỳ rạp xuống đất, trong khi hội Tư Mã Khôi đều biết, cá sấu
từ trước đến nay nổi tiếng hung bạo và tham ăn, đừng thấy cơ thể nó có vẻ chậm
chạp vụng về mà coi thường, vì bốn cái chân vừa thô vừa ngắn có thể đột ngột
phóng vù lên mặt nước cao hàng mấy mét, đớp gọn cả cây lẫn khỉ, chứ bệ đá cao
hơn đầu người này thì nhằm nhò gì? Bởi vậy mọi người đều ẩn mình nấp phía sau
tượng đá, chẳng dám động cựa, tai nghe âm thanh cá sấu lê tấm thân nặng nề quẫy
nước, thì biết chúng không phải chỉ có một con.
Tư Mã Khôi thò đầu khỏi lưng tượng quan sát tình hình, nhìn
dòng sông ngầm dưới đáy đường hầm, anh đành nuốt mấy lời định nói khi trước vào
bụng, chỉ bảo ba người còn lại: “Chúng ta đúng là vừa thoát khỏi hang cọp đã
rơi vào bẫy rồng. Không biết kẻ dẫn dụ chúng ta vào con đường hầm này, lai lịch
thế nào? Nếu hắn ta quả thật là binh lính quân Đồng minh mất tích ở vùng núi
Bắc Miến trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, thì làm sao có thể sống
sót dưới lòng đất quanh năm không có ánh mặt trời này những ba mươi mấy năm?”
Hải ngọng tuy vết thương ở hông vô cùng đau nhức, nhưng
không nhịn được, liền nói chen vào: “Tớ thấy thằng cha ấy căn bản chẳng giống
người sống tí nào. Theo quan điểm học thuyết tương đối, trên thế giới này có
người, tất sẽ có ma, có lẽ chúng ta gặp ma thật rồi.”
Tư Mã Khôi lắc đầu nói: “Ban đầu tớ cũng cho rằng vậy, nhưng
lúc pháo sáng tín hiệu chiếu qua đó, tớ nhìn thấy rõ ràng hắn có bóng, những
người sau lưng có bóng thì không thể nào là ma, có điều…”
Lời chưa nói dứt, thì nghe phía sau tượng đá ở con đường hầm
đối diện, vọng lại những âm thanh khe khẽ. Lúc này, thiết bị chiếu sáng bên
mình, ngoại trừ mấy cuộn pháo tín hiệu và lựu đạn phốt pho ra, thì chỉ còn lại
hai chiếc đèn pin và một ngọn đèn tiết kiệm điện. Loại đèn tiết kiệm này chẳng
khác nào đèn kéo quân thời trước, bên trong là ống phát sáng tiết kiệm điện
năng, bốn phía lắp thấu kính giúp khuếch tán tia sáng, có thể chống gió, chống
nước, lại có thể treo trong lều làm nguồn sáng cố định, nhưng ánh sáng của nó
không mạnh lắm nên không thể soi rõ nơi xa, vì chỉ có đèn pin tụ quang mới soi
được khoảng cách năm sáu mét. Chùm sáng của đèn pin tụ quang cũng có thể điều
chỉnh, quầng sáng càng tập trung thì phạm vi soi sáng càng xa, nhưng phạm vi
chiếu sáng lại càng nhỏ. Tư Mã Khôi điều chỉnh quầng sáng đèn pin lên tới cực
hạn, giơ cao soi về khu vực phát ra động tĩnh, ba người còn lại cũng nhẹ nhàng
mở chốt an toàn khẩu súng đang cầm trên tay, bóp hờ vào lẫy, chỉ cần nhấn một
cái là đạn nổ.
Quầng sáng đèn pin chỉ còn lại chu vi khoảng một nắm tay,
nhưng cự ly chiếu sáng thì tăng lên không ít, qua con sông ngầm, và có thể soi
rõ đầu bên kia của đường hầm, nhưng nhìn bằng mắt thường, thì vẫn cực kỳ mơ hồ,
chỉ thấy trên vai bức tượng đá hình như có một người đang đứng, chiếc mũ sắt
lụp sụp phía trên lúc ẩn lúc hiện, dường như là “người” lúc trước chạy trốn vào
nơi sâu trong đường hầm, đang mai phục bên bờ đối diện nhìn trộm hành động của
hội Tư Mã Khôi.
Tư Mã Khôi đang định mở miệng hỏi, thì đã nghe đối phương
giành nói trước: “Đừng chiếu đèn pin nữa, tôi bị nhốt lâu ngày dưới lòng đất,
mắt không nhìn được ánh sáng, các anh rốt cục là ai vậy?” Giọng nói yếu ớt như
chẳng còn chút sức lực nào, nếu không căng tai lên nghe kỹ, thì căn bản không
thể nghe rõ được.
Mọi người nghe xong đều ngạc nhiên không thốt thành lời,
nghe giọng nói thì đối phương cũng là người Trung Quốc, hơn nữa hình như là
khẩu âm vùng Vân Nam, chẳng lẽ anh ta không phải quân Mỹ bị mất tích năm đó?
Ngoài ra, Tư Mã Khôi cũng biết, những người sống quanh năm trong bóng tối, mắt
không được phép đột ngột nhìn ánh sáng, nếu không con ngươi sẽ nổ mà mù lòa,
bèn hạ quầng sáng đèn pin xuống thấp, rồi đáp lời: “Chúng tôi là đội đặc vụ
chiến trường đông bắc quân đội cộng sản Miến Điện, còn anh ở đơn vị nào?”
Người đội mũ sắt bên bờ đối diện tỏ ra hơi ngạc nhiên một
chút, thắc mắc: “Đội đặc vụ… quân đội cộng sản Miến Điện ư? Đội đó làm gì vậy?”
Tuy Hải ngọng đang bị thương, nhưng miệng thì không nín lại
được, bèn hỏi ngược đối phương: “Hỏi làm gì? Đó là đội du kích vũ trang nguy
hiểm nhất quả đất, tôn chỉ của bọn ta là giúp các ông dân nghèo ngày nào cũng
được ăn tết, là đến nhà những tên giàu có nhưng bất nhân, ăn cơm của chúng, ngủ
giường của chúng, rồi xem xem con vợ chúng nó trông có thuận cái lỗ mắt hay
không...” Tư Mã Khôi nhỏ giọng cảnh báo Hải ngọng, bảo anh mau ngậm miệng, đừng
nói năng xằng bậy, bây giờ không phải lúc uốn bảy tấc lưỡi, sau đó anh cất cao
giọng hỏi đối phương: “Việc của chúng tôi tương đối phức tạp, một hai câu không
thể giải thích hết được, hay anh hãy nói về mình trước, mau cho chúng tôi biết anh
là ai?”
Đối phương tựa hồ cảm thấy hội Tư Mã Khôi không có ý đối
đầu, bèn khai báo tên tuổi: “Tôi ở đoàn lính công trình tác chiến độc lập thứ
sáu, đơn vị vận chuyển bổ sung hỗn hợp, ban liên lạc, tên là Tiền Bảo Sơn.”
Tư Mã Khôi nhớ lại cuốn nhật ký của ông nội Karaweik để lại,
có ghi chép tình hình cụ thể về việc xây dựng con đường U Linh của quân Đồng
minh ở Miến Điện vào thời kỳ kháng Nhật. Đoàn lính công trình tác chiến độc lập
thứ sáu của quân Mỹ, trên vai đeo huy hiệu hình đầu hổ, phụ trách việc khai
thông đoạn đường qua núi Dã Nhân, mật khẩu liên lạc của đơn vị đó là “AAD”. Do
nhu cầu giao tiếp, thương lượng nên lúc đó, quân đội Mỹ được điều động không ít
binh lính người Trung Quốc, xem ra người này là một trong số đó. Đối phương đã
nhắc đến “đơn vị vận chuyển bổ sung”, thì hàng xe tải mười bánh Dodge kia chắc
chắn là do bọn họ lái vào đây, nhưng sao đội xe đó lại xuất hiện ở nơi sâu nhất
trong sơn cốc? Làm sao họ lái được xe vào đây? Cả đơn vị vận tải sao chỉ còn
sót lại một mình anh ta còn sống? Trong môi trường khắc nghiệt này, anh ta dựa
vào cái gì mà tồn tại đến tận bây giờ? Chẳng lẽ suốt thời gian gần ba mươi năm
dài đằng đẵng đó, từ đầu chí cuối đều không thể tìm nổi cơ hội trốn thoát ra
ngoài?
Không chỉ mình Tư Mã Khôi, mà cả ba người còn lại trong lòng
đều chồng chất nghi hoặc, vấn đề chủ yếu nhất là muốn nhanh chóng biết rõ: “Rốt
cục có cơ hội chạy thoát khỏi núi Dã Nhân hay không?”
Tiền Bảo Sơn cũng phát hiện được nghi hoặc của bốn người,
bèn than thở: “Tôi bị nhốt dưới con đường hầm này bao nhiêu năm thì bản thân
cũng chẳng đếm chính xác được. Để tôi kể câu chuyện của mình cho các anh nghe,
các anh sẽ tự khắc hiểu hoàn cảnh trước mắt là như thế nào.”
Sau đó, Tiền Bảo Sơn liền kể đầu đuôi sự việc cho mọi người
nghe: vào thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, chiến trường Trung Quốc tiếp
nhận con đường viện trợ từ bên ngoài, mọi luồng viện trợ chỉ nhờ vào “tuyến
đường bay bướu lạc đà”. Thế nhưng nếu chỉ dựa vào lực lượng vận chuyển không
quân, thì sẽ khó lòng chống đỡ nổi nhu cầu vật tư khủng khiếp của cả chiến
trường Trung Quốc, mà những tuyến giao thông đường bộ khác đều đã bị quân Nhật
cắt đứt, bởi vậy, muốn phản công ở Miến Điện, phải khai thông tuyến đường Trung
Ấn, đó là mục tiêu chiến lược lúc đó của quân Đồng minh. Tiền Bảo Sơn quê ở Vân
Nam, từng theo quân viễn chinh tiếp nhận khóa huấn luyện sĩ quan Mỹ ở Ấn Độ,
cuối cùng bị điều về đơn vị vận chuyển bổ sung của đoàn lính công trình tác
chiến độc lập thứ sáu, tham gia nhiệm vụ xây dựng con đường Stilwell trong núi
Dã Nhân.
Con đường núi Dã Nhân phân bố thành hình chữ Y, bên trái là
tuyến đường A, bên phải là tuyến đường B, lúc đó con đường được xây dựng trước
là tuyến đường B có khoảng cách chim bay ngắn hơn, vì trước khi quân Nhật xâm
chiếm Miến Điện, núi Dã Nhân đã tồn tại đường hầm bí mật do thực dân Anh khai
phá, nhưng trong quá trình thi công, đã xảy ra quá nhiều biến cố bất ngờ. Những
trở ngại phải đối mặt vượt xa dự tính, đã khiến quân Mỹ đành phải khai phá
tuyến đường A ngoằn ngoèo khúc khuỷu.
Vậy mà tuyến đường A xây dựng vòng theo ngoại vi núi Dã
Nhân, vẫn chẳng thể xây dựng thuận lợi, do tàn quân Nhật lẩn trốn trong núi
không kịp thời diệt sạch, nên lính công trình thường xuyên bị những tiểu đội
nhỏ quân Nhật quấy nhiễu, và những cuộc chiến đấu lẻ tẻ, quy mô nhỏ dường như
chẳng bao giờ dứt. Lần đó, đơn vị vận tải của Tiền Bảo Sơn lái đoàn xe tải
Dodge chuyên chở một số vật tư quân nhu cần thiết cho tiền tuyến; đoàn xe nối
đuôi nhau chạy đến điểm nút Kansas thì gặp mai phục, lâm vào vòng vây của quân
Nhật.
Trải qua cuộc giao chiến ngắn ngủi, đoàn vận tải phát hiện
đội quân Nhật này được trang bị rất nhiều xe tăng thiết giáp đời 97 do
Mitsubishi thiết kế và chế tạo, mà người Trung Quốc vẫn gọi nó là “Xe mai rùa”.
Lúc đó do vội vàng tiếp chiến với quân địch, nên đội xe đã bị đối phương kìm
kẹp trước sau, mắc kẹt trên đường, địa hình nơi ấy lại vô cùng bất lợi, nếu còn
tiếp tục giằng co thì chỉ có thiệt thân. Giữa lúc tình thế cấp bách ngàn cân
treo sợi tóc, chiếc xe dẫn đường phía mũi trước, đánh nhau với quân địch ở cự
ly tương đối gần, liền cho nổ pháo, rồi tăng tốc đâm sầm vào chiếc xe tăng đời
97.
Chiếc xe tăng 97 của quân Nhật tuy được mệnh danh là chiến
xa hạng trung, kỳ thực chỉ có thể miễn cưỡng gọi là xe tăng hạng nhẹ, vì trọng
tải chiến đấu mới có 1,5 tấn, trong khi trọng tải tổng thể của xe tải Dodge
nặng tới gần mười tấn, nên luận về sức mạnh hay sự đồ sộ, thì căn bản chúng
không cùng đẳng cấp. Người lái xe tuyến đầu càng đánh càng hăng tiết, cộng thêm
địa hình nhỏ hẹp, quanh co của con đường núi, kết quả cả xe tải và xe tăng đều
lộn nhào xuống khe núi, hai bên cùng rủ nhau chầu trời.
Đội xe bị kẹt phía sau cũng xông lên đột phá vòng vây, vừa
đánh vừa chạy, cuối cùng cũng thoát khỏi cuộc chiến đấu, chẳng ngờ không hiểu
ma xui quỷ khiến thế nào lại lái vào tuyến đường B hoang phế, lúc đó trong đội
xe có một hướng dẫn viên kiêm phiên dịch người bản địa tên là Mukhan, anh ta
dẫn cả đội vào một đường hầm.
Sau đó để ngăn chặn sự truy đuổi của quân Nhật ở phía sau,
đội xe liền sai công binh đánh sập lối vào đường hầm, chẳng ngờ bom nổ đã khiến
cả con đường hầm liên tiếp sụp đổ với quy mô lớn, nên tuy đã cắt đuôi được kẻ
địch, nhưng đồng thời lại chặn đứng đường rút lui của chính mình. Bọn họ không
còn cách lựa chọn nào khác, đành phải men theo con đường mới xây dựng được một
nửa, tiếp tục tiến sâu vào trong núi.
Tiền Bảo Sơn là cô nhi, lớn lên trong trường giáo hội ở Vân
Nam, bởi vậy anh ta là tín đồ trung thành của Thiên chúa giáo, mãi đến trước
khi bước vào đường hầm tối om này, anh ta vẫn thực sự tin tưởng bản chất của
thượng đế đến tận xương tủy, nên chưa bao giờ thử nghĩ xem: “Ác linh có tồn tại
hay không?”