Thần thoại Hy Lạp - Chương 01 - Phần 5
DỚT TRỪNG PHẠT PRÔMÊTÊ
Prômêtê đã lấy ngọn lửa
hồng thiêng liêng, báu vật riêng có của các vị thần đem trao cho loài người.
Việc làm đó khiến thần
Dớt, đấng phụ vương của các thần và người trần thế, căm tức đến điên đầu sôi máu.
Dớt phải trừng phạt loài người để cho Prômêtê biết rằng, Dớt là một kẻ có quyền
lực, rằng sự hy sinh tận tụy của Prômêtê cho cuộc sống của loài người là vô
ích. Tuy loài người trở thành bất tử nhờ ngọn lửa của Prômêtê tội ác và tai họa
cùng với biết bao điều xấu xa, điên đảo cũng trở thành người bạn đường bất tử
của loài người. Vì lẽ đó loài người chẳng thể có được cuộc sống đạo đức, văn
minh, hạnh phúc như Prômêtê mong muốn. Dớt phải trừng phạt Prômêtê để cho loài
người biết cái giá phải trả cho hành động táo tợn, phạm thượng, dám cướp đoạt
báu vật thiêng liêng độc quyền của thần thánh, ngọn lửa hồng không mệt mỏi, là
đắt đến như vậy. Những kẻ nào nuôi giữ tấm lòng thương yêu loài người, hằng ham
muốn thay đổi số phận loài người hãy lấy đó làm gương.
Dớt ra lệnh bắt Prômêtê
giải đến một đỉnh núi cao chót vót trong dãy núi Côcadơ, xiềng chặt Prômêtê vào
đó. Hêphaixtôt, vị thần Thợ Rèn danh tiếng, trước đây đã sáng tạo ra người
thiếu nữ Păngđor, nay đảm nhận việc đóng đanh xiềng Prômêtê vào núi đá. Prômêtê
bị đày đọa, ban ngày dưới nắng bỏng cháy da, ban đêm dưới sương tuyết rét buốt
thấu xương.
Chưa hết, ngày ngày Dớt
còn sai một con đại bàng có đôi cánh rộng và dài đến mổ bụng ăn buồng gan của
Prômêtê. Dớt tưởng rằng dùng những cực hình đó, Prômêtê sẽ phải khuất phục quá
hàng mình, Prômêtê sẽ phải từ bỏ lòng thương yêu loài người và thái độ chống
đối đầy kiêu hãnh và thách thức đối với Dớt và thế giới thần linh. Nhưng
Prômêtê vẫn là Prômêtê, trước sau như một không hề run sợ đầu hàng Dớt. Và thật
là kỳ diệu và lạ lùng biết bao, buồng gan của Prômêtê cũng bất tử như Tităng
Prômêtê! Ban ngày con ác điểu ăn đi bao nhiêu thì ban đêm buồng gan của Prômêtê
lại mọc lại bấy nhiêu, nguyên vẹn, tươi mới, không hề mang dấu vết của một sự
tổn thương, xúc phạm nào.
Prômêtê biết trước số
phận của Dớt: Nếu Dớt lấy nữ thần Thêtix, một nữ thần Biển, thì đứa con trai,
kết quả của cuộc hôn nhân này, lớn lên sẽ lật đổ ngôi báu của cha nó giành lấy
quyền cai quản thế giới thần linh và loài người như xưa kia cha nó đã từng làm
đối với ông nó, Crônôx. Quả thật là một sự hiểu biết vô cùng quý báu, có thể
nói là vô giá đối với Dớt. Dớt mà biết được điều này thì hẳn rằng, hắn sẽ càng
hống hách, kiêu căng tàn bạo hơn nữa. Nhưng Dớt không biết. Đúng hơn Dớt chỉ
biết có một nửa, nghĩa là Dớt chỉ biết con mình sẽ lật đổ mình, cướp ngôi của
mình. Nhưng đứa con ấy do người vợ nào, nữ thần nào kết duyên với Dớt sinh ra
thì Dớt không biết. Thế giới thần thánh của đỉnh Ôlympia có biết bao nhiêu vị
nữ thần: Aphrrôđitơ, Atêna, Thêtix, Đêmêter, Artemix, ba chị em Moirơ v.v. và
v.v. biết tránh ai và lấy ai? Đó chính là điều Dớt vô cùng quan tâm và hết sức
lo lắng.
Dớt tưởng rằng cứ xiềng
Prômêtê vào núi đá, đày đọa Prômêtê, dùng con ác điểu tra tấn hành hạ Prômêtê
thì đến một ngày nào đó, Prômêtê phải van xin Dớt tha tội, Prômêtê phải khai
báo cho Dớt biết tỏ tường điều bí ẩn mà Prômêtê bấy lâu vẫn giấu kín. Nhưng Dớt
đã tính lầm. Hàng bao thế kỷ trôi qua, Prômêtê vẫn không hề nao núng, nhượng bộ
Dớt. Cuối cùng chính Dớt phải khuất phục trước sức mạnh ý chí của Prômêtê. Dớt
phải hàng phục Prômêtê. Người anh hùng Hêraclex dòng dõi của nàng Iô lãnh sứ
mạng giải phóng Prômêtê. Sau bao nỗi gian truân thử thách với những chiến công
cực kỳ phi thường, cực kỳ vĩ đại, chàng đã đến đỉnh núi cao chót vót Côcadơ.
Bằng một mũi tên thần, Hêraclex giết chết con ác điểu. Thần Dớt bất lực, đành
phải cởi bỏ xiềng xích cho Prômêtê. Và chỉ đến lúc đó Prômêtê mới nói cho Dớt
biết điều bí mật. Nhưng để khỏi mang tiếng là người đã cam chịu thất bại trước
ý chí kiên định của Prômêtê, Dớt sai thần Thợ Rèn Hêphaixtôx rèn một vòng sắt
nhỏ và gắn lên trên đó một miếng đá con con để cho Prômêtê đeo vào ngón tay như
là vẫn xiềng Prômêtê vào núi đá!
Ngày nay trong văn học
thế giới Ngọn lửa Prômêtê tượng trưng cho tự do, văn minh, tiến bộ,
tượng trưng cho cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất chống lại ách áp bức, bóc
lột và thói tàn bạo đối với con người. Tư tưởng Prômêtê, Tinh thần Prômêtê,
Tính cách Prômêtê tượng trưng cho ý chí tự do, quật cường, nổi loạn, chống
đối quyết liệt với thế lực đen tối, phi nghĩa, không thỏa hiệp nhượng bộ, đồng
thời cũng tượng trưng cho thái độ kiên định trong mục đích cao cả và sự căm
ghét tột độ thói phản bội, đầu hàng. Còn Tităng ngày nay mang một nghĩa khác.
Nó không còn ý nghĩa cũ chỉ thế hệ những vị thần già bảo thủ, lạc hậu. Ngược
lại, nó mang một ý nghĩa tốt đẹp chỉ những chiến sĩ lỗi lạc, kiên cường, bất
khuất, dũng cảm đấu tranh cho những lý tưởng tự do, bình đẳng, hạnh phúc, nhân
văn, hữu ái của nhân loại, những nhà tư tưởng lớn, đơn độc nhưng vẫn dũng cảm
đấu tranh, thách thức thế lực bạo chúa phản bội nhân dân. Mở rộng nghĩa Tităng
còn chỉ những thiên tài, những vĩ nhân của nhân loại trong các lãnh vực văn
hóa, khoa học, nghệ thuật.
Thần thoại Prômêtê lấy
cắp ngọn lửa của thiên đình đem xuống cho loài người phản ánh chiến công vĩ đại
của con người tìm ra lửa và biết sử dụng lửa như là cuộc cách mạng năng lượng
đầu tiên cho lịch sử nhân loại. Chắc chắn rằng thần thoại này cùng với ý nghĩa
cơ bản, chủ yếu ấy được hình thành trong một thời kỳ xa xưa thuộc giai đoạn thị
tộc mẫu quyền, chứ không phải đợi đến thời kỳ Hêdiôđ thế kỷ VIII (trước Công
nguyên) và muộn hơn sau này Exkhin mới có. Tuy nhiên trong dạng thái câu chuyện
mà chúng ta lưu giữ được và kể lại ở đây thì dấu ấn của thời kỳ thị tộc phụ
quyền in vào khá rõ, khá đậm. Trước hết là ở lớp huyền thoại về Păngđor và
những tai họa mà loài người phải chịu đựng. Rõ ràng ở lớp huyền thoại này có sự
"coi thường phụ nữ", "đánh giá rất thấp vai trò của phụ
nữ". Hơn thế nữa, lại coi phụ nữ như là ngọn nguồn của mọi thứ tai họa,
mọi nỗi bất hạnh trong đời sống! Chỉ vì cái thói tò mò của Păngđor mà loài
người chúng ta phải chịu đựng biết bao nhiêu tai họa khốn khổ! Phải chăng đây
là một bằng chứng về "sự thất bại lịch sử lớn của giới phụ nữ" (Ph.
Enghen)? Sau này trong huyền thoại Ôrextơ trả thù cho cha, Ôrextơ được nữ thần
Atêna xử trắng án trong vụ kiện tội giết mẹ, chúng ta lại có một bằng chứng nữa
về sự thất bại đó. Nhân đây ta cũng nói thêm một chút về huyền thoại tội tổ
tông của Thiên Chúa giáo. Dường như có một sự đồng dạng nào thì phải. Cũng tại
thói tò mò của người đàn bà đầu tiên của thế gian, va, nên mới xảy ra chuyện ăn
quả cấm. Và Thượng Đế chí công minh, chí bác ái, chí nhân hậu là như thế mà sao
khi trừng phạt tội lỗi, lại bắt người đàn bà chịu hình phạt nặng hơn? - Phải
mang nặng đẻ đau và phải chịu sự thống trị của người đàn ông.
Còn người đàn ông phải
đổ mồ hôi sôi nước mắt lấy đất, vật lộn với đất thì mới có miếng ăn. Thượng Đế
đã thiên vị đối với người đàn ông, thậm chí có thể nói: "Tay trái
giáng đòn trừng phạt nhưng tay phải lại trao phần thưởng", lại cho người
đàn ông được quyền thống trị đối với đàn bà! Đúng là một cách xét xử không công
bằng chút nào, bôi nhọ công lý. Nếu như Thượng Đế có một tòa án phúc thẩm thì
nhân loại sẽ phải đệ đơn xin cứu xét lại. Nhưng Thượng Đế là khởi đầu và cũng
là kết thúc cho nên từ gần hai nghìn năm nay người ta vẫn tin là Thượng Đế chí
công, chí minh, chí bác ái, chí nhân hậu. Kết luận: sự ngu dốt đẻ ra lòng tin
mù quáng của tôn giáo.
Dấu ấn rõ rệt hơn nữa
của thời kỳ thị tộc phụ quyền hoặc muộn hơn của thời kỳ hình thành nền văn minh
của xã hội chiếm hữu nô lệ là: tất cả những thành quả của trí tuệ, trí thức của
nhân loại, lao động của nhân loại đều được quá tụ về công lao của Prômêtê và
ngọn lửa. Chữ viết, y học, toán học, thuật luyện kim... những thành quả chỉ có
thể có được khi đã có sự phân công lao động trí óc và lao động chân tay, khi đã
có lao động của những người nô lệ tạo ra sản phẩm dư thừa trong một mức độ ít
ỏi nào đó đủ để nuôi một lớp người chuyên làm những công việc quản lý nhà nước,
thương nghiệp, nghiên cứu khoa học, sáng tạo nghệ thuật, "...Không có chế
độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy
Lạp..."[1], nói một cách khác không có chế độ nô lệ thì không có huyền
thoại như Exkhin đã diễn tả trong bi kịch Prômêtê bị xiềng. Chúng ta ghi nhận ở
đây một sự mở rộng, một sự phát triển của huyền thoại.
[1] Ph. Enghen, Chống
Duy rinh (chương IV: Lý luận về bạo lực. NXB Sự Thật Hà Nội 1959, tr. 303).
Nhưng điều có ý nghĩa
lớn hơn nữa là huyền thoại về Prômêtê đã xuất hiện như một hiện tượng huyền
thoại, phủ nhận huyền thoại thần thánh, phủ nhận thần thánh. Những yếu tố thế
lực, nhân văn khẳng định sức mạnh của con người và năng lực nhận thức và cải
tạo thế giới của nó được khoác tấm áo ngụy trang "Thần Prômêtê". Vị
thần này với lý tưởng cao cả là tất cả vì hạnh phúc của con người đã đương đầu
với bạo chúa Dớt và đã chiến thắng vẻ vang. Sau này Dớt phải hòa giải, có nghĩa
là chấp nhận thất bại, có nghĩa là những lực lượng xã hội bảo thủ, phản động
ngăn cản bước tiến của văn minh, của sự hình thành Nhà nước chiếm hữu nô lệ -
polis phải chấp nhận thất bại. Chính vì lẽ đó mà Các Mác nói: "Các vị thần
Hy Lạp đã bị đánh tử thương một cách bi thảm lần thứ nhất trong vở
"Prômêtê bị xiềng của Exhin(...)"[2]".
[2] C. Mác và Ph.
Enghen về văn học và nghệ thuật (Hài kịch, giai đoạn cuối cùng của một hình
thái lịch sử). NXB Sự Thật Hà Nội 1958 tr. 106 - Hoặc C. Mác, Góp phần phê phán
triết học Pháp quyền của Hêghen. NXB Sự Thật, Hà Nội, 1977, tr. 18.
Prômêtê là thần thánh
phá hoại lòng tin vào thần thánh, là sức mạnh của con người được thần thánh hóa
để phủ định thần thánh. Tính biện chứng của sự phát triển tư tưởng của nhân
loại trong giai đoạn quá độ từ xã hội công xã nguyên thủy sang xã hội chiếm hữu
nô lệ ở Hy Lạp xưa kia phức tạp, quanh co, uốn khúc là như thế. Chúng ta cũng
sẽ thấy hiện tượng này trong thần thoại Điônidôx.
* * *
Chuyện về nguồn gốc của
loài người và những nỗi bất hạnh của loài người là như thế. Nhưng lại có câu
chuyện kể khác hẳn đi. Có chuyện nói con người đầu tiên của thế gian sinh ra từ
Đất nhưng chẳng phải do ai nhào nặn lên. Con người từ dưới đất chui lên. Lại có
chuyện kể, con người đầu tiên của thế gian là con của một dòng sông, đúng hơn,
con của một vị thần Sông tên là Inacôx (Inachs). Thần Sông Inacôx lấy tiên nữ
Mêlia (Mélia) - một nàng Nanhphơ - sinh ra được một người con trai đặt tên là
Phrônê (Phronée). Con người từ dòng sông mà ra, dòng sông sinh ra con người,
người xưa đã nghĩ như thế và không phải là không có lý.
Biết bao đời nay con
người đã sống bên những dòng sông, đã từng thế hệ này đến thế hệ khác theo dòng
sông xuôi chảy mà đi, đi mãi cho tới khi giáp mặt với biển mới thôi. Chính dòng
sông đã sinh ra con người và nuôi sống con người.
Nước sông mát rượi đã
làm trẻ lại những cánh đồng, xóa đi những nếp nhăn trên vầng trán, khuôn mặt
của người bạn thân thiết đó. Vì thế con người cứ theo những triền sông mà sinh
cơ lập nghiệp. Làng mạc mọc lên ven sông mỗi ngày một nhiều thêm. Dòng sông chẳng
còn hiu quạnh như xửa như xưa. Giờ đây soi bóng xuống mặt nước hiền hòa đã có
những mái nhà tranh với bóng cây um tùm ấm áp, lượn lờ vệt khói bếp. Đâu đó
vang lên tiếng chó sủa, tiếng gà gáy, tiếng dê kêu. Vào mùa gặt, những đêm
trăng, dòng sông xôn xao, náo nức hẳn lên. Kể sao cho xiết những khung cảnh êm
đềm, ấm cúng của con người bên những dòng sông! Nếu không có dòng sông thì làm
sao có được cái cảnh sầm uất, đông vui, ấm cúng của con người như thế. Chẳng
phải dòng sông đã sinh ra và nuôi nấng con người đấy chứ sao? Chẳng phải con
người đã từ dòng sông mà ra, sống dựa vào dòng sông như con cái sống dựa vào
cha mẹ đó sao!
Những người Argôx ở Hy
Lạp xưa kia cho rằng tổ tiên họ ra đời từ một dòng sông. Phrônê, người con trai
của thần Sông Inacôx là vị vua đầu tiên trị vì ở vùng đồng bằng Argôx. Chàng đã
dạy cho dân biết cách làm ruộng, trồng trọt và hơn nữa còn dạy cho dân biết
cách sử dụng lửa. Chàng lấy tiên nữ Kerđô (Kerdo) làm vợ và sinh được bốn con
trai. Chàng đã có công mở mang bờ cõi xuống khắp cả vùng đồng bằng Pêlôpônedơ.
Sau khi chàng qua đời, ba con trai là Pêlaxgôx (Pélasgos), Iadox (Iasos),
Adênor (Agénor) chia nhau cai quản vùng đồng bằng Pêlôpônedơ. Còn người con
trai thứ tư tên là Car (Car) đi ngược lên phía Bắc xây dựng lên đô thị Mêgar
(Mégare), một đô thị ở eo đất cổ họng nối liền miền Bắc Hy Lạp với bán đảo
Pêlôpônedơ.
Trong tín ngưỡng của
người Hy Lạp cổ xưa, mỗi con sông đều có một vị thần cai quản. Vị thần này là
một con bò mộng có khuôn mặt người. Vì dòng sông có những cội nguồn thiêng
liêng như thế nên người Hy Lạp xưa kia mỗi khi đi qua sông đều rửa tay trong
dòng nước sông và thành kính cầu khấn thần Sông. Khi một cậu con trai đến tuổi
trưởng thành, cậu ta thành kính cắt mớ tóc vốn được để dài dâng cho dòng sông
quê hương thiêng liêng thân thiết coi đó như tặng vật đầu tiên của mình biểu
hiện lòng biết ơn và sự gắn bó với cội nguồn, gốc rễ.